Số lần đọc/download: 1946 / 89
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:17 +0700
III: Ngôi Làng Ven Sông
H
ồi còn ở làng, hai người thợ may từng là thợ da[17]; số là, gia đình của họ thuộc đẳng cấp Chamaar[18], đẳng cấp của những người làm nghề thuộc và gia công da. Nhưng từ xưa kia, trước khi Omprakash ra đời rất lâu, lúc bố cậu, Narayan, và bác cậu, Ishvar, còn nhỏ, một lên mười, một mười hai; bố họ đã cho hai thằng con đi học nghề thợ may.
Các bạn bè của bố họ đều lo sợ thay cho gia đình họ. “Dukhi Mochi[19] điên rồi,” họ rên lên. “Sao anh ta nỡ giương mắt mà đem tai họa trút xuống chính gia đình mình.” Khắp làng trên xóm dưới, ai nấy thất kinh khiếp đảm: Có kẻ đã dám phá vỡ trật tự đẳng cấp vĩnh cửu, rồi quả báo sẽ tới nhanh thôi.
Quyết định chuyển con sang học nghề thợ may của Dukhi quả thật rất dũng cảm, nhất là khi chính bản thân anh đã dành gần trọn cuộc đời ngoan ngoãn tuân theo những lề thói của hệ thống đẳng cấp. Cũng như các vị cha ông tiên tổ, từ thuở thơ bé, anh đã mặc nhiên chấp nhận nghề nghiệp được định sẵn cho kiếp này của mình.
Khi bắt đầu theo cha học nghề của đẳng cấp Chamaar, Dukhi mới lên năm. Cộng đồng người Hồi giáo ở vùng này rất nhỏ, vì vậy xung quanh đó chẳng có lò mổ nào để người Chamaar đến lấy da. Họ phải đợi cho tới khi có một con trâu hoặc bò nào đó trong làng lăn ra chết. Kế đó, người ta sẽ gọi người Chamaar đến mang con vật xấu số đi. Có lúc bộ da được cho không, có lúc họ phải trả tiền, còn tùy người chủ thuộc đẳng cấp trên của con vật đã bóc lột đủ số ngày lao động không công của người Chamaar trong năm đó chưa.
Người Chamaar lột da con vật, thịt để ăn, còn da đem thuộc, sau có thể chế thành dép, roi, yên ngựa, hoặc túi đựng nước. Dukhi dần học cách biết quý trọng những con vật đã chết, bởi chúng mang lại nguồn sống cho gia đình cậu. Dukhi càng thạo nghề, thì một cách vô hình tích nhưng bền bỉ, làn da của chính cậu càng thấm nhuần thứ mùi đã trở thành một phần hơi hám của bố cậu, đó là mùi thối khẳm của thợ làm da mà không gì tẩy nổi, dù anh ta có dầm mình xuống dòng sông trong sạch nhất mà rửa ráy, kì cọ.
Dukhi không nhận ra từng lỗ chân lông của mình đã uống đẫm loại mùi ấy cho đến một ngày nọ, vừa ôm con vào lòng, mẹ cậu đã phải nhăn mũi lại mà nói với giọng tự hào pha lẫn buồn tủi: “Con trai mẹ lớn thật rồi, mẹ ngửi thấy mùi khác hẳn.”
Suốt một thời gian sau đó, cậu bé liên tục gí mũi vào nách mà ngửi, xem mùi ấy có còn lẩn quẩn ở đó không. Cậu cứ thắc mắc, nếu da mình bị lột sạch thì nó có mất đi không? Hay nó đã thấm sâu vào tận dưới da? Cậu tự chích mình một cái và ngửi thử máu, nhưng cuộc thí nghiệm bất thành, bởi giọt ruby đỏ nhỏ xíu trên đầu ngón tay cậu chưa phải một mẫu vật đủ tiêu chuẩn. Còn thịt và xương thì sao, mùi thối có ngấm vào tận đó không? Chẳng phải cậu muốn nó biến mất đâu; cậu thấy hãnh diện vì mình có mùi giống bố là đằng khác.
Ngoài công việc thuộc và gia công da, Dukhi còn học được thế nào là thân phận của một kẻ sinh ra làm kiếp Chamaar, là tiện dân, trong xã hội thôn làng. Mảng giáo dục này không đòi hỏi bất cứ chỉ dẫn đặc biệt nào. Giống như đủ thứ máu me phân lông dơ bẩn của những con vật chết luôn vấy đẫm trên người hai bố con khi họ làm việc, những tín điều của chế độ đẳng cấp cũng vãi rớt khắp nơi. Và nếu như vậy còn là chưa đủ, thì đã có những câu chuyện của người lớn, những cuộc đối thoại giữa bố và mẹ cậu, giúp lấp đầy lỗ hổng kiến thức của cậu về thế giới xung quanh.
Ngôi làng nằm bên một con sông nhỏ, người Chamaar chỉ được phép sống trong một khu vực dưới hạ lưu, cách xa người Bà la môn và các nhà địa chủ. Tối tối, bố Dukhi cùng những người đàn ông Chamaar khác ngồi dưới một tán cây, trong địa phận dành riêng cho mình, để hút thuốc, rồi chuyện gẫu về một ngày sắp qua và một ngày mới sẽ tới vào sáng mai. Tiếng chim kêu xao xác vây lấy tiếng chuyện trò của họ. Ở ngoài xa, trên bờ sông, những cột khói bếp bốc cao, nhắc nhỏm người ta về cái bụng đang cồn cào. Còn ở bên dưới, đủ thứ rác thải của đẳng cấp cao nối nhau trôi lềnh phềnh trên dòng nước lờ đờ.
Dukhi đứng nhìn từ phía xa, chờ tới lúc bố về. Trời càng ngả về tối, bóng hình của mấy người đàn ông càng nhòa dần. Chỉ một lát sau, Dukhi đã không thể nhìn thấy gì khác ngoài đốm lửa leo lét trên đầu điếu thuốc họ hút, bay chờn vờn lên xuống theo từng cử động của bàn tay như những con đom đóm. Rồi đốm lửa tắt ngấm, cái nọ nối cái kia, và cả nhóm tản đi, ai về nhà nấy.
Vừa ngồi ăn tối, bố Dukhi vừa kể lại với vợ mọi việc ông đã tai nghe mắt thấy trong ngày hôm đó.
“Con bò nhà Thầy cả[20] bị ốm rồi. Ông ta đang cố bán tháo đi trước khi nó chết.”
“Nếu nó chết, ai sẽ được? Đã đến lượt mình chưa?”
“Chưa, đến lượt Bhola. Nhưng vừa rồi, ở chỗ làm, anh ta bị vu cho tội ăn trộm. Kể cả Thầy cả có cho anh ta lấy con bò đi nữa, thì thế nào anh ta cũng cần tôi giúp một tay. Hôm nay họ vừa chặt cụt hết ngón tay trên bàn tay trái của anh ta rồi.”
“Bhola bị thế là còn may đấy,” mẹ Dukhi nói. “Năm ngoái Chhagan mất nguyên cả bàn tay, cũng vì tội ấy.”
Bố Dukhi tợp một ngụm nước và súc sòng sọc trong miệng trước khi nuốt xuống. Ông đưa mu bàn tay lên quệt ngang môi. “Dosu bị ăn một trận roi vì dám xớ rớ gần giếng nước. Cái thằng, chẳng biết gì cả.” Trong chốc lát, ông chỉ ngồi nhai trong im lặng, lắng tai nghe tiếng ếch nhái kêu uôm uôm trong đêm tối ẩm ướt. Bỗng, ông hỏi vợ: “Bu nó không ăn gì à?”
“Hôm nay em kiêng.” Trong bộ mật ngữ của bà, như thế có nghĩa là nhà đang khan gạo.
Bố Dukhi gật đầu, đoạn đưa lên miệng một nhúm cơm to.
“Lâu nay bu nó có gặp vợ Buddhu không?”
Vợ ông lắc đầu. “Lâu rồi chưa gặp.”
“Phải còn chán nữa mới gặp lại. Chắc chị ta đang trốn trong lều. Số là, chị ta không chịu ra đồng với con trai lão địa chủ, thế là bị người ta cạo đầu rồi dẫn đi bêu quanh đình.”
Cứ thế, đêm nào Dukhi cũng nghe bố thuật lại những sự kiện xảy ra trong làng, không hề thêm mắm dặm muối. Qua những năm tháng ấu thơ, cậu đã thu được cả một bộ bách khoa thư hoàn chỉnh về những tội lỗi có thật và tưởng tượng mà một người thuộc đẳng cấp thấp có thể mắc phải, và những hình phạt đi kèm luôn khắc sâu trong tâm trí cậu. Đến khi bước vào tuổi vị thành niên, cậu đã lĩnh hội xong toàn bộ những kiến thức mình cần để có thể nhận diện ranh giới đẳng cấp mà cậu không bao giờ được phép vượt qua, để tồn tại được trong ngôi làng này như các vị cha ông của mình, với hai người bạn đồng hành thủy chung là sự nhục mạ và lòng nhẫn nhịn.
Sau khi Dukhi Mochi bước sang tuổi mười tám không lâu, bố mẹ cưới cho anh một cô gái Chamaar tên là Roopa, lúc ấy mới mười bốn tuổi. Trong sáu năm đầu về ở với anh, chị sinh được ba đứa con gái. Không đứa nào sống quá vài tháng.
Rồi họ có một đứa con trai, cả nhà mừng không để đâu cho hết. Thằng bé được đặt tên là Ishvar, và Roopa chăm chút nó với nhiệt tâm và lòng sùng kính đặc biệt mà chị đã học được là chỉ dành riêng cho con trai. Chị cố xoay xở đủ đường, sao cho thằng bé không bao giờ phải thiếu ăn. Bản thân chị phải nhịn đói đã đành–ấy là lẽ đương nhiên, ngày thường chị vẫn nhịn để Dukhi có cái bỏ mồm. Nhưng vì con, chị không ngại cả đi ăn trộm. Và chị không biết một bà mẹ nào lại không liều lĩnh làm chuyện tương tự vì con trai mình.
Sau khi sữa cạn, Roopa bắt đầu mở những chuyến viếng đêm tới lũ bò của các nhà địa chủ. Đợi chồng con ngủ say, tầm giữa nửa đêm và lúc gà gáy, chị rón rén rời khỏi lều, tay cắp chiếc bình đồng. Con đường mòn tối đen như mực, nhưng chị bước đi không mảy may vấp váp nhờ đã ghi nhớ rất rõ buổi ban ngày, cũng bởi mang đèn theo thì quá nguy hiểm. Bóng tối quét lên má chị như một cái mạng nhện. Đôi khi, đó là mạng nhện thật.
Ở mỗi con bò, chị chỉ dám vắt một tí sữa; làm thế, chủ bò sẽ không phát hiện ra sự hao hụt. Sáng ra, nhìn thấy sữa, Dukhi hiểu ngay. Có những lúc, anh tỉnh dậy giữa đêm, đúng lúc vợ đang lẻn đi. Anh không nói năng gì, chỉ nằm run cầm cập chờ đến khi vợ về. Anh cứ nhấp nhổm không biết có nên giành đi thay vợ không.
Ít lâu sau, Ishvar đến tuổi thay răng sữa. Hàng tuần, Roopa bắt đầu mò đến các vườn quả đang mùa rộ trái, sẵn sàng cho thu hoạch. Trong đêm tối, ngón tay chị nắn tìm quả chín rồi mới hái. Lần này, chị cũng chỉ cho phép mình được hái mỗi cây vài quả, để không ai nhận ra sự biến mất của chúng. Màn đêm xung quanh tràn ngập tiếng thở của chính chị, cùng tiếng vô số loài vật tí hon bỏ chạy nháo nhác dưới bước chân chị qua.
Một đêm nọ, chị đang hái cam thả vào bị, thì một đốm đèn lồng bỗng lóe lên giữa những tán cây. Trên khoảnh đất trống nhỏ hẹp có một người đàn ông ngồi trên chiếc võng đan bằng tre và thừng đang nhìn chị. Mình xong đời rồi, chị vụt nghĩ, tay buông rơi bị cam và dợm chân bỏ chạy.
“Đừng sợ,” người đàn ông lên tiếng. Hắn nói giọng dịu dàng, tay cầm một cây gậy to gộc. “Cô em có hái vài quả cũng chẳng hại gì.” Chị quay lại, mồm thở hào hển vì khiếp đảm, trong bụng hoang mang không biết có nên tin lời hắn nói không.
“Đừng ngại, hái mấy quả nữa đi,” hắn tươi cười nhắc lại. “Lão chủ thuê tớ trông vườn. Nhưng tớ thây kệ. Lão là một thằng nhà giàu khốn nạn.”
Roopa sợ sệt nhặt chiếc bị lên và tiếp tục hái cam. Ngón tay chị run lẩy bẩy, làm một quả cam rơi xuống khi chị cố thả nó vào miệng bị. Chị liếc trộm phía sau mình. Đôi mắt của gã đàn ông hau háu quấn lấy thân hình chị; khiến chị cảm thấy bất an. “Cháu xin đội ơn ông,” chị nói.
Hắn gật đầu. “May cho cô em là tớ canh ở đây, chứ không phải một thằng khốn nào đấy. Đừng ngại, cứ hái thoải mái.” Hắn khẽ ngâm một khúc nhạc chẳng ra điệu gì. Nghe như một hỗn hợp tiếng rên rỉ pha lẫn tiếng thở dài. Hắn ngừng ngâm nga, chuyển sang huýt sáo. Song kết quả vẫn phi nhạc tính hệt như cũ. Hắn ngáp dài và im lặng, nhưng vẫn không rời mắt khỏi chị.
Roopa ước chừng hái như thế là đủ, đã đến lúc cảm ơn gã đàn ông để về nhà. Đọc được động thái của chị, hắn nói: “Tớ chỉ cần hô một tiếng là chúng sẽ đổ tới đây ngay.”
“Dạ?” Chị thấy nụ cười của hắn bỗng tắt ngấm.
“Tớ chỉ cần hô lên, là lão chủ vườn cùng lũ con trai lão sẽ chạy tới đây ngay. Chúng sẽ lột truồng cô em ra và đánh cho cô em lên bờ xuống ruộng vì tội ăn trộm.”
Chị run rẩy, và nụ cười trở lại trên môi gã. “Đừng lo, tớ sẽ không hô hoán câu nào đâu.” Chị bèn buộc chặt miệng bị, thì hắn tiếp lời: “Đánh cô em xong, chắc bọn chúng sẽ làm nhục cô em, bôi nhọ danh giá của cô em. Thế nào bố con nó cũng thay nhau làm những trò tởm lợm trên tấm thân mềm mại của cô em.”
Roopa chắp tay lại tạ ơn và chào từ biệt.
“Làm gì mà về vội thế, cô em cứ hái bao nhiêu tùy thích,” hắn nói.
“Đội ơn ông, cháu lấy đủ rồi ạ.”
“Có chắc không? Nếu cô em muốn, tớ sẽ cho thêm, dễ như bỡn ấy mà.” Hắn đặt cây gậy xuống và rời võng đứng lên.
“Đội ơn ông, thế này là đủ rồi ạ.”
“Thế hả? Ấy, nhưng cô em cứ thế mà đi thì không được,” hắn vừa nói vừa cười hềnh hệch. “Cô em đã trả ơn tớ đâu.” Hắn bước về phía chị.
Chị bước lùi lại, đoạn cố rặn ra một tràng cười. “Nhà cháu thì làm gì có gì. Thế nên cháu mới phải vì con mà đang đêm hôm mò đến đây.”
“Có chứ lị.” Hắn giơ tay ra và bóp mạnh vú trái của chị. Chị vội gạt tay hắn ra. “Tao chỉ cần hô một tiếng thôi,” hắn dọa, và sục tay vào áo chị. Chị run bắn người trước sự đụng chạm đó, nhưng lần này không dám phản ứng gì.
Hắn lôi chị đang khóc khóc mếu mếu đến chỗ cái võng và giật tung ba cái khuy áo trên cùng của chị. Chị vội đan chặt hai tay trước ngực. Hắn dằn tay chị xuống, và vục miệng vào vú chị, họng hắn bật ra tiếng cười nho nhỏ khi thấy chị cố giẫy ra. “Tao đã cho mày bao nhiêu cam thế còn gì. Thế mà mày không cho tao nếm cặp xoài đường của mày được à?”
“Xin ông tha cho cháu.”
“Đợi khi nào mày ăn xong quả cà của tao đã. Cởi quần áo ra.”
“Cháu lạy ông, ông tha cho cháu.”
“Tao chỉ cần hô một tiếng thôi.”
Vừa khóc thút thít, chị vừa cởi quần áo ra và nằm xuống theo lời hắn. Chị khóc mãi không thôi trong suốt khoảng thời gian hắn thúc kéo và thở hồng hộc trên người chị. Chị nghe thấy gió lay những chiếc lá trên cây xào xạc, như những tên lính canh câm lặng. Một con chó tru lên, xui những con khác cất hàng tràng rền rĩ không dứt. Dầu dừa bôi trên tóc gã đàn ông quét vô số vệt lên mặt, lên cổ chị, vấy bẩn ngực chị. Mùi dừa nồng nặc xộc thẳng vào mũi chị.
Vài phút sau, hắn rời cơ thể chị và vật sang một bên. Roopa bèn vơ hết quần áo cùng bị cam, rồi cắm đầu chạy qua vườn trong cảnh trần truồng. Khi đã chắc chắn gã đàn ông kia không đuổi theo, chị mới dám dừng lại để mặc quần áo.
Thấy vợ chui vào lều, Dukhi vờ như đang ngủ say. Suốt đêm đó, anh nghe tiếng vợ nức nở nghẹn ngào mấy bận.
Ngửi mùi trên người vợ, anh đoán được ngay chuyện gì đã xảy ra trong lúc chị lẻn đi. Trong lòng anh những muốn quay sang với vợ, nói cùng chị, an ủi chị. Nhưng anh chẳng biết nói sao cho phải; vả lại, anh cũng sợ, không muốn biết nhiều quá. Anh đành lặng lẽ khóc, trút hết nhục nhã, căm hận, tủi hổ vào những giọt nước mắt; anh chỉ ước sao mình chết ngay đêm ấy.
Sáng hôm sau, Roopa làm như không có việc gì xảy ra. Vì vậy Dukhi cũng chẳng nói gì, và họ ăn cam.
Hai năm sau khi Ishvar ra đời, Roopa và Dukhi có thêm một đứa con nữa. Thằng bé được đặt tên là Narayan. Trên ngực nó có một vết bớt màu đỏ sậm. Bà cụ hàng xóm giúp đỡ đẻ cho Roopa bảo, bà đã từng thấy một vết bớt y như thế. “Như thế nghĩa là nó có một trái tim can đảm và rộng lượng. Thằng bé này sẽ làm cô nở mày nở mặt lắm đây.”
Tin tức về cậu con trai thứ hai đã khuấy động nỗi tị hiềm ở khắp các gia đình đẳng cấp cao từng làm đám cưới trong cùng khoảng thời gian Roopa và Dukhi lấy nhau, nhưng cô vợ chưa có con cái gì, hoặc vẫn đang chờ một mụn con trai. Không hận sao được–mỗi đứa con gái chào đời thường mang lại cho họ những trận đánh nhừ tử từ chồng và gia đình nhà chồng. Nhiều lúc họ còn bị ép phải bí mật giết bỏ đứa trẻ mới sinh. Khi ấy, họ không còn cách nào khác ngoài lấy tã quấn cho nó ngộp thở, đầu độc nó, hoặc bỏ đói nó đến chết.
“Trời đất đảo điên hết cả rồi!” Họ rên rẩm. “Sao trong nhà của một thằng tiện dân lại có tới hai đứa con trai, mà ở nhà chúng ta thì đến một đứa cũng không có?” Một thằng Chamaar thì có gì để truyền cho con trai đâu, mà thần thánh phải hậu đãi nó thế? Không ổn, Luật Manu[21] đã bị phá vỡ rồi. Chắc chắn có kẻ nào đó ở trong làng này đã lỡ làm gì xúc phạm đến các vị thần, cần phải tổ chức những nghi lễ đặc biệt để tạ lỗi với các thần, để các ngài rót lộc con trai xuống những chiếc liễn rỗng này.
Tuy nhiên, một cô vợ không con lại nghĩ ra một giả thuyết khác, thực tế hơn, để lý giải vì sao họ chưa có con trai. Theo ý cô ta, rất có thể hai thằng bé này không phải con của Dukhi. Chắc hẳn gã Chamaar này đã tìm đến một vùng xa xôi nào đó, và bắt cóc hai đứa trẻ mới sinh của một gia đình Bà la môn–mọi chuyện thế là sáng tỏ.
Lời ong tiếng ve càng lan xa, Dukhi càng lo sợ cho sự an toàn của gia đình mình. Để phòng xa, anh cố sức tỏ ra khúm núm hơn hẳn lệ thường. Mỗi khi nhìn thấy những người đẳng cấp cao trên đường, anh quỳ mọp xuống, song ở một khoảng cách an toàn–có thế anh mới không bị kết tội làm họ ô uế bằng cái bóng của mình. Hàng ria mép bị cạo sạch, dù rằng độ dài và hình dáng của nó hoàn toàn tuân thủ luật đẳng cấp, đầu ria cụp xuống nom hết sức mọn mằn, không giống như những hàm ria đẳng cấp cao đầy kiêu hãnh luôn chải vểnh lên trời. Anh chỉ dám khoác lên người chính mình và hai thằng con những thứ giẻ rách bẩn thỉu nhất anh tìm thấy trong gia tài nghèo nàn của mình.
Để tránh bị phạt vì tội làm ô nhiễm, anh nhắc Roopa không được bén mảng tới gần khu vực giếng làng; đã có bạn chị, Padma, mang nước uống đến cho cả nhà. Dù bị sai làm việc gì, Dukhi cũng cắm đầu làm mà không dám thắc mắc một câu, không nghĩ đến chuyện được trả công, luôn giữ ánh mắt cách thật xa khuôn mặt của người đẳng cấp cao và dán chặt xuống nơi an toàn nhất là bàn chân mình. Anh thừa hiểu, chỉ cần ai đó hơi thấy chướng tai gai mắt với mình, thì chuyện sẽ lập tức bị thổi bùng lên thành những ngọn lửa cuốn nuốt cả gia đình anh.
May sao, phần lớn những người thuộc đẳng cấp cao đều bằng lòng với việc triết lý miệng về vấn đề tử cung hoang hóa và dừng lại ở đó. Họ lập luận rằng, rõ ràng thế giới đang trải qua Kaliyug[22], Kỷ Nguyên Đen Tối, và những bà vợ không có con trai đâu phải là điều bất thường trong trật tự thế gian. “Cứ xem vụ hạn hán mới đây thì rõ,” Họ nói. “Chúng ta đã thực hiện đầy đủ mọi nghi lễ, thế mà vẫn hạn hán như thường. Rồi đến khi mưa xuống, thì cứ gọi là suối tràn thác đổ; nhớ mấy trận lũ đó không, bao nhiêu nhà cửa đã bị cuốn trôi. Còn cả con bê hai đầu ở xã bên nữa chứ?”
Chưa một ai trong làng từng nhìn thấy con bê hai đầu, bởi đường sá xa xôi quá, chẳng có cách nào sang bên đó và trở về nhà an toàn trước khi trời tối. Song ai nấy đều đã được nghe kể về cái quái thai. “Phải, phải,” tất cả đều gật gù.
“Các Thầy cả nói phải lắm. Mọi tai ương xảy ra với bọn ta đều từ Kaliyug mà ra.”
Cách khắc phục, theo các Thầy cả đề xướng, là phải tuân thủ trật tự pháp điển sát sao quyết liệt hơn nữa. Mỗi con người đều có một vị trí thích hợp trên thế gian này, và chỉ cần mỗi người đều biết thân biết phận, tất cả đều có thể bình an vượt qua Kaliyug. Song nếu có bất cứ hành vi vi phạm nào–nếu chẳng may trật tự bị làm ô uế–thì không ai nói trước được những tai họa nào sẽ đổ xuống vũ trụ này.
Sau khi mối đồng thuận được thiết lập, dân làng bỗng thấy số trận roi ban xuống cho các thành viên của đẳng cấp tiện dân tăng vọt theo công cuộc đánh cho thế giới trở về quy củ của các chúa đất và các Thầy cả. Tội trạng thì muôn hình muôn vẻ và nặng tính tưởng tượng: một tên Bhunghi[23] dám để đôi mắt dơ bẩn của mình chạm vào ánh mắt một người Bà la môn; một tên Chamaar đi sai phía trên con đường tới đền và làm nó vấy bẩn; một tên khác lại lang thang gần khu vực đang làm lễ và vô tình để đôi tai hèn hạ của mình nghe thấy những tiếng tụng kinh thiêng liêng; một đứa bé gái Bhunghi chưa xóa sạch vết chân của mình in trên nền đất sân nhà của một chúa đất sau khi dọn dẹp xong – con bé kêu van là tại cây chổi của nó cùn quá, nhưng ai chấp nhận được lý do đó?
Dukhi cũng góp một phần da thịt vào sự nghiệp giằng vũ trụ khỏi nanh vuốt của Bóng Tối. Anh được gọi đi chăn một đàn dê. Ông chủ có việc phải rời làng trong ngày. “Trông cho cẩn thận vào,” y dặn, “nhất là con dê sừng cụt râu dài ấy. Nó quỷ quyệt lắm đấy.” Đổi lại, ông chủ hứa trả công cho anh một cốc sữa dê.
Suốt buổi sáng, Dukhi để mắt đến đàn dê từng tí một, khoan khoái tưởng tượng Ishvar và Narayan sẽ sung sướng đến nhường nào khi được uống sữa dê. Nhưng về chiều, tiết trời nóng bức, anh ngủ quên mất. Lũ dê chạy tán loạn, đi lạc vào đất đai của một người hàng xóm. Tối đến, khi ông chủ về đến nhà, thay vì cốc sữa, Dukhi phải xơi một trận roi.
Trả giá như thế hẵng còn rẻ chán, anh cảm thấy thế, chứ phải lúc lão chủ lên cơn đồng bóng, thì hậu quả thật không biết thế nào mà kể. Đêm đó, Roopa lẻn đi trộm bơ để bôi vào những vệt sưng tấy trên lưng và vai chồng.
Bơ là món Roopa có thể ăn trộm mà không mảy may chớp mắt. Thật ra, chị còn không coi đó là ăn trộm. Mà nói cho cùng, chẳng phải cách đây hàng ngàn năm, chính thần Krishna đã lấy đó làm nghề chính trong suốt thời niên thiếu, khi còn ở Mathura đấy ư?
Đến tuổi thích hợp, Dukhi bắt đầu dạy cho các con những kĩ thuật của thứ nghề nghiệp đã được cùm vào cổ chúng từ thuở lọt lòng. Khi được dẫn đi lấy con vật chết đầu tiên trong sự nghiệp của mình, Ishvar mới bảy tuổi. Narayan đòi đi theo, nhưng Dukhi bảo chưa đến lúc, nó còn bé quá. Anh hứa sẽ cho nó giúp vài việc như xát muối lên da, cạo lông và lọc bỏ những mẩu thịt thối bằng một con dao cùn, và hái quả chiêu liêu để thuộc da. Nghe thế, Narayan sướng lắm.
Dukhi và Ishvar đến trại của chúa đất Premji cùng mấy người Chamaar nữa, và được dẫn ra đồng, nơi con trâu nằm chết. Một con diệc đậu trên cái xác đen thùi lùi, đang mổ chấy rận. Thấy đám người đi tới, nó vội vỗ cánh bay đi.
Hàng đám mây ruồi bay vo ve quanh con vật.
“Nó chết chưa?” Dukhi hỏi.
“Dĩ nhiên là chết rồi,” gã người làm nhà chúa đất nói. “Chúng mày tưởng nhà tao điên hay sao mà đem cho trâu sống?” Hắn lắc đầu, lầm bầm chửi rủa đầu óc tối tăm của bọn tiện dân, và bỏ đi, để mặc nhóm người lo liệu nốt.
Dukhi cùng mấy người bạn đẩy chiếc xe bò ra đằng sau con trâu; một tấm phản gỗ được bắc từ sàn xe đến chỗ con vật nằm. Họ túm chân nó và bắt đầu kéo dần từng chút một lên tấm phản, vừa kéo vừa đổ nước ướt mặt gỗ để khối thịt trượt đi dễ dàng hơn.
“Xem này!” Một người kêu lên. “Nó vẫn còn sống, nó đang thở đấy!”
“Giời ạ, be bé cái mồm thôi, Chhotu!” Dukhi vội nạt. “Kẻo bọn chúng không cho ta lấy nữa bây giờ. Đằng nào nó cũng sắp chết rồi, cùng lắm chỉ sống được vài tiếng nữa thôi.”
Họ lại tiếp tục công việc, mồ hôi vã đầm đìa, miệng hậm hự không ngớt. Trong khi đó, Chhotu luôn mồm lầm bầm rủa xả lão chúa đất. “Thằng chó đạo đức giả. Hại bọn ông gãy cả lưng. Giá được giết con trâu tại chỗ, lột da rồi xả thành từng miếng nhỏ thì có phải đỡ không.”
“Đúng vậy,” Dukhi nói. “Nhưng đời nào Quý ngài Cứt Đẳng Cấp Cao cho phép làm thế? Sự thanh khiết của đất đai nhà lão sẽ bị vấy bẩn mất.”
“Trên người lão chỉ có độc một món đẳng cấp cao, ấy là cái dải khoai biết ăn thịt,” Chhotu nói. “Đêm nào nó chả xơi cái lồn đẳng cấp cao của mụ vợ.”
Mấy người đàn ông cười khùng khục, rồi lại ráng sức kéo. Một người bảo: “Người ta thấy tuần nào lão cũng mò lên tỉnh một lần. Xực hết gà, rồi cừu, bò, thích gì ăn nấy.”
“Chúng nó thằng nào chả thế,” Dukhi nói. “Trước bàn dân thiên hạ thì ăn chay, về nhà lại ăn mặn. Nào, đẩy đi!”
Ishvar vừa chăm chú lắng nghe câu chuyện của người lớn, vừa vươn đôi tay bé nhỏ ra đẩy giúp trong tiếng reo hò cổ vũ của mọi người. “Sắp được rồi! Đẩy đi, Ishvar, đẩy! Mạnh lên, mạnh nữa lên!”
Đột nhiên, ngay giữa tiếng đùa cợt và rủa xả và trêu chọc, con trâu bất thần sống lại, ngóc đầu lên một lần cuối trước khi gục hẳn. Đám người lớn kêu toáng lên vì kinh hãi và nhảy lùi hết lại để tránh đôi sừng. Nhưng chót sừng đã xỉa thẳng vào má trái của Ishvar, khiến cậu bé chết sững. Cậu ngã lăn ra.
Dukhi bế thốc con lên và hối hả chạy về nhà. Đôi chân anh uống cạn quãng đường bằng những hớp gấp gáp. Bóng đen buổi chính ngọ hắt xuống từ hai hình người bồng bế nhau dính chặt lấy gót anh không rời. Trên lông mày anh, mồ hôi túa ra đầm đìa, nhỏ tong tong xuống mặt con. Ishvar rùng mình, lưỡi cậu bé thè ra và nếm ngay phải thứ nước mằn mặn của bố chảy trên môi mình. Dukhi nhẹ cả người, tim dịu lại khi nhìn thấy chút dấu hiệu của sự sống đó.
