Tài giỏi không có nghĩa là không bao giờ phạm phải sai lầm, mà ở chỗ nhanh chóng chuyển bại thành thắng.

Bertolt Brecht

 
 
 
 
 
Tác giả: André Gide
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Les Faux-Monnayeurs
Dịch giả: Bửu Ý
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2020-11-20 22:15:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Ba
hừng nào chúng ta còn có một vài địa phương chí mới mẻ và có giá trị - lúc bấy giờ, chỉ lúc bấy giờ, thu góp, so sánh, đối chiếu những dữ kiện, người ta mới có thể xét lại vấn đề tổng quan, ban cho vấn đề này tiến một bước mới mẻ và quyết định. Nếu dùng phương thức khác, thì có nghĩa là khởi đi, với hai ba ý tưởng đơn giản và thô sơ, để đến một loại hành trình chóng vánh. Trong phần đông trường hợp, thì có nghĩa là đi phớt qua bên ngoài cái cá biệt, cái cá nhân, cái ngoại lệ - nghĩa là, nói tóm lại, phớt qua bên ngoài cái hữu ích hơn cả.
LUCIEN FEBVRE, Trái đất và tiến hóa nhân loại
* * *
I
Sự trở về Paris không gây cho nó niềm thích thú.
FLAUBERT, Luyện tình cảm.
NHẬT KÍ Édouard
Ngày 22 tháng 9 - Nóng nực, chán. Trở về Paris sớm trước tám ngày. Sự hấp tấp của tôi bao giờ cũng khiến tôi đi trước sự mời gọi. Hiếu kì hơn là nhiệt tâm, muốn đi trước. Trót khao khát nên không đời nào tôi biết phối trí.
Đưa Boris về với ông nội nó. Bà Sophroniska hôm trước đó đã đi báo cho ông cụ biết, bà cho tôi hay rằng bà cụ đã nhập viện dưỡng lão. Thở phào!
Tôi để thằng bé ở lại trên đầu cầu thang sau khi đã bấm chuông, nghĩ rằng tránh tham dự buổi tượng kiến đầu tiên là việc làm ý nhị hơn, tôi ngại những lời cảm tạ của ông cụ. Về sau, cật vấn thằng bé, vẫn vô hiệu. Tôi gặp lại Sophroniska thì bà bảo rằng thằng bé cũng không tiết lộ gì nhiều hơn với chính bà. Một tiếng đồng hồ sau, như ước hẹn, bà đi đón nó thì một người tớ gái ra mở cửa; bà Sophroniska bắt gặp ông cụ ngồi trước một bàn cờ, thằng bé ngồi tận trong góc cuối phòng, đỏng đảnh. Ông cụ La Pérouse sượng người.
- Lạ thật, cháu nó có vẻ khoái chứ, thế mà bỗng nhiên đâm ra chán. E nó thiếu kiên nhẫn phần nào...
Để hai ông cháu đối đầu với nhau quá lâu là điều không nên không phải.
Ngày 27 tháng 9 - Sáng nay gặp anh Molinier ở Odéon. Pauline và Georges ngày mốt mới về. Một mình ở Paris từ hôm qua, nếu Molinier buồn chán như tôi, thì cái vẻ vui mừng của anh khi gặp lại tôi không có gì lạ. Chúng tôi đến ngồi ở vườn Luxembourg, đợi giờ ăn trưa, chúng tôi định ăn với nhau.
Với tôi Molinier gượng dùng giọng bông lơn, đôi khi lại còn náo hoạt, mà có lẽ anh nghĩ là có tính chất làm cho nghệ sĩ ưa ý. Một âu lo tỏ ra mình còn thanh xuân.
Anh tuyên bố với tôi:
- Bên trong, tôi là một con người đam mê.
Tôi hiểu anh ngụ ý: mê nhục dục. Tôi cười mỉm, như khi ta nghe một người đàn bà tuyên bố mình có chân đẹp, nụ cười có nghĩa là: “Tôi có ngờ vực gì đâu, tin đi.” Cho đến ngày nay, tôi chỉ thấy con người luật gia ở nơi anh mà thôi, giờ đây thì con người đàn ông đã vạch áo pháp quan.
Tôi đợi an tọa trong nhà hàng Foyot mới đề cập đến Olivier, cho anh biết tôi vừa được tin hắn nhờ một người bạn hắn và tôi được tin hắn du lịch tại Corse cùng với bá tước Passavant.
- Đúng thế, bạn của Vincent đấy, Passavant đã đề nghị với Vincent đem Olivier theo. Vì Olivier vừa đỗ tú tài khá cao, mẹ nó nghĩ rằng không nên từ chối cho nó vui... Một nhà văn học, bá tước Passavant. Chắc cậu có quen chứ?