“Ối làng nước ơi!” Roopa rú lên thất thanh khi nhìn thấy con máu me bê bết. “Bố thằng Ishvar, mình làm gì con tôi thế này! Làm sao phải vội đưa nó đi ngay hôm nay mới xong? Nó còn bé bỏng là thế! Đợi nó lớn tí nữa không được hay sao?”
“Nó đã bảy tuổi rồi,” Dukhi nhẹ nhàng đáp. “Hồi bố đưa đi làm, tôi mới năm tuổi.”
“Mình nói thế mà nghe được à? Chả lẽ nếu mình bị thương rồi chết lúc lên năm, mình cũng làm thế với con ư?”
“Nếu chết lúc lên năm, thì tôi còn có con sao được,” Dukhi đáp, giọng còn dịu dàng hơn nữa. Anh bèn đi hái mấy thứ lá cầm máu và băm thật nhỏ, cho đến khi nó gần quánh lại như keo. Xong xuôi, anh quay lại làm việc tiếp.
Roopa rửa sạch vết thương và đắp thứ lá thuốc xanh sậm lên. Lát sau, khi chị đã bình tĩnh trở lại, cơn giận chồng nguôi ngoai dần. Chị buộc mấy lá bùa hộ mệnh lên tay hai đứa con, tự lý giải rằng chính ánh mắt quỷ dữ của lũ đàn bà Bà la môn đã làm Ishvar bị thương.
Còn các bà các cô không có con cũng cảm thấy an tâm phần nào: vũ trụ đang trở về trật tự bình thường; mặt của con thằng tiện dân không còn lành lặn nữa mà đã thành ra méo mó, đúng như nó vốn phải thế.
Đến tối, Dukhi về nhà và ngồi bệt xuống đất, chỗ góc lều nơi anh vẫn ngồi ăn. Ishvar và Narayan rúc vào lòng bố, hít hà mùi thuốc lá quyện trong hơi thở của bố, nhất thời pha loãng bớt mùi thối của da, tanin, và thịt rữa. Roopa trải đều từng miếng bột tươi ra, mùi thơm của bánh đang nướng khiến bụng mấy bố con sôi sùng sục.
Vết thương sưng tấy mất mấy ngày rồi cũng lành dần, chẳng bao lâu sau đã không còn gì đáng ngại nữa. Dẫu vậy, nó khiến một phần khuôn mặt Ishvar mãi mãi liệt cứng.
Muốn xuê xoa bớt chuyện này, bố cậu bảo: “Thượng Đế muốn con trai bố chỉ khóc lóc bằng một nửa những người trần khác đây mà.”
Anh muốn lờ đi một sự thật, rằng cả nụ cười của Ishvar từ nay cũng chỉ hiện lên trên một nửa khuôn mặt.
Năm Ishvar lên mười và Narayan lên tám, mưa rơi như trút. Dukhi phải vất vả suốt mấy tháng mùa mưa, đi rút trộm hàng ôm rạ để che cho mái lều khỏi dột. Đồng ruộng được uống no sau trận hạn hán dài, gia súc đều phởn phơ khỏe mạnh. Dukhi chỉ hoài công chờ, chẳng có con nào chết để anh lấy da.
Thời tiết vẫn tiếp tục thuận hòa, hứa hẹn một vụ mùa bội thu cho các nhà địa chủ, nhưng đối với tầng lớp tiện dân chẳng có tấc đất cắm dùi nào, đó là một mùa ảm đạm. Khi nào đến vụ gặt, sẽ có việc cho họ làm, nhưng từ giờ tới lúc đó, họ phải sống nhờ vào của bố thí hoặc từng chút công việc nhọc nhằn mà các địa chủ vứt cho họ với ánh mắt dè chừng.
Sau vài ngày ngồi chơi xơi nước, Dukhi mừng húm khi được chúa đất Premji gọi. Anh được dẫn ra sau nhà, ở đó có một bao ớt đỏ khô đang chờ được nghiền thành bột. “Một mình mày làm liệu có xong trước khi mặt trời lặn không?” Chúa đất Premji hỏi. “Hay để tao gọi hai đứa.”
Vì ngại không muốn phải chia sẻ bất kì món công xá nhỏ nhoi nào mình có thể được nhận, Dukhi bèn nói: “Ngài đừng lo, tất cả sẽ xong xuôi trước khi mặt trời biến mất.” Anh xúc ớt đổ đầy chiếc cối đá khổng lồ và chọn lấy một trong ba cái chày dài, nặng nằm cạnh đó. Anh hăm hở giã, miệng luôn luôn tươi cười với lão chúa đất, lúc ấy vẫn còn nán lại xem anh làm.
Khi lão đi khỏi, Dukhi mới chậm tay chày lại. Nhịp giã nhanh đều chỉ duy trì được khi có ba người đứng quanh cối nối nhau hạ chày. Đến giờ cơm trưa, anh đã giã được nửa bao, và nghỉ tay để ăn. Nhìn quanh không thấy ai để ý, anh rón rén ra chỗ cối và bốc một nhúm bột ớt rắc vào đĩa cơm của mình. Anh lấy vừa kịp, vì ngay sau đó, lão chúa đất sai một gã người làm mang vào một bình nước.
Đến cuối chiều, khi bao ớt đã gần cạn, thì tai nạn xảy ra. Không hề báo trước, đúng lúc cây chày giáng xuống và bật lên như nó đã làm suốt một ngày dài vừa qua, cái cối nứt thành hai nửa gọn ơ và đổ lăn lóc. Một nửa rơi đúng vào chân trái của Dukhi và nghiến nát nó.
Vợ lão chúa đất lại đang đứng bên cửa sổ bếp trông xuống. “Ối giời ơi, mình ơi! Xuống đây mau lên!” Mụ the thé. “Con lừa Chamaar vừa phá tan cái cối nhà ta rồi!”
Tiếng thét của mụ khiến chúa đất Premji choàng tỉnh. Lão đang gà gật dưới mái hiên trước nhà, tay bế một đứa cháu. Lão đưa đứa bé đã ngủ say cho một đứa ở rồi chạy vội ra chái sau. Dukhi đang bò lê bò càng dưới đất, cố băng bàn chân đầm đìa máu bằng mảnh vải anh vẫn quấn quanh đầu làm chiếc khăn con.
“Đồ súc vật đần độn, mày đã làm gì thế kia! Tao thuê mày về phá đấy ư?”
Dukhi vội ngẩng đầu lên. “Xin ngài tha cho con. Quả thực con không làm gì cả. Chắc chắn trên đá đã có chỗ nứt từ trước rồi.”
“Nói láo!” Lão giơ cây gậy lên đầy đe dọa. “Đã làm vỡ cối còn dám nói dối tao à! Nếu mày không làm gì thì nó vỡ sao được? Một món đồ to nặng, tạc bằng đá cứng nhường ấy! Có phải thủy tinh đâu mà động tí là tan?”
“Con xin thề trên đầu hai thằng con con,” Dukhi van lạy. “Con chỉ đang giã ớt như đã làm suốt ngày hôm nay. Ngài nhìn mà xem, bao ớt đã gần hết rồi, công việc…”
“Đứng dậy! Cút khỏi đất của tao ngay! Tao không muốn nhìn thấy mặt mày nữa!”
“Nhưng thưa ngài, công việc…”
Lão vung gậy quất lên lưng Dukhi. “Tao nói rồi, đứng dậy! Và cút đi!”
Dukhi ráng đứng lên, tập tễnh lùi lại, ra ngoài tầm với của lão. “Xin ngài rủ lòng thương, mấy ngày nay con chưa có tí việc nào, con không…”
Lão chửi sa sả: “Mày nghe đây, thằng chó thối tha! Mày vừa phá hoại đồ nhà tao, thế mà tao vẫn tha cho mày về! Nếu tao không phải một thằng ngu dễ mềm lòng, thì tao đã dắt mày ra đồn cho cảnh sát xử rồi. Giờ thì cuốn xéo mau!” Đoạn, lão lại giơ gậy vụt lia lịa.
Dukhi cố né, nhưng chân đau, không chạy nhanh nổi. Vài cú đánh đã tìm đến đúng địa chỉ trước khi anh kịp lách qua cổng. Anh tập tễnh chạy về nhà, vừa bước vừa nguyền rủa lão chúa đất cùng con cháu chút chít nhà lão.
“Kệ tôi!” Đáp lại những câu hỏi sợ sệt của Roopa, anh chỉ rít lên. Khi chị vẫn ngoan cố xoắn lấy chồng, nài xin anh cho chị xem cái chân bị thương, anh đánh chị. Căm tức và nhục nhã, anh chỉ ngồi câm lặng trong lều suốt buổi tối. Ishvar và Narayan đều khiếp đảm; chúng chưa từng thấy bố như thế bao giờ.
Mãi sau, anh mới để Roopa rửa và băng vết thương lại, và ăn những đồ vợ mang cho, nhưng vẫn không chịu nói năng gì. “Mình cứ nói cho em nghe, sẽ thấy nhẹ người hơn đấy,” chị nói.
Hai ngày sau, anh mới kể cho chị hay, cay đắng ngập tràn như mủ thối tứa ra từ bàn chân anh. Anh không oán hận gì hồi bị đánh do để đàn dê sổng rào. Lỗi là do anh, anh đã ngủ quên mất. Nhưng lần này anh nào có làm gì sai. Anh đã làm lụng quần quật cả ngày, thế mà rốt cục lại bị đánh, còn bị xù tiền công. “Căm nhất là chân tôi còn bị nghiến nát,” anh bảo. “Tôi chỉ muốn giết thằng chúa đất ấy. Đồ kẻ cướp đốn mạt. Chúng nó rặt một phường đấy hết. Chúng đối xử với chúng ta như súc vật. Thời nào cũng vậy, từ đời cha đời ông chúng ta.”
“Suỵt,” chị vợ nói. “Bọn trẻ mà nghe được thì không hay đâu. Tại mình xui xẻo nên cối vỡ, thế thôi.”
“Tôi nhổ vào cái mặt đẳng cấp cao của chúng nó. Từ rày về sau, tôi đếch cần mấy công việc khốn nạn của chúng nó nữa.”
Khi cái chân đã lành, Dukhi quay lưng lại với ngôi làng. Anh trở dậy từ mờ đất và lên đến thị trấn trước buổi trưa bằng cách đi nhờ xe bò kéo hoặc xe tải. Anh chọn một góc phố không có thợ chữa dép nào ở xung quanh. Với chiếc cốt giày sắt cùng dùi, búa, đinh, chêm được xếp thành một vòng bán nguyệt trước mặt, anh yên vị trên vỉa hè, chờ sửa giày dép cho dân thị trấn.
Giày tây, giày da mềm, dép lũ lượt diễu qua với đủ loại kiểu dáng và màu sắc, khiến anh vừa thích thú, vừa lo lắng.
Nếu một trong số đó dừng bước, liệu anh có đủ sức đảm nhiệm việc sửa chữa không? Trông cái nào cũng phức tạp hơn hẳn loại dép giản dị anh đã quen mặt.
Một lúc sau, một người dừng chân trước mặt Dukhi, rũ chiếc dép da khỏi bàn chân phải, và giơ ngón chân cái chỉ vào mấy dải quai ngang đã đứt. “Sửa cái này giá bao nhiêu?”
Dukhi nhặt chiếc dép lên và ngắm nghía thật kĩ. “Hai anna.”
“Hai anna? Chú mày điên chắc? Nếu có thừa hai anna để trả một thằng thợ dép như chú mày, thì thà tao mua đôi mới còn hơn.”
“Ây dà, làm gì có ai bán cho ông anh đôi dép mới với giá hai anna?” Cưa đi kéo lại, hai bên chốt giá một anna. Dukhi tháo phần đế dép, để lộ ra đường rãnh mang những mối chỉ đứt. Cáu ghét rơi ra từng mảng lớn dẹp lép. Anh kết luận, cáu ghét nhà quê với cáu ghét tỉnh thành chẳng khác gì nhau, cả hình thù lẫn mùi mẽ đều giống hệt.
Anh lắp dải quai nào vào khe nấy và khâu đè lên một hàng chỉ mới cho chặt chịa. Trước khi xỏ chiếc dép vào chân, người khách nắm mấy dải quai mới khâu rồi giật giật. Anh ta đi thử vài bước, ngọ nguậy ngón chân, ầm ừ ra chiều hài lòng và trả tiền.
Sau sáu tiếng và năm người khách, đã đến lúc về nhà. Dukhi lấy tiền đi mua vài thứ–một ít bột mì, ba củ hành, bốn củ khoai tây, hai quả ớt xanh cay–rồi theo đường cũ trở về. Xe cộ tầm này thưa thớt hơn buổi sáng. Anh phải cuốc bộ một đoạn dài rồi mới tìm được xe cho đi nhờ. Khi anh về đến làng đã là đêm khuya. Roopa cùng hai thằng con đang phấp phỏng đợi anh về.
Sau vài ngày ngồi ở góc phố, Dukhi bỗng thấy anh bạn Ashraf sải bước trên vỉa hè, đến chỗ anh ngồi. “Tôi không biết anh lại chữa dép ở khu này,” Ashraf nói, mặt lộ vẻ ngạc nhiên khi gặp bạn.
Ashraf là một thợ may người Hồi trên tỉnh. Anh ta cũng tầm tuổi Dukhi, và là chỗ Dukhi thường tìm đến trong những dịp hiếm hoi đủ tiền sắm sanh món gì đó cho Roopa hoặc bọn trẻ–thợ may người Hindu không may đồ cho tiện dân.
Nghe kể lại những chuyện xui xẻo Dukhi gặp ở làng, Ashraf bèn hỏi: “Anh có muốn thử một việc khác không?
Việc này có thể khá tiền hơn đấy?”
“Ở đâu?”
“Đi theo tôi.”
Anh thu dọn đồ nghề và vội vã đi theo Ashraf. Họ đi bộ sang bên kia thị trấn, vượt qua đường ray tàu hỏa, đến một xưởng gỗ. Tới nơi, Dukhi được giới thiệu với chú của Ashraf, quản lý xưởng.
Kể từ đó, ở xưởng lúc nào cũng có việc cho Dukhi: bốc và dỡ hàng trên xe tải, hoặc giúp đưa hàng. Dukhi vô cùng vui sướng với việc được nâng vác, được bước đi thẳng thớm cùng bao công nhân khác thay vì cả ngày còng lưng trên vỉa hè, nói chuyện với bàn chân của những người xa lạ. Và mùi thơm của gỗ tươi là phút nghỉ ngơi đáng hoan nghênh sau cái hôi thối của đủ loại giày dép bẩn thỉu.
Một buổi sáng nọ, khi đang trên đường tới xưởng gỗ, Dukhi nhìn thấy rất nhiều xe cộ. Chiếc xe bò anh đi nhờ bị nuốt chửng trong những đám mây bụi. Nó liên tiếp phải tránh sang lề đường, và một lần còn gần sa hẳn xuống rãnh, khi một chiếc xe buýt lớn vượt lên.
“Có chuyện gì thế nhỉ?” Dukhi hỏi người đánh xe. “Họ kéo nhau đi đâu vậy?” Anh kia chỉ nhún vai, vì còn đang lo đưa xe mình trở lại đường cái. Mấy cú thúc của anh ta xem chừng không ăn thua, cuối cùng hai người phải nhảy xuống để giúp con vật.
Lên đến nơi, Dukhi thấy đường phố giăng đầy băng rôn và cờ quạt. Anh được biết có vài vị lãnh đạo của Quốc hội quốc gia Ấn Độ đến thăm thị trấn này. Anh bèn tìm đến cửa hiệu của Ashraf và kể cho bạn hay, cả hai quyết định nhập bọn với đám đông.
Các vị lãnh đạo bắt đầu phát biểu; họ nói mình tới đây để truyền bá thông điệp của đức Mahatma[24] về cuộc đấu tranh giành tự do, cuộc đấu tranh vì công lý. “Suốt bao lâu nay, chúng ta đã là nô lệ trong chính đất nước mình. Và nay đã đến lúc chiến đấu giành tự do. Trong cuộc chiến này, chúng ta không cần súng hay gươm. Chúng ta không cần những lời lẽ cay độc hay thù nghịch. Bằng sự thật và đức bất hại, chúng ta sẽ thuyết phục được người Anh rằng đây là thời điểm thích hợp để họ rút đi.”
Đám đông hoan hô vang dội; vị diễn giả lại tiếp lời: “Các anh chị em đều sẽ đồng tình, rằng để lật đổ ách nô lệ, chúng ta phải thật mạnh mẽ. Không một ai có thể phản bác nổi điều đó. Và chỉ những con người thực sự mạnh mẽ mới phát huy được sức mạnh của sự thật và bất bạo động. Nhưng làm sao chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ cho được, khi vẫn còn một căn bệnh đang tồn tại trong chính chúng ta? Trước hết ta phải tiệt trừ căn bệnh đang lan tràn trên cơ thể tổ quốc ta đã.
Có lẽ các anh chị em sẽ hỏi, căn bệnh đó là gì? Căn bệnh này, xin thưa với các anh chị em, chính là quan niệm về tiện dân, thứ đã hủy hoại chúng ta suốt bao thế kỷ qua, chối bỏ nhân phẩm của bao người đồng bào của chúng ta. Căn bệnh này phải được thanh trừ khỏi xã hội của chúng ta, khỏi trái tim của chúng ta và khỏi trí não của chúng ta. Không một ai là tiện dân hết, bởi chúng ta đều là con cái của một Thượng Đế. Hãy ghi nhớ những lời ngài Gandhi đã nói, rằng tư tưởng về tiện dân đầu độc đạo Hindu hệt như một giọt thạch tín đầu độc sữa.”
Sau bài diễn thuyết này, các diễn giả khác lần lượt lên nói với đám đông về các vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh giành độc lập, về những con người đang ngồi tù một cách đáng kính trọng vì tội bất tuân dân sự, vì đã từ chối tuân theo những điều luật bất công. Dukhi và Ashraf nán lại đến phút cuối, khi các vị lãnh đạo yêu cầu đám đông cam kết rằng họ sẽ xóa bỏ mọi thành kiến đẳng cấp khỏi suy nghĩ, lời nói, và việc làm của mình. “Chúng tôi đang mang thông điệp này truyền đi khắp đất nước, và kêu gọi nhân dân ở mọi nơi đoàn kết và cùng đả phá chế độ tồi tệ của tội lỗi và niềm tin mù quáng này.”
Đám đông hô lớn lời thề thánh Mahatma chỉ thị cho mình, hét vang từng chữ với nhiệt huyết sôi sục. Cuộc mít tinh kết thúc tại đó.
“Không hiểu,” Dukhi nói với Ashraf, “bọn địa chủ ở làng tôi có bao giờ vỗ tay hoan hô một bài diễn thuyết đòi xóa bỏ chế độ đẳng cấp không nhỉ.”
“Chúng sẽ hoan hô, rồi tiếp tục ngựa quen đường cũ thôi,” Ashraf đáp. “Dào, quỷ dữ đã đánh cắp mọi ý niệm về công bằng của chúng rồi, chúng không thể nhìn thấy hay cảm thấy nữa đâu. Mà anh nên bỏ làng, đem gia đình lên đây thì hơn.”
“Rồi chúng tôi biết ở đâu? Ở làng, chí ít chúng tôi còn có một túp lều. Vả lại, đời cha đời ông tôi vẫn sống ở đấy. Tôi rời đất ấy sao đành? Bỏ quê hương làng bản mà đi chẳng hay gì đâu. Người ta sẽ quên hết gốc gác của mình mất.”
“Quả vậy,” Ashraf nói. “Nhưng chí ít hãy gửi hai thằng con anh lên đây một thời gian. Để mà học lấy một nghề.”
“Có học thì chúng cũng sẽ không được phép hành nghề ở làng đâu.”
Ashraf phát sốt ruột với suy nghĩ bi quan của bạn. “Dào, tình hình sẽ thay đổi. Anh chả nghe mấy người nói ở buổi mít tinh rồi còn gì. Đưa hai thằng con anh lên đây, tôi sẽ dạy chúng nghề may ngay tại cửa hiệu.”
Trong giây lát, mắt Dukhi sáng lên khi mường tượng ra triển vọng tương lai. “Thôi,” anh nói. “Tốt hơn hết là cứ ai ở chỗ người nấy.”
Vụ thu hoạch đã tới, Dukhi thôi không đến xưởng gỗ nữa. Lời thề cạch mặt lũ địa chủ của anh đã phai nhạt vì đường lên thị trấn quá xa, phương tiện đi lại thì không đảm bảo. Anh ra đồng từ khi chưa tỏ mặt người để gặt, và trở về nhà sau khi trời đã nhá nhem với cái lưng đau ê ẩm cùng tất cả những tin tức về các làng mạc xung quanh mà anh đã bỏ lỡ trong mấy tháng vừa qua.
Những tin đó cũng cùng một loại như những thứ Dukhi đã được nghe hết đêm này qua đêm khác trong suốt tuổi thơ của anh; chỉ có mấy cái tên là khác. Vì tội đi trên phần đường dành cho đẳng cấp cao, Sita bị ném đá, nhưng chưa tới chết–cơn mưa đá đã dừng khi dòng máu đầu tiên đổ xuống. Gambhir kém may mắn hơn; anh ta bị đổ chì nung chảy vào tai vì dám lại gần tầm nghe của ngôi đền trong khi buổi lễ cầu nguyện đang diễn ra. Dayaram, đã thỏa thuận sẽ cày ruộng cho một nhà địa chủ nhưng rồi thất hứa, bị ép phải ăn cứt của lão kia ngay giữa đình làng. Dhiraj đòi thỏa thuận trước với Thầy cả Ghanshyam công xá cho việc chặt củi, thay vì nhận được vài thanh củi vào cuối ngày như anh ta đã hi vọng; lão Thầy cả cáu tiết lên, vu cho Dhiraj tội đầu độc đàn bò nhà lão, và lôi anh ta ra treo cổ.
Trong khi Dukhi còn nai lưng ngoài đồng và việc da vẫn đang khan, chẳng có gì cho hai thằng con anh làm. Roopa cố vẽ việc cho chúng bằng cách sai hai đứa đi kiếm củi đun. Thi thoảng hai anh em còn tìm thấy những cục phân bò lạc, vô chủ bị mấy người chăn bò bỏ sót, mặc dù rất hiếm gặp, vì món hàng quý này luôn được các chủ bò nhặt nhạnh từng tí một. Roopa không dùng phân này để đun nấu, mà thích đắp lên lối vào lều. Khi phân đã khô nỏ, cứng và mượt, chị sung sướng tận hưởng trong chốc lát ngưỡng cửa cứng đanh như đất nung, chẳng khác gì sân của các nhà chăn gia súc.
Ngoài thời gian làm việc vặt, hai cậu bé có vô số thì giờ rỗi để chạy chơi bên bờ sông hoặc đuổi thỏ hoang. Chúng biết chính xác đẳng cấp của mình được phép và bị cấm làm những gì; bản năng, cộng với nhiều lần nghe lỏm người lớn nói chuyện, đã vạch thành ranh giới trong trí óc chúng, rõ ràng như những bức tường đá. Dẫu vậy, mẹ chúng vẫn lo hai thằng con có thể gặp chuyện lôi thôi. Chị thấp thỏm đợi đến lúc việc sàng sẩy đã hoàn tất, khi ấy hai đứa lại quanh quẩn trong tầm mắt chị, bới nhặt đống cám để tìm những hạt gạo sót.
Đôi khi hai anh em bỏ cả buổi sáng rình mò ngôi trường làng. Chúng dỏng tai nghe bọn trẻ đẳng cấp cao ê a đọc bảng chữ cái, và hát những bài hát trẻ con về màu sắc, các con số, mùa mưa. Những thanh âm lanh lảnh ùa ra khỏi cửa sổ như những đàn se sẻ. Sau đó, nấp dưới những tán cây kín bưng bên bờ sông, hai anh em lại cố nhắc lại theo trí nhớ những bài lũ trẻ kia đã hát.
Nếu trí tò mò kéo Ishvar và Narayan lại quá gần, khiến ông thầy giáo nhìn thấy, chúng sẽ bị đuổi đi ngay. “Lũ lừa con láo toét! Xéo ngay không tao đánh cho què cẳng bây giờ!” Song Ishvar và Narayan khá thạo khoản rình trộm lớp học; hai đứa có thể lẻn vào đủ gần để nghe thấy cả tiếng phấn rít ken két trên mặt bảng.
Phấn và bảng khiến chúng mê tơi. Chúng những ao ước được cầm mấy cái que màu trắng trong tay, vạch thành những đường loằng ngoằng màu trắng như lũ trẻ kia, vẽ hình lều lán, bò, dê, và hoa. Bao nhiêu thứ tự nhiên hiện ra, cứ như phép thần vậy.
Một buổi sáng, Ishvar và Narayan đang nấp sau bụi cây, thì bọn học sinh được dẫn ra sân trước để tập một điệu múa cho hội gặt. Bầu trời trong veo không một gợn mây, và những câu hát bập bõm vẳng lại từ cánh đồng phía xa xa.
Khúc ca của những con người lao khổ chất chứa nỗi đau đớn của những tấm lưng ê ẩm, của làn da cháy xèo xèo dưới nắng. Ishvar và Narayan dỏng tai cố nghe xem đâu là giọng của bố, song không tách bạch nổi từng thanh âm trong cả dàn đồng ca.
Bọn học trò cầm tay nhau và dàn thành hai vòng tròn đồng tâm. Chân đi đất, chúng di chuyển theo hai hướng ngược nhau. Thỉnh thoảng, hai vòng tròn lại đảo hướng chuyển động. Cũng vì thế mà sinh ra lắm trò vui, bởi thường có vài đứa chuyển hướng chậm, thế là cả đám ríu lại, rồi xô hết cả vào nhau.
Xem trộm được một lúc, Ishvar và Narayan bỗng sực nhớ ra là lớp học đang trống trơn. Hai anh em bèn bò quanh sân, ra đằng sau lưng nhà, và trèo vào qua cửa sổ.
Ở một góc, giày dép của bọn trẻ được xếp thành hàng ngay ngắn; ở một góc khác, bên cạnh tấm bảng đen, là các hộp cơm trưa của chúng. Mùi thức ăn hòa lẫn với bụi phấn. Hai anh em tìm đến chiếc tủ cất bảng con và phấn. Mỗi đứa lấy một bộ, đoạn ngồi khoanh chân trên sàn, bảng đặt trong lòng, hệt như kiểu cách chúng vẫn thấy bọn trẻ kia làm. Nhưng hai đứa không chắc bước tiếp theo là gì. Narayan ngồi chờ anh nó mở màn.
Ishvar hơi hồi hộp, viên phấn dừng ngập ngừng phía trên mặt bảng, e sợ điều sắp xảy ra. Đoạn cậu thận trọng đặt phấn xuống và vẽ một đường, rồi một đường nữa, và một đường nữa. Cậu toét miệng cười với Narayan–tạo dấu ấn riêng cho mình thật dễ làm sao!
Giờ đến lượt Narayan. Ngón tay run bần bật vì phấn khích, cậu vạch một vạch trắng ngắn và hãnh diện khoe với anh. Hai anh em thêm bạo gan, thôi vẽ những đường thẳng, mà phủ đầy mặt bảng bằng những vòng tròn, đường cong và đường nguệch ngoạc với đủ hình dáng và kích thước, chúng dừng lại chỉ để xuýt xoa, trầm trồ sao mình vẽ ngon lành đến thế, rồi lấy tay xóa đi và thỏa sức vẽ lại. Cả bụi phấn bám đầy lòng bàn tay cùng ngón tay cũng khiến hai anh em cười khanh khách–chúng có thể quệt lên trán, tạo thành những vệt to đậm, nom ngồ ngộ, hệt như dấu ấn đẳng cấp của những người Bà la môn.
Chúng quay lại chỗ tủ và xem xét những món đồ khác, chúng mở cả các tờ in bảng chữ cái và lật giở những quyển sách tranh. Mải mê trong thế giới cấm, chúng không nhận ra giờ học múa ngoài sân đã kết thúc, cũng chẳng nghe thấy tiếng lão thầy giáo rón rén bước lại gần. Lão bèn túm tai hai đứa và lôi chúng ra sân.
“Hai thằng Chamaar mất dạy! To gan nhỉ, dám mò vào trường kia đấy!” Lão vặn xoắn tai hai anh em lại, cho đến khi hai đứa kêu oai oái vì đau và bắt đầu khóc be be. Lũ học sinh sợ hãi đứng túm tụm lại với nhau.
“Bố mẹ chúng mày dạy chúng mày thế à? Dạy chúng mày làm ô uế dụng cụ của học tập và tri thức à? Nói tao nghe! Có phải thế không?” Lão buông tai hai anh em ra một lúc, đủ để giáng mấy cú nảy đom đóm lên đầu chúng, rồi lại tóm lại.
Ishvar vừa khóc mếu vừa đáp: “Thưa thầy, không ạ.”
“Thế thì sao chúng mày lại vào đây?”
“Chúng con chỉ muốn xem…”
“Muốn xem! Được, đã thế tao sẽ cho chúng mày xem ngay! Tao sẽ cho chúng mày xem mu bàn tay tao đây!” Một tay giữ chặt Narayan, lão giơ tay kia tát bôm bốp lên mặt Ishvar sáu cái liên tiếp, rồi cũng tát vào mặt thằng em ngần ấy cái. “Cái gì trên trán chúng mày đây, lũ súc sinh vô liêm sỉ? Thật quá báng bổ!” Lão lại tát hai đứa; đến lúc này, tay lão đã đau rần.
“Lấy cây gậy trong tủ ra đây,” lão sai một đứa bé gái. “Còn hai đứa chúng mày, tụt quần ra. Khi nào tao đánh xong, sẽ không còn đứa nào trong chúng mày dám tơ tưởng đến chuyện sờ mó những thứ chúng mày không được phép động vào nữa.”
Gậy được mang ra, và lão thầy giáo sai bốn trò lớn ấn hai kẻ xâm nhập trái phép úp mặt xuống đất, giữ chặt tay và cổ chân chúng. Lão bắt đầu thi hành án phạt, thay phiên vụt hai đứa. Bọn trẻ đứng ngoài xem sợ rúm người mỗi khi cây gậy nện xuống cặp mông trần. Một thằng bé con còn khóc òa lên.
Khi mỗi đứa đã nhận đủ một tá roi, lão thầy giáo bèn dừng tay. “Cho chúng mày nhớ lấy,” lão thở hổn hển. “Giờ thì cút xéo, và đừng bao giờ để tao thấy cái mặt dơ bẩn của chúng mày ở đây nữa, nghe chưa!”
Ishvar và Narayan cắm cổ chạy, quần tụt lốc thốc khiến hai đứa ngã đứng ngã ngồi nom rất hoạt kê. Lũ trẻ kia bèn nhân dịp này cười ồ lên; đứa nào cũng thấy mừng vì chút thư giãn nó mang lại.
Phải đến tối Dukhi mới biết chuyện hai thằng con bị phạt. Anh lạnh lùng bảo Roopa tạm dừng nướng bánh. “Sao thế?” Chị hoảng hốt hỏi. “Làm lụng cả ngày ngoài đồng thế mà mình không đói sao? Mình… mình định đi đâu đấy?”
“Đến nhà Thầy cả Lalluram. Ông ấy phải có lời trong vụ này mới xong.”
“Để thư thả đã,” chị van vỉ. “Đừng làm phiền một người danh giá như thế vào đúng giờ ăn cơm.” Nhưng Dukhi đã rửa sạch bụi đất của một ngày dài bám trên tay và ra đi.
Thầy cả Lalluram không phải một người Bà la môn bình thường, ông ta là một người Bà la môn Chit-Pavan sinh ra từ dòng dõi thanh khiết nhất trong số những dòng dõi thanh khiết, hậu duệ của những người nắm giữ Tri Thức Linh Mật. Ông chẳng phải trưởng làng, cũng không phải quan chức chính phủ nốt, song những anh em cùng vai vế đều nói rằng ông thu phục được lòng kính ngưỡng không gì lay chuyển nổi của họ bằng chính tuổi tác, lòng chính trực, và những Tri Thức Linh Mật khóa kín trong cái sọ to đùng, bóng láng của mình.
Tranh chấp đủ kiểu, dù về đất đai hay súc vật, đều được trình lên nhờ ông phân xử. Những vụ cãi vã trong gia đình do con dâu hỗn hào, vợ cứng đầu, rồi chồng lăng nhăng cũng rơi vào vòng phán quyết của ông nốt. Nhờ lời chứng thực không chê vào đâu được của ông, ai nấy đều ra về với cảm giác thỏa mãn: nạn nhân thu được chút ảo tưởng về công lý; kẻ sai trái lại thả sức đường cũ mà tiến; còn Thầy cả Lalluram, đổi lại những phiền phức mà ông phải chịu, nhận được đủ thứ quà, nào vải, nào gạo, nào hoa quả, nào bánh kẹo từ cả hai bên.
Vị Thầy cả uyên bác còn có tiếng là người hay ra tay thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Chẳng hạn, trong những cuộc biểu tình định kì chống người Hồi và bọn giết bò, Thầy cả Lalluram đều thuyết phục các bạn đồng đạo rằng người Hindu không nên kết tội những kẻ ăn thịt bò. Ông giải thích rằng người Hồi, do tôn giáo của mình, phải gánh những bốn bà vợ, tội nghiệp lắm thay, và anh ta cần phải ăn thịt động vật để hâm nóng bầu máu, đặng còn có sức phục vụ bốn bà kia–anh ta ăn thịt là do nhu cầu bức bách, chứ nào có thích thú gì thịt bò, cũng chẳng định chọc tức người Hindu, và, vì thế, nên thông cảm và để yên cho anh ta thỏa mãn đòi hỏi tín ngưỡng của mình.
Với tiểu sử không tì vết, những thắng lợi của Thầy cả Lalluram nhiều vô số kể. Một người trung thực công minh nhường ấy, ai nấy bảo nhau, thì đến một kẻ tiện dân cũng có thể nhận được công lý từ tay ông. Đành rằng không một tên tiện dân nào chứng thực nổi điều này bằng trí nhớ của mình, nhưng ấy lại là chuyện khác. Dường như ai cũng còn nhớ, lờ mờ, cái đận một chúa đất đánh chết một người Bhunghi vì tội đến muộn, mãi sau khi mặt trời lên hắn mới vác xác đến để chở thùng phân của nhà ông ta đi. Thầy cả Lalluram đã phán–hoặc có lẽ đó là bố thầy, hay ông thầy cũng nên; nói tóm lại là có người đã phán–rằng tội ấy quả là nặng, song chưa nặng đến nỗi phải bị giết, và rằng vị chúa đất, để đền bù, phải cung cấp thức ăn, chốn ở, và quần áo cho vợ con người chết trong sáu năm tiếp theo. Hay là sáu tháng, có khi là sáu tuần cũng nên?
Dựa vào uy tín huyền thoại đó về óc chính trực, Dukhi ngồi dưới chân thầy và kể cho thầy vụ Ishvar và Narayan bị đánh. Vị Thầy cả uyên bác đang ngả mình trên chiếc ghế tựa, vừa mới ăn xong cơm tối, và đã ợ mấy lần rất to để điểm vào câu chuyện của người khách. Dukhi cung kính ngừng lời trước mỗi tiếng ợ, trong khi Thầy cả Lalluram lầm rầm “Hai Ram” để tạ ơn trời đã ban cho đường tiêu hóa của mình sức mạnh ghê gớm nhường ấy.
“Ông ta đã tát hai thằng con con bao nhiêu cái… thưa thầy, thầy phải nhìn thấy mặt chúng nó mới rõ, sưng như cái lệnh,” Dukhi nói. “Còn lưng chúng nó nữa, trông như bị một con hổ dữ cào vậy.”
“Tội nghiệp bọn nhỏ,” Thầy cả Lalluram nói với vẻ thương cảm. Ông ta đứng dậy và đến bên một cái giá ở nhà trong. “Đây, con hãy bôi dầu này lên lưng chúng. Nó sẽ làm dịu vết đau.”
Dukhi cúi đầu. “Đội ơn thầy, thầy thật nhân từ quá.” Anh cởi miếng vải đội trên đầu và gói kĩ chiếc lọ thiếc bẹt nhỏ tí xíu. “Thưa thầy, cách đây ít lâu con từng bị chúa đất Premji đánh một trận nhừ tử vì một lỗi không phải tự con. Nhưng con không đến kêu với thầy. Con không dám quấy rầy thầy.”
Thầy cả Lalluram nhướn mày lên và kì kì ngón chân cái. Vừa gật đầu, thầy vừa vê mồ hôi và ghét thành những viên nhỏ đen sì và thả chúng rơi xuống.
“Lần đó con chỉ lặng lẽ chịu đựng,” Dukhi nói. “Nhưng vì con con, con phải đến tìm thầy. Chúng không đáng phải chịu những đòn roi vô lý.”
Vẫn lặng thinh, Thầy cả Lalluram hít hửi những ngón tay vừa làm xong nhiệm vụ mát xa ngón chân cái. Thầy nghiêng người tì lên một bên mông và đánh một phát rắm. Dukhi hơi rùn người lại để nó tự do lưu thông, trong bụng thầm thắc mắc không biết hình phạt dành cho tội ngăn cản sự lưu động của luồng hơi thoát ra từ ruột một người Bà la môn là gì.
“Chúng chỉ là trẻ con,” anh van vỉ, “mà chúng có làm gì nên tội đâu.” Anh chờ đợi một lời hồi đáp. “Chúng chẳng làm gì nên tội cả, thưa thầy,” anh nhắc lại, những mong người thầy uyên bác chí ít cũng đồng tình với mình. “Lão thầy giáo đó cần bị trừng phạt vì những gì lão đã làm.”
Thầy cả Lalluram thở hắt ra một hơi dài thượt, nặng trình trịch. Thầy nghiêng sang một bên và hỉ thẳng một dòng nước mũi đặc quánh lên mặt đất khô ron. Sức mạnh từ cú hạ cánh của nó làm tung lên một đám bụi nho nhỏ. Thầy chùi mũi và lại thở dài. “Dukhi Mochi, con là một người tốt tính, chăm chỉ. Ta biết con đã lâu. Con luôn gắng sức hoàn thành bổn phận của đẳng cấp mình, đúng chứ?” Dukhi gật đầu.
“Làm thế là rất khôn ngoan,” Thầy cả Lalluram gật, “bởi đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Nếu không, vũ trụ sẽ rơi vào hỗn loạn. Con cũng hiểu trong xã hội có bốn đẳng cấp varna: Bà la môn, Kshatriya, Vaishya, và Shudra. Mỗi người trong chúng ta thuộc về một trong bốn đẳng cấp đó, và các đẳng cấp không thể bị lẫn lộn. Đúng chứ?”
Dukhi lại gật đầu, cố giấu nỗi sốt ruột. Anh đâu có đến đây để nghe thuyết giảng về chế độ đẳng cấp.
“Cũng như con, một thợ da, phải hoàn thành những bổn phận pháp điển của mình đối với gia đình và xã hội, người thầy giáo cũng phải hoàn thành những bổn phận của ông ta.
Con không thể chối cãi điều này, đúng chứ, Dukhi?” Dukhi lắc đầu.
“Trừng phạt hai đứa con trai con vì hành vi sai trái của chúng là một phần bổn phận của người thầy giáo. Ông ta không còn cách nào khác. Con có hiểu không?”
“Có, thưa Thầy, đôi lúc trừng phạt là cần thiết. Nhưng ai lại nỡ đánh đập kinh khủng đến thế?”
“Chúng đã phạm một tội kinh khủng…”
“Nhưng chúng chỉ là trẻ con, và hay hiếu kì, như mọi…”
Thấy mình bị ngắt lời, Thầy cả Lalluram trợn mắt và giơ ngón trỏ tay phải lên trời để nạt Dukhi im miệng. “Làm sao ta có thể nói cho con hiểu đây? Con không có những tri thức có thể giúp con nhận thức hết tầm quan trọng của những vấn đề này.” Đến đây, vẻ chịu đựng nhẫn nại trong giọng thầy bị thế chỗ bởi một thứ khác, gay gắt hơn. “Hai thằng con của con dám lẻn vào lớp học. Chúng làm ô uế chốn đó. Chúng dám sờ vào dụng cụ học tập. Chúng làm vấy bẩn bảng và phấn là những thứ mà bọn trẻ đẳng cấp cao sẽ cầm nắm. May cho con là trong cái tủ đó không có một cuốn thánh thư như Bhagavad Gita, không có những dòng chữ thiêng liêng. Nếu có, hình phạt có lẽ đã khắc nghiệt hơn nhiều.”
Dukhi tỏ ra rất bình thản khi anh khẽ chạm vào đôi dép của Thầy cả Lalluram để chào tạm biệt. “Con đã hiểu rõ rồi, thưa thầy, đội ơn thầy đã giải thích cho con. Con thật may mắn quá–thầy, một người Bà la môn Chit-Pavan, lại chịu xa phí thời gian vàng bạc cho một thằng Chamaar ngu đần như con.”
Thầy cả Lalluram hờ hững giơ tay lên tạm biệt. Trong óc thầy bỗng hơi gợn chút ngờ vực, không biết thầy vừa được ca ngợi hay bị nói xỏ nhỉ. Thế nhưng, vừa hay, một tiếng ợ kinh hồn trào lên như sấm, xua tan nỗi phân vân và xoa dịu cả cái đầu lẫn cái bụng.
Trên đường về, Dukhi gặp mấy người bạn vẫn đang ngồi hút thuốc dưới tán cây bên bờ sông. “Ê, Dukhi, muộn thế rồi sao vẫn còn lang thang ở đây?”
“Đi gặp lão Bà la môn Chit-Pavan,” Dukhi đáp, đoạn kể lại tỉ mỉ cuộc thăm viếng của mình. “Phải gọi lão là Bà la môn Rắm Thối mới phải.”
Cả nhóm cười ồ lên khoái trá, còn Chhotu gật gù rằng Bà la môn Ăn Cứt mới thật là một cái tên thích hợp. “Mỗi bữa hốc những một cân bơ, hai cân kẹo, thế mà sao lão không thấy ngấy nhỉ?”
“Lão cho tôi lọ dầu này để bôi cho bọn trẻ con,” Dukhi nói. Họ chuyền tay nhau cái lọ thiếc, săm soi, hít ngửi thứ dầu đựng bên trong.
“Tôi trông như là xi đánh ủng ấy,” Chhotu nói. “Chắc sáng nào lão cũng bôi thứ này lên đầu. Chả trách nó cứ sáng lóa như mặt trời ấy.”
“Ây dà, anh lại nhầm cái đầu lão với cái lỗ đít rồi. Đấy mới là chỗ lão bôi dầu bóng – đó là nơi ánh sáng mặt trời tỏa ra, mấy thằng anh em cùng đẳng cấp với lão bảo thế. Cho nên tất cả mấy thằng ăn cứt kia đều cố la liếm để vào được chốn ấy.”
“Tôi có mấy câu kệ để khuyên chúng đây,” Darayam nói, và ngâm mấy câu Sanskrit giả hiệu, nhại giọng cung kính của một thầy tế khi đọc văn khấn: “Goluma Ekdama Tajidevum! Chuptum Makkama Jhaptum!”
Nghe ra ẩn ý đá đưa đến trò thú dâm và chuyện giao hoan, cả mấy người đàn ông cùng cười rú lên. Dukhi quăng chiếc lọ xuống sông. Để mặc mấy người bạn ngồi đoán già đoán non không hiểu đích xác dưới tầng tầng lớp lớp mỡ đắp thành cái bụng Thầy cả Lalluram là cái gì, nếu có, anh trở về nhà.
Anh bảo Roopa sáng sớm mai anh sẽ lên thị trấn. “Tôi đã quyết rồi. Tôi sẽ nói chuyện với anh thợ may Ashraf.”
Chị không hỏi lý do. Trong đầu chị còn đang bận soạn thảo chiến lược cho một vụ đột kích đêm nhắm vào thùng bơ nhà ai đó, lần này là để xoa lên mông hai thằng con.
Ashraf không chịu nhận đồng nào làm công dạy nghề cho hai đứa con Dukhi. “Chúng sẽ đỡ việc cho tôi,” anh nói. “Vả lại, hai thằng bé con thì ăn hết bao nhiêu cơm gạo đâu? Nhà tôi nấu thứ gì, chúng nó ăn thứ đó. Dào, như thế đã ổn chưa? Có phải kiêng cữ món gì không?” “Chả kiêng gì cả,” Dukhi đáp.
Hai tuần sau, anh quay lại hiệu may, dẫn theo Ishvar và Narayan. “Chú Ashraf đây cũng thân như anh em ruột của bố ấy,” anh giải thích với hai đứa. “Nên các con phải luôn gọi chú là chú Ashraf.”
Anh thợ may sung sướng cười toe toét, hãnh diện vì được lên chức chú. Dukhi lại tiếp: “Các con sẽ ở với chú Ashraf một thời gian, và học nghề với chú. Các con nhớ ghi nhớ cẩn thận mọi điều chú ấy nói, và yêu kính chú như yêu kính bố vậy.”
Hai cậu bé đã được bố chuẩn bị tinh thần cho cuộc chia ly từ trước. Đây chỉ là tuyên bố chính thức mà thôi. “Vâng, thưa bố,” hai đứa trả lời.
“Chú Ashraf sẽ dạy các con thành thợ may như chú ấy. Từ rày trở đi, các con không còn là thợ da nữa–nếu có ai hỏi tên các con, không được nói là Ishvar Mochi và Narayan Mochi. Từ bây giờ, các con đã là Ishvar Darji và Narayan Darji.”
Nói rồi anh vỗ lên vai mỗi đứa một cái, và ấn nhẹ, như muốn đẩy chúng vào vòng tay của bạn. Hai anh em rời chỗ bố và bước về phía người thợ may, lúc ấy đã dang tay ra đón chúng.
Dukhi nhìn những ngón tay Ashraf, cách chúng siết nhẹ lên vai hai đứa trẻ đầy thân ái. Ashraf là một người hiền hậu và tử tế, anh biết con mình sẽ được coi sóc cẩn thận. Cùng lúc đó, một nỗi đau tê tái lan khắp tim anh.
Trên con đường trở về làng, anh ngồi thu lu trên xe bò, cảm giác kiệt quệ. Anh hầu như không nhận thấy bánh xe nảy bật lên khi đi qua những ổ gà ổ voi, xô xương anh răng rắc. Đồng thời, anh lại thấy trong mình trào lên một nguồn năng lượng điên cuồng, khiến anh những muốn nhảy khỏi xe mà chạy. Anh biết mình đã làm điều tốt nhất có thể cho con, và vừa cất xong một gánh nặng. Thế mà, cớ sao anh không thấy nhẹ nhõm hơn? Thứ còn đang đè nặng lên ngực anh là cái gì vậy?
Đến chiều muộn, đi đến con đường làng, anh nhảy khỏi xe bò. Khi bóng anh hiện lên trên ngưỡng cửa, Roopa đang ngồi đờ đẫn trong lều, mắt đăm đắm nhìn ra. Anh bảo chị mọi sự đã cắt đặt xong xuôi.
Chị nhìn anh bằng ánh mắt trách móc. Anh đã xoi một lỗ hổng trong đời chị mà không gì có thể khỏa lấp. Chị bảo chồng, rằng mỗi lần nghĩ đến hai thằng con–sống cách xa mình hàng dặm đường cùng một người lạ, lại là một người Hồi–thì nỗi xót xa trào lên tận cổ chị, đến độ chị tưởng mình sắp phát nghẹn. Anh cay đắng nhận xét rằng chí ít anh bạn người Hồi kia cũng đối xử với anh tử tế hơn những người anh em Hindu.
Hiệu may Muzaffar nằm trên một con phố quy tụ toàn những hộ kinh doanh gia đình nhỏ. Có một hiệu kim khí, một hàng bán than, một tiệm tạp hóa, và một xưởng xay xát nằm liền thành một dãy, hình dáng và diện tích cửa hàng giống nhau hền hệt, chỉ có thể phân biệt được nhờ tiếng động và mùi hương ở bên trong. Hiệu may Muzaffar là cửa hàng duy nhất có biển hiệu.
Cửa hiệu của Ashraf bé tin hin, phần nhà ở phía trên cũng chẳng rộng rãi hơn: gồm một phòng và bếp. Anh vừa lấy vợ năm ngoái, và đã có một đứa con gái một tháng tuổi. Chị Mumtaz vợ anh chẳng được vui vẻ như chồng khi thấy nhà có thêm hai miệng ăn. Hai cậu bé học việc được bố trí ngủ luôn ở cửa hiệu.
Ishvar và Narayan hết sức choáng ngợp trước biến đổi đột ngột trong cuộc đời mình. Nhà cao tầng, đèn điện, nước máy–thảy đều khác xa ở làng, và thật kì diệu. Trong ngày đầu tiên, hai anh em ngồi trên bậc đá ngoài cửa hiệu, sửng sốt ngắm nhìn phố xá và thấy cả một vũ trụ của những hỗn mang hãi hùng. Dần dà, chúng bắt đầu nhận diện được dòng sông xe cộ trên phố, và bên trong nó là những dòng chảy của xe kéo tay, xe đạp, xe bò, xe buýt, điểm xuyết vài chiếc xe tải. Giờ chúng đã hiểu rõ tính tình của con sông điên loạn đó. Chúng thấy vững tâm hơn khi biết rằng ở đó không chỉ có sự hỗn loạn và tiếng ồn, trong mọi vật đều hàm chứa một khuôn mẫu.
Chúng nhìn mọi người đến cửa hàng tạp hóa mua muối, gia vị, dừa, đậu, nến, dầu. Chúng thấy hạt được mang đến xưởng xay xát để nghiền thành bột. Khi người thợ xay làm việc, cánh tay anh ta dần chuyển thành màu trắng, đôi khi, cả khuôn mặt và hàng lông mi cũng vậy. Mặt và tay chú bán than lấm đen theo từng giờ trôi; mấy thằng bé đưa hàng tất tả chạy ngược xuôi cả ngày cùng những sọt than đầy. Ishvar và Narayan rất thích nhìn mấy người hàng xóm của mình tắm rửa khi đêm xuống, dần phơi bày làn da nâu sau khi trút bỏ màu sắc ban ngày của mình.
Hai ngày đầu Ashraf chỉ để kệ hai đứa, cho đến khi lòng hiếu kì của chúng tự chuyển hướng sang hiệu may. Tâm điểm niềm ao ước của chúng dĩ nhiên là chiếc máy may. Để hai đứa được thỏa lòng, anh cho chúng thay phiên nhau đạp bàn đạp, còn anh cho chạy một mảnh vải vụn dưới mũi kim. Hai anh em xúc động lắm khi thấy mình có thể làm chiếc máy hoạt động. Cảm giác cũng hứng khởi chả kém gì việc tạo dấu ấn của mình với bảng và phấn.
Giờ chúng đã sẵn sàng gắn bó với những việc kém hấp dẫn hơn, như xâu kim và khâu tay. Háo hức muốn học hỏi, chúng khiến Ashraf rất ấn tượng bởi nết sáng dạ. Đến một hôm, khi có một người khách tìm đến Hiệu may Muzaffar, anh quyết định để Ishvar ghi lại các số đo.
Vị khách mang tới một tấm vải kẻ sọc để may áo. Ashraf lấy cuốn sổ đặt hàng, giở sang một trang mới, ghi tên khách, đoạn vung tay rũ tung cuộn thước dây ra, khiến hai thằng bé ngưỡng mộ không để đâu cho hết. Hai đứa bèn len lén tự tập theo, Ashraf lấy thế làm khoái lắm.
“Cổ, ba bảy phân,” anh đọc. “Ngực, tám mốt.” Anh liếc sang Ishvar, thằng bé còng lưng trước cuốn sổ, lưỡi thè ra xem chừng đang tập trung cao độ. Quay lại phía người khách, Ashraf tiếp lời: “Tay áo. Dài hay ngắn ạ?”
“Phải dài,” người kia đáp. “Áo này tôi mặc đi ăn cưới một người bạn.” Khi các thủ tục hoàn tất, người khách ra về với lời cam đoan chiếc áo sẽ được may xong kịp cho lễ cưới tuần tới.
“Nào, thử xem số đo cái nhỉ,” Ashraf nói.
Miệng cười toe hãnh diện, Ishvar đưa anh cuốn sổ. Trang giấy đầy kín những đường dích dắc và ngoằn ngoèo đen sì.
“A, phải, chú hiểu rồi,” Ashraf cố nén nỗi hoảng hốt, đoạn vỗ vỗ vai thằng bé. “Rồi, giỏi lắm.” Anh vội viết tháu mấy con số mình còn nhớ được.
Sau bữa tối, anh bắt tay vào dạy hai đứa trẻ bảng chữ cái và số đếm. Mumtaz không vui chút nào. “Giờ anh lại còn sắm cả vai thầy giáo của chúng nó nữa. Rồi tiếp theo sẽ là gì nữa đây? Khi nào hai thằng đến tuổi, anh có tìm vợ cho chúng nó luôn không?”
Ngày hôm sau anh đã may xong chiếc áo ăn cưới. Cuối tuần đó, người khách đến lấy đồ và mặc thử áo. Ashraf nhớ đúng mọi số đo, trừ dài áo: tà áo sát đầu gối hơn mong muốn. Người đàn ông nhìn vào gương, vẻ đăm chiêu, hết xoay trái rồi lại xoay phải.
“Hết chỗ chê,” Ashraf xuýt xoa. “Mốt pathani kiểu miền bắc này đang thịnh lắm đấy.” Người khách ra về, trong lòng vẫn chưa hết băn khoăn, còn ba chú cháu bò ra cười.
Một tháng sau khi kì học việc bắt đầu, Ashraf bị tiếng khóc ri rỉ đánh thức giữa đêm khuya. Anh nhỏm dậy, lắng tai nghe, nhưng không thấy gì nữa. Anh nằm lại và mơ màng thiếp đi.
Vài phút sau, lại âm thanh ấy khuấy động giấc ngủ của anh. “Sao thế?” Chị Mumtaz hỏi. “Sao anh cứ trở dậy suốt thế?”
“Có tiếng gì đó. Con khóc à?”
“Không, nhưng kiểu gì nó cũng khóc, nếu anh cứ nhảy dựng lên như thế.”
Rồi tiếng khóc thút thít khe khẽ lại nổi lên. “Ở dưới nhà.” Anh ra khỏi giường và châm ngọn đèn lên.
“Thế thì việc gì anh phải xuống? Anh là bố chúng nó chắc?”
Tiếng càu nhàu của chị còn vọng theo khi anh bước men những bậc thang dẫn xuống cửa hiệu. Anh bước vào, tay giơ cao cây đèn. Ánh đèn soi tỏ đôi má ánh vệt nước mắt của Narayan. Ashraf khuỵu gối quỳ xuống bên cạnh thằng bé, dịu dàng xoa lưng nó.
“Cháu sao thế, Narayan?” Anh hỏi, dù đã biết rõ câu trả lời. Anh đã lường trước một cuộc tấn công của nỗi nhớ nhà, không sớm thì muộn. “Chú nghe thấy tiếng cháu khóc? Cháu bị đau ở đâu à?”
Cậu bé lắc đầu. Ashraf vòng tay ôm nó. “Khi bố vắng mặt, chú sẽ thay bố. Còn Thím Mumtaz cũng như mẹ các cháu vậy, đúng không? Có chuyện gì, cháu cứ nói với chú thím.”
Nghe câu này, Narayan khóc òa lên. Giờ Ishvar cũng đã trở dậy và dụi dụi mắt, cố che chúng khỏi ánh sáng đèn.
“Cháu có biết tại sao em khóc không?” Ashraf hỏi.
Ishvar gật đầu nghiêm trang. “Đêm nào nó cũng nhớ nhà.
Cháu cũng nhớ nhà, nhưng cháu không khóc.”
“Cháu là một cậu bé rất dũng cảm.”
“Cháu cũng không muốn khóc đâu,” Narayan nói. “Nhưng khi đêm xuống, mọi người đi ngủ cả rồi, bố với mẹ lại hiện lên trong đầu cháu.” Thằng bé sụt sịt và chùi mắt. “Cháu nhìn thấy túp lều của cả nhà, nó làm cháu buồn quá, rồi nó làm cháu khóc.”
Ashraf ôm nó vào lòng, bảo rằng nhớ bố mẹ là chuyện bình thường. “Nhưng đừng buồn, vài tuần nữa bố cháu sẽ lên đón các cháu về nhà chơi. Với cả, khi nào hai cháu đã học thành nghề may, các cháu sẽ mở được cửa hiệu của riêng mình và kiếm được khối tiền. Lúc ấy thì bố mẹ các cháu sẽ tự hào biết nhường nào, phải không?”
Anh bảo hai cậu bé rằng bất cứ lúc nào thấy buồn, chúng có thể ra kể cho anh nghe về làng chúng, về con sông, những cánh đồng, bạn bè chúng. Cùng nhau chuyện trò sẽ giúp biến nỗi buồn thành niềm vui, anh an ủi chúng thế. Anh nằm bên cạnh hai anh em cho đến khi chúng ngủ say, rồi mới rón rén lên gác với chiếc đèn đã được vặn bấc nhỏ tí.
Chị Mumtaz đang ngồi trong bóng tối chờ anh. “Hai đứa có sao không?” Chị lo lắng hỏi.
Anh gật đầu, cảm thấy ấm lòng vì sự quan tâm của vợ.
“Hai đứa chỉ hơi nhớ nhà thôi.”
“Có lẽ từ mai vợ chồng mình nên để hai đứa ngủ trên gác.”
Lời đề nghị của chị khiến anh cảm động lắm, đôi mắt anh tràn ngập yêu thương. “Hai đứa là những cậu bé rất dũng cảm. Chúng sẽ học được cách ngủ một mình, có thế chúng mới rắn rỏi lên được,” anh nói.
Chẳng mấy chốc, cả làng Dukhi đã biết chuyện hai thằng con anh được học một nghề không phải nghề da. Hồi xưa, hình phạt dành cho tội vượt ra ngoài đẳng cấp của mình là tử hình. Dukhi được tha mạng, nhưng cuộc sống của anh từ đó càng muôn phần nhọc nhằn. Anh không còn được phép lấy xác súc vật nữa, và phải lặn lội tới những nơi rất xa xôi để tìm việc. Thỉnh thoảng anh cũng được các bạn bè người Chamaar cho giấu ít da; nếu bị phát hiện, họ sẽ gặp lôi thôi to. Những món đồ anh chế được từ các mảnh da lậu này phải được mang bán ở những vùng xa, nơi không một ai biết chuyện về bố con anh.
“Sao mình lại đi chuốc khổ vào thân như thế,” gần như ngày nào Roopa cũng rên rỉ. “Công việc không, cơm gạo không, con cái cũng không. Tôi đã làm gì nên tội, để bị giời đày như thế này? Đời tôi đã vĩnh viễn biến thành đêm đen mất rồi.”
Nhưng suy nghĩ của chị sáng sủa dần khi ngày bọn trẻ về thăm nhà đến gần. Chị mơ mộng và tính toán, nỗi đau trong tim dần nguôi ngoai, thay vào đó là ước muốn kiếm được món gì đó ngon lành thết con. Và nếu thứ đó nằm ngoài khả năng của anh chị, chị quyết tâm phải kiếm nó về theo cách không tốn một đồng xu cắc bạc nào, trong bóng đêm.
Lần đầu tiên kể từ khi bọn trẻ ra đời, Dukhi chịu nhận mình có biết những chuyến đi đêm của vợ. Sau nửa đêm, nghe tiếng vợ rón rén trở dậy, anh bèn nói: “Này, mẹ thằng Narayan, tôi nghĩ mình không nên đi đâu.”
Roopa nhảy dựng lên. “Ối trời, mình làm tôi sợ hết hồn!
Tôi cứ tưởng mình đang ngủ!”
“Làm liều thế là ngu lắm.”
“Trước mình có nói thế bao giờ đâu.”
“Lúc đó khác. Thiếu tí bơ hay quả đào hay ít đường thì con mình cũng có chết đói đâu mà lo.”
Roopa vẫn đi, trong bụng tự hứa rằng đó sẽ là lần cuối cùng. Nói gì thì nói, hai thằng con chị đã vắng nhà những ba tháng, chị cũng phải có thứ gì đặc biệt để đãi con chứ.
Đến cái ngày đã được trông ngóng từ lâu, Dukhi rời nhà từ mờ sáng và đón hai con về nhà chơi một tuần. Hai thằng bé ngồi sát sạt bên bố, không thôi rờ mó bố trong suốt chuyến đi, mỗi đứa tì một bên người bố, Narayan ôm cứng lấy gối bố, còn Ishvar túm chặt cánh tay. Chúng nói luôn mồm, rồi tua lại một lượt cho mẹ nghe khi vừa về đến nhà vào lúc chiều muộn.
“Cái máy kì diệu lắm ấy,” Ishvar nói. “Cái bánh xe to…”
“Mẹ phải đưa chân thế này, thế này này,” Narayan vừa nói vừa phất phất hai bàn tay, vờ làm cái bàn đạp, “thế là kim nhảy lên nhảy xuống, hay lắm…”
“Con đạp nhanh cực, nhưng Chú Ashraf đạp thì cực cực nhanh luôn.”
“Con thích cả cái kim bé tí nữa, có ngón tay con đưa, nó đi vào đi ra tấm vải êm ru, nó nhọn lắm, có lần nó còn đâm vào ngón tay cái của con nữa cơ.”
Mẹ chúng lập tức đòi xem ngón tay cái. Khi đã an tâm rằng vết thương không có gì nghiêm trọng, chị mới để con kể chuyện tiếp. Đến giờ cơm tối, hai anh em đã mệt phờ, và ngủ gục ngay trên mâm. Roopa lau tay và mồm cho con, còn Dukhi dẫn chúng vào chiếu.
Suốt một lúc lâu, hai vợ chồng chỉ say sưa nhìn con ngủ rồi mới trải chiếu của mình ra.