Tôi cũng không giấu giếm rằng tôi không thích gì sách cũng như con người của anh chàng ấy.
Molinier chống chế:
- Đồng nghiệp với nhau đôi khi phê phán hơi khắt khe. Tôi có gắng công đọc cuốn tiểu thuyết mới nhất của Robert de Passavant mà một số nhà phê bình nói tới rầm rộ. Tôi chẳng thấy gì lắm ở trong đó, nhưng cậu biết, tôi chẳng phải người cùng hội cùng thuyền...
Tiếp theo, vì tôi bày tỏ mối quan ngại về ảnh hưởng khả hữu của Passavant đối với Olivier, anh rề rà nói tiếp:
- Nói cho ngay, cá nhân tôi không tán thành cuộc du lịch đó. Nhưng phải nhìn nhận rằng bắt đầu từ tuổi nào đó, con cái lách ra khỏi mình. Đó là lẽ thường, chịu thôi. Pauline thì muốn cúi xuống con cái như xưa. Bà giống mọi bà mẹ. Đôi khi tôi nói với bà: “Bà làm con cái bực mình. Thì hãy để chúng yên coi. Chính bà hỏi han chúng nó là gợi ý cho chúng...” Còn tôi, tôi cho rằng hà tất rình rập chúng lâu. Điều quan trọng là một lần ban đầu giáo dục truyền thụ cho chúng một số nguyên tắc tốt đẹp. Điều quan trọng, thứ nhất là thừa hưởng được của cải. Huyết thống, cậu nhỉ, cậu thấy là nó hơn tất cả. Có những phần tử xấu vô phương cải thiện thì người ta gọi là bọn người trời bắt thế. Bọn này, cần phải cầm chân ráo riết. Nhưng hễ gặp những bản chất tốt, mình có thể nới dây cương một phần.
Tôi vẫn một mực:
- Thế mà anh bảo tôi rằng vụ bắt Olivier đem đi không được sự thỏa thuận của anh.
Molinier cúi đầu vào đĩa, nói:
- Ối dào! Thỏa thuận của tôi... thỏa thuận, đôi khi họ kể gì tôi thỏa thuận. Phải nhìn nhận rằng trong đời sống vợ chồng, và tôi nói tới những cặp hòa hợp hơn cả, rằng là không phải bao giờ cũng là người chồng quyết định. Cậu chưa vợ, vấn đề chẳng bổ béo gì cho cậu...
Tôi cười bảo:
- Xin lỗi anh, tôi là người viết truyện.
-Thế thì chắc cậu có thể nhận thấy rằng không phải luôn luôn vì yếu đuối mà đàn ông để cho đàn bà dẫn dắt.
Tôi giả lả nhượng bộ:
- Quả nhiên nhiều ông cứng rắn, độc tài nữa là đàng khác, mà đặt vào đời sống vợ chồng, người ta vẫn khám phá thấy dễ bảo như cừu.
Molinier lại nói:
- Cậu có biết sở dĩ như thế là do đâu? Mười lần thì hết chín, chồng nhường vợ là vì có một điều gì đó lầm lỗi cần được bỏ qua. Cậu ạ, người vợ đức hạnh chiếm lợi thế trong mọi chuyện. Chồng cong lưng một lát ư, thế là bà nhảy lên đầu. Ấy! Tội cho những đấng làm chồng, thật đáng thương, cậu ạ. Hồi mình trẻ, cứ ước ao vợ trinh trắng mà không biết mình phải trả giá đức hạnh của vợ đến bao nhiêu.
Tôi nâng cằm, chống khuỷu tay xuống bàn, ngắm nghía Molinier. Ông anh khốn khổ phàn nàn vì mình lòm khòm mà không ngờ cách thế đó hợp với xương sống của mình, ông thường hay chạm trán, ăn nhiều, không sành sỏi mà tạp nhạp, và ra vẻ đặc biệt chiếu cố chai rượu bourgogne cũ mà chúng tôi gọi. Hả hê vì cảm thấy mình được nghe, thông cảm, và có lẽ anh nghĩ là được biểu đồng tình, anh thao thao thổ lộ. Anh tiếp:
- Với tư cách luật gia, tôi đã được quen một số bà chỉ hiến thân cho chồng một cách miễn cưỡng, nghịch lí... thế mà nay họ vẫn bất bình khi anh chàng khổ sở bị hất hủi đi nơi khác gỡ gạc.