“Trông hai đứa béo tốt khỏe khoắn chưa kìa,” chị nói. “Cứ nhìn má chúng nó mà xem.”
“Tôi chỉ mong không phải cái kiểu phù bệnh,” Dukhi nói. “Giống như bọn trẻ con những đận đói ăn hay bị ỏng bụng ấy.”
“Mình nói linh tinh cái gì vậy? Con cái có khỏe hay không thì người làm mẹ như tôi nhìn là biết ngay.” Nhưng chị hiểu mối ngờ vực của anh nảy sinh từ nỗi phẫn uất, bởi khi ở với người ngoài, hai thằng con họ lại ăn ngon ngủ khỏe hơn khi ở nhà; chị hiểu niềm tủi hổ của anh lắm chứ. Họ đi ngủ, trong lòng mừng rỡ pha lẫn buồn rầu.
Không khí hân hoan của cả gia đình lại tiếp diễn vào sáng hôm sau. Hai anh em mang về theo một cuộn thước dây, một tờ giấy trắng, và một cây bút chì lấy ở Hiệu may Muzaffar, và đòi đo cho bố mẹ. Ashraf đã dạy chúng những kí hiệu dành cho những từ được dùng thường xuyên như cổ, eo, ngực, và tay áo.
Hai cậu bé không với cao được, nên có lúc hai vị khách phải cúi xuống hoặc ngồi trên sàn mới đo được: đầu tiên là mẹ, rồi đến bố. Trong khi hai đứa đang mải ghi lại số đo của Dukhi, Roopa đã kịp chạy sang các nhà xung quanh để gọi bạn bè sang xem. Ishvar ngượng, chỉ cười thẹn thò, còn Narayan rũ tung cuộn thước dây, cử chỉ cũng khoa trương hơn hẳn, xem ra rất thú vì được mọi người chú ý.
Khi chúng đo xong, ai nấy hoan hô ầm ĩ. Đến tối, Dukhi bèn mượn tờ giấy để mang ra gốc cây bên bờ sông khoe bạn. Anh giắt nó theo bên mình luôn suốt cả tuần đó.
Rồi cũng đến lúc hai cậu bé phải trở lại Hiệu may Muzaffar. Tâm trí hai vợ chồng lại ngập trong nỗi sợ hãi trước cảm giác trống trải sắp bao trùm lên cuộc sống của họ, ngôi lều của họ. Ishvar xin lại bố tờ giấy ghi các số đo.
“Cho bố giữ không được à?” Dukhi hỏi. Hai cậu bé cân lên đặt xuống lời đề nghị của bố một lúc, rồi lục lọi mãi cũng kiếm được một mẩu giấy để chép lại các số đo, nhờ vậy bố chúng lại được cầm bản gốc.
Ba tháng nữa trôi qua, rồi cũng đến chuyến thăm nhà tiếp theo. Lần này, hai anh em mang cả quà về cho bố mẹ. Ishvar và Narayan đã hẹn trước với nhau, là sẽ đánh lừa bố mẹ một phen, bảo rằng hai đứa đã mua quà ở một cửa tiệm lớn trên thị trấn, y như những nhà giàu trên đó.
“Cái gì thế này?” Roopa hoảng hốt kêu lên. “Các con lấy tiền đâu mà mua?”
“Mẹ, không phải bọn con mua đâu! Bọn con tự may đấy!” Narayan nói, quên bẵng mất trò đùa nho nhỏ của hai anh em. Ishvar hào hứng kể chú Ashraf đã giúp chúng chọn và ghép những mảnh còn thừa lại trong số vải dùng may đồ cho khách như thế nào. Chiếc áo vét cho bố khá dễ xử; vì có vô khối mẩu vải pô-pơ-lin trắng còn thừa. Cái áo choli cho mẹ lại cần tính toán tỉ mỉ hơn một chút. Một mẩu vải in hoa đỏ và vàng được lấy làm mặt trước áo. Mặt sau màu đỏ sậm, còn ống tay được may từ một mảnh vải đỏ son.
Chiếc choli vừa mặc vào người, Roopa bật khóc. Ishvar và Narayan hốt hoảng nhìn sang bố, bố chúng bèn bảo mẹ khóc vì vui quá đấy thôi.
“Phải, mẹ vui quá!” Chị xác nhận lời chồng giữa những tiếng sụt sịt. Chị khuỵu gối xuống trước mặt chúng và lần lượt ôm lấy từng đứa, rồi ôm chầm cả hai đứa. Chị thấy Dukhi nhìn mình, và dẫn hai con ra chỗ anh. “Các con ôm bố đi,” chị nói, “hôm nay là một ngày rất đặc biệt.”
Chị quày quả rời khỏi lều, chạy đi tìm mấy người hàng xóm. “Padma! Savitri! Ra mà xem này! Amba với Pyari, hai chị cũng ra đây! Xem hai thằng con tôi mang gì về này!”
Dukhi toét miệng cười với hai thằng con. “Tối nay lại chả có cơm nước gì đâu. Cái choli mới sẽ làm mẹ chúng bay quên hết trời đất, thế nào bà ấy cũng mất cả ngày để khoe áo cho mà xem.” Anh vỗ vỗ lên ngực và sườn. “Cái áo này vừa vặn hơn hẳn cái cũ của bố. Vải cũng đẹp hơn nữa.” “Bố nhìn này, có cả túi nữa đấy,” Narayan nói.
Roopa và Dukhi mặc áo mới suốt cả tuần. Sau đó, khi hai thằng con trở lại trên thị trấn, chị cởi chiếc choli ra và đòi anh đưa cho cái áo vét.
“Để làm gì?” Anh hỏi.
“Để giặt.”
Song chị không chịu đưa trả anh khi áo đã khô. “Nhỡ mình làm rách hay gì đó thì sao?” Chị gấp gọn cả hai chiếc áo, lấy vải gai gói lại, và buộc dây thật chặt. Chị treo cái gói toòng teng trên trần lều, khỏi sợ nước lũ và chuột bọ.
Những năm tháng học việc của Ishvar và Narayan được đo bằng từng khoảng ba tháng một, nhờ có những tuần về thăm nhà nên cũng thấy bớt dài. Giờ hai anh em đã một mười tám, một mười sáu, khóa đào tạo đang tiến dần đến những ngày cuối, và họ sẽ rời Hiệu may Muzaffar vào một ngày nào đó sau mùa mưa. Gia đình Ashraf đã phình ra thêm – giờ họ có tới bốn đứa con gái: đứa bé nhất mới ba tuổi, đứa lớn nhất, tám. Mumtaz đặc biệt quan tâm tới kế hoạch của hai chàng học việc. Hai cậu càng sớm an cư lạc nghiệp, con chị càng chóng có thêm chỗ mà ở, chị nhẩm tính thế, dù rằng chị cũng quý mến hai chàng trai, họ kiệm lời, lại được việc.
Nguyện vọng của Narayan là mở tiệm riêng ở làng để may quần áo cho bà con lối xóm. Ishvar lại thiên về phương án ở lại thị trấn này hoặc tới một thị trấn khác, đi phụ việc ở hiệu của người khác. “Về làng chả kiếm được bao lăm đâu,” cậu nói. “Ai cũng nghèo. Ở tỉnh lớn bao giờ chẳng lắm việc hơn.”
Cùng thời gian đó, những cuộc bạo loạn rải rác khởi phát cùng những lời đồn đoán về độc lập ngày càng lan rộng khi Chiến dịch ly khai đất nước trở thành hiện thực. “Có lẽ tốt hơn hết các cháu cứ tạm thời ở yên một chỗ,” Ashraf nói, còn Mumtaz trợn mắt lườm chồng. “Bọn quỷ dữ vẫn chưa hoành hành ở thị trấn ta. Hàng xóm láng giềng hai cháu đã quen mặt cả, các cháu đã sống ở đây bao nhiêu năm rồi còn gì. Mà kể cả ở dưới làng vẫn yên ổn, thì giờ cũng không phải lúc mở tiệm.”
Ishvar và Narayan bèn nhờ người gửi lời cho bố mẹ, rằng hai cậu sẽ ở lại với Chú Ashraf đến khi nào thời kì hỗn loạn kết thúc. Roopa rầu rĩ vô cùng; mẹ con xa nhau bao nhiêu năm, nay ngày về lại bị trì hoãn thêm – khi nào các thần thánh mới rủ lòng thương mà chấm dứt hình phạt cho chị?
Dukhi cũng hụt hẫng lắm, nhưng đành chấp nhận đó là quyết định hợp lý nhất. Xung quanh họ đang xảy ra đủ chuyện rối ren. Những người lạ mặt thuộc một tổ chức Hindu, mặc áo sơ mi trắng quần ka ki, và huấn luyện các thành viên của mình duyệt binh đi khắp nơi như quân lính, đã đến tỉnh này. Họ mang theo những câu chuyện người Hồi tấn công người Hindu ở rất nhiều vùng trên khắp cả nước. “Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng để có thể bảo vệ chính mình,” họ nói. “Và cũng để báo thù cho mình nữa. Nếu chúng dám đánh đổ máu của những người anh em Hindu của chúng ta, đất nước này sẽ bị nhuộm đỏ bởi những dòng sông máu người Hồi.”
Ở làng Dukhi, dân số người Hồi rất ít ỏi, chẳng hại nổi ai, nhưng bọn địa chủ lại nhìn thấy cơ hội trong lời cảnh báo của những kẻ lạ mặt. Chúng bèn ra sức kích động dân làng chống lại mối hiểm họa tưởng tượng đang tồn tại trong cộng đồng của họ. “Tốt hơn hết là nên tiệt trừ mọi mầm họa Hồi giáo trước khi ta bị thiêu sống trong túp lều của chính mình. Chúng nó chẳng đã xâm lược chúng ta, đốt phá đền đài, cướp bóc của cải của ta từ hàng thế kỷ nay còn gì.”
Những người mặc sơ mi trắng quần ka ki nấn ná thêm mấy ngày, nhưng cũng chẳng gặp vận may với đại đa số dân chúng. Những người thuộc đẳng cấp thấp không mảy may suy suyển bởi luận điệu của mấy người kia. Xưa nay họ vẫn chung sống hòa bình với các hàng xóm láng giềng người Hồi. Vả lại, chỉ riêng việc giữ hồn với xác liền một khối đã khiến họ sức cùng lực kiệt rồi.
Vì thế, mọi mưu toan trục xuất người Hồi khỏi ngôi làng đều thất bại. Bỏ lại sau lưng những hiểm họa gớm ghê từ việc phải đối phó với những kẻ phản động, bao gồm cả tên phản động đầu sỏ, Mohandas Karamchand Gandhi[25], những người của tổ chức Hindu lại tiếp tục lên đường. Những vùng đông dân cư, lắm cửa hàng cửa hiệu, buôn bán sầm uất sẽ cho họ nhiều cơ may thành công, và cả chiếc áo choàng của trạng thái ẩn danh chốn thành thị để ẩn náu, đó là mảnh đất màu mỡ cho những tin vịt cùng lời đồn sinh sôi nảy nở. Tối tối, Dukhi cùng bạn bè bàn tán về tình hình thời sự bên bờ sông. Ai nấy đều hoang mang trước đủ mọi nguồn tin bay đến tai mình về các sự kiện xảy ra ở những làng mạc thị trấn xa xôi.
“Bọn địa chủ lúc nào cũng đối xử với chúng ta như súc vật.”
“Còn tệ hơn súc vật ấy chứ.”
“Nhưng nếu những tin đó chính xác thì sao? Nhỡ bọn người Hồi kéo đàn kéo lũ xuống càn quét làng ta như mấy lão quần ka ki bảo thì sao?”
“Trước giờ bọn họ có có bao giờ làm gì phiền đến ta đâu. Cớ gì bây giờ họ lại sinh sự? Sao chúng ta phải đánh đuổi họ chỉ vì người ngoài đến đây đơm đặt chuyện nọ chuyện kia cơ chứ?”
“Phải, tự nhiên tất cả bọn ta lại trở thành những người anh em Hindu, kể cũng lạ thật.”
“Người Hồi còn đối xử với ta giống những người anh em hơn bọn Bà la môn với lũ chúa đất chó chết.”
Song những câu chuyện tiếp tục nhân lên: có người đã bị đâm trong chợ trên thị trấn; một nhà tu hành bị chém đến chết ở một bến xe buýt; một khu dân cư bị san bằng. Không khí căng thẳng lan ra toàn tỉnh. Chuyện nào cũng có vẻ đáng tin cậy, vì nó mô phỏng chính xác những gì người ta thấy trên báo chí trong những ngày qua: tin tức về những cuộc đốt phá và bạo loạn ở các thị trấn và thành phố lớn; về hành hung và giết chóc ở khắp nơi; về làn sóng hoán đổi dân cư rộng lớn và khủng khiếp đang xảy ra trên đường biên giới mới.
Những cuộc giết chóc phát sinh từ khu dân nghèo của thị trấn, và dần lan rộng; đến ngày hôm sau, chợ búa đã vắng tanh. Chẳng còn tí rau quả nào để mua, những người bán sữa cũng án binh bất động, còn cửa hàng bánh duy nhất trong thị trấn do một người Hồi làm chủ đã bị đốt trụi.
“Lúc này bánh mì còn hiếm hơn vàng,” Ashraf nói. “Loạn quá. Những người này đã chung sống với nhau biết bao nhiêu đời nay, cùng cười cùng khóc. Thế mà giờ lại thành ra nồi da xáo thịt.” Hôm ấy anh không động tay làm gì hết, chỉ đứng hàng giờ liền nhìn trân trối ra con phố hoang vắng bên ngoài ngưỡng cửa, như thể đang chờ thứ gì đó rất khủng khiếp hiện hình.
“Chú Ashraf, cơm dọn ra rồi đấy ạ,” Narayan nói, để đáp lại cử chỉ ra hiệu của chị Mumtaz. Cả ngày nay chồng chị chưa ăn gì. Chị chỉ mong anh chịu vào ăn tối cùng cả nhà.
“Có chuyện này anh phải nói với em,” anh nói với chị Mumtaz. “Và cả hai cháu nữa,” anh quay sang Ishvar và Narayan.
“Anh vào đi, cơm dọn ra rồi, để sau hẵng nói chuyện,” chị nói. “Hôm nay chỉ có cháo đậu với bánh chapati thôi, nhưng ít ra anh cũng phải ăn lấy một tí.” Đoạn chị bắc chiếc nồi trên bếp xuống.
“Anh không đói. Em với các con cứ ăn đi,” Ashraf vừa nói vừa lùa bốn đứa con về phía mâm cơm. Cả mấy đứa đều ngập ngừng, chúng đã nhận thấy thái độ lo lắng của bố mẹ. “Cả hai cháu nữa, ra đi.”
“Tôi khổ công nấu nướng là thế mà ngài hoàng thân-quốc thích chẳng chịu động đến một ngón tay vào bữa tối,” chị Mumtaz rên rỉ.
Với tâm trạng hiện thời của anh, câu than thở thường ngày của chị bỗng thành ra ngoa ngoắt đảnh ác. Anh sẵng mồm quát chị, một việc anh hiếm khi làm. “Thế cô bảo tôi phải làm gì nếu tôi không đói? Buộc đĩa vào bụng chắc? Thỉnh thoảng nói cũng phải nghĩ chứ!” Hai đứa bé nhất khóc òa lên. Khuỷu tay một đứa huých đổ cả cốc nước.
“Chắc anh hài lòng lắm nhỉ,” chị Mumtaz vừa lau vũng nước đổ, vừa khinh khỉnh nói. “Định hò hét để dọa tôi chắc. Để tôi nói cho anh hay, trò đấy chỉ dọa được mấy đứa trẻ ranh thôi.”
Ashraf bèn ôm hai đứa bé con đang khóc thút thít vào lòng. “Nào, nào, nín đi. Đây, bố con mình cùng ăn nhé.” Anh lấy thức ăn từ đĩa của mình bón cho chúng, rồi cũng đút một mẩu vào miệng mình khi hai đứa chỉ vào đó. Chẳng mấy chốc, nó đã biến thành một trò chơi mới, thế là bọn trẻ vui hẳn lên.
Bữa tối kết thúc chóng vánh, và Mumtaz bèn mang nồi cùng muôi ra ngoài vòi nước để rửa. Ashraf bèn ngăn chị lại. “Anh đã định nói một chuyện trước bữa cơm, trước cả khi em la lối anh.”
“Giờ em nghe đây.”
“Đấy là chuyện về cái này… về cái đang xảy ra khắp nơi.”
“Cái gì cơ?”
“Em lại muốn anh nói toẹt ra ngay trước mặt bọn trẻ ư?” Anh thì thào bằng giọng gay gắt. “Sao em cứ giả ngu giả đần thế? Sớm muộn gì tai vạ cũng kéo đến đây. Dù có chuyện gì xảy ra, hai cộng đồng người sẽ chẳng thể nào hòa hảo được như xưa nữa.”
Thấy Ishvar và Narayan lắng tai nghe, mặt lộ vẻ hoang mang, anh vội đế thêm: “Chú không bảo chú cháu mình đâu. Lúc nào chúng ta cũng như một gia đình, dù mỗi người có đi một ngả đi nữa.”
“Nhưng Chú Ashraf ơi, chúng ta đâu cần phải xa nhau,”
Narayan nói. “Cháu với anh Ishvar đã định đi đâu.”
“Đúng, chú biết. Nhưng Thím Mumtaz cùng các em và chú, bọn chú phải đi thôi.”
“Ông hoàng thân-quốc thích dở hơi khốn khổ nhà tôi phát điên thật rồi,” chị Mumtaz kêu lên. “Lại muốn đi cơ. Với bốn đứa con lít nhít ư? Anh muốn đi đâu?”
“Đến nơi tất cả những người khác đang đến. Sang bên kia biên giới. Em tính làm gì? Ngồi đây chờ bọn thù địch và mất trí kéo đến với gươm giáo, gậy gộc và dầu hỏa chăng?”
Chị Mumtaz một hai kêu rằng chồng đang xử sự như một lão già ngớ ngẩn. Nhưng anh từ chối không để chị hưởng chút thư thái bằng việc quay lưng lại với hiểm nguy. Anh thà tranh luận với chị suốt cả đêm, anh bảo, còn hơn vờ như mọi sự vẫn bình thường.
“Anh sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ gia đình này. Sao em có thể mù quáng đến vậy? Anh sẽ túm tóc lôi em ra nhà ga, nếu cần phải làm thế.” Nghe bố dọa mẹ, bọn trẻ lại òa lên khóc như ri.
Chị nhấc vạt dupatta lên chùi nước mắt, và tiêu hủy mọi ý định phản kháng lại kế hoạch của chồng. Trường hợp này không phải là mù quáng không nhìn thấy hiểm nguy nữa – người ta có thể đánh hơi thấy mùi nguy hiểm dù cách xa hàng dặm, chồng chị nói đúng. Chỉ có điều, gỡ bỏ tấm khăn bịt mắt thật quá khó khăn, chính bởi những gì chị sẽ nhìn thấy.
“Nếu chúng ta đi gấp, sẽ không thể mang nhiều đồ theo được,” chị nói. “Quần áo, một cái bếp, vài cái nồi. Em sẽ đi gói ghém đồ đạc luôn.”
“Đúng, đến mai là phải chuẩn bị xong xuôi rồi,” Ashraf nói. “Những đồ đạc còn lại cứ để lại cửa hiệu rồi khóa kĩ vào. Nếu Thánh Allah phù hộ, rồi sẽ có ngày ta trở về đây và lấy lại tất cả.” Anh bèn gọi bọn trẻ đi ngủ. “Đi đi các con, tối nay cả nhà phải ngủ sớm. Ngày mai chúng ta sẽ lên đường cho một chuyến đi rất dài.”
Narayan cảm thấy không thể chịu đựng nổi việc nghe hay nhìn những công đoạn chuẩn bị lích kích của hai vợ chồng.
Cậu ngờ rằng dù mình có nói thêm vào chắc cũng chẳng thay đổi được gì. Vờ như mình đang xuống cửa hiệu, cậu lẻn ra sau nhà, chạy sang nhà hàng xóm và kể cho anh ta nghe về cuộc trốn chạy đã được lên kế hoạch sẵn.
“Chú ấy quyết thế thật à?” Người chủ tiệm kim khí kêu lên. “Sáng nay lúc bọn chú nói chuyện với nhau, chú ấy chả đồng tình là ở khu này chẳng có gì phải lo lắng còn gì.”
“Giờ chú ấy nghĩ khác rồi.”
“Đợi tí, chú sẽ sang gặp chú ấy ngay đây.”
Anh ta chạy đi gọi anh bán than, chủ tiệm tạp hóa, chủ xưởng xay xát, và họ gõ cửa nhà Ashraf. “Xin lỗi vì đến giờ này còn quấy quả anh. Chúng tôi vào được không?”
“Được chứ. Các anh ăn gì không? Hay uống gì đó nhé?”
“Thôi, cảm ơn anh. Chúng tôi đến vì vừa biết một tin khiến chúng tôi đau đớn vô cùng.”
“Là chuyện gì thế, chuyện gì?” Ashraf bàng hoàng, không hiểu có phải người thân của ai đó trong số này đã bị thương hoặc chết do bạo loạn không. “Tôi giúp gì được không?”
“Có, có chứ. Anh có thể bảo chúng tôi đấy không phải sự thực.”
“Cái gì không phải sự thực cơ?”
“Là anh muốn bỏ chúng tôi, bỏ mảnh đất nơi anh đã sinh ra và con cái anh đã sinh ra. Đấy là nguồn cơn nỗi đau đớn của chúng tôi.”
“Các bạn đều là người tốt.” Đôi mắt Ashraf bắt đầu nhòa đi. “Nhưng quả thực, tôi không còn cách nào khác.”
“Ngồi xuống đây với chúng tôi và suy nghĩ thật bình tĩnh mà xem,” người chủ hiệu kim khí nói, đoạn khoác tay lên vai Ashraf. “Tình hình đang rất tệ, quả có thế thật, nhưng họa có điên mới một hai đòi ra đi.”
Những người kia đều gật gù đồng tình. Anh bán than đặt tay lên đầu gối Ashraf. “Hàng ngày các đoàn tàu vượt qua đường biên giới mới, chở theo rặt những xác chết. Người bỏ mối hàng cho tôi vừa từ miền bắc xuống đây hôm qua, chính mắt anh ta đã trông thấy. Tàu hỏa bị chặn ở ga và hành khách trên tàu đều bị giết sạch. Ở cả hai phía biên giới đều thế.”
“Vậy tôi biết phải làm gì bây giờ?”
Nỗi tuyệt vọng trong giọng nói của anh lại kéo cánh tay người chủ hiệu kim khí lên vai anh lần nữa. “Ở lại đây. Ở đây anh có bạn bè. Chúng tôi sẽ không để chuyện gì xảy ra với gia đình anh. Trong khu ta ở làm gì có chỗ nào lộn xộn đâu? Xưa nay chúng ta vẫn sống yên ổn ở đây kia mà.”
“Nhưng nhỡ bọn quấy rối từ nơi khác kéo đến đây thì sao?”
“Hiệu của anh là cửa hàng Hồi duy nhất trên phố này. Anh nghĩ ngần này người chúng tôi mà không bảo vệ được một cửa hiệu sao?” Họ ôm anh, cam đoan rằng anh không phải lo sợ gì cả. “Bất kì lúc nào anh muốn, ngày hay đêm, nếu anh lo lắng về bất cứ điều gì, cứ dẫn cả vợ lẫn con sang nhà chúng tôi.”
Khi mấy người hàng xóm đã ra về hết, Narayan bỗng nảy ra một ý. “Chú này, cái biển hiệu ngoài cửa, Hiệu may Muzaffar ấy. Ta có thể thay bằng một cái biển khác.” “Để làm gì?” Ashraf hỏi.
Narayan ngập ngừng không dám nói. “Một cái biển mới…”
Ashraf lập tức hiểu ra. “Phải rồi, với một cái tên mới. Một cái tên Hindu. Ý hay lắm.”
“Ta hãy làm ngay đi thôi,” Ishvar nói. “Cháu có thể lấy một tấm bảng mới từ xưởng gỗ của chú chú. Cháu lấy xe đạp đi được không?”
“Được chứ. Nhưng cẩn thận đấy, đừng đi qua mấy khu người Hồi.”
Một tiếng sau, Ishvar trở về tay không mà chưa tới được nơi cần đến. “Rất nhiều nhà cửa và cửa hiệu bị đốt. Cháu vẫn đi tiếp, thật chậm, thật chậm. Thế rồi cháu nhìn thấy vài người cầm rìu. Họ đang xả xác một người đàn ông. Cháu sợ quá, phải quay về.”
Ashraf bủn rủn ngồi phệt xuống. “Cháu làm thế là khôn lắm. Chúng ta biết làm sao bây giờ?” Anh quá sợ hãi, không nghĩ nổi điều gì.
“Cớ sao ta phải kiếm tấm bảng mới?” Narayan nói. “Ta có thể dùng mặt sau của tấm bảng cũ. Chỉ cần ít sơn là xong.”
Cậu lại chạy sang nhà hàng xóm, và người chủ hiệu kim khí bèn cho cậu mượn một hộp sơn xanh đã mở sẵn. “Ý hay đấy,” anh ta nói. “Cháu định viết tên gì?”
“Tiệm may Krishna, cháu nghĩ thế,” Narayan đáp hú họa.
“Màu xanh da trời sẽ rất hợp đấy.” Anh ta chỉ về phía chân trời, nơi khói cùng một vầng sáng đỏ ối trùm phủ bầu trời. “Chú nghe nói đó là xưởng gỗ. Nhưng đừng kể cho chú Ashraf biết vội.”
Đến khi họ tô xong dòng chữ và treo lại tấm biển thì trời đã khuya. “Trên nền gỗ cũ này màu sơn trông mới lắm,” Ashraf bảo.
“Cháu sẽ lấy một nhúm tro xoa lên đó,” Ishvar nói. “Sáng mai, khi sơn đã khô.”
“Nếu cả nhà ta chưa bị thiêu ra tro trong lúc đang ngủ,” Ashraf nói nhỏ. Cảm giác an toàn mong manh dệt từ những lời cam đoan của các bạn hàng xóm đã bắt đầu bung sợi sổ mối.
Nằm trên giường, từng tiếng động trong đêm tối đều là hiểm nguy đang mò tới rình rập gia đình anh, cho đến khi anh nhận diện được nó chỉ là thứ gì đó hết sức vô hại. Anh định hình lại những thanh âm đã cùng anh chìm vào giấc ngủ suốt bao năm cuộc đời. Tiếng đập chõng thình thịch của anh bán than, anh này thích ngủ ngoài trời, chỗ sân sau (tối nào anh ta cũng đập chõng để rũ sạch các loại rận rệp bọ kiến). Tiếng loảng xoảng phát ra từ cánh cửa tiệm tạp hóa được khóa lại khi đêm xuống; phồng rộp và dấp dính, nó cần một cánh tay khỏe mạnh. Tiếng lanh canh của xô chậu nhà nào đó – Ashraf chưa bao giờ biết được là nhà ai, và họ đang làm gì vào lúc khuya khoắt thế này.
Đâu đó sau nửa đêm, anh giật mình nhỏm dậy, mò mẫm bước xuống cửa hàng và bắt đầu gỡ ba bản in câu trích trong kinh Koran được đóng khung treo trên bức tường phía sau bàn cắt vải. Bị đánh động bởi tiếng người lọ mọ trong bóng tối, Ishvar và Narayan cùng rùng mình tỉnh giấc, và bật đèn lên.
“Không có gì đâu, các cháu cứ ngủ tiếp đi,” anh nói. “Đột nhiên chú nhớ ra mấy cái tranh này.” Sơn ở khoảng tường treo mấy bức tranh sậm màu hơn hẳn. Ashraf lấy chiếc giẻ ướt, cố chùi đi cho khỏi vênh màu song không ăn thua.
“Bọn cháu có cái này có thể trám vào chỗ đó,” Narayan nói. Cậu lôi rương đồ của hai anh em cất dưới gầm bàn cắt vải ra và tìm thấy ba bức tranh dán bìa các tông có đính mấy vòng dây nhỏ để treo lên. “Ram và Sita, Krishna, và Laxmi.”
“Đúng rồi, được đấy,” Ashraf nói. “Còn ngày mai chúng ta sẽ đốt hết mấy tờ báo với tạp chí tiếng Urdu nữa.”
Tám rưỡi sáng, Ashraf mở cửa hàng như mọi khi. Anh bỏ chiếc khóa móc trên cửa xếp bằng thép ở phía ngoài, nhưng không kéo cửa ra. Cánh cửa gỗ phía trong được mở he hé. Cũng như hôm trước, phố xá vắng tanh.
Lúc chừng mười giờ, con trai anh bán than gọi vọng vào qua ô cửa thép. “Bố sai cháu sang hỏi xem cô chú có cần mua gì ngoài chợ không, nếu chợ mở cửa. Bố cháu bảo tốt hơn hết cô chú đừng ra ngoài.”
“Cầu trời phù hộ cho con, con trai,” chị Mumtaz nói, “có, một ít sữa, nếu có, cho bọn trẻ con. Và rau, loại nào cũng được – vài củ khoai tây hoặc hành, bất cứ thứ gì cháu tìm thấy.”
Sau mười lăm phút, cậu bé trở lại tay không; ngoài chợ không có lấy một mống người. Một lát sau, người bán than gửi sang một bình sữa vắt từ con bò nhà anh ta. Mumtaz đành phải cậy đến số bột mì và đậu lăng ít ỏi còn sót lại trong nhà để nấu nướng cho cả ngày. Từ trước khi trời sẩm tối rất lâu, Ashraf đã khóa cửa xếp và cài kĩ chốt các cửa nẻo.
Đến bữa tối, hai đứa út ít đòi Ashraf cho ăn như hôm qua. “A, các con lại thích trò này rồi hả,” anh cười.
Cơm nước xong xuôi, Ishvar và Narayan đứng dậy để trở xuống tầng dưới, cho cả nhà chuẩn bị đi ngủ. “Cứ ngồi lại đây,” Ashraf nói, “dào, vẫn còn sớm mà. Không có khách khứa, quỷ dữ làm thời giờ trôi chậm ghê.”
“Từ mai tình hình sẽ khá lên,” Ishvar nói. “Thấy bảo quân đội sẽ sớm nắm quyền kiểm soát.”
“Cầu Thánh Allah phù hộ,” Ashraf vừa nói vừa nhìn đứa út chơi con búp bê bằng vải vụn anh làm cho nó. Con bé lớn đang đọc cuốn sách giáo khoa. Hai đứa còn lại tiêu khiển bằng những mẩu vải vụn, giả vờ chúng là thợ may váy. Anh bèn ra dấu gọi Ishvar và Narayan cùng quan sát những cử chỉ khoa trương của chúng.
“Hồi mới đến đây hai đứa cũng hay làm thế,” anh nói. “Hai đứa còn thích phất thước dây cho nó kêu vun vút nữa chứ.” Nhớ đến kỉ niệm đó, ba chú cháu bật cười, rồi lại chìm vào im lặng.
Bầu không khí im ắng bỗng bị phá vỡ bởi tiếng đập cửa thình thình lên cánh cửa hiệu may. Ashraf nhảy dựng lên, nhưng Ishvar kịp chặn anh lại. “Để cháu ra xem,” cậu nói.
Đứng từ ổ cửa sổ tầng hai, cậu nhìn thấy một nhóm hai, ba chục người đứng trên vỉa hè. Nhác thấy bóng người, chúng gào thét: “Mở cửa ra! Bọn tao muốn nói chuyện với mày!”
“Được rồi, đợi tí!” Cậu hét lại. “Chú nghe đây,” cậu thì thào, “cả nhà chú hãy sang nhà bên qua lối đi trên tầng hai, khẽ thôi. Cháu với Narayan sẽ cùng xuống.”
“Thánh Allah hỡi!” Mumtaz khẽ rên lên. “Lẽ ra chúng ta nên đi ngay khi có cơ hội! Anh nói đúng, chồng em ơi, thế mà em lại bảo anh ngu, em mới là con ngu vì đã không…”
“Im cái miệng lại rồi đi đi, mau lên!” Ashraf mắng. Một đứa bé gái bắt đầu sụt sịt. Mumtaz bèn ôm nó vào lòng và bảo nó nín. Ashraf dẫn cả nhà ra ngoài còn Ishvar cùng Narayan xuống cửa hàng. Tiếng đập dồn dập dữ dội, phát ra từ những vật cứng chọc qua mắt cửa xếp mà nện lên mặt cửa gỗ.
“Bình tĩnh nào!” Ishvar hét lớn, “để tôi mở khóa đã nào!”
Đám đông ngơi tiếng khi hai bóng người hiện lên qua cửa xếp. Đa số bọn chúng mang một món vũ khí thô sơ nào đó, một cây gậy hoặc một cây giáo; một số cầm gươm. Có vài gã mặc áo màu nghệ, tay lăm lăm đinh ba.
Thấy đám người lố nhố, Ishvar run bần bật. Trong một giây ngắn ngủi, cậu những muốn nói hết sự thật và nhường đường cho chúng. Hổ thẹn vì ý nghĩ đó, cậu mở khóa cửa xếp và kéo cánh cửa ra một chút. “Xin chào các anh em.” “Mày là ai?” Tên đứng phía trước hỏi.
“Bố tôi là chủ Hiệu may Krishna. Đây là em trai tôi.”
“Thế bố mày đâu?”
“Về quê rồi, có người họ hàng đang bị ốm.”
Bọn chúng chụm đầu bàn bạc một hồi, rồi tên cầm đầu nói: “Bọn tao nhận được tin đây là cửa hàng của bọn Hồi.”
“Hả?” Ishvar và Narayan đồng thanh la lên. “Đây là cửa hiệu của bố chúng tôi suốt hai chục năm nay rồi đấy!”
Phía sau đám đông rộ lên tiếng cằn nhằn. Khỏi cần hỏi han lôi thôi! Đốt đi! Rõ ràng đây là cửa hàng của bọn Hồi! Đốt đi! Cả những đứa dám nói dối để bao che cho nó nữa – thiêu sống chúng luôn đi!
“Có khi nào có người Hồi làm trong cửa hàng không?” Tên cầm đầu hỏi.
“Làm ăn chán lắm, nhà tôi có cần thuê thêm người đâu,” Ishvar đáp. “Còn chả đủ việc cho hai anh em tôi làm nữa là.” Cả lũ ùa lên cạnh chỗ cậu đứng, cố nghển cổ nhòm vào trong cửa hàng. Tên nào tên nấy thở phì phò, cậu ngửi thấy cả mùi mồ hôi của chúng. “Xin mời, các anh muốn xem xét bao nhiêu tùy thích,” cậu nói, đoạn né sang một bên. “Chúng tôi chả có gì phải giấu cả.”
Đám người ngó nghiêng bốn phía rất nhanh, ngắm nghía hình các vị thần Hindu treo trên bức tường phía sau bàn cắt vải. Một tên mặc áo màu nghệ bước lên phía trước. “Nghe tao nói đây, thằng lỏi. Nếu mày nói dối, tao sẽ tự tay xiên chả mày bằng ba mũi dùi trên cái đinh ba của tao đây.”
“Sao tôi phải nói dối làm gì?” Ishvar nói. “Tôi cũng giống anh. Anh tưởng tôi thích chết để cứu một thằng người Hồi chắc?”
Bên ngoài cửa hàng lại rộn lên tiếng bàn bạc. “Bước ra vỉa hè và cởi pyjama ra,” tên cầm đầu ra lệnh. “Cả hai đứa.”
“Hả?”
“Nào, mau lên! Không thì chúng mày sẽ chả cần đến pyjama nữa đâu!”
Bọn đứng hàng dưới tỏ vẻ sốt ruột. Chúng dận giáo xuống đất và gào thét đòi châm lửa đốt cửa hàng. Ishvar và Narayan bèn ngoan ngoãn cởi pyjama ra.
“Tối quá, chả thấy gì cả,” tên cầm đầu nói to. “Đem cho tao cái đèn lồng ra đây.” Đèn được chuyển lên từ phía sau đám người. Gã cúi thấp xuống, dí sát nó lại gần hai cái bẹn trần trụi, và gật gù hài lòng. Những tên còn lại bu thành vòng tròn để xem cùng. Cả bọn đồng tình là cả hai cái bao quy đầu đều còn nguyên vẹn.
Đúng lúc ấy, người chủ tiệm kim khí mở toang cánh cửa sổ tầng hai và gào lên: “Cái gì đấy? Sao bọn mày dám bắt nạt hai thằng bé Hindu thế kia? Chúng mày cạn vốn dân Hồi rồi à?”
“Thế mày là thằng nào?” Bọn kia quát lại.
“Tao là thằng nào ấy à? Tao là bố là ông chúng mày đây! Đấy, tao đấy! Tao còn là chủ cái hiệu kim khí này nữa! Chỉ cần tao hô một tiếng, cả phố này sẽ cùng hợp lại làm một để xay thịt cả lũ chúng mày! Chúng mày hết chỗ để đi rồi à?”
Tên cầm đầu cảm thấy nhận một lời thách thức như thế thật không đáng. Cả bọn kéo nhau bỏ đi, mồm văng đủ thứ tục tĩu cho đỡ mất mặt. Chúng quay ra cự cãi lẫn nhau vì một đêm xôi hỏng bỏng không và cái tin thất thiệt đã biến chúng thành một lũ dở người.
“Diễn đạt lắm,” người chủ tiệm kim khí vừa nói, vừa vỗ đồm độp lên lưng Ishvar và Narayan. “Chú đứng trên gác nhìn thấy hết. Hầy, chỉ cần hai đứa hơi có vẻ gặp nguy hiểm, chú sẽ gọi tất cả mọi người ra giúp ngay. Nhưng chú nghĩ tốt hơn hết không nên để xảy ra đụng độ. Các cháu thuyết phục bọn nó, để bọn nó rút êm là hay hơn cả.”
Mumtaz quỳ sụp xuống trước mặt hai chàng trai học việc. Chiếc dupatta của chị từ trên cổ rơi tuột xuống, phủ kín chân họ. “Ấy, thím đừng làm như thế,” Ishvar kêu lên, đoạn lùi lại.
“Cả đời này, kiếp này, mạng thím, con cái thím, mạng chồng thím, nhà thím – tất cả, thím nợ hai đứa!” Chị bám chặt lấy họ mà khóc nức nở. “Thím biết lấy gì đền ơn các cháu đây!”
“Xin thím đứng dậy đi,” Ishvar van vỉ, tay cậu nắm chặt cổ tay chị, cố kéo chị dậy.
“Từ rày trở đi, ngôi nhà này cũng là nhà của hai cháu, miễn là hai cháu ban cho chú thím vinh dự được thấy sự hiện diện của các cháu!”
Mãi rồi Ishvar cũng gỡ được cổ chân mình khỏi tay chị. “Thím à, thím có khác gì mẹ cháu đâu, chúng ta đã cùng ăn cùng ở suốt bảy năm nay rồi còn gì.”
“Nếu Thánh Allah phù hộ, hai cháu sẽ cùng ăn cùng ở với chú thím thêm bảy chục năm nữa.” Vẫn giọt vắn giọt dài, chị vắt vạt dupatta lại quanh cổ, và nhấc chéo vải lên lau nước mắt.
Ishvar và Narayan trở lại tầng dưới. Khi mấy đứa trẻ đã đi ngủ cả, Ashraf cũng xuống theo. Hai anh em vẫn chưa trải chiếu ra ngủ. Ba người ngồi im lặng mất vài phút. Rồi Ashraf nói: “Ôi, lúc bên ngoài có tiếng đập cửa, chú cứ nghĩ cả nhà ta thế là xong đời rồi.”
“Cháu cũng sợ chết khiếp,” Narayan nói.
Khoảng im lặng tiếp theo kéo dài hơn. Ashraf khẽ dặng hắng. “Chú xuống chỉ để nói một câu thôi.” Nước mắt chảy dài trên má anh; anh ngừng lại để chùi đi. “Cái ngày chú gặp bố các cháu – ngày chú bảo Dukhi đưa hai con anh ấy lên nhà chú học nghề thợ may. Đó là ngày may mắn nhất đời chú.” Anh ôm hai chàng trai, hôn lên má họ ba lần, rồi lên gác.
Ashraf không chịu để hai anh em trở về làng, chị Mumtaz cũng hết sức ủng hộ anh về khoản này. “Các cháu ở đây làm thợ phụ cho chú đi,” anh nói, dù anh thừa biết mình không kham nổi.
Roopa cự nự với Dukhi rằng đã đến lúc lôi hai thằng con về. “Mình gửi chúng nó lên học việc. Giờ nghề đã thành rồi, chúng còn sống với người lạ làm gì nữa? Bố mẹ ruột chúng nó nào đã chết đâu?”
Nhưng không ai có thể đoán được hai chàng Chamaarchuyển-sang-làm-thợ-may sẽ làm ăn ra sao ở làng. Quả tình, thời đại mới này tràn trề những hi vọng, nơi nơi rộn rã những đổi thay, và niềm lạc quan nảy nở cùng nền độc lập đang tỏa ngời. Thậm chí Ashraf còn vững dạ đến độ dám quay mặt biển ghi Hiệu may Krishna lại, để trưng lên Hiệu may Muzaffar như cũ.
Tuy nhiên, không ai dám chắc hàng thế kỉ phong hóa tập tục có thể bị lật đổ dễ dàng đến thế không. Vì vậy tất cả nhất trí rằng Ishvar sẽ ở lại làm thợ phụ cho Ashraf, còn Narayan về làng thử vận may. Như thế là đẹp cả đôi đường: Hiệu may Muzaffar cũng chỉ đủ lực nuôi một thợ phụ; Dukhi sẽ có thêm đồng ra đồng vào từ trên tỉnh gửi về; còn Roopa lại được đón con trai út trở về.
Chị dỡ cái gói đã treo toòng teng trên trần suốt bảy năm xuống. Nút dây buộc đã tóp lại đến độ không gỡ ra nổi. Chị cắt dây, giở lần vải gai bọc ngoài, rồi mang chiếc áo vét cùng cái choli ra giặt. Đã đến lúc diện chúng, chị bảo Dukhi, để ăn mừng ngày con trở về.
“Áo hơi rộng,” anh nói.
“Của tôi cũng vậy,” Roopa nói. “Chắc vải bị dão.”
Anh thích cách lý giải của chị. Nghĩ thế dễ chịu hơn là nghiền ngẫm lại những năm tháng đói khổ đã khiến cả hai vợ chồng teo tóp.
Ở làng, cộng đồng người Chamaar ngấm ngầm hãnh diện về Narayan. Dần dà, họ đánh bạo trở thành khách hàng của cậu, dù Narayan chẳng thu được mấy đồng từ đó vì bà con hiếm khi có tiền may sắm món gì mới. Quần áo người đẳng cấp cao vứt đi giúp che thân họ. Chủ yếu cậu chỉ sửa sang, vá víu lại đồ. Cậu dùng chiếc máy may quay tay cũ chú Ashraf kiếm cho. Nó chỉ may được đường thẳng, nhưng cũng đủ cho công việc cậu làm.
Tình hình làm ăn khá khẩm hơn khi tin đồn lan đi các làng mạc lân cận về chàng trai đã làm một việc không ai dám nghĩ tới: bỏ da theo vải. Họ tìm đến vừa để xem chàng thợmay-Chamaar can đảm nọ (thợ-may mà đi với Chamaar, nghe tên thôi đã thấy phi lý), vừa để mướn anh ta chăm chút cho quần áo của mình. Nhiều người hơi thất vọng với cuộc thăm viếng. Bên trong ngôi lều chả có gì ghê gớm, chỉ là một chàng trai trẻ, thước dây vắt quanh cổ, bút chì gài trên tai.
Narayan ghi sổ các công việc và giao dịch y như chú Ashraf đã dạy, trong đó có tên khách, ngày tháng, và số tiền nợ. Roopa tự bổ nhiệm cho mình nhiệm vụ quản lý công việc làm ăn, chị đứng bên cạnh ra chiều quan trọng khi con đo đạc cho khách và nhập số đo vào sổ. Chị vót nhọn bút chì cho con bằng con dao vát mũi. Chị không đọc được sổ sách của con song lại ghi nhớ rất rõ mọi khoản tiền nong trong đầu. Khi có người chưa thanh toán xong công xá cho phần việc trước đó song lại mang thêm việc mới đến, chị thường đứng sau lưng khách và vê vê mấy đầu ngón tay để nhắc con.
Một buổi sáng, chừng sáu tháng sau ngày Narayan trở về làng, có một người Bhunghi mon men tiến lại gần ngôi lều. Roopa lúc ấy đang đun nước trên đống lửa nhóm ngoài trời, sung sướng lắng nghe tiếng lách cách rè rè của chiếc máy may, thì thấy anh chàng kia rón rén bước tới. “Mày tưởng mày đang đi đâu thế?” Chị quát lớn, khiến người đàn ông đứng khựng lại.
“Nhà cháu kiếm bác Narayan thợ may ạ,” anh kia đáp, tay rụt rè giơ lên mấy miếng giẻ rách.
“Sao cơ?!” Sự táo tợn của hắn khiến chị chết sững. “Thôi ngay mấy thứ thợ may thợ miếc vớ vẩn của mày đi! Tao chả lấy nồi nước sôi này dội lên bộ da bẩn thỉu của mày bây giờ! Con trai tao không may vá cho cái ngữ mày!”
“Mẹ! Mẹ làm gì thế?” Narayan kêu lên và lao ra khỏi lều, còn anh chàng kia quay lưng phi như tên. “Đợi, đợi đã!” Cậu hét với theo người kia. Sợ bở vía vì tưởng người ta đuổi theo đòi đánh, anh chàng Bhunghi co cẳng chạy càng gấp.
“Anh ơi, quay lại đi, không sao đâu!”
“Để khi khác,” anh chàng kinh hoảng hét vọng lại. “Có lẽ để mai đi.”
“Được rồi, tôi sẽ đợi anh,” Narayan nói. “Nhớ đến nhé.” Cậu quay bước trở về lều, lắc lắc đầu và tảng lờ mẹ, lúc ấy đang trừng mắt giận dữ nhìn cậu.
“Sao mày dám lắc đầu với mẹ!” Chị căm phẫn gào lên. “Mày bị làm sao thế, sao lại bảo nó ngày mai quay lại? Nhà ta không có qua lại với cái lũ đẳng cấp thấp đấy nhá! Sao mày có thể nghĩ đến chuyện đo cho một thằng chuyên đi chở cứt cho nhà người ta?”
Narayan im lặng. Sau vài phút làm việc, cậu ra ngoài, đến bên cạnh đống lửa. Ở đó, mẹ cậu vẫn đang quấy cơn thịnh nộ sôi sục trong nồi.
“Mẹ ạ, con nghĩ mẹ sai rồi,” cậu nói, giọng nhỏ nhẹ đến độ tiếng cậu cơ hồ tan biến vào ngọn lửa đang nổ lách tách. “Con nghĩ con nên may cho bất kì ai tìm đến con, dù là người Bà la môn hay Bhunghi.”
“Mày dám làm thế thật ư? Cứ chờ bố mày về, xem ông ấy nói thế nào! Bà la môn, được; Bhunghi, khỏi!”
Tối hôm đó, Roopa tố hết cho Dukhi biết tư tưởng quá quắt của con trai họ, thế là anh quay sang Narayan bảo: “Bố nghĩ mẹ con nói đúng đấy.”
Narayan buông thõng bàn tay đang nắm tay quay và phanh bánh xe máy may lại. “Tại sao bố lại gửi con đi học nghề may?”
“Cái thằng, hỏi dở hơi nhỉ. Để đời con khá lên, chứ còn sao nữa?”
“Phải. Bởi vì bọn người đẳng cấp cao đối xử với ta quá tàn tệ. Và giờ bố mẹ lại cư xử y như chúng. Nếu đó là điều bố mẹ muốn, thì con sẽ trở lên thị trấn. Con không thể sống tiếp như thế này được nữa.”
Roopa bàng hoàng trước cái tối hậu thư, và càng kinh hoảng hơn khi Dukhi quay sang chị mà bảo: “Tôi thấy con nói đúng đấy.”
“Bố thằng Ishvar, mình phải chọn đi chứ! Đầu tiên mình bảo tôi đúng, giờ mình lại kêu nó đúng! Sao mình cứ nghiêng bên nọ ngả bên kia như cái ấm không trôn thế! Cứ cho nó lên tỉnh cơ, giờ đã thấy hậu quả chưa! Quên tiệt quy củ ở làng rồi! Đến rước vạ vào thân mất thôi!” Lửa giận bốc ngùn ngụt, chị quày quả rời lều đi gọi Amba, Pyari, Padma, và Savitri đến nghe những chuyện rồ dại đang xảy ra trong gia đình bất hạnh của chị.
“Chết! Chết!” Savitri nói. “Khổ thân Roopa, chị ấy giận run cả người rồi.”
“Con cái thật là – Hai Ram,” Pyari tiếp lời, hai tay giơ lên trời. “Sao lại dễ quên lòng mẹ thế cơ chứ.”
“Biết làm sao được,” Amba nói. “Ta cho chúng bú sữa từ vú ta khi chúng còn bé, chứ đâu thể cho chúng ăn điều hay nết tốt.”
“Cứ kiên nhẫn,” Padma nói. “Rồi đâu sẽ vào đấy thôi.”
Được tưới tắm trong niềm cảm thông của bạn, Roopa bình tâm trở lại. Ý nghĩ đánh mất con lần thứ hai khiến chị suy xét cẩn trọng hơn. Chị tha thứ cho đề xuất điên rồ của con và đồng ý ngoảnh mặt làm ngơ với điều kiện: chị sẽ giữ quyền kiểm soát việc ra vào ngôi lều của chị; một số khách sẽ phải giao dịch bên ngoài.
Hai năm sau, Narayan đã dành dụm đủ để xây ngôi lều riêng, nằm ngay gần lều của bố mẹ anh. Roopa khóc lóc, kêu anh bỏ rơi bố mẹ. “Hết lần này đến lần khác, nó làm mẹ nó đau lòng tưởng chết,” bà ỉ ôi. “Làm sao tôi chăm nom cho nó rồi coi sóc việc làm ăn bây giờ? Sao nó cứ phải ra riêng mới được?”
“Kìa mẹ, lều của con cách nhà ta có mười mét thôi mà,” Narayan nói. “Lúc nào con cũng chào đón mẹ sang gọt bút chì cho con.”
“Gọt bút chì, nó dám nói thế cơ đấy! Làm như tôi chỉ giúp nó được mỗi việc ấy!”
Dẫu vậy, rốt cuộc bà cũng quen với ý nghĩ ấy và lấy đó làm điều tự hào, khi chuyện trò với bạn bè, bà thường gọi ngôi lều kia là xưởng may của con trai mình. Anh mua một cái bàn làm việc lớn, một cái giá treo quần áo, và một chiếc máy may đạp chân có thể may cả đường thẳng lẫn đường dích dắc.
Với món đồ cuối cùng, anh lên thị trấn xin lời khuyên của Chú Ashraf. Thị trấn nhỏ đã mở mang nhiều từ ngày anh ra đi, và Hiệu may Muzaffar làm ăn rất phát đạt. Ishvar đã thuê một phòng ở ngay gần cửa hiệu. Từ phụ việc, Ashraf đã nâng anh lên làm bạn chung vốn. Hai anh em đều nhất trí là bố họ không cần phải làm việc nữa, hai anh em sẽ cùng nhau chu cấp cho bố mẹ.
“Hai đứa thật ngoan,” Dukhi nói, khi nghe Narayan báo lại quyết định của hai anh em. “Bố mẹ được Thượng Đế ưu ái quá.”
Roopa lấy ra chiếc áo vét và chiếc choli do hai anh em may từ hồi xửa hồi xưa, nay vải đã bạc phếch. “Con còn nhớ hai cái áo này không?”
“Con không biết mẹ vẫn còn giữ cơ đấy.”
“Cái ngày con và anh Ishvar mang hai cái áo này về cho bố mẹ, các con còn rõ bé, cả hai đứa,” bà vừa nói vừa khóc. “Nhưng ngay từ hồi ấy mẹ đã biết, từ đáy lòng, rằng cuối cùng mọi chuyện sẽ tốt đẹp.” Đoạn bà chạy đi báo tin vui cho các bạn bè, họ ôm bà và trêu rằng bà sắp giàu đến nơi rồi, lại chả thèm ngó ngàng gì đến họ nữa đâu.
“Nhưng có một điều chắc chắn,” Padma nói. “Là sắp đến lúc lấy vợ cho hai đứa rồi.”
“Chị nên bắt đầu kiếm hai đứa con dâu xứng đôi vừa lứa đi là vừa,” Savitri nói.
“Đừng trù trừ thêm nữa,” Pyari nói.
“Chúng tôi sẽ giúp chị mọi thứ, đừng lo,” Amba nói.
Cái tin tốt lành lan đi khắp cộng đồng của họ, và ra cả bên ngoài. Trong đám người đẳng cấp cao không thiếu gì những kẻ tức tối và đố kỵ vì những gì một tên Chamaar đã đạt được. Đặc biệt có một tên, chúa đất Dharamsi – lão này chuyên trách công tác bỏ phiếu của quận vào mỗi mùa bầu cử, chuyên dồn phiếu cho đảng phái hắn theo – thường xuyên tìm dịp để bêu riếu chàng thợ may.
“Có một con bò chết đang đợi mày đấy,” hắn bảo Narayan qua một thằng đầy tớ. Narayan bèn chuyển lời nhắn sang cho một người Chamaar khác. Được lấy cái xác, anh này mừng lắm. Lại có lần, một con dê bỏ mạng dưới con mương nằm trên đất của chúa đất Dharamsi, hắn bèn cho gọi Narayan đến vớt con vật lên. Narayan nhã nhặn nhắn lại, rằng anh rất biết ơn ý tốt của hắn, song anh không còn theo nghề này nữa.
Giờ đây, trong cộng đồng người Chamaar ở làng, anh rất được trọng vọng với tư cách phát ngôn viên của đẳng cấp, vị thủ lĩnh không qua bầu cử của họ. Dukhi tán dương thành công của con một cách vừa phải, kín đáo, ông chỉ dám nuông chiều bản thân trong vài dịp ít ỏi, khi ông ngồi hút thuốc với bạn bè dưới tán cây bên bờ sông. Dần dà, con trai ông trở nên khá giả hơn cả nhiều người đẳng cấp cao ở làng. Narayan bỏ tiền ra đào một cái giếng mới trong khu đất dành riêng cho tiện dân. Anh thuê mảnh đất chỗ hai túp lều ngụ, và thay chúng bằng một ngôi nhà tường gạch mái ngói, một trong vỏn vẹn bảy nhà như thế ở cả làng. Nó có đủ chỗ cho bố mẹ anh và tiệm may của anh. Và chẳng bao lâu nữa, Roopa hân hoan nhẩm tính, cả một cô vợ cùng lũ trẻ con.
Thực ra, bà và Dukhi muốn con trai cả lấy vợ trước. Nhưng khi họ ngỏ lời tìm cho anh một cô vợ, Ishvar đã đằng thẳng luôn là anh không có hứng. Đến lúc này, Roopa đã hiểu ra rằng cố ép hai thằng con mình làm những gì chúng không muốn là chuyện vô vọng. “Học được lối tỉnh rồi cơ đấy,” bà hằm hè, “quên tiệt nề nếp cũ của ta rồi,” và bỏ cuộc tại đó, rồi chuyển hướng chú ý sang Narayan.
Họ đi ướm hỏi xung quanh, và một cô gái xứng đôi vừa lứa ở làng khác được tiến cử. Ngày xem mặt đã được ấn định, hôm đó nhà trai sẽ đến thăm nhà gái. Roopa nằng nặc đòi Amba, Pyari, Padma, và Savitri phải được dự phần trong kế hoạch viếng thăm – mấy bà ấy chả khác gì ruột thịt trong nhà, bà bảo thế. Ishvar không đi, nhưng lại bỏ tiền thuê một chiếc Leylan hai mươi bảy chỗ để chở phái đoàn đi xem mặt cô dâu.
Chiếc xe buýt nhỏ bé xác xơ về đến làng vào hồi chín giờ sáng, và phanh lại giữa một đám mây bụi. Cơ hội được đi một chuyến xe buýt cuốn hút đông đảo tình nguyện viên tham gia sự kiện tốt lành này, vượt xa sức chứa của phương tiện chuyên chở khiêm tốn kia.
“Với tôi, Narayan cũng như con trai vậy,” một người nói. “Tôi có nghĩa vụ phải đi. Làm sao tôi nỡ phụ lòng cậu ấy trong dịp trọng đại này?”
“Nếu hai bác không cho tôi theo thì làm sao tôi cất mặt lên nổi,” một người khác nằn nì, nhất quyết không chịu nhận câu trả lời là không. “Xin đừng bỏ tôi ở nhà.”
“Tôi đã tham gia không sót một buổi xem mặt cô dâu nào trong cộng đồng ta,” một người thứ ba lại khuếch khoác. “Hai bác rất cần người kinh nghiệm như tôi.”
Nhiều người coi chuyện mình được đi là lẽ dĩ nhiên, và trèo luôn lên xe mà chẳng thèm hỏi Dukhi và Roopa lấy một câu. Khi cuộc dạo chơi đã sẵn sàng khởi động một tiếng sau đó, có tới ba mươi tám người chen vai thích cánh trong xe, và thêm một tá người bắt chân chữ ngũ vắt vẻo trên nóc. Ông tài xế, vốn đã chứng kiến đủ các vụ tai nạn kinh hoàng xảy ra trên những khúc đường nhỏ hẹp ở nông thôn, kiên quyết từ chối nổ máy. “Xuống khỏi nóc xe ngay! Xuống, tất cả, xuống!” Ông quát tướng lên với những con người đang khoanh chân thư nhàn trong thế tọa đài sen. Thế là hơn chục người trên nóc phải ở nhà, và chiếc xe buýt xuất phát bằng một cú lết khéo léo.
Họ đến đích sau hai tiếng rưỡi. Bố mẹ cô gái, cũng như cả làng kia, vô cùng ấn tượng trước chiếc xe buýt và quy mô của phái đoàn xem mặt. Ba mươi tám vị khách đứng loanh quanh, xem chừng khá bối rối. Trong nhà không có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Sau rất nhiều đôi co nài kéo, Dukhi tuyển ra được một nhóm bảy người, bao gồm hai người bạn thân nhất của ông, Chhotu và Dayaram. Padma và Savitri cũng có suất, nhưng Amba và Pyari phải đứng chờ bên ngoài cùng ba mươi mốt người kém may mắn, đành theo dõi toàn cuộc qua cửa ra vào.
Trong nhà, nhóm đại diện uống trà với bố mẹ cô gái và mô tả lại cuộc hành trình. “Trên đường đi, chúng tôi trông thấy nhiều cảnh đẹp lắm,” Dukhi nói với ông bố.
“Có một lúc, đột nhiên, chiếc xe rú lên một tiếng to rồi đứng khựng lại,” Chhotu nói. “Phải mất một lúc mới nổ máy lại được. Chúng tôi cứ lo sẽ đến muộn.”
Ít phút sau, các bậc phụ huynh đã chuyển sang so sánh phả hệ và lịch sử gia đình, trong khi Roopa kể lể một cách khiêm tốn về thành công của Narayan với mẹ cô gái. “Nó có nhiều khách lắm cơ. Ai cũng muốn mua quần áo do chính tay Narayan may. Làm như trên khắp cái nước này chả còn thợ may nào khác ấy. Thằng con giai tội nghiệp của tôi làm việc từ tinh mơ đến tối mịt, luôn tay may, may, may. Nhưng cái máy may đắt tiền mới mua của nó tốt lắm. Trời, làm được bao nhiêu việc kì diệu.”
Rồi cũng đến giờ phút xem mặt cô dâu. “Vào đây con,” bà mẹ bâng quơ gọi. “Con đem bánh kẹo ra mời khách đi.”
Cô gái tên Radha, mười sáu tuổi, bước vào cùng một khay bánh laddoo. Tiếng chuyện trò im bặt. Mỗi người đều ngắm nghía thật kĩ khi cô đi vòng quanh, đầu cúi xuống e lệ và đôi mắt nhìn lảng đi. Bên ngoài nổi lên tiếng xì xào và giành giật chỗ đứng khi ai nấy đều cố kiết nhòm lấy một cái.
Narayan dán chặt mắt lên mấy cái bánh laddoo khi cô gái dừng lại trước mặt anh. Anh hồi hộp không dám nhìn – cả gia đình cô đang dõi theo phản ứng của anh. Chiếc đĩa đã sắp đi đến cuối vòng. Nếu lúc này anh không nhìn cô, sẽ không còn cơ hội thứ hai nữa, cô sẽ không quay lại, đó là điều chắc chắn, và anh sẽ phải ra một quyết định hú họa. Nhìn đi, giời ạ, nhìn đi! Anh tự hối thúc mình – và anh nhìn. Anh bắt được một góc nghiêng từ dáng vẻ của cô khi cô đang cúi xuống trước mặt mẹ mình.
“Không, con gái,” mẹ cô nói, “mẹ không ăn đâu,” và sau câu đó, Radha biến mất.
Đã đến lúc ra về. Trên hành trình trở về, những người đứng ngoài không nhìn hoặc nghe thấy gì được tóm lược đầy đủ tình hình. Giờ tất thảy đều đã tường tận sự thể, và có thể dự phần vào cuộc bàn bạc sau chót khi về đến làng. Ý kiến đóng góp từ phía các bậc cha chú rất được hoan nghênh.
“Vóc dáng con bé được, da dẻ cũng được.”
“Gia đình nó trông cũng thật thà, chăm chỉ.”
“Có lẽ nên xem tuổi rồi hãy quyết.”
“Không xem tuổi xem tiếc gì sất! Xem tuổi làm cái gì? Đấy toàn trò mèo của bọn Bà la môn, đẳng cấp ta không làm trò đó.”
Cứ thế cuộc bàn tán kéo dài thêm một lúc, còn Narayan chỉ im lặng lắng nghe. Sự ưng thuận của anh vào hồi chung kết, tuy không có tính chất quyết định, đã giúp củng cố thêm mối đồng thuận trong niềm vui sướng của hai cụ thân sinh và tiếng hoan hô rầm rĩ của mọi người xung quanh.