Con người luật gia bắt đầu câu nói bằng “đã”, thời gian quá khứ, con người chồng kết thúc bằng “nay”, hiện tại, trong một chiều hướng hồi phục bản thân không thể chối cãi. Anh trịnh trọng chua thêm, giữa hai miếng ăn:
- Những sự thèm ăn của kẻ khác dễ có vẻ quá độ khi nào mình không chia sẻ với người ta.
Nốc một hơi dài, nói tiếp:
- Đấy, cậu, điều ấy giải thích cho cậu rõ cách thức ra làm sao mà một người chồng không còn điều khiển gia đình được nữa.
Tôi còn nghe thêm và khám phá ra, bên dưới vẻ thiếu mạch lạc bề ngoài của lời lẽ, sự mong muốn trút trách nhiệm về những thất bại của mình lên đạo hạnh của vợ. Những kẻ rạn nứt đến như con người nhu nhược này đây, tôi tự nhủ, họ ích kỉ bao nhiêu cũng không vừa đủ, cứ khư khư giữ lấy từng thành phần rời rã trên khuôn mặt mình. Quên mình đi một thoáng là họ vụn ra từng mảnh. Anh nín lặng. Tôi cảm thấy cần rót thêm vài lời cảm nghĩ, giống như người ta rót dầu vào bộ máy vừa thí thân cho một chặng đường; và để mời mọc anh lao thêm vào chặng đường mới, tôi ướm lời:
- May mắn là Pauline thông minh.
Ông đáp: “Ừ”, tiếng này kéo dài ra thành giọng không tin tưởng, sau đó:
- Nhưng vẫn có những cái bà không hiểu. Đàn bà dù thông minh đến đâu thì cậu cũng biết... Dù sao, tôi nhìn nhận trong trường hợp này, tôi không khéo léo gì lắm. Tôi có mở lời nói cho bà nghe một câu chuyện phiêu bồng nho nhỏ, trong khi đó tôi cho rằng, tôi tin chắc rằng chuyện nó chẳng đưa đến đâu. Thế mà câu chuyện đã đi xa... những hiềm nghi của Pauline cũng đi xa. Người ta bảo mua lo cho người là thế, tôi đã sơ suất. Tôi phải che giấu, nói dối... Lắm lời lúc ban đầu là thế đấy. Cậu nghĩ xem? Tôi bản tính tin người... Nhưng Pauline lại ghen đáo để và cậu tưởng tượng tôi phải mưu kế tới độ nào.
Tôi hỏi:
- Chuyện đã lâu chưa?
- Ồ! Kéo dài dễ đến năm năm, và tôi ước chừng đã trấn an bà đâu đấy cả rồi. Nhưng mọi chuyện sắp sửa tái diễn. Cậu nghĩ xem, hôm kia, tôi vừa về tới... Gọi một chai Pomard nữa, nhỉ?
- Xin anh, tôi đủ.
- Chắc họ có chai nhỏ. Lát nữa về ngủ tí đỉnh. Trời nóng làm tôi đuối sức... Phải, tôi nói với cậu là hôm kia, khi về tới, tôi mở tủ bàn để thu xếp giấy tờ. Tôi để mắt tới ngăn kéo có cất giấu thư từ của... đương sự. Cậu xem xét nỗi hoảng hốt của tôi, cậu ạ: ngăn kéo trống rỗng. Khổ tôi, tôi hình dung quá rõ ràng những gì đã xảy ra: Trước đây khoảng nửa tháng, Pauline đến Paris cùng với Georges, vì hôn lễ của đứa con gái của một đồng nghiệp của tôi, tôi thì không dự lễ được; cậu biết đấy, hôm ấy tôi ở Hòa Lan... với lại, những lễ lạt đó là việc của đàn bà thì đúng hơn. Vô công rỗi việc trong gian nhà trống, lấy cớ thu dọn, đàn bà thế nào thì anh biết đấy, luôn luôn tò mò phần nào... bà bắt đầu lục lạo... Ồ! Bà không nghĩ ngợi gì đến chuyện tai hại đâu. Tôi không buộc tội bà. Nhưng quái thế, Pauline bao giờ cũng cứ phải có một cái gì để thu dọn... Đấy, cậu bảo tôi ăn nói làm sao, giờ đây bà nắm bằng cơ trong tay? Con nhỏ kia đừng viết tên tôi thì còn đỡ! Gia đình đang êm ấm thế! Cứ nghĩ đến những gì tôi sắp vướng mắc...