Công cuộc chuẩn bị được xúc tiến. Một số món phí tổn theo truyền thống đã bị gạt bỏ trước thái độ kiên quyết của Narayan; anh không muốn gia đình Radha mang nợ bọn cho vay suốt đời. Anh chỉ nhận của nhà gái sáu cái bình đồng thau: ba cái đáy tròn, và ba cái đáy bằng.
Roopa điên tiết lắm. “Mày thì biết gì về những thứ phức tạp như của hồi môn? Mày đã cưới bao giờ chưa?”
Dukhi cũng giận không kém. “Đòi thêm nhiều nữa ngoài sáu cái bình cũng được ấy chứ. Chúng ta có quyền cơ mà.”
“Chỗ chúng ta có lệ đòi của hồi môn từ bao giờ thế ạ?” Narayan chỉ nhẹ nhàng hỏi.
“Nếu người Bà la môn đòi được, thì chúng ta cũng đòi được.”
Nhưng Narayan vẫn giữ vững lập trường, với sự hậu thuẫn của Ishvar. “Học được lối tỉnh rồi cơ đấy,” mẹ họ càu nhàu, lại chùn bước một lần nữa. “Quên tiệt nề nếp làng ta rồi.”
Có một trở ngại vào phút cuối. Hai ngày trước đám cưới, dưới sức ép của chúa đất Dharamsi và vài tên khác, các nhạc công làng lần lượt rút sạch. Quá sợ hãi, họ thậm chí không dám gặp mặt gia đình để bàn bạc vấn đề. Vì vậy, Ishvar bèn bố trí đưa một nhóm thay thế từ trên tỉnh xuống. Narayan không lấy làm bận tâm về chi phí chuyên chở nhóm nhạc công cùng dụng cụ của họ. Đó là một cái giá khá rẻ, anh nghĩ, cho việc phá tan âm mưu của bọn địa chủ.
Nhóm nhạc công mới không biết một số bài hát đám cưới địa phương. Các bậc cao niên trong đám khách khứa tỏ ra đặc biệt quan ngại – những bản thánh ca và đồng ca xa lạ có thể tác động không tốt đến cuộc hôn phối. “Nhất là với chuyện sinh con đẻ cái,” một bà cụ từng làm nghề đỡ đẻ hồi mắt chưa mờ chân chưa chậm nói. “Dạ con không phải tự nhiên mà thành màu mỡ, nếu thiếu những liệu pháp đúng đắn.”
“Đúng thế,” một người khác họa theo. “Chính mắt tôi đã chứng kiến rồi. Nếu bài ca không được hát đúng cách, vợ chồng chỉ có sinh lục đục cãi vã thôi.” Họ túm tụm lại thành từng nhóm đầy âu lo, hết bàn bạc lại tranh luận, cố tìm ra một phương thuốc có thể phá giải cái vận rủi đang cận kề. Họ nhìn lũ người đang tán thưởng những bài ca điệu múa dị chủng bằng ánh mắt đầy phiền trách.
Lễ cưới kéo dài ba ngày liền, trong thời gian đó, các gia đình Chamaar trong làng được ăn những bữa ngon lành nhất trong đời mình. Ashraf và gia đình ông, những vị khách danh dự, được sắp chỗ ở và phục vụ tận tình ngay trong ngôi nhà của Narayan, chuyện này khiến vài người không khỏi bất mãn. Đây đó nổi lên tiếng xì xào về sự hiện diện hung gở của bọn người Hồi, song những ý kiến phản đối rất thưa thớt và âm thầm. Và đến đêm thứ ba, trong niềm hân hoan của các bậc cao niên, đám nhạc công đã chơi được rất nhiều bài hát địa phương.
Đứa con đầu lòng của Radha và Narayan là một thằng cu; hai vợ chồng đặt tên nó là Omprakash. Bà con làng xóm kéo đến hát hò và chúc mừng họ nhân ngày vui này. Người ông nội đầy tự hào còn đích thân mang kẹo bánh đến biếu từng nhà trong làng.
Cuối tuần đó, ông Chhotu bạn của Dukhi cùng vợ đến thăm thằng cu mới đẻ. Ông kéo Dukhi và Narayan sang một bên và thẽ thọt: “Các nhà đẳng cấp cao đều vứt hết bánh kẹo vào sọt rác rồi.”
Hai bố con không nghi ngờ gì lời nói của Chhotu; hẳn ông phải biết chắc, bởi ông chuyên đi gom rác của nhiều nhà trong số kia. Cái tin thật đau lòng, song Narayan chỉ cười xòa. “Thế thì ai nhặt được mấy gói đấy càng có thêm phần chứ sao.”
Khách khứa vẫn ùn ùn kéo đến, trầm trồ là thằng bé trông mới khỏe mạnh làm sao, nhất là với một đứa trẻ Chamaar, rồi sao miệng nó lúc nào cũng tươi cười. “Kể cả lúc đói, nó cũng chả gào khóc hay nỉ non tí gì,” Radha bây giờ đâm cũng thích khoe khoang. “Chỉ kêu gư gư bé tí, nhưng được ti mẹ cái là thôi ngay.”
Ba bé gái ra đời sau Omprakash. Hai đứa sống. Tên chúng là Leela và Rekha. Chả có bánh kẹo nào được chia đi.
Narayan bắt đầu dạy con trai đọc và viết, các buổi học diễn ra ngay trong lúc anh may. Bố ngồi trước máy may, con ngồi ôm bảng và phấn. Đến khi Omprakash lên năm, nó đã biết đơm khuy rất điệu nghệ, bắt chước kiểu cách hoa mĩ của bố nó khi mút đầu sợi chỉ và chọc qua mắt kim, hay phong thái của anh khi đâm kim qua mặt vải.
“Thằng bé cứ bám chằng chằng lấy bố nó suốt ngày,” nhìn hai bố con quấn quít nhau, Radha vui vẻ càu nhàu.
Mẹ chồng cô ngắm nghía cảnh đó và thưởng thức nó với vẻ khoan khoái. “Con gái là trách nhiệm của mẹ, nhưng con trai là phải để cho bố,” Roopa tuyên bố, như thể bà vừa được trời ban cho một khám phá mới toanh, và Radha cũng đón nhận nó một cách nghiêm túc chẳng kém: cô trịnh trọng gật đầu.
Tuần đầu tiên sau sinh nhật thứ năm của Omprakash, Narayan đưa nó đến xưởng thuộc da, nơi những người Chamaar đang cần mẫn làm lụng. Kể từ ngày trở về làng, anh vẫn định kì tham gia vào công việc nặng nhọc này. Ở xưởng đang làm việc gì, lột, phơi, thuộc, hay nhuộm da, anh đều giúp một tay. Và nay anh hãnh diện chỉ cho con xem các công đoạn được thực hiện ra sao.
Song Omprakash chỉ co rúm lại. Narayan không thích cung cách ấy. Anh kiên quyết bắt con phải nhúng tay vào làm.
“Eo! Thối quá!” Omprakash rú lên choe chóe.
“Bố biết là thối rồi. Nhưng con cứ làm đi.” Anh túm hai bàn tay thằng bé và nhúng chúng vào thùng nước thuộc da, dìm sâu đến tận khuỷu. Anh thấy thẹn vì cách cư xử của con trai mình trước các anh em người Chamaar.
“Con không muốn làm việc này! Con muốn về nhà! Con xin bố, bố đưa con về nhà ngay đi!”
“Thích khóc hay không tùy con, con sẽ phải học làm việc này,” Narayan lạnh lùng nói.
Omprakash hết khóc lóc lại nỉ non, rồi giãy lên đành đạch từng chặp, cố giằng tay ra. “Con còn làm thế, bố sẽ túm con quẳng vào thùng luôn đấy,” bố nó đe, tay vẫn không ngừng dìm tay thằng con xuống.
Những người khác bèn ra sức khuyên can Narayan tha cho nó – khéo thằng bé ngất xỉu hay lên cơn co giật thì chết, họ lo lắng, với cái cách nó gào lên như hóa dại thế kia. “Hôm nay mới là ngày đầu tiên của nó,” họ bảo. “Tuần sau nó sẽ quen hơn.” Nhưng Narayan vẫn ép con làm tiếp cho đến khi anh tuyên bố dừng lại một tiếng sau đó.
Khi hai bố con về đến nhà, Omprakash vẫn còn khóc tỉ ti. Trên hiên nhà, Radha đang mát xa da đầu cho mẹ chồng bằng dầu dừa. Họ đánh đổ cả chai dầu trong lúc vội vã lao ra dỗ thằng bé. Roopa cố ôm cháu nội vào lòng, nhưng những lọn tóc bạc mỏng mảnh vừa nhờn vừa cứng phơ phất trước trán bà khiến thằng bé vùng ra ngay. Nó chưa bao giờ thấy bà nội nó trông đáng sợ như thế.
“Cái gì làm nó sợ thế? Mày đã làm gì nó, thằng cháu bé bỏng tội nghiệp hay nói hay cười của tao?”
Narayan kể lại hai bố con đã làm gì suốt buổi sáng vừa qua, và Dukhi cười ha hả khi nghe thủng chuyện. Toàn bộ sự việc khiến Radha nổi ba máu sáu cơn. “Sao mình phải hành hạ con đến thế? Đâu cần phải bắt thằng Om của tôi động tay vào những việc bẩn thỉu như vậy?”
“Việc bẩn thỉu? Cô, con gái của một người Chamaar! Dám gọi đấy là việc bẩn thỉu ư!”
Cô chết sững trước cơn thịnh nộ của chồng. Đó là lần đầu tiên Narayan quát vợ. “Nhưng tại sao nó…”
“Làm sao nó biết quý trọng những gì nó có nếu nó không chịu học những gì cha ông nó đã làm? Mỗi tuần một lần nó sẽ đi làm với tôi! Dù nó có thích hay không!”
Radha kín đáo cầu cứu bố chồng và bắt tay vào lau chùi chỗ dầu dừa bị đổ. Ông nhận lời con dâu bằng cách khẽ nghiêng đầu. Sau đó, khi chỉ còn hai bố con với nhau, ông nói: “Con à, bố đồng ý với con. Nhưng dù ta có nghĩ sao đi nữa, thì mỗi tuần một lần cũng chỉ như trò chơi thôi. Cái nghề ấy sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa đối với nó như với bố con ta đâu. Và tạ ơn Thượng Đế vì điều đó.”
Omprakash bậm bịu suốt khoảng thời gian còn lại của ngày hôm đó, nó chỉ quanh quẩn dưới bếp, bám dính lấy mẹ. Radha vừa làm việc, vừa không ngừng vỗ nhẹ lên đầu nó. “Nó chả chịu buông con ra gì cả,” cô vui vẻ càu nhàu với mẹ chồng. “Con còn phải thái rau chân vịt và làm bánh chapati nữa chứ. Chả biết bao giờ mới xong được đây.”
Roopa nhăn trán. “Chỉ đến lúc không vui, bọn con trai mới nhớ tới mẹ.”
Đến tối, khi bố nó đang nằm nghỉ ngoài hiên nhà, mắt lim dim, Omprakash rón rén lại gần và bắt đầu mát xa chân bố. Narayan giật mình, bèn mở mắt ra. Anh nhìn xuống, thấy con và mỉm cười. Anh dang tay ra với nó.
Omprakash nhảy xổ vào lòng bố, quàng hai tay quanh cổ bố. Hai bố con ôm chặt nhau mất vài phút mà không nói năng gì. Rồi Narayan gỡ ngón tay con ra và hít hà chúng. Đoạn anh cũng dí tay mình vào mũi nó. “Con thấy chưa? Cả hai bố con mình đều có mùi giống nhau. Mùi lương thiện đấy.”
Thằng bé gật đầu. “Bố ơi, con bóp chân cho bố nữa nhé?”
“Ừ.” Anh âu yếm nhìn con nắn bóp gót chân, xoa xát gan bàn chân, bấm lòng bàn chân, và mát xa từng ngón chân, bắt chước cung cách tỉ mỉ của Radha. Roopa và Radha nấp sau cánh cửa, nhìn nhau cười rạng rỡ.
Bài học làm da hàng tuần tiếp diễn trong suốt ba năm tiếp theo. Omprakash được dạy cách ướp da bằng muối để tẩy da. Cậu hái quả chiêu liêu để chế thuốc tanin. Cậu học cách pha thuốc nhuộm, và cách làm thế nào để thuốc ngấm đều lên da. Đây là công đoạn bẩn thỉu nhất, nó khiến cậu nôn ọe luôn.
Cuộc thử thách chấm dứt khi cậu tròn tám tuổi. Cậu được gửi lên ở với bác Ishvar để có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại kĩ năng may vá đa dạng hơn tại Hiệu may Muzaffar. Vả lại, trường học trên thị trấn giờ đã chấp nhận mọi đối tượng, cả đẳng cấp cao lẫn đẳng cấp thấp, trong khi trường làng vẫn bị hạn chế.
Radha và Narayan không đến nỗi lẻ loi như Roopa và Dukhi hồi hai đứa con ông bà lên tỉnh học việc với Chú Ashraf. Con đường mới và tuyến xe buýt đã rút ngắn khoảng cách giữa làng và tỉnh. Họ có thể trông đợi những chuyến thăm nhà thường xuyên của Omprakash; vả lại, ở nhà đã có hai đứa con gái bé.
Dẫu vậy, Radha vẫn có cảm giác mình bị tước mất sự hiện diện của thằng con trai một cách phi lý. Một bài hát đang thịnh hành nói về chú chim từng là người bạn đồng hành thân thiết của chàng ca sĩ, nhưng vì một lý do nào đó không thể cắt nghĩa nổi, đã chọn cách bay đi mất, trở thành khúc ca ưa thích của Radha. Mỗi khi lời giới thiệu vang lên, cô chạy vội đến chỗ chiếc đài bán dẫn Murphy mới mua của nhà và vặn to núm âm thanh, đoạn suỵt mọi người im lặng. Khi con trai về đến nhà, bài hát chẳng còn nghĩa lý gì với cô nữa.
Hai đứa em gái của Omprakash rất chán ghét những chuyến về thăm nhà của cậu. Chẳng ai thèm lý gì đến Leela và Rekha khi anh cả có mặt trong ngôi nhà. Tình trạng đó bắt đầu ngay từ giây phút cậu bước vào cửa.
“Xem con trai tôi kìa! Sao nó lại gầy đến mức ấy kia chứ!” Radha than thở. “Bác con có cho con ăn không đấy?”
“Trông nó gầy vì nó cao lên thôi,” là lời giải thích của Narayan.
Nhưng cô lại lấy đấy làm cái cớ để đúc cho con đủ các món thời trân, nào kem, nào hoa quả sấy, nào bánh mứt kẹo, và hết sức hả lòng hả dạ khi thấy con ăn. Thỉnh thoảng ngón tay cô xọc vào đĩa của con, bốc một nhúm lên và dịu dàng đưa vào miệng thằng bé. Không có bữa ăn nào được coi là trọn vẹn khi cô chưa tự tay đút cho con thứ gì đó.
Roopa cũng rất tâm đắc cảnh thằng cháu nội ăn uống nhồm nhoàm. Bà ngồi như một ông trọng tài, lúc thì giơ tay ra gạt một mẩu vụn vương trên mép cháu, lúc thì xúc thêm vào đĩa cho nó, khi lại đẩy cốc sữa chua vào tầm với của nó. Nụ cười tỏa ngời trên khuôn mặt nhăn nheo của bà, và một tia sáng lóe lên trong ký ức, khơi lại những đêm tối đen như mực đã lùi xa bao năm, khi bà mò mẫm lẻn vào lãnh địa của kẻ thù để ăn trộm những thức quả ngon lành cho Ishvar và Narayan.
Hai đứa em gái của Omprakash chỉ sắm vai những khán giả câm lặng trước các nghi thức của bữa ăn. Leela và Rekha giương mắt nhìn đầy ghen tị, nhưng không dại gì mở miệng phản đối hay giở trò nũng nịu người lớn. Trong những phút giây hiếm hoi khi không có ai ở bên cạnh, Omprakash cũng đem đồ ăn ngon chia cho hai em. Tuy vậy, trong phần lớn thời gian, hai đứa bé gái chỉ biết nằm khóc tấm tức trên giường khi đêm xuống.
Narayan ngồi trên hiên nhà dưới ánh chiều chạng vạng, chân bố để trong lòng, anh mát xa hai lòng bàn chân nhăn nheo, nứt nẻ. Omprakash, nay đã mười bốn tuổi, đang được trông đợi sẽ về đến nhà vào ngày mai cho kì nghỉ kéo dài một tuần lễ.
“A!” Dukhi thở dài khoan khoái, rồi hỏi con đã xem con bê mới đẻ chưa.
Không có câu trả lời. Ông nhắc lại câu hỏi, đoạn nhứ nhứ ngón chân cái lên ngực Narayan. “Con? Con có nghe bố nói không đấy?”
“Có bố ạ, con chỉ đang nghĩ thôi.” Anh lại tiếp tục xoa bóp, mắt trân trân nhìn bóng chiều. Ngón tay anh bấm miết nhiệt tình hơn hẳn, như để bù đắp cho sự im lặng của anh.
“Cái gì thế, cái gì làm con phải nghĩ ngợi thế?”
“Con chỉ đang nghĩ… nghĩ sao chẳng có gì thay đổi. Đã nhiều năm trôi qua, vậy mà chẳng có gì thay đổi.”
Dukhi lại thở dài, nhưng không phải một tiếng thở dài khoan khoái nữa. “Sao con lại nói thế? Rất nhiều thứ đã thay đổi còn gì. Đời con, đời bố. Nghề nghiệp của con, từ da chuyển sang vải. Mà nhìn ngôi nhà của con, rồi…”
“Những thứ đó, vâng. Nhưng còn những thứ quan trọng hơn thì sao? Chính phủ đã thông qua những luật lệ mới, nói không còn ai bị coi là tiện dân nữa, vậy mà tình hình vẫn đâu đóng đấy. Bọn khốn đẳng cấp cao vẫn đối xử với chúng ta tệ hơn cả súc vật.”
“Những thứ đó cần có thời gian mới thay đổi được.”
“Hơn hai chục năm đã trôi qua kể từ ngày độc lập. Còn phải đợi bao lâu nữa? Con muốn được uống nước từ giếng làng, muốn cúng bái trong đền, muốn đi đâu tùy thích.”
Dukhi rút chân ra khỏi lòng Narayan và ngồi thẳng dậy. Ông đang nhớ lại chính mình đã ghê tởm chế độ đẳng cấp tới mức nào, khi ông gửi hai thằng con nhỏ đến chỗ Ashraf. Ông xiết bao hãnh diện khi nghe những lời Narayan nói, nhưng cũng sợ hãi nữa. “Con à, những điều con ao ước nguy hiểm quá. Từ người Chamaar, con đã trở thành thợ may. Nên lấy thế làm bằng lòng con ạ.”
Narayan lắc đầu. “Đó là chiến thắng của bố thôi.”
Anh lại tiếp tục mát xa chân bố; xung quanh họ, bóng tối càng lúc càng đặc lại. Trong nhà, Radha đang hân hoan mê mải với công cuộc chuẩn bị cho buổi về thăm nhà của con trai vào ngày hôm sau. Một lát sau, cô xách chiếc đèn lên hiên. Chỉ trong chớp mắt, nó đã cuốn hút cả một bầy ruồi nhuế bu quanh. Rồi một con thiêu thân màu nâu bay đến, những muốn y ước cuộc hẹn hò với ánh sáng. Dukhi nhìn nó đập đôi cánh mỏng manh xuyên qua lớp kính đèn.
Tuần đó rơi đúng vào đợt bầu cử quốc hội. Cả tỉnh bị hãm trong vòng vây của các chính trị gia, bọn chuyên nghề hô hào, rồi những kẻ bợ đít. Như thường lệ, sự góp mặt của đủ các đảng phái chính trị cùng những trò hề hòng lôi kéo cử tri hứa hẹn sẽ là nguồn giải trí thú vị cho dân làng.
Một số người phàn nàn rằng thật khó lòng thưởng thức toàn cuộc cho thật trọn vẹn trong cái nóng héo phổi này – lẽ ra chính phủ nên đợi rốn qua đợt mưa đã. Narayan và Dukhi cũng cùng bạn bè tham gia vào các cuộc mít tinh, hai bố con dắt theo cả Omprakash để nó được xem cảnh hoạt náo. Roopa và Radha đều ấm ức vì bị xén bớt thời gian từ chuyến về thăm nhà ngắn ngủi của cậu quý tử.
Bài diễn thuyết nào cũng bị nhồi nhét vô số lời hứa với đủ mọi hình thù và kích thước: hứa xây trường mới, cung cấp nước sạch và dịch vụ y tế; hứa có đất cho những nông dân không tấc đất cắm dùi, thông qua tái phân phối và siết chặt việc thực thi Luật trần đất đai; hứa có những bộ luật nghiêm khắc hơn để trừng phạt mọi hành vi phân biệt, cũng như quấy rối người đẳng cấp dưới của những người đẳng cấp trên; hứa xóa bỏ tình trạng lao động trừ nợ, lao động trẻ em, tục thiêu vợ theo chồng, tục đòi của hồi môn, nạn tảo hôn.
“Luật lệ nước ta chắc phải trùng lặp, chồng chéo ghê lắm,” Dukhi nói. “Cứ đến mỗi mùa bầu cử, họ lại nói sẽ thông qua những bộ luật đã được thông qua từ hai chục năm trước rồi. Phải có ai đó nhắc họ là cần phải áp dụng luật chứ nhỉ.”
“Với bọn chính trị gia, thông qua luật cũng chẳng hơn gì đái một bãi,” Narayan. “Rồi cũng xuống cống xuống rãnh cả thôi.”
Vào ngày bầu cử, các cử tri đủ tư cách trong làng xếp hàng bên ngoài điểm bỏ phiếu. Như thường lệ, chúa đất Dharamsi chịu trách nhiệm về quá trình bỏ phiếu. Bộ máy của hắn, với sự giúp sức của các địa chủ khác, đã vận hành trơn tru suốt nhiều năm trời.
Viên chức trực điểm bỏ phiếu được biếu xén quà cáp, rồi được dắt đi ăn uống. Cửa mở ra và cử tri lần lượt đi vào. “Giơ ngón tay ra,” gã đứng trông hàng ra lệnh.
Các cử tri làm theo. Tay viên chức ngồi ở bàn giấy mở nắp một cái lọ nhỏ và đánh dấu từng ngón tay bằng mực đen không tẩy được để tránh gian lận.
“Giờ thì điểm chỉ ngón tay cái vào đây,” tay viên chức nói.
Từng người điểm chỉ vào sổ để xác nhận mình đã bỏ phiếu, và ra về.
Sau đó, những lá phiếu trắng sẽ được tay chân của bọn địa chủ điền vào. Viên chức trực điểm bỏ phiếu chỉ quay lại lúc đóng cửa để giám sát việc vận chuyển thùng phiếu đến điểm kiểm phiếu, và để chứng thực rằng quá trình bỏ phiếu đã được thực hiện một cách công bằng và dân chủ.
Cũng có lúc không khí trở nên náo nhiệt hơn nếu bọn địa chủ đối địch trong cùng tỉnh không giải quyết được mâu thuẫn, kết thúc bằng việc các bên ủng hộ những ứng viên đối lập nhau. Sau đó bọn chúng sẽ phân xử bằng những cuộc chém giết. Lẽ dĩ nhiên, bên nào chiếm được nhiều điểm bỏ phiếu hơn và nhồi nhét được nhiều thùng phiếu nhất, ứng viên của bên đó sẽ thắng cử.
Tuy nhiên, năm nay chẳng có vụ đánh đấm hay đấu súng nào hết. Nhìn chung, đó là một ngày ảm đạm, trên đường trở về nhà cùng bố và ông nội, Omprakash lấy làm rầu rĩ lắm. Ngày mai cậu đã phải lên Hiệu may Muzaffar. Một tuần trôi qua thật chóng vánh.
Hai bố con ngồi trên chiếc chõng kê ngoài sân, hít hà không khí buổi tối, còn Omprakash lấy nước cho họ. Những rặng cây rộn lên tiếng chim kêu xáo xác. “Đến lần bầu cử tới, con muốn được tự tay điền vào lá phiếu của mình,” Narayan nói.
“Bọn nó không để con làm thế đâu,” Dukhi nói. “Mà bận tâm làm gì? Con nghĩ nó sẽ thay đổi được gì chắc? Lá phiếu của con có khác gì đá ném ao bèo. Chẳng mọc mũi sủi tăm gì đâu.”
“Đấy vẫn là quyền của con. Và lần bầu cử tới, con sẽ thực hiện nó, con hứa đấy.”
“Dạo này con nghĩ ngợi về quyền nọ quyền kia nhiều quá đấy. Thôi ngay cái thói nguy hiểm ấy đi.”
Dukhi ngừng lời, đoạn vươn tay phẩy một dòng kiến lửa đang hành quân về phía chân chõng. Bọn kiến bèn chạy tứ tán mỗi con một nơi. “Cứ cho là con được tự điền vào phiếu của mình đi. Con tưởng chúng không thể mở thùng ra và hủy hết những lá phiếu chúng không thích đấy phỏng?”
“Không đâu. Viên chức trông nom việc bỏ phiếu phải chịu trách nhiệm với từng lá phiếu chứ.”
“Bỏ ngay cái tư tưởng ấy đi. Làm thế thật phí thời giờ, mà thời giờ của con chính là cuộc đời con đấy.”
“Sống mà chẳng có tí phẩm giá nào thì thật vô nghĩa.”
Đàn kiến lửa đã khôi phục hàng ngũ, song Dukhi không nhìn thấy vì trời quá tối. Radha bèn xách một chiếc đèn lên hàng hiên vừa bị đêm tối nuốt chửng, khiến bao nhiêu bóng người đột nhiên hiện ra lố nhố. Mùi khói đốt củi ám đầy quần áo cô mặc. Cô hơi nán lại một chút giữa không gian im ắng, mắt dõi tìm gương mặt chồng.
“Chính phủ chả biết nghĩ gì sất,” dân chúng hết lời ca thán về cuộc bầu cử quốc hội quốc gia. “Chả biết nghĩ quái gì sất. Chọn tháng này là không đẹp rồi – đất đai thì nứt nẻ, trời nóng như đổ lửa, ai còn tâm trí đâu để nghĩ đến bỏ phiếu bỏ phiếc cơ chứ? Hai năm trước họ đã phạm sai lầm y như thế này rồi.”
Narayan vẫn chưa quên lời hứa của anh với bố từ hai năm trước. Sáng hôm đó, anh ra khỏi nhà một mình để đi bỏ phiếu. Số lượng cử tri có mặt thật thảm hại. Hàng người lơ thơ đứng vơ vẩn bên cửa một phòng học được tận dụng làm điểm bỏ phiếu. Trong phòng, mùi bụi phấn và thức ăn ôi thiu khiến anh nhớ lại cái ngày xa xưa, khi anh còn bé, lúc anh và Ishvar bị lão thầy giáo đánh nhừ đòn chỉ vì dám sờ vào bảng và sách của bọn trẻ con đẳng cấp trên.
Anh cố nuốt nỗi sợ hãi xuống và hỏi xin lá phiếu của mình. “Không, anh không phải bận tâm,” những người ngồi ở chiếc bàn giải thích. “Cứ điểm chỉ vào đây, phần còn lại đã có chúng tôi lo.”
“Điểm chỉ ấy à? Tôi sẽ ký tên đầy đủ. Sau khi các anh đưa tôi phiếu bầu của tôi.”
Thấy thế, hai người xếp hàng sau Narayan đâm cũng bạo lây. “Phải, đưa chúng tôi phiếu đi,” họ nói. “Chúng tôi cũng muốn tự điền.”
“Chúng tôi không thể làm thế được, chúng tôi không nhận được chỉ thị.”
“Các anh đâu cần chỉ thị. Đấy là quyền của chúng tôi với tư cách người bỏ phiếu.”
Những người ngồi trực bàn thì thào với nhau, rồi nói: “Được rồi, xin đợi cho một lát.” Một người rời khỏi điểm bỏ phiếu chạy đi.
Chỉ lát sau anh ta đã quay lại với hơn chục người. Chúa đất Dharamsi, kẻ đã cấm các nhạc công biểu diễn trong lễ cưới của Narayan mười sáu năm trước, cũng đi cùng bọn này. “Sao thế, có chuyện gì thế?” Từ ngoài sân, hắn đã hét toang toang.
Cả bọn chỉ về phía Narayan qua cửa ra vào.
“Thế đấy,” chúa đất Dharamsi lầm bầm. “Lẽ ra tao phải đoán được chứ. Còn hai thằng kia thì sao?” Gã giúp việc không biết tên của họ.
“Cũng chả quan trọng,” chúa đất Dharamsi nói. Cả bọn lâu la cùng theo hắn vào, căn phòng bỗng chốc chật cứng người. Hắn đưa tay lên quệt lông mày và nhứ nhứ bàn tay ướt nhoẹt dưới mũi Narayan. “Giữa một hôm nóng nực như thế này mà mày bắt tao phải ra khỏi nhà để tắm mồ hôi thế đấy. Mày định làm xấu mặt tao phỏng? Mày không còn quần áo gì phải may vá hử? Hay một con bò để đầu độc hoặc lột da chẳng hạn?”
“Chúng tôi sẽ ra về ngay sau khi điền xong lá phiếu của mình,” Narayan nói. “Đó là quyền của chúng tôi.”
Chúa đất Dharamsi cười phá lên, bọn tay chân bèn tích cực họa theo. Chúng cũng ngưng bặt khi hắn thôi cười.
“Đùa thế đủ rồi. Điểm chỉ rồi xéo đi.”
“Đợi chúng tôi bỏ phiếu xong đã.”
Lần này hắn không cười, mà chỉ giơ tay lên như để chào từ biệt và rời khỏi buồng bỏ phiếu. Bọn lâu la lập tức vồ lấy Narayan cùng hai người kia. Chúng ấn ngón tay họ vào mực và hoàn tất việc xác nhận. Chúa đất Dharamsi rỉ tai gã giúp việc, lệnh đưa ba người về trang trại của hắn.
Suốt cả ngày hôm đấy, đều đặn từng chập một, ba người bị đánh đập trong cảnh bị lột truồng và treo ngược lên cành một cây bồ đề. Vật vờ lúc tỉnh lúc mê, tiếng thét của họ càng lúc càng yếu dần. Mấy đứa cháu của chúa đất Dharamsi bị giữ rịt trong nhà. “Làm bài tập đi,” hắn bảo chúng. “Đọc sách, hay chơi đồ chơi đi. Chơi bộ tàu hỏa đẹp ông mới mua cho chúng mày ấy.”
“Nhưng hôm nay là ngày nghỉ,” chúng nài nỉ. “Chúng cháu muốn ra ngoài chơi cơ.”
“Hôm nay thì không được. Ngoài kia đang có mấy kẻ xấu lắm.” Đoạn lão xua chúng ra xa khỏi các ô cửa sổ bên sườn nhà.
Ở phía xa, trên cánh đồng, bọn tay chân của hắn vạch quần đái vào ba khuôn mặt người lộn ngược. Đang lúc nửa tỉnh nửa mê, mấy cái miệng khô nẻ mừng rỡ đón lấy chút hơi ẩm, hối hả liếm những tia nước một cách yếu ớt. Chúa đất Dharamsi dặn bọn người làm tạm thời không được để tin tức lan đi, nhất là xuống khu vực hạ lưu sông. Nó có thể phá hỏng cuộc bỏ phiếu và buộc ủy ban bầu cử phải hủy bỏ kết quả, lúc ấy thì toi công vất vả suốt mấy tuần lễ.
Đến tối, sau khi các thùng phiếu đã được mang đi, những hòn than nóng đỏ bị dí vào dái ba người đàn ông, rồi nhồi vào mồm họ. Tiếng rú của họ vang vọng khắp làng, cho tới khi môi và lưỡi của họ tan chảy. Mấy cái xác cứng đờ câm lặng được gỡ từ trên cây xuống. Khi họ bắt đầu cựa mình, sợi dây được chuyển từ chân lên cổ họ, và cả ba bị treo lên. Xác họ bị bêu giữa đình làng.
Lũ đầu trâu mặt ngựa của chúa đất Dharamsi, giờ đã rảnh rang sau khi hoàn tất các phần việc liên quan đến bầu cử, được thả cho mặc sức tác ác với dân đẳng cấp thấp. “Tao muốn dạy cho lũ tiện dân khố rách áo ôm đấy một bài học,” lão nói, đoạn mang rượu ra cho lũ lâu la trước khi để chúng thực thi nhiệm vụ tiếp theo. “Tao muốn mọi thứ lại như ngày xưa, khi xã hội này còn có tôn ti, trật tự, và kỉ cương. Và nhớ phải coi chừng ngôi nhà của thằng thợ may Chamaar kia, đừng để đứa nào trốn mất nghe chưa.”
Bọn hùm beo ầm ầm kéo xuống khu tiện dân. Trên đường đi, chúng đánh người vô tội vạ, lột truồng nhiều phụ nữ, hãm hiếp một số khác, và châm lửa đốt vài ngôi lều. Tin tức về cuộc phá phách lan đi nhanh chóng. Mọi người kéo nhau đi trốn, chờ đến khi cơn bão tan.
“Tốt,” chúa đất Dharamsi khen, lúc ấy đêm đã xuống, và tin tức về thành tựu của bọn chân tay cũng vừa bay đến tai lão. “Tao nghĩ chúng nó sẽ tởn đến già.” Lão ra lệnh bỏ xác của hai người đàn ông không tên bên bờ sông, để gia đình họ tự ra lấy về. “Tao cũng thương hai nhà kia, dù chúng nó là ai,” hắn nói. “Chúng nó chịu khổ thế là đủ rồi. Cứ cho nhà nó khóc lóc và hỏa táng cho con.”
Hình phạt đến đó là kết thúc, nhưng không phải với gia đình Narayan. “Nó không xứng đáng được hỏa thiêu tử tế,” chúa đất Dharamsi nói. “Mà thằng bố tội còn to hơn thằng con. Thói kiêu căng của nó chống lại tất cả những gì bọn ta tôn thờ.” Những gì bao nhiêu thế hệ góp lại mới gây dựng nên, Dukhi đã dám cả gan phá tan tành; hắn đã biến thợ da thành thợ may, bóp méo thế cân bằng vĩnh cửu của xã hội. Tội vượt qua ranh giới đẳng cấp phải bị trừng phạt bằng hình thức nghiêm khắc nhất, lão chúa đất nói.
“Bắt cả nhà nó – già trẻ, lớn bé,” hắn ra lệnh cho bọn tay chân. “Không được để đứa nào thoát.”
Thấy lũ đầu trâu mặt ngựa xông vào nhà Narayan, Amba, Pyari, Savitri, và Padma đứng ngoài hiên gào thét, kêu chúng không được động vào bạn họ. “Sao chúng mày dám hành hung họ? Họ có làm gì nên tội đâu!”
Gia đình của mấy bà cụ lao ra kéo họ vào, ai nấy khiếp hãi thay cho họ. Hàng xóm của họ thậm chí không dám nhìn ra ngoài, chỉ co rúm trong lều trong hổ thẹn và sợ hãi, cầu khấn cho đêm chóng qua, cho không một người vô tội nào khác bị làn sóng bạo tàn cuốn nuốt. Chhotu và Dayaram cố lẻn đi cầu cứu trên đồn cảnh sát tỉnh, nhưng cả hai bị đuổi bắt và bị đâm chết tại chỗ.
Dukhi, Roopa, Radha cùng hai đứa con gái bị trói lại và bị lôi ra phòng chính. “Còn thiếu hai đứa nữa,” chúa đất Dharamsi nói. “Thằng con cả và thằng cháu nội.” Một tên chạy đi lùng sục xung quanh, và báo rằng cả hai đang sống trên thị trấn. “Hừ, chả sao, thịt năm đứa này cũng đủ rồi.”
Cái xác sứt sẹo được mang tới và vứt trước mặt các tù nhân. Căn phòng tối om. Chúa đất Dharamsi ra lệnh xách một chiếc đèn vào để cả nhà nhìn cho rõ.
Ánh sáng lập tức xé toạc chiếc áo choàng nhân từ của bóng đêm. Khuôn mặt của cái tử thi trần truồng đã cháy xém và méo mó đến dị dạng. Chỉ nhờ vết bớt đỏ sậm trên ngực người chết, cả nhà mới nhận ra đó đúng là Narayan.
Một tiếng rú dài vỡ ra từ họng Radha. Nhưng tiếng thét đau đớn chẳng mấy chốc đã hòa làm một với cơn hấp hối của cả gia đình; ngôi nhà bị châm lửa. Những lưỡi lửa đầu tiên lem lém liếm vào bó da thịt bị trói cứng. Duy có trận gió hanh hao là còn rủ chút lòng từ bi trong đêm ấy: nó thổi ngọn lửa bùng lên dữ dội. Trong nháy mắt, vầng sáng nuốt gọn cả sáu con người.
Đến khi Ishvar và Omprakash hay tin, tro đã nguội, và mấy thi thể bị cháy thành than đã vỡ vụn và tan vào nước sông. Mumtaz ôm chặt Omprakash vào lòng, trong khi Ashraf cùng Ishvar ra đồn cảnh sát để khai Đơn tố cáo bị hại.
Đang lúc tai đau, tay phó thanh tra không ngừng xoi ngón út vào tai mà ngoáy lấy ngoáy để. Hắn không tài nào tập trung nổi. “Tên gì? Đánh vần lại đi. Chậm thôi.”
Để làm thân với đại diện của chính quyền, Ashraf bèn mách cho gã một phương thuốc gia truyền, mặc dù ruột ông đang sôi lên vì căm giận và chỉ muốn tát lệch mặt hắn để bắt hắn chú ý vào việc. “Dầu ô liu ấm sẽ giúp anh giảm đau,” ông nói. “Hồi xưa bà cụ nhà tôi chữa cho tôi bằng cách ấy đấy.”
“Thật hả? Mấy giọt? Hai hay ba?”
Sau đó, với thái độ hết sức miễn cưỡng, cảnh sát tìm về ngôi nhà để chứng thực những lời khai trong Đơn tố cáo bị hại. Họ báo lại, rằng không tìm thấy chứng cứ nào liên quan đến hành vi phóng hỏa hay giết người.
Tay phó thanh tra lập tức nổi xung với Ishvar. “Mày tính lừa ai đấy? Dám đem chuyện bố láo khai vào Đơn tố cáo à? Lũ tiện dân bẩn thỉu chúng mày chỉ gây rối là giỏi! Xéo ngay kẻo tao xích cổ mày lại vì tội lừa đảo người thi hành công vụ bây giờ!”
Choáng váng không nói nên lời, Ishvar nhìn sang Ashraf, ông già bèn cố mở lời phân bua. Gã phó thanh tra cộc cằn ngắt lời: “Việc này không liên quan đến cộng đồng của các ông. Lúc dân Hồi các người sinh chuyện với nhau, chúng tôi có chõ mũi vào đâu?”
Hai ngày sau đó, Ashraf không buồn mở cửa hiệu, lòng ông trĩu nặng vì cảm giác bất lực. Cả ông lẫn bà Mumtaz đều không dám mở miệng an ủi Omprakash hay Ishvar – lời lẽ nào xoa dịu nổi một mất mát như thế, một sự bất công tàn bạo nhường ấy? Điều tốt nhất họ có thể làm là khóc cùng hai bác cháu.
Đến ngày thứ ba, Ishvar bảo ông mở cửa hiệu, và họ bắt đầu may trở lại.
“Cháu sẽ tập hợp một đội quân nhỏ gồm toàn người Chamaar, trang bị vũ khí cho họ, rồi tiến thẳng đến nhà bọn địa chủ,” Omprakash nói, chiếc máy may của cậu chạy như bay. “Muốn tìm đủ người cũng dễ thôi. Bọn cháu sẽ bắt chước bọn phiến quân Naxal.” Vừa cắm cúi trước máy may, cậu vừa tả lại cho bác Ishvar và ông trẻ Ashraf những chiến lược được những người nông dân nổi dậy ở vùng đông bắc sử dụng. “Cuối cùng, bọn cháu sẽ chém đầu chúng rồi cắm lên đầu ngọn giáo mà bêu giữa chợ. Lũ chúng nó sẽ không bao giờ dám áp bức cộng đồng chúng ta nữa.”
Ishvar để mặc cháu nung nấu ý nghĩ trả thù. Phản ứng đầu tiên của chính ông cũng y như vậy; ông trách nó sao đành? Bàn tay còn có thể tìm nguồn giải khuây trong may vá, chứ tâm trí đang bị vò xé khổ sở biết làm sao để thoát khỏi cơn mê loạn. “Nói bác nghe, Om, sao cháu lại biết rõ mấy chuyện đó thế?”
“Cháu đọc trên báo. Nhưng như thế chẳng phải hợp lẽ thường tình lắm ư? Trong gia đình đẳng cấp thấp nào cũng có người từng bị bọn địa chủ ngược đãi. Chắc chắn họ sẽ rất nóng lòng muốn trả thù. Chúng cháu sẽ giết hết bọn chúa đất cùng lũ lâu la của chúng. Và cả mấy thằng cảnh sát biến chất kia nữa.”
“Còn sau đó thì sao?” Ishvar dịu dàng hỏi, khi ông thấy đã đến lúc cháu mình cần kéo suy nghĩ khỏi cái chết để hướng về cuộc sống. “Chúng sẽ lôi cháu ra tòa và treo cổ cháu.” “Cháu chả sợ. Nếu cháu đang ở cùng bố mẹ thay vì an toàn trong cửa hiệu này, cháu cũng đã chết rồi.”
“Om, cháu ơi,” Ashraf nói. “Báo thù không phải là chuyện chúng ta nên bận tâm. Bọn giết người rồi sẽ bị trừng phạt. Trong kiếp này hoặc kiếp sau, tùy ý Thánh Allah. Có khi chúng đã bị trừng phạt rồi cũng nên, ai biết được?”
“Đúng rồi, ông trẻ ạ, ai biết được?” Omprakash nhại lại bằng giọng mỉa mai và bỏ đi ngủ.
Kể từ cái đêm kinh hoàng sáu tháng trước, Ishvar đã thôi không ở trong nhà trọ nữa, vì Ashraf cứ nhất quyết nài kéo. Trong nhà bây giờ thiếu gì chỗ, ông nói, mấy đứa con gái đều đi lấy chồng hết rồi. Ông ngăn đôi căn phòng phía trên cửa hiệu – một bên cho ông và bà Mumtaz, bên kia cho Ishvar và thằng cháu.
Họ nghe tiếng Omprakash đi lại trên gác, chuẩn bị lên giường ngủ. Mumtaz ngồi sau nhà, đang cầu nguyện. “Mấy chuyện trả thù này nếu chỉ nói suông thì không sao,” Ishvar nói. “Nhưng nhỡ thằng bé quay về làng, làm chuyện gì dại dột thì…”
Hai chú cháu băn khoăn trăn trở về tương lai thằng bé suốt hàng tiếng đồng hồ, rồi cũng lên gác để đi nghỉ. Ashraf theo Ishvar sang bên kia vách ngăn nơi Omprakash nằm ngủ, hai chú cháu đứng bên nhau một lúc, cùng nhìn đứa cháu.
“Tội nghiệp thằng bé,” Ashraf nói khẽ. “Gặp biết bao nhiêu chuyện bất hạnh. Chúng ta phải làm gì để giúp nó bây giờ?”
Câu trả lời, vừa hay, lại tới cùng vận bĩ của của Hiệu may Muzaffar.
Khi một cửa hàng quần áo may sẵn được mở ra trên thị trấn, vụ thảm sát đã trôi qua tròn một năm. Chẳng bao lâu sau, danh sách khách hàng của Ashraf bắt đầu teo tóp dần.
Ishvar cho rằng tổn thất này chỉ là tạm thời. “Một cửa hiệu mới to đẹp, lại có hàng chồng áo để tha hồ chọn – hút khách chính ở chỗ đấy chứ đâu. Tự nhiên ai cũng thấy mình quan trọng, vì được thử nhiều kiểu dáng mẫu mã khác nhau mà. Nhưng đến khi cảm giác mới lạ nhạt đi, quần áo lại không vừa, là những kẻ phản bội sẽ quay về với ta thôi.”
Ashraf không được lạc quan như thế. “Giá cả thấp hơn của họ sẽ đánh bại chúng ta. Họ sản xuất mỗi lúc hàng trăm cái quần cái áo trong các nhà máy lớn. Chúng ta cạnh tranh sao lại?”
Chỉ ít lâu sau, chỉ cần mỗi tuần có một ngày bận rộn là hai người thợ may cùng cậu học việc đã thấy may mắn lắm rồi. “Lạ quá, phải không,” Ashraf nói. “Một thứ ta chưa bao giờ nhìn thấy lại hủy hoại cơ nghiệp ta đã gây dựng suốt bốn mươi năm trời.”
“Nhưng chú chả nhìn thấy cửa hàng đồ may sẵn rồi còn gì.”
“Không, ý ta là những nhà máy trên thành phố kia. Chúng to đến cỡ nào nhỉ? Ai làm chủ chúng? Họ trả công thế nào? Ta mù tịt hết, ta chỉ biết rằng chúng sắp biến bọn ta thành ăn mày thôi. Có lẽ lúc về già, ta sẽ phải đến đấy làm thuê mất.”
“Không đời nào,” Ishvar nói. “Nhưng có lẽ cháu nên đi.”
“Không ai đi đâu hết,” nắm đấm của Ashraf đập sầm xuống bàn. “Chú cháu ta ở đây có cháo ăn cháo, có rau ăn rau, mấy câu ta vừa nói chỉ là đùa thôi. Cháu nghĩ ta lại đành lòng đuổi con cháu mình đi ư?”
“Kìa chú, chú đừng cáu, cháu biết chú không có ý đó mà.”
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, câu đùa nọ biến thành một phương án cần suy xét nghiêm túc, bởi khách hàng tiếp tục đổ xô đến cửa hàng quần áo may sẵn. “Cứ tình hình này, ba người bọn ta chỉ có nước ngồi đuổi ruồi từ sáng sớm đến tối đêm thôi,” Ashraf nói. “Ta thì chả ngại gì. Ta đã sống gần hết đời, cũng đã nếm hết hoa trái, ngọt đắng đủ cả. Nhưng như thế thật bất công với Om.” Ông thấp giọng. “Có lẽ tốt nhất nên để nó đến một nơi khác thử vận may.”
“Nhưng nó đi đâu, cháu sẽ phải theo đấy,” Ishvar nói. “Nó còn trẻ quá, đầu vẫn còn đầy những tư tưởng ngu ngốc.”
“Có phải lỗi của nó đâu, quỷ sứ xúi giục nó đấy thôi. Tất nhiên cháu phải đi cùng nó, giờ cháu chính là cha nó mà. Việc hai cháu có thể làm bây giờ là ra đi một thời gian. Không cần phải đi lâu. Chừng một, hai năm thôi. Cố làm việc chăm chỉ, kiếm tiền, rồi quay về đây.”
“Đúng đấy. Người ta nói trên thành phố kiếm tiền dễ lắm, việc nhiều, cơ hội nhiều.”
“Chính thế. Và với số tiền đó, các cháu có thể mở một cửa hàng kinh doanh thứ gì đó khi quay về. Một sạp bán trầu cau, hoa quả, hoặc đồ chơi. Các cháu cũng có thể bán quần áo may sẵn lắm chứ, ai biết được.” Nói đến đấy, hai chú cháu cùng ồ lên cười, nhưng cả hai đều nhất trí rằng một vài năm đi xa sẽ là tốt nhất cho Omprakash.
“Chỉ còn một cái khó nữa,” Ishvar nói. “Cháu chẳng quen biết ai trên thành phố cả. Biết bắt đầu từ đâu đây?”
“Mọi việc sẽ đâu vào đó thôi. Ta có một người bạn rất thân, ông ấy sẽ giúp các cháu tìm việc. Tên ông ấy là Nawaz.
Ông ấy cũng là thợ may, có cửa hiệu riêng trên ấy.”
Họ ngồi đến quá nửa đêm, bàn thảo kế hoạch, mường tượng ra một tương lai mới mẻ trên thành phố bên bờ biển, thành phố có những tòa nhà lớn, những con đường thênh thang đẹp đẽ, những khu vườn tráng lệ, và hàng triệu triệu con người cần mẫn làm việc, tích cóp của cải.
“Cháu xem này, ta cũng háo hức như thể chính mình sắp đi cùng cháu vậy,” Ashraf nói. “Mà nếu còn trai tráng, thế nào ta cũng đi. Ở đây sẽ quạnh quẽ lắm đây. Ta chỉ ước ao có cháu và Om quây quần bên cạnh đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay.”
“Nhưng bọn cháu sẽ ở bên chú mà,” Ishvar nói. “Cháu và Om sẽ sớm quay về. Chẳng phải ta đã lên kế hoạch như thế còn gì?”
Ashraf viết thư cho bạn, nhờ ông ta cho Ishvar và Omprakash ở nhờ khi họ đến nơi, rồi giúp họ ổn định công ăn việc làm trên thành phố. “Gia đình cháu đã nhận biết bao nhiêu ơn huệ của chú, từ hơn ba chục năm nay.”
“Chẳng ơn huệ nào đền đáp được những gì cháu và Narayan đã làm cho gia đình ta,” Ashraf nghẹn ngào nói. “Nào, bỏ cây kéo thợ may vào túi hành lý đi cho lão già này vui.” Ông lau khô mắt, nhưng chúng lại ầng ậng nước. “Nhớ nhé, nơi này luôn mở rộng vòng tay đón các cháu về nếu mọi sự không được như ý.”
Ishvar bèn nắm chặt tay ông và đặt lên ngực mình. “Có khi chú sẽ lên thành phố chơi một chuyến trước khi bọn cháu quay về ấy chứ.”
“Nếu Thánh Allah phù hộ. Ta vẫn hằng ao ước được hành hương đến thánh địa Mecca một lần trước khi chết. Mà tất cả những thuyền lớn đều nhổ neo từ thành phố. Thế nên, ai biết được?”
Sáng hôm sau, Mumtaz dậy từ sớm để pha trà và chuẩn bị một gói đồ ăn đường cho hai bác cháu. Ashraf ngồi im lặng nhìn họ ăn, bần thần trước giây phút chia li. Ông chỉ mở miệng đúng một lần để hỏi: “Cháu đã cất kĩ tờ giấy ghi địa chỉ của ông Nawaz trong túi chưa?”
Họ uống cạn trà và Omprakash gom mấy cái tách lại để mang đi rửa. “Cứ để đấy,” Mumtaz ngăn cậu lại, nước mắt giàn giụa. “Tí nữa bà sẽ rửa cho.”
Đã đến lúc lên đường. Hai bác cháu ôm ông Ashraf và bà Mumtaz, hôn lên má họ ba lần. “Ôi chà, hai cái lỗ đáo già của ta thật vô dụng,” Ashraf nói. “Cứ rỉ nước tong tỏng, thành bệnh mất rồi.”
“Bọn cháu bị lây bệnh của chú mất rồi,” Ishvar nói, đoạn ông và Omprakash cũng đưa tay lên chùi mắt. Khi họ xách hành lý cùng bọc chăn gối lên và đi bộ về phía đường ray tàu hỏa, mặt trời còn chưa ló dạng.
Hai người thợ may lên đến thành phố lúc đã khuya. Vừa rú sòng sọc và kêu lạch xạch, đoàn tàu vừa trườn vào ga. Trên loa nổi lên tiếng thông báo nghe lập bập như người nói lắp. Hành khách đi tàu túa ra giữa một biển gia đình và bạn hữu đang chờ đón. Khắp nơi rộn lên tiếng rú rít nhận nhau, rồi giàn giụa những nước mắt của hạnh phúc. Sân ga phút chốc biến thành một cơn lốc xoáy quay cuồng của xúc cảm nhân tính. Dân cửu vạn lao vào một cuộc tranh cướp khốc liệt, ra sức mời mọc khách mua dịch vụ cơ bắp của mình.
Ishvar và Omprakash đứng bàng hoàng bên lề cuộc hỗn chiến. Cảm giác phiêu lưu đã khai hoa nở nhuỵ một cách miễn cưỡng trên con đường rong ruổi nay đã tàn rũ. “Hai Ram,” Ishvar kêu lên, bụng thầm ước được nhìn thấy một khuôn mặt thân quen. “Người đâu ra mà lắm thế.”
“Ta đi nào,” Omprakash nói. Cậu xách bọc đồ, hối hả len qua hàng rào người và hành lý, như thể cậu tin chắc rằng một khi họ đã vượt qua được nó, mọi sự sẽ đâu vào đấy – thành phố hứa nằm ngay bên kia chướng ngại cuối cùng này thôi.
Họ lặn lội rẽ lối qua sân ga và thoát ra gian sảnh mênh mông của nhà ga, với trần nhà cao vút như trời và những cây cột vươn lên tít tắp chẳng khác nào những cây đại thụ trong truyện cổ tích. Họ đi loanh quanh trong tình trạng u mê, vừa đi vừa hỏi han, tìm kiếm sự giúp đỡ. Đáp lại câu hỏi của họ, mọi người chỉ bắn lại những câu trả lời qua quýt, hoặc chỉ trỏ, còn hai bác cháu gật đầu lia lịa vẻ biết ơn, nhưng chẳng thu được gì hết. Mất đến một tiếng họ mới phát hiện ra mình phải bắt một chuyến tàu nội đô để đến chỗ ông bạn của Ashraf. Cuộc hành trình kéo dài hai mươi phút.
Một người được hỏi chỉ cho họ đi đúng đường. Căn nhà ở kiêm cửa hàng chỉ cách nhà ga mươi phút đi bộ. Vỉa hè la liệt người nằm ngủ. Từng vệt sáng vàng vọt yếu ớt hắt xuống từ các cột đèn đường, rơi rớt như những giọt mưa vẩn đục trên những hình người bọc giẻ rách, Omprakash rùng mình. “Trông chả khác gì xác chết,” cậu thì thào. Cậu căng mắt nhìn họ, cố tìm kiếm một dấu hiệu của sự sống – một lồng ngực phập phồng, một ngón tay khẽ cựa, một hàng mi chơm chớp. Nhưng ánh sáng đèn không đủ để cậu nhận thấy những cử động vụn vặt như thế.
Cảm giác nhẹ nhõm dần thế chỗ nỗi sợ hãi khi họ tiến càng lúc càng gần đến nhà của ông bạn Ashraf. Cơn ác mộng đi đường sắp chấm dứt. Để đến được cửa hiệu, họ phải đi qua những tấm ván bắc ngang một mương nước lộ thiên. Chân Omprakash suýt nữa lọt qua một khe gỗ mục. Ishvar đã kịp túm lấy khuỷu tay cháu. Họ gõ lên cửa.
“Chúng cháu chào chú ạ,” họ chào Nawaz, đôi mắt ngước lên nhìn ông ta với vẻ mặt cần có đối với một kẻ ban ơn.
Nawaz hầu như chẳng buồn đáp lại lời chào. Ông ta vờ như không biết tí gì về việc hai bác cháu sẽ tới. Sau ba lần bảy lượt chối, ông ta mới nhận rằng quả đã có một lá thư của Ashraf, và miễn cưỡng đồng ý cho họ ngủ dưới mái hiên sau bếp trong vài ngày, cho đến khi họ tìm được chỗ ở. “Chỉ vì nể Ashraf nên tôi mới giúp thôi đấy,” ông ta đay đi đay lại. “Cái chính là, ở đây còn chả đủ chỗ cho chính gia đình tôi nữa là.”
“Cảm ơn chú, chú Nawaz,” Ishvar nói. “Vâng, chỉ mất vài ngày thôi ạ, cảm ơn chú.”
Họ ngửi thấy mùi thức ăn đang nấu, nhưng Nawaz không mời họ cùng ăn. Tìm thấy một vòi nước bên ngoài tòa nhà, hai bác cháu rửa tay và mặt mũi, rồi chụm hai bàn tay vốc nước mà uống. Ánh sáng từ trong nhà hắt ra qua cửa sổ bếp. Họ ngồi bên dưới ô cửa và ăn nốt chiếc bánh chapati bà Mumtaz đã gói sẵn, lắng nghe những thanh âm vọng ra từ các tòa nhà xung quanh họ.
Mặt đất dưới mái hiên ngổn ngang những lá, vỏ khoai tây, hạt của những thứ quả gì không rõ, xương cá, và cả hai cái đầu cá với hốc mắt trống rỗng.
“Làm sao chúng ta ngủ ở đây được?” Omprakash nói. “Bẩn quá.”
Cậu nhìn quanh, và phát hiện ra một cây chổi dựng cạnh cửa hậu nhà Nawaz, cán tựa lên đường ống thoát nước. Cậu bèn mượn tạm để quét hết rác rưởi vào một chỗ, còn Ishvar hứng từng ca nước vẩy lên nền đất trước khi đưa chổi thêm một lượt nữa.
Tiếng quét quáy lôi Nawaz ra khỏi nhà tra xét. “Chỗ này chưa đủ tốt cho hai bác cháu các người à? Có ai ép các người ở lại đâu.”
“Không, không, tốt lắm ạ,” Ishvar nói. “Chúng cháu chỉ dọn dẹp một tí thôi.”
“Thứ các người đang dùng là tài sản của tôi đấy nhá,” ông ta chỉ vào cây chổi.
“Dạ, chúng cháu đang…”
“Cái chính là, trước khi lấy món gì, các người phải hỏi đã chứ,” ông ta nạt nộ, rồi bỏ vào nhà.
Chờ đến khi khoảng đất dưới mái hiên khô nước, họ mới trải chăn chiếu ra. Tiếng ồn từ các tòa nhà xung quanh không vợi đi chút nào. Đài bật oang oang. Một gã đàn ông quát tháo một phụ nữ, đánh đập cô ta, nghỉ tay một tí khi cô ta choe chóe kêu cứu, rồi lại đánh tiếp. Một người say rượu hét la bai bải rằng mình bị bạo hành, đáp lại anh ta là một tràng cười khả ố. Tiếng gào rú của xe cộ văng vẳng phía xa. Vầng sáng lấp lóa hắt ra từ một ô cửa sổ khiến Omprakash tò mò; cậu nhỏm dậy và nhòm vào trong. Cậu vẫy tay ra hiệu cho Ishvar tới xem cùng. “Xem ké tí!” Cậu khẽ thì thào, giọng phấn khích. Chưa đầy một, hai phút, có người trong nhà phát hiện ra hai bác cháu đang nhòm trộm chiếc tivi và xua họ đi.
Họ quay về chỗ ngủ của mình và ngả một giấc chập chờn. Có một lần, họ bị đánh thức bởi tiếng rít choe chóe nghe có vẻ của một con vật bị giết.
Trong nhà không đưa ra lấy một lời mời uống trà vào sáng hôm sau, Omprakash cho đó là một sự xúc phạm. “Tục lệ ngoài thành phố nó khác,” Ishvar xuê xoa.
Họ rửa ráy, uống nước, và quanh quẩn đứng chờ tới lúc Nawaz mở cửa hiệu. Ông ta thấy hai bác cháu đứng trên bậc cấp, cổ nghển lên, cố nhòm vào trong. “Sao? Các người muốn gì?”
“Xin lỗi đã làm phiền chú, nhưng chú có biết chúng cháu cũng là thợ may không ạ?” Ishvar nói. “Chúng cháu có thể làm cho chú được không? Trong cửa hiệu của chú ấy ạ? Chú Ashraf bảo chúng cháu…”
“Cái chính là, không có đủ việc,” Nawaz vừa nói vừa thối lui vào trong. “Các người sẽ phải đi chỗ khác mà tìm.”
Ishvar và Om đứng ngay trên bậc cấp mà buông lời thắc mắc – chả lẽ sự giúp đỡ của Nawaz tất tần tật chỉ đến thế này thôi sao? Song ông ta quay lại chỉ sau một phút cùng giấy và bút chì cho hai bác cháu, đoạn đọc tên các hiệu may cùng đường đi tới đó. Họ bèn cảm ơn ông đã chỉ điểm giúp.
“Còn một việc,” Ishvar nói, “tối qua chúng cháu nghe thấy nhiều tiếng thét rất khủng khiếp. Chú có biết là chuyện gì không ạ?”
“Lại bọn cư ngụ ngoài vỉa hè chứ ai. Một thằng dám ngủ ở chỗ của một thằng khác. Thế là chúng nó cầm gạch tương vỡ đầu thằng kia ra. Lũ đấy rặt một bọn súc vật.” Ông ta quay vào làm việc, còn hai người thợ may ra đi.
Sau khi nghỉ chân làm cốc trà ở một quán nơi góc phố, hai bác cháu mất nguyên một ngày khiếp đảm và vô ích phục vụ công cuộc tìm kiếm các địa chỉ. Ở nhiều chỗ biển báo đường biến mất, hoặc bị che lấp dưới hàng tá áp phích cổ động chính trị và quảng cáo. Họ phải dừng lại luôn luôn để hỏi đường các chủ tiệm cùng người bán hàng rong.
Họ cố tuân thủ chỉ thị được nhai đi nhai lại trên mấy tấm pa-nô: “Người Đi Bộ! Hãy Đi Trên Vỉa Hè!” Song việc này thật thiên nan vạn nan vì vô số hàng quán được mở ngay trên nền bê tông. Rốt cuộc họ đành đi dưới lòng đường như những người khác, thất kinh vì đủ loại xe hơi cùng xe buýt, sửng sốt trước đám đông người có thể luồn lách cực nhanh giữa dòng xe cộ, với khả năng thiên phú giúp họ vọt ra khỏi tuyến đường mình đang đi khi tình thế đòi hỏi.
“Chúng ta cũng tập xem,” Om nói, giọng có vẻ háo hức thử nghiệm.
“Tập cái gì? Tập giết người hay tập bị giết? Đừng có ra điều trứng khôn hơn rận nữa, cháu sẽ bị xe cán chết tươi đấy.”
Song vụ tai nạn duy nhất họ được chứng kiến hôm đó lại xảy ra với chiếc xe kéo tay của một người đàn ông; sợi dây buộc một chồng hộp bị bung ra, khiến hàng hóa bên trong rơi vung vãi khắp nơi. Hai bác cháu bèn chạy tới giúp chất lại hàng lên xe.