Ông già khốn quẫn hì hụp tâm tình. Ông chạm trán, phe phẩy. Tôi uống ít hơn ông nhiều. Con tim đâu phải chờ chực kêu gọi là ban cấp tình xót thương, tôi chỉ cảm thấy lợm người cho ông. Tôi thừa nhận ông làm cha của gia đình (dù tôi khổ tâm nhắn nhủ mình rằng ông là cha của Olivier), dân phong lưu an phận, hiền lương, hưu trí; tưởng tượng ông si tình thì lố bịch. Nhất là tôi ngượng ngùng theo sự vụng về phàm tục của lời lẽ ông, cái nhếch môi nhíu mày của ông; khuôn mặt, giọng nói, chẳng có cái gì có vẻ sinh ra để diễn tả đúng tình cảm mà ông bày tỏ với tôi, tưởng chừng như tiếng đại hồ cầm cố hòa điệu với thanh sắc của đàn alto, nhạc cụ của ông chỉ thu lượm toàn âm thanh lục cục.
- Anh bảo Georges đi cùng mẹ nó...
- Phải, bà không muốn để nó lại một mình. Nhưng dĩ nhiên, ở Paris, nó không phải đeo mãi theo bà... Đấy, cậu, tôi đã bảo từ hai mươi sáu năm chung sống, tôi không hề gây rắc rối gì với bà, gây gổ qua loa cũng không... Hễ nghĩ tới con người bà đang chuẩn bị... chẳng là hai hôm nữa Pauline về tới... A! Coi nào, mình nói chuyện khác nhé. Cậu nghĩ gì về thằng Vincent? Hoàng tử Monaco, một chiếc tuần dương hạm đội... Bảnh thật!... Sao, cậu không hay à?... Thật mà, nó đi xa giám thị những vụ trắc lượng và làm cá gần quần đảo Acores của Bồ Đào Nha. Đấy! Cái thằng này, cam đoan với cậu tôi khỏi phải lo! Một thân một mình nó tiến thân.
- Sức khỏe của nó?
- Hoàn toàn bình phục. Thông minh như nó, tôi tin nó thẳng đường đến danh vọng. Bá tước Passavant nói thẳng với tôi rằng ông coi nó như một trong những người đáng phục nhất mà ông gặp. Ông bảo nó là người đáng phục nhất nữa đấy... nhưng mình phải thừa trừ cái khoản quá lời ấy đi.
Bữa ăn chấm dứt, ông châm điếu xì gà. Ông nói thêm:
- Cậu cho tôi hỏi người bạn của Olivier đã cho cậu tin tức về Olivier là ai thế? Nói cho cậu rõ là tôi đặc biệt quan tâm đến sự bầu bạn của con cái lắm. Tôi cho rằng đề phòng bao nhiêu vẫn không vừa. May bọn con tôi có khuynh hướng tự nhiên là kết bạn với bọn khá hơn cả. Cậu thấy, Vincent với ông hoàng, Olivier với bá tước Passavant... Còn Georges thì gặp lại một thằng bạn nhỏ cùng lớp, thằng Adamanti, huống chi thằng này sẽ trở về trường nội trú Vedel - Azaïs với Georges, cha của thằng bé là thượng nghị sĩ ở Corse. Nhưng cậu xem, ai mà ngờ nổi: Olivier có đứa bạn, trông thì có vẻ gia phong lắm: tên là Bernard Profitendieu gì đó. Phải nói cho cậu hay rằng ông Profitendieu là đồng nghiệp của tôi, một trong những người đáng phục nhất và tôi đặc biệt mến mộ lắm. Thế mà... (nói giữa cậu với tôi)... nay tôi được tin ông không phải là cha của thằng mang họ của ông! Cậu nghĩ sao đây?
Tôi bảo:
- Chính tên Bernard Profitendieu tin tức cho tôi về thằng Olivier đấy.
Molinier phả những cuộn khối lớn rồi nhướng mày thật cao làm trán nhăn tít lại:
- Olivier đừng lui tới với thằng ấy lắm thì hơn. Về trường hợp thằng đó, tôi được nhiều tin đáng thương tâm nhưng không làm tôi ngạc nhiên lắm. Mình cũng thừa sức tự nhủ rằng là một thằng bé sinh ra trong những điều kiện buồn bã như thế thì chẳng trông mong được gì tốt ở nó. Không phải đứa con hoang không thể có ưu điểm lớn, hay nhiều đức tính nữa là khác, có điều kết quả của sự vô trật tự, của sự bất phục tòng buộc lòng kết trong con người nó những mầm mống phản loạn... Mà thật, cậu ạ, cái gì phải đến đã đến. Thằng Bernard đùng một cái bỏ nhà và không bao giờ phải trở về lại nữa. Nó đi “sống cuộc đời mình”, như Émile Augier(16) nói, không hiểu sống bằng cách nào, ở đâu. Khổ thân ông Profitendieu, chính ông cho tôi hay cái trò đời ấy, lúc đầu ông cực kì bấn loạn. Tôi nói cho ông hiểu rằng ông không nên cưu mang quá lắm làm gì. Tóm lại, thằng ấy bỏ đi thì mọi chuyện được ổn định.