“Trong này có gì thế?” Om hỏi, tò mò vì tiếng lạo xạo bên trong.
“Xương,” người kia đáp.
“Xương á? Xương trâu xương bò à?”
“Xương người, như của tôi với cậu ấy. Để xuất khẩu. Làm ăn lớn lắm.”
Hai bác cháu mừng thầm khi thấy chiếc xe lăn bánh đi khuất. “Nếu biết trong đó chứa gì, bác đã chả đời nào dừng lại giúp,” Ishvar nói.
Đến tối, vốn địa chỉ trong danh sách đã cạn kiệt mà không hề mang lại chút công việc hay hi vọng nào. Hai bác cháu mò mẫm tìm đường trở về cửa hiệu của Nawaz. Tuy rằng buổi sáng họ đã đi tuyến đường này, nhưng giờ xem ra đường sá chẳng có chút gì quen thuộc cả. Hoặc giả chỗ nào trông cũng na ná như nhau. Trường hợp nào cũng gay go cả. Bóng tối đang sụp xuống khiến tình hình tệ càng thêm tệ. Những pa-nô quảng cáo phim mà họ hi vọng có thể dùng làm mốc lại dẫn họ đi lung tung, bởi đột nhiên khắp nơi dường như nảy ra vô số pa-nô. Đến quảng cáo Bobby phải rẽ phải hay trái? Con ngõ đó có áp phích in hình Amitabh Bachchan đang đối mặt với cơn mưa đạn, chân vung lên đá tung mặt một tên tội phạm cầm súng máy, hay áp phích có hình chàng nở nụ cười kiêu hùng với một nàng thôn nữ quê mùa, e ấp?
Rốt cuộc họ cũng tìm thấy con phố nhà Nawaz trong cảnh đói khát và kiệt sức. Hai chú cháu bàn nhau xem có nên mua gì đó ăn trước khi quay về dưới mái hiên chăng. “Không nên,” Ishvar quyết định. “Nawaz và bà vợ sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu họ đang đợi chúng ta về ăn cùng. Có lẽ tối qua họ chưa kịp chuẩn bị thôi.”
Khi họ đi qua cửa hiệu, ông chủ nhà đang ngồi trước máy may. Họ vẫy tay chào nhưng xem ra ông ta không nhận thấy, hai chú cháu đành đi vòng ra sau nhà. “Cháu chết đây,” Omprakash nói, đoạn trải chăn chiếu ra và buông phịch thân mình xuống.
Nằm ngửa mặt lên trời, họ lắng nghe tiếng bà vợ của Nawaz làm lụng trong bếp. Vòi nước đang chảy, cốc tách va vào nhau lanh canh, và có thứ gì đó khua leng keng. Thốt nhiên, họ nghe thấy tiếng ông ta gọi “Miriam!” Bà kia rời khỏi bếp, tiếng bà lao xao rất nhỏ, hai bác cháu nghe không rõ. Rồi phía trước nhà lại nổi lên giọng oang oang, cộc cằn của Nawaz: “Không cần phải bày vẽ thế, tôi đã bảo cô rồi còn gì.”
“Nhưng chỉ là chút trà thôi mà,” Miriam nói. Giờ cả hai vợ chồng đã đứng ở trong bếp.
“Đồ khốn nạn! Đừng có cãi tôi! Không là không!” Hai bác cháu nghe thấy âm thanh sắc đanh của một cái tát, Omprakash sợ rúm người. Một tiếng hét bật ra từ môi Miriam. “Cứ để chúng nó ra hàng mà ăn! Cái chính là, cô chỉ cần nuông chiều một tí là chúng nó sẽ không bao giờ cút đâu!”
Tiếng nức nở của Miriam khiến hai người ở ngoài không thể nghe thủng những gì bà nói, ngoại trừ mấy chữ rời rạc:
“Nhưng tại sao…” rồi “… gia đình Ashraf…” “Có phải gia đình tôi đâu,” ông ta nhổ toẹt.
Hai người thợ may rời mái hiên và tìm đến ngôi quán họ đã ghé qua để uống trà sáng. Sau khi xơi gọn một đĩa puribhaji, Omprakash nói: “Cháu chỉ thắc mắc là tại sao ông trẻ Ashraf lại đánh bạn với một gã xấu xa đến thế.”
“Con người có phải ai cũng như ai đâu. Vả lại, chắc hẳn bao nhiêu năm trời sống trên thành phố đã biến đổi con người Nawaz. Cháu biết đấy, nơi chốn có thể thay đổi con người mà. Theo hướng tốt lên hoặc xấu đi.”
“Có lẽ thế. Nhưng nếu biết bây giờ ông ta đã thành ra thế này, chắc ông trẻ Ashraf sẽ xấu hổ lắm. Giá mà chúng ta có một chỗ khác để ở.”
“Hãy kiên nhẫn, Om ạ. Đây mới là ngày đầu tiên. Rồi chúng ta sẽ sớm tìm được việc gì đó thôi.”
Nhưng trong bốn tuần tìm kiếm, họ chỉ thu được vỏn vẹn ba ngày làm việc, ở một nơi có tên là May cao cấp. Chủ hiệu, một người đàn ông tên Jeevan, thuê họ để chạy kịp hạn giao hàng. Công việc rất đơn giản: may dhoti và áo sơ mi, mỗi loại một trăm chiếc.
“Ai lại cần nhiều áo đến thế?” Omprakash sửng sốt hỏi.
Jeevan giơ một ngón tay búng búng lên cặp môi mím chặt như muốn điều chỉnh tần số thu phát của thiết bị. Anh ta thường làm như thế mỗi khi chuẩn bị hở ra thứ mà anh ta cho là một tiết lộ động trời. “Đừng nói lại với ai nghe chưa – quần áo này để mang đi hối lộ đấy.” Do một người đang chạy đua trong một vụ bầu cử phụ đặt hàng, anh ta giải thích. Ứng viên này sẽ đi rải quà cho một số nhân vật quan trọng trong nhóm cử tri của mình.
Trong hiệu May cao cấp chỉ có chỗ cho một thợ may, song phía sau nhà Jeevan có đủ thứ đạo cụ để biến gian nhà thành một xưởng may cho ba thợ chỉ trong chớp mắt. Ở độ cao chừng một mét hai so với mặt sàn, anh ta bắc ngang mấy tấm ván lên các thanh dầm chìa ra từ các bức tường, tạo thành một cái gác xép tạm. Phía dưới, các tấm ván được đỡ bằng cọc tre. Xong xuôi, anh ta thuê hai chiếc máy may, kéo chúng đặt lên gác, rồi đưa Ishvar và Om lên theo.
Hai bác cháu rón rén ngồi xuống hai chiếc ghế đẩu dành cho mình. “Đừng sợ,” Jeevan nói, tay không ngừng búng môi. “Hai bác cháu anh sẽ chả việc gì đâu, tôi đã làm thế này khối lần rồi. Đây này, tôi làm việc ngay bên dưới các anh – nếu các anh rơi xuống, tôi lại chả chết bẹp trước ấy à.”
Khối kết cấu nói trên khá mong manh, và thường rung lên bần bật khi bàn đạp máy may chạy. Xe cộ đi lại trên phố khiến Ishvar và Om nảy lên xóc xuống trên ghế. Nếu ở đâu đó trong khu nhà có một cánh cửa bị đóng sập lại, cây kéo của họ lại kêu lách cách. Song chỉ sau một thời gian ngắn, hai bác cháu đã quen với trạng thái tồn tại bất định của mình.
Khi được đặt chân xuống đất cứng sau hai tư giờ làm việc mỗi ngày liên tục trong ba hôm, họ bỗng thấy cảm giác thiếu vắng sự rung lắc thật quá đỗi lạ lùng. Họ cảm ơn Jeevan, giúp anh ta tháo dỡ gian gác tạm, và trở về mái hiên của mình trong trạng thái kiệt quệ.
“Giờ phải nghỉ tí đã,” Omprakash nói. “Cháu muốn ngủ nguyên ngày.”
Nawaz liên tục mò ra để tỏ thái độ bất bình khi thấy hai chú cháu trùm chăn ngủ kĩ. Ông ta đứng vênh váo trên ngưỡng cửa hậu, mặt quàu quạu vẻ ghê tởm, hoặc càu nhàu với Miriam về những kẻ lười biếng, vô dụng. “Cái chính là, công việc chỉ đến với những ai thực sự muốn nó,” ông ta rao giảng. “Hai thằng này chỉ là đồ bỏ thôi.”
Cả Ishvar và Omprakash đã quá mệt đến nỗi chẳng còn thấy căm giận, chứ đừng nói tới chuyện làm gì ghê gớm hơn. Sau một ngày nghỉ ngơi phục hồi sức lực, họ lại trở về với thời gian biểu thường nhật: hỏi đường đi vào buổi sáng và đi tìm việc làm đến khi trời tối sụp.
“Chả biết nhà ta còn phải chịu đựng hai thằng kia đến bao giờ,” tiếng cằn nhằn vọng ra từ cửa sổ bếp. Nawaz còn chẳng thèm hạ bớt giọng. “Tôi đã bảo mình từ chối Ashraf đi. Thế mà mình có nghe đâu?”
“Họ có làm phiền gì đến ta đâu,” bà ta khẽ nói. “Họ chỉ…”
“Cẩn thận tí, mình làm tôi đau rồi đấy, khéo cắt mất ngón chân tôi bây giờ!”
Ishvar và Omprakash đưa mắt nhìn nhau vẻ thắc mắc trong khi Nawaz vẫn nhai nhải bài diễn thuyết của mình. “Cái chính là, nếu tôi muốn để người ta sống dưới mái hiên sau nhà tôi, tôi sẽ cho thuê với giá hời. Mình có biết giữ chúng lại đây lâu như vậy thì nguy hiểm đến chừng nào không? Chúng chỉ cần đâm đơn kiện về khoảng không đó, là vợ chồng ta sẽ phải ra hầu tòa vì tội – ái da! Mụ ác phụ kia, tôi đã bảo mình phải cẩn thận kia mà! Với cái cung cách đâm chém đấy, mình đến biến tôi thành thằng què mất thôi!”
Hai người thợ may giật mình, ngồi thẳng dậy. “Cháu phải xem có chuyện gì xảy ra mới được,” Omprakash thì thào.
Cậu kiễng chân lên và nhòm qua cửa sổ bếp. Nawaz đang ngồi trên ghế tựa, bàn chân gác lên một chiếc ghế đẩu con. Miriam quỳ trước ghế, tay cầm một lưỡi dao lam, đang cắt những mẩu da cứng ở các nốt sần và chai chân.
Omprakash rời cửa sổ ngồi xuống và tả lại khung cảnh vừa thấy cho bác. Hai bác cháu cứ cười rúc rích mãi vì việc ấy. “Cháu chỉ thắc mắc là sao lão đần độn ấy lại có chai chân cho được, cả ngày lão chỉ ngồi đồng trước máy may thôi mà,” Omprakash nói.
“Có lẽ trong giấc mơ lão đi khiếp lắm,” Ishvar nói.
Một buổi sáng nọ, chưa đầy bốn tháng sau ngày hai người thợ may tìm đến cửa, Nawaz lần đầu tiên mở miệng quát hai bác cháu khi họ xin lão chỉ điểm giúp. “Ngày nào các người cũng phá rối tôi lúc tôi đang bận làm việc. Thành phố này to lắm. Các người tưởng tôi biết tên của tất cả thợ may ở đây chắc? Tự đi mà tìm lấy. Mà nếu không tìm thấy việc gì dính đến may vá, sao các người không thử làm những việc khác. Ra ga làm cửu vạn chẳng hạn. Dùng cái đầu mình đi, đội mì đội gạo cho khách ở các cửa hàng lương thực ấy. Làm gì đó đi, việc gì chả được.”
Thấy bác mình lộ vẻ luống cuống trước cơn thịnh nộ của lão kia, Omprakash bèn đốp lại ngay: “Bác cháu nhà cháu cũng chả ngại khó ngại khổ gì đâu. Nhưng làm thế khác nào sỉ nhục ông trẻ Ashraf, người đã khổ công dạy dỗ chúng cháu suốt bao năm ròng và truyền lại nghề nhà cho chúng cháu.”
Nghe nhắc đến tên Ashraf, Nawaz thẹn ra mặt. “Cái chính là, bây giờ tôi đang rất bận,” lão lầm bầm. “Xin các người đi cho.”
Ra đến phố, Ishvar vỗ vai cháu. “Giỏi lắm, Om. Cháu đối lại lão một câu đỉnh thật.”
“Cái chính là,” Omprakash nhại, “cái chính là, cháu là một người rất đỉnh mà lị.” Hai bác cháu cười phá lên và chạm cốc mừng chiến thắng nho nhỏ của mình bằng hai cốc trà đã cạn phân nửa nơi góc phố. Dẫu vậy, cuộc ăn mừng chẳng kéo dài bao lăm, nó bị dập tắt bởi hiện thực là khoản tiền tiết kiệm của hai bác cháu đang teo tóp từng ngày. Trong lúc quẫn bách, Ishvar nhận làm việc trong nửa tháng cho một cửa hàng giày dép chuyên đóng hàng theo yêu cầu. Công việc của ông là xử lý những miếng da dùng làm đế và gót. Để tạo được độ cứng cần thiết đối với loại da này, cửa hàng phải dùng phương pháp thuộc da bằng thuốc có nguồn gốc thực vật. Ông đã quá quen với các công đoạn làm việc nhờ những ngày còn ở làng.
Họ giấu kín việc này, vì Ishvar rất xấu hổ vì nó. Mùi thối bám trên tay họ rất nồng, nên ông luôn giữ khoảng cách với Nawaz.
Một tháng nữa lại trôi qua, tháng thứ sáu của hai bác cháu trên thành phố, tương lai của họ vẫn u ám như xưa. Bỗng một tối, Nawaz mở toang cửa hậu và kêu lên: “Mời vào, mời vào. Uống với tôi tách trà nhé. Miriam! Cho ba tách trà đi!” Hai bác cháu tiến lại gần và ngó nghiêng quanh ngưỡng cửa. Mình có nghe nhầm không, họ phân vân.
“Đừng đứng đực ra thế, vào đây, ngồi đi,” ông ta vui vẻ nói. “Có tin tốt đây. Cái chính là, tôi có việc cho hai người rồi đây.”
“Ôi, cảm ơn chú!” Ishvar reo lên, lập tức vỡ òa trong niềm biết ơn. “Thật là tin tốt chưa từng có! Chú sẽ không phải ân hận đâu, chúng cháu sẽ may thật đẹp cho khách hàng của chú…”
“Không phải trong cửa hàng của tôi,” Nawaz đột ngột dập tắt thái độ hồ hởi. “Ở chỗ khác kia.” Ông ta lại cố tỏ ra tươi tỉnh như trước, mồm vừa toe toét cười vừa nói. “Hai người sẽ thích công việc này, tin tôi đi. Để tôi nói kĩ hơn cho mà nghe. Miriam! Ba tách trà, tôi đã nói rồi kia mà! Mình đâu rồi?”
Bà ta bước vào cùng ba cốc trà. Ishvar và Omprakash đồng loạt đứng lên, chắp hai bàn tay lại: “Chúng cháu chào cô ạ.” Họ vẫn thường xuyên nghe thấy giọng nói dịu dàng, lanh canh như chuông bạc của bà, nhưng đây là lần đầu tiên họ được đứng mặt đối mặt với bà. Ấy là nói thế, chứ khuôn mặt của bà đã bị giấu kín sau một lớp khăn bịt màu đen. Đôi mắt bà, nhốt sau lỗ khoét đắp hai lần chàng mạng, sáng lấp lánh.
“A, tốt, cuối cùng cũng có trà rồi,” Nawaz nói. Ông ta chỉ vào chỗ mình muốn ba chiếc cốc được đặt xuống, rồi cộc lốc phẩy tay xua bà vợ ra.
Nhấp được vài ngụm, ông ta lại tiếp tục câu chuyện. “Chiều nay, lúc hai người đi ra ngoài, có một bà người Parsi giàu có tìm đến đây. Giày của bà ta rơi tòm xuống mương.” Ông ta cười hinh hích. “Cái chính là, bà ta có một công ty xuất khẩu to lắm, và đang tìm hai thợ may giỏi. Tên bà ta là Dina Dalal, bà ta có để lại địa chỉ cho hai người đây.” Ông tay rút tờ giấy nhét trong túi áo sơ mi ra.
“Bà ấy có nói là cần may kiểu gì không?”
“Chất lượng thượng hạng, kiểu mẫu mới nhất. Nhưng dễ làm lắm – bà ta nói họ sẽ cung cấp sẵn mẫu bằng giấy.” Ông ta nhìn hai bác cháu vẻ sốt sắng. “Hai người sẽ đi chứ hả?” “Vâng, dĩ nhiên rồi,” Ishvar đáp.
“Tốt, tốt. Cái chính là, bà ta nói bà ta đã để giấy lại rất nhiều cửa hiệu. Thế nên sẽ có khối thợ may đến xin làm.” Ông ta vẽ đường và ghi cả tên nhà ga nơi họ cần bắt tàu lên mặt sau tờ giấy. “Đừng đi lạc đấy nhé. Tối nay đi ngủ sớm đi, sáng mai còn dậy sớm. Phải khỏe mạnh tươi tỉnh, đầu óc minh mẫn, có thế hai người mới giành được công việc của bà ta.”
Như một bà mẹ sắm nắm muốn hoàn thành bổn phận của mình trong ngày đầu tiên con đến trường, Nawaz mở cửa hậu từ lúc tinh mơ và đánh thức hai bác cháu dậy bằng cách lắc vai họ thật lực, rồi phô ra một nụ cười to tướng trước hai cặp mắt ngái ngủ. “Khéo muộn bây giờ. Mời hai bác cháu vào rửa ráy súc miệng, rồi làm tí trà. Miriam! Hai tách trà cho các bạn tôi nhá!”
Trong khi họ uống trà, ông ta hết rủ rỉ những lời động viên, khuyên nhủ, lại đến cảnh báo. “Cái chính là, hai người phải gây ấn tượng với bà ta. Nhưng không được làm ra vẻ đao to búa lớn. Phải trả lời tất cả mọi câu hỏi của bà ta một cách nhũn nhặn, và không bao giờ được ngắt lời bà ta. Đừng gãi đầu hay bất cứ bộ phận nào – những quý bà quý cô lịch sự như bà ta ghét cái thói ấy lắm đấy. Khi nói phải thật tự tin, giọng vừa phải thôi. Và hãy mang theo một chiếc lược, nhớ phải sửa soạn sao cho bộ dạng nom thật gọn gàng sạch sẽ trước khi bấm chuông cửa nhà bà ta. Đầu bù tóc rối là dễ mất điểm lắm đấy.”
Hai bác cháu háo hức lắng nghe, Omprakash tự nhẩm trong đầu sẽ mua một chiếc lược bỏ túi mới; cậu vừa làm gãy chiếc lược của mình tuần trước. Khi trà đã uống xong, Nawaz thúc họ lên đường luôn. “Thượng đế phù hộ cho hai bác cháu, nhớ về sớm nhé. Chúc hai người mã đáo thành công.”
Họ quay về sau ba giờ sáng, bẽn lẽn phân bua với Nawaz, lúc ấy đang lo đứng lo ngồi, rằng mặc dù họ đã đến nơi, song tìm được đúng ga tàu để trở về thật quá gian nan.
“Nhưng đó cũng chính là ga tàu các anh đã xuống buổi sáng mà.”
“Cháu biết,” Ishvar cười ngượng ngùng. “Cháu chẳng hiểu đã có chuyện gì xảy ra nữa. Chỗ đấy xa lắm, chúng cháu chưa đến đó bao giờ, và bọn cháu…”
“Lăn tăn làm quái gì,” Nawaz nói, giọng độ lượng. “Đi đến một chỗ mới cảm giác lúc nào cũng xa hơn quãng đường trên thực tế.”
“Phố nào trông cũng na ná như nhau. Dù có hỏi người đi đường chăng nữa, phương hướng vẫn rất mù mờ. Ngay đến cậu bé sinh viên dễ mến chúng cháu gặp trên tàu cũng gặp vấn đề y như thế.”
“Phải hết sức cẩn thận khi nói chuyện với người lạ. Đây không phải cái làng nhà các anh. Cậu bé dễ mến có thể thó tiền, cắt cổ rồi vứt xác hai người xuống mương ngay tức khắc đấy.”
“Vâng, nhưng cậu ấy tốt lắm ạ, cậu ấy còn cho chúng cháu uống chung cốc nước dưa hấu và…”
“Cái chính là, hai bác cháu anh có nhận được việc không?” “À, có chứ ạ, chúng cháu sẽ bắt đầu từ thứ hai,” Ishvar nói.
“Tuyệt vời. Xin dành cho hai bác cháu rất, rất nhiều lời chúc mừng và khen tặng. Vào nhà đi, ngồi đây với tôi nào, chắc hai người mệt lắm rồi nhỉ. Miriam! Ba tách trà!”
“Ông thật rộng rãi quá,” Omprakash nói. “Hệt như ông trẻ Ashraf.”
Câu mỉa mai ấy nói với Nawaz chẳng khác nào gãi ngứa cho voi. “Ôi dào, giúp đỡ bạn của Ashraf là bổn phận của tôi mà. Giờ hai bác cháu đã tìm được việc rồi, nhiệm vụ tiếp theo của tôi là phải tìm cho hai người một chỗ để ở.”
“Có vội gì đâu, chú Nawaz,” Ishvar kêu lên, trong bụng hơi gợn lo sợ. “Chúng cháu thấy ở đây là tốt lắm rồi, mái hiên nhà chú rất đẹp, lại thoải mái.”
“Cứ để đấy tôi lo. Cái chính là, tìm được một ngôi nhà giữa thành phố này gần như là chuyện không tưởng. Nếu có chỗ nào trống, bác cháu anh phải vồ lấy ngay. Nào, uống nốt trà rồi ta đi luôn.”
“Bến cuối!” Người soát vé hô lớn, tay gõ cây bấm lỗ vé lên thanh vịn bằng crôm. Chiếc xe buýt trườn men theo những con hẻm nhỏ tí của khu nhà ổ chuột tăm tối, rít lên khi quành qua góc đường, và dừng hẳn lại.
“Đây là khu mới mở đấy,” Nawaz nói, tay chỉ vào khu nhà đang trong quá trình bị dãy nhà ổ chuột kí sinh xâm lấn. “Ta đi tìm người quản lý thôi.”
Họ len vào giữa hai dãy lều lán, và Nawaz hỏi một người là ông Navalkar có ở đây không. Người phụ nữ chỉ tay. Họ tìm thấy ông ta trông một cái lán được lấy làm văn phòng.
“Vâng,” Navalkar nói, “chúng tôi vẫn còn vài chỗ trống.” Khi ông ta nói, hàm ria mép lưa thưa rún rẩy trước miệng với một điệu bộ khoa trương có tính toán. “Để tôi dẫn các anh đi xem.”
Họ trở ra, lại len lỏi giữa hai dãy lều lán. “Có ngôi nhà ở góc này,” Navalkar nói. “Nó vẫn còn trống, nếu các anh thích. Nào, vào xem đi.”
Ông ta vừa mở cánh cửa lán ra, một con chó hoang vội chuồn biến qua cái lỗ ở phía lưng lán. Mặt đất lầy bùn được che phủ một phần bằng mấy tấm ván. “Nếu thích, các anh có thể lát thêm gỗ vào cũng được,” Navalkar gợi ý. Bốn bức tường là sản phẩm chắp vá từ một nửa gỗ ván ép, và nửa kia là các tấm kim loại. Mái lán lợp một tấm tôn dợn sóng cũ kỹ, những chỗ thủng được vá víu lại bằng nhựa trong.
“Vòi nước ở ngay ngoài kia, giữa ngõ. Quá tiện. Các anh sẽ không phải đi rạc cẳng mới lấy được nước, như ở những khu nhà hạ cấp khác. Chỗ này rất ổn.” Ông ta khoát tay một vòng như muốn bao quát cả khu vực. “Mới xây dựng, chưa quá đông đúc. Giá thuê là một trăm rupi một tháng. Trả trước.”
Nawaz gõ gõ ngón tay lên tường lán như ông bác sĩ đang kiểm tra ngực bệnh nhân, rồi giậm chân lên một tấm ván lát sàn, khiến nó rung bần bật. Mặt ông ta giãn ra vẻ hài lòng. “Xây tốt đấy,” ông ta thì thọt với hai người thợ may.
Navalkar gật gù cái đầu thành những vòng tròn. “Chúng tôi còn có những lán đẹp hơn kia. Các anh có muốn xem không?”
“Nhìn tí cũng chả hại gì,” Nawaz nói.
Họ được dẫn ra phía sau những dãy lều đắp điếm từ đủ loại ống bơ túi bóng, đến một khu lán tường gạch. Mái lán vẫn là những tấm tôn dợn sóng rỉ sét. “Giá thuê mấy nhà này là hai trăm rưởi rupi một tháng. Nhưng với ngần ấy tiền, các anh lại có nền nhà chắc chắn, lại thêm cả đèn điện nữa.” Đoạn ông ta chỉ lên những cây sào dẫn dây đến các căn lều, điện câu trực tiếp từ nguồn cấp điện cho đèn đường.
Vào bên trong, Nawaz săm soi bức tường gạch trần trụi và lấy ngón tay cái cào lên một viên. “Chất lượng rất tốt,” ông ta nói. “Hai bác cháu muốn biết ý của tôi chăng? Tháng đầu tiên, ta cứ lấy ngôi nhà rẻ tiền đã. Sau đó, nếu công việc xuôi chèo mát mái, tiền của dư dả, hãy chuyển sang nhà này.”
Navalkar tiếp tục lắc lư cái đầu. Sự im lặng của hai người thợ may khiến Nawaz sốt ruột ra mặt. “Sao thế, hai người không thích à?”
“Không không, nhà đẹp lắm. Nhưng vấn đề là tiền.”
“Tiền là vấn đề với tất cả mọi người,” Navalkar nói. “Trừ phi anh là chính trị gia hoặc dân chợ đen.”
Khi tràng cười miễn cưỡng chấm dứt, Ishvar mới nói: “Bắt trả trước thì kẹt cho chúng tôi quá.”
“Chẳng lẽ hai người không có nổi một trăm rupi ư?” Nawaz hỏi, cơ hồ không thể tin nổi.
“Đấy là tại bà thuê thợ may. Bà ta bảo chúng cháu phải tự mang máy may đến. Mà chúng cháu chỉ còn vừa đủ tiền để đặt cọc thuê máy. Mấy tháng vừa rồi, công ăn việc làm chả có, chúng cháu phải ăn lạm vào và…”
“Rõ đồ vô tích sự!” Nawaz nhổ toẹt, mắt thấy mười mươi kế hoạch của mình hòng tống cổ hai bác cháu đang dần tiêu ma. “Sao lại phí phạm tiền của như thế chứ!”
“Nếu chúng cháu có thể ở lại chỗ chú thêm ít lâu,” Ishvar nài nỉ, “chúng cháu sẽ tiết kiệm được đủ tiền…”
“Các người tưởng ngôi nhà này đợi được các người chắc?” Ông ta gầm gừ, và Navalkar lắc đầu lia lịa như thể đã hẹn từ trước.
Vẻ tuyệt vọng, Nawaz quay sang ông kia. “Anh Navalkar, anh có thể châm chước cho chúng tôi được chăng? Hôm nay cứ đặt trước hai nhăm rupi đã, tôi sẽ chi. Số còn lại, mỗi tuần hai người này sẽ trả hai nhăm rupi.”
Navalkar mím môi, răng hàm dưới nhấm nhấm đầu ria mép. Đoạn ông ta đưa đốt ngón tay vuốt lại những sợi râu ướt nước dãi. “Chỉ ưu tiên mình anh thôi đấy. Vì tôi tin anh.”
Nawaz vội vàng xỉa tiền ra đếm đủ trước khi bất cứ bên nào kịp thay đổi ý kiến. Họ quay về chỗ cái lán đầu tiên, Navalkar móc một cái khóa lên cánh cửa gỗ dán và đưa chìa cho Ishvar. “Giờ đây là nhà của anh. Sống tốt nhé.”
Ba người lựa đường đi xuyên qua mặt đất nứt nẻ của khu nhà và dừng lại ở bến đợi xe buýt. Mặt hai người thợ may lộ vẻ lo lắng. “Tôi lại xin dành cho hai bác cháu lời chúc mừng cùng khen tặng lần nữa,” Nawaz nói. “Chỉ trong một ngày mà hai người vừa tìm được việc, vừa kiếm được nhà mới.” “Trăm sự đều nhờ chú cả đấy ạ,” Ishvar nói. “Navalkar là chủ nhà ạ?”
Nawaz cười hô hố. “Tay Navalkar đấy là một thằng ăn cướp bé làm việc cho một thằng ăn cướp to. Một thằng trùm khu ổ chuột tên là Thokray, thằng đấy nắm tất cả mọi thứ ở khu này – rượu lậu, hashish[26], bhung[27]. Mỗi khi nổ ra bạo loạn, đứa nào chết thiêu, đứa nào toàn mạng là quyền ở nó hết.”
Nhận thấy nỗi sợ hãi hiện lên mặt Ishvar, ông ta bèn đế thêm: “Bác cháu anh chả phải lo lắng về nó đâu. Cứ trả tiền nhà đúng hạn thì khắc được yên thân.”
“Nhưng mà, đất này là của ai?”
“Chả của ai cả. Thành phố sở hữu mảnh đất này. Mấy thằng đấy đút lót chính quyền, cảnh sát, thanh tra ngành nước, quan chức ngành điện. Rồi chúng cho những người như các anh thuê lại. Chả hại gì. Đất trống bỏ không – nếu người vô gia cư có thể ở lại đấy, thì có gì là không tốt?”
Trong buổi tối cuối cùng đó, niềm vui trút được một cục nợ khiến Nawaz trở nên hào phóng bất ngờ. “Mời vào ăn cùng tôi,” ông ta mời hai bác cháu vào nhà. “Hãy cho tôi được vinh hạnh ít nhất một lần trước khi hai người đi. Miriam! Ba suất cơm!”
Ông ta hỏi han liệu hai bác cháu ở dưới mái hiên có được thoải mái chăng. “Nếu thích, hai bác cháu có thể ngủ trong nhà. Cái chính là, tôi cũng đã định sắp cho hai người ở đấy lúc các anh mới đến. Nhưng tôi lại tự nghĩ, là ở trong nhà vừa chật chội vừa đông người, chi bằng ra ngoài cho nó mát mẻ.”
“Vâng vâng, quả là thoáng hơn nhiều,” Ishvar nói. “Chúng cháu phải cảm ơn chú đã đối xử tử tế với chúng cháu suốt sáu tháng qua.”
“Lâu thế rồi cơ à? Thời gian trôi nhanh thật.”
Miriam bưng thức ăn ra bày trên bàn rồi lui vào. Dù bị ngăn cách bởi tấm khăn bịt mặt, Ishvar và Omprakash vẫn nhìn thấy đôi mắt bà tràn ngập nỗi hổ thẹn vì thái độ đạo đức giả của chồng.