Tôi chống chế lại rằng tôi biết kha khá về Bernard để có thể bảo đảm cho tính tình dễ mến và lương thiện của nó (dĩ nhiên không đả động đến câu chuyện chiếc va li). Nhưng Molinier vùng dậy ngay:
- Xin cậu! Tôi thấy phải kể nhiều hơn nữa cho cậu nghe.
Kế, chồm người tới trước và xuống giọng:
- Đồng nghiệp Profitendieu của tôi tự thấy có bổn phận thẩm lí một vụ hắc ám rầy rà vô cùng, tự câu chuyện đã rầy rà mà dư vang và hậu quả có thể xảy ra cũng rầy rà. Câu chuyện khó có thật, mong sao đừng tin nổi... Nguyên đây là một kế hoạch trụy lạc thật sự, cậu ạ, một... Không, tôi không muốn dùng những từ ngữ tồi tệ, hãy coi đó là một phòng trà vậy, phòng trà này phô bày một cái đặc biệt động trời là bọn thường lui tới các căn phòng ở trong, phần đông, và hầu như chỉ gồm toàn bọn học sinh còn rất trẻ tuổi. Tôi bảo cậu là không tin được. Bọn trẻ hẳn nhiên không ý thức tính cách trầm trọng của hành vi mình bởi vì bọn chúng ít tìm cách che đậy. Sự vụ khai diễn sau khi tan học. Nhấm nháp, chuyện trò, đùa giỡn cùng các ả, rồi bài bạc sẽ tiếp liền theo đó trong các gian phòng kế cận. Dĩ nhiên không phải ai muốn vào thì vào. Phải được giới thiệu nhập môn. Ai trả tiền ăn chơi? Ai trang trải tiền nhà? Khám phá cho ra những điều này không có vẻ gì là khó nhọc, nhưng đẩy xa những cuộc thám thính phải hết sức thận trọng mới được, sợ đâm ra biết quá thừa thải, sợ bị lôi cuốn theo, sợ buộc phải theo dõi rồi cuối cùng động đến những gia đình khả kính mà mình đem lòng ngờ là con cái họ có mặt giữa bọn yếu khách. Do đó tôi đã hết sức hãm bớt sự hăm hở của Profitendieu, ông này thì lao đầu vào việc như con bò mộng không ngờ gì về cái húc đầu tiên của mình. (Ôi! Cậu bỏ quá cho, tôi không cố tình nói thế. Ha ha ha! Buồn cười làm sao! Tôi buột miệng thôi.)... Thiếu đường xóc luôn con mình. May sao vụ hè giải tán mọi người, bọn học sinh phân tán, và tôi hi vọng rằng nội vụ sẽ đổ sông tắt lịm đi sau một vài cảnh cáo, hình phạt không gây ồn ào.
- Anh chắc chắn có Bernard Profitendieu nhúng tay vào trong?
- Không hẳn, nhưng mà...
- Thế thì cái gì khiến anh tin như thế?
- Trước hết, hắn là đứa con rơi. Cậu hẳn nghĩ rằng một đứa trẻ bằng tuổi hắn đâu có tránh nuốt nhục mà bỏ nhà ra đi... Vả lại chắc hẳn rằng Profitendieu đâm ra nghi ngại điều gì, bởi lẽ lòng hăng hái của ông đột nhiên đằm lại, tôi nói gì thế kìa, ông có vẻ lùi bước nữa đấy chứ, và lần cuối cùng hỏi ông công chuyện đi đến đâu rồi thì ông tỏ vẻ lúng túng bảo: “Tôi tin chắc cuối cùng chẳng được gì đâu,” rồi ông lẹ làng đánh trống lảng. Tội nghiệp cho Profitendieu! Đấy! Cậu biết, ông không đáng hứng chịu những việc xảy đến. Ông là con người đàng hoàng, và điều có lẽ hiếm có hơn là: chơi đúng điệu! Gớm! Con gái ông vừa thành hôn với một đám đẹp ra phết. Tôi không dự được vì kẹt ở Hòa Lan, nhưng Pauline với Georges có về dự. Tôi nói cho cậu hay chưa nhỉ? Vừa đúng giờ đi ngủ, Sao, cậu muốn trả tiền hết thảy thật sao? Thôi mà! Giữa đàn ông với nhau, coi như bạn, mình chia nhau... Không? Thôi chào vậy. Với lại đừng quên là hai hôm nữa Pauline về. Đến chơi. Với lại đừng gọi tôi là Molinier nữa, gọi: Oscar, là đủ! Từ lâu tôi muốn yêu cầu cậu như thế.
Chiều nay, một mẩu giấy của Rachel, chị gái của Laura:
“Em có nhiều chuyện hệ trọng nói với anh. Nếu không phiền anh quá lắm, anh có thể ghé lại trường ngày mai xế trưa? Anh sẽ giúp em nhiều lắm.”
Nếu để nói với tôi về chuyện Laura thì Rachel đã không chịu chờ đợi đến thế. Đây là lần đầu tiên cô viết cho tôi.
* * *
(16) Emile Augier (1820-1889) là nhà viết kịch người Pháp từng giữ ghế thành viên của Viện hàn lâm Pháp.
II
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
Ngày 28 tháng 9 - Tôi bắt gặp Rachel ở bực cửa phòng học chung, ở tầng trệt. Hai người giúp việc đang lau chùi sàn nhà. Rachel cũng thế, mặc tạp dề giúp việc, giẻ cầm tay.
- Em biết em nhờ anh được, - nàng vừa nói vừa đưa tay ra bắt, kèm theo vẻ mặt buồn buồn nhè nhẹ, nén lòng, mà vẫn tươi, khiến người ta dễ xúc động hơn cả sắc đẹp. - Nếu anh không gấp lắm, tốt hơn mời anh lên thăm ông ngoại với mẹ em qua loa trước đã. Nếu các người hay rằng anh có lại mà không thăm thì chắc các người buồn. Nhưng anh hãy dành thì giờ, em phải nói với anh mới được. Anh xuống lại đây với em; anh thấy không, em coi ngó người ta làm việc.
Vì e ấp thế nào, nàng không bao giờ nói: em làm việc. Rachel suốt đời như cái bóng, và không có cái gì kín đáo hơn, khiêm tốn hơn đức hạnh của nàng. Sự quên mình của nàng tự nhiên cho đến nỗi không có ai trong gia đình cám cảnh cho sự hi sinh triền miên của nàng. Tâm hồn đàn bà đẹp nhất mà tôi được biết.
Lên tầng hai, gia đình Azaïs. Ông cụ không còn rời chiếc ghế của ông nữa. Ông khiến tôi ngồi bên cạnh và gần ngay liền đó nói về ông cụ La Pérouse.
- Tôi lấy làm lo lắng biết ông cụ La Pérouse cô độc và tôi muốn thuyết phục ông đến đây ở. Anh biết, chúng tôi là bạn lâu năm. Tôi có đến thăm ông mới đây. Tôi sợ ông rầu rĩ theo việc bà vợ yêu quý của ông rời đi Sainte-Périne. Người giúp việc bảo ông gần như không ăn uống gì nữa. Tôi cho rằng thông thường con người ta ăn nhiều quá đi, nhưng phàm chuyện gì cũng thế, phải giữ chừng mực, kẻo có thể thái quá mà thành ra bất cập. Ông cụ La Pérouse cho rằng nấu nướng cho một mình ông là chuyện vô ích; tuy nhiên nếu cùng ăn ở đây, thấy người khác ăn, chắc ông sẽ ăn theo. Ở đây thì ông sẽ được gần cháu nội kháu khỉnh của ông mà ông hiếm có dịp gặp, vì từ đường Vavin cho đến khu phố Saint-Honoré là cả một cuộc hành trình. Phương chi, tôi không muốn để thằng bé ra đi một mình giữa Paris. Tôi quen biết Anatole de La Pérouse đã lâu. Luôn luôn khác người. Không phải đó là trách móc, có điều bản tính ông hơi tự phụ và có thể sẽ không nhận sự mời ở của tôi mà không phải đánh đổi một cái gì về phía ông. Bởi vậy tôi nghĩ là có thể đề nghị cho ông giám thị mấy lớp trong giờ học chung, chẳng mệt gì ông mấy, mà lại còn có kết quả tốt là giải trí cho ông, cho thoát ra khỏi con người ông phần nào. Ông giỏi toán, thì nếu cần, ông có thể dạy thêm về hình học và đại số. Nay ông hết học sinh, bàn ghế với cây dương cầm của ông còn được việc gì nữa đâu, ông phải rút lui, và vì đến đây sẽ đỡ tiền nhà cho ông, tôi nghĩ thêm rằng, ông với tôi có thể thỏa thuận một giá cả ăn ở nho nhỏ, để ông dễ chịu hơn và khỏi cảm thấy là bị thọ ân. Anh phải cố thuyết phục ông, đừng chậm trễ lắm, vì với cách sống tội tình như ông, sợ ông chống suy nhược. Mặt khác, hai hôm nữa là khai giảng, cần biết xem mọi chuyện ngã ngũ thế nào và xem có trông mong gì ở ông được không... cũng như ông trông mong gì được ở chúng tôi không.
Tôi hứa đến thưa lại với ông cụ La Pérouse ngay ngày mai. Lập tức, như thể được nhẹ nhõm:
- A! Coi nào, cậu Bernard được anh bảo bọc cho đó, thật là con người trung hậu! Cậu ta tự nguyện đến đây giúp vài công việc nhỏ một cách khả ái, cậu đề cập đến việc giám thị cho bọn nhỏ học, nhưng tôi sợ chính cậu cũng hơi trẻ và không biết cách làm cho chúng nó nể. Tôi nói chuyện lâu với cậu và thấy cậu dễ thương lắm. Với những tính người như thế mới đào luyện nên những con chiên ngoan nhất. Cố nhiên đáng tiếc một điều là vấn đề hướng dẫn, cậu ta đã bị lệch lạc vì lề lối giáo dục ban đầu. Cậu thú thật với tôi là không có đức tin nhưng nói bằng một giọng đáng cho tôi hi vọng tốt đẹp. Tôi trả lời rằng tôi hi vọng tìm thấy ở cậu mọi ưu điểm cần thiết để đào tạo nên người lính nhỏ trung hậu của đức Chúa Trời, và cậu có bổn phận để tâm đến việc nghĩ cách làm sáng giá những tài năng mà Chúa đã trao cho. Tôi với cậu ta cùng nhau đọc lại đoạn ngụ ngôn, và tôi tin rằng hạt giống tốt không rơi nhằm đất xấu. Cậu ta lộ vẻ rúng động vì lời lẽ của tôi và hứa tôi sẽ suy nghĩ.
Bernard cũng đã có thuật lại với tôi buổi chuyện trò này cùng với ông cụ Azaïs, tôi biết nó nghĩ gì, thế nên cuộc nói chuyện này trở nên khá nhọc lòng cho tôi. Tôi đã đứng lên để đi, nhưng ông cụ vẫn nắm bàn tay đưa ra bắt tôi lại:
- Này, anh, tôi có gặp lại cháu Laura đó! Tôi mới biết rằng nó sống suốt tháng trời với anh ở vùng núi xinh đẹp, có vẻ tốt cho nó lắm. Tôi mừng được biết nó trở về với chồng, chồng nó chắc hẳn bắt đầu khổ vì nó bặt tăm đã lâu. Tiếc nỗi công việc không cho phép chồng nó gặp gỡ các người ở bên ấy.
Tôi rút tay để bỏ đi, mỗi lúc mỗi thêm bực bội, vì không hiểu Laura đã bày ra những gì để nói với ông cụ, nhưng, bằng một động tác đột ngột và uy lực, ông đã kéo tôi vào người ông, và nghiêng người tới bên tai tôi:
- Laura có thổ lộ với tôi là nó có tin mừng, nhưng bí mật nhé!... Nó muốn khoan để cho ai biết. Tôi nói với anh là vì biết anh rõ sự tình, và vì anh với tôi đều kín miệng. Khổ cho con nhỏ khi nói với tôi nó ngượng chín người, nó dè dặt thế bảo sao không ngượng. Bởi nó quỳ xuống trước mặt tôi nên ông cháu cùng cảm tạ Chúa đã có lòng ban phước lành tác hợp cho nó.
Tôi thấy tốt hơn đáng lẽ Laura trần tình cách khác mới phải, tình trạng của nàng chưa ép buộc nàng trần tình như thế. Giá như nàng dò hỏi ý kiến tôi thì tôi đã khuyên nàng gặp lại chồng trước đã, vội thổ lộ làm gì. Azaïs nào có hiểu ất giáp gì, nhưng tất cả người nhà không ai khờ khạo đến độ.
Ông cụ còn khua môi thêm vài đường về những đề tài đạo giáo đủ loại, kế đó bảo tôi rằng con gái ông sẽ mừng gặp được tôi, thế là tôi trở xuống tầng lầu gia đình Vedel.
Tôi đọc lại những dòng trên. Nói tới ông cụ Azaïs bằng giọng điệu như thế, thì chính tôi làm cho tôi hóa ra bỉ ổi. Đúng như thế, và tôi viết thêm vài dòng này để cho Bernard tiện dụng, phòng khi cái tính tọc mạch đáng yêu của nó thúc đẩy nó, một lần nữa, chúi mũi vào cuốn tập này. Miễn nó tiếp tục lui tới với ông cụ, nó sẽ hiểu tôi muốn cái gì. Tôi yêu ông cụ lắm,:phương chi”, theo điệu nói của ông, tôi còn kính nể, thế mà hễ ở cạnh ông, tôi không còn cảm thấy mình là ai! Điều này khiến sự gần gũi với ông làm cho tôi khá khổ tâm.
Tôi rất yêu người con gái của ông, tức là vợ mục sư Vedel. Bà trông giống như nàng Elvire của Lamartine(17), một nàng Elvire về già. Cách nói chuyện của bà không phải là không duyên dáng. Lắm khi bà không nói trọn câu, làm cho ý tưởng của bà mang một vẻ gì mông lung thơ mộng. Bà tạo ra cái vô cùng bằng mập mờ lơ lửng. Bà trông mong ở kiếp sau những gì bà thiếu thốn ở kiếp này, điều này cho phép bà dàn rộng mãi thêm những nỗi niềm hi vọng. Bà lấy đà trên miếng đất thu hẹp của mình. Bởi rất ít khi diện kiến chồng mình, bà cho phép mình tưởng tượng là yêu chồng. Vị mục sư khả kính ra đi không ngừng, bị kêu gọi vì trăm ngàn chăm chút, ưu tư, thuyết giáo, hội họp, thăm viếng người bệnh. Ông có bắt ai là bắt tay qua đường, nhưng vì vậy mà ông bắt tay thân tình lắm.
- Bận quá, hôm nay không chuyện trò được.
- Khỏi! Lên thiên đàng hẵng gặp nhau ạ, - tôi đáp như thế nhưng ông không đủ thì giờ nghe ra.
Bà Vedel thở dài:
- Không một lúc nào rảnh rỗi. Anh biết, bao nhiêu là việc nhà tôi tự ý ôm đồm, kể từ ngày mà... Vì thiên hạ biết nhà tôi không hề từ khước, cho nên ai nấy cứ... Buổi tối về, có khi mệt lử làm tôi chẳng dám hé môi chỉ sợ... Ông hiến thân cho người ta nhiều quá nên chẳng còn gì để hiến cho người thân.
Và trong khi bà nói chuyện, tôi hồi tưởng một vài lần Vedel về nhà, thuở tôi lưu trú ở trường nội trú. Tôi trông thấy ông bưng đầu trong tay rồi gào lên sau một lát nghỉ ngơi. Nhưng ngay lúc đó tôi đã nghĩ rằng có lẽ ông ngại nghỉ ngơi chứ không phải là ước được nghỉ ngơi, và trong những điều ban bố cho ông, không có gì làm ông khó nghĩ cho bằng một lát để nghĩ ngợi.
- Anh dùng tách trà chứ? - Bà Vedel hỏi tôi giữa lúc một bé gái giúp việc đem ra một khay đầy.
- Thưa bà, còn có ít đường thôi.
- Ta đã bảo có hỏi thì phải hỏi cô Rachel mà lại. Đi nhanh lên... Có thông báo cho mấy cậu biết chưa?
- Thưa cậu Bernard với cậu Boris đi rồi.
- Khéo nhỉ! Thế còn cậu Armand?... Nhanh lên.
Kế, không đợi cho con bé ra khỏi:
-Con bé khổ này ở Strasbourg đến. Nó không có biết một cái gì... cái gì cũng phải bảo... Kìa! Mày chờ đợi cái gì nữa?
Con bé giúp việc quày quả như con rắn bị giẫm lên đuôi:
- Thưa có ông giám học dưới nhà muốn lên đây. Ông bảo chưa được trả tiền thì ông không chịu đi.
Nét mặt bà Vedel biểu lộ nỗi chán chê bi thảm.
- Không phải ta lo chuyện thanh toán tiền bạc, ta phải nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần nữa kia? Bảo ông hỏi cô. Đi!... Không được một giờ nào yên! Quả tình tôi không hiểu Rachel đang nghĩ gì.
- Không chờ Rachel uống trà?
Nó không hề uống... Chao! Lần khai giảng này bắt chúng tôi lo lắng dữ. Các ông giám học xin dạy lại đòi giá cắt cổ, hoặc là hễ giá cả chịu được, thì mình lại không chịu được các ông. Ông thân sinh của tôi có chuyện than phiền về cái ông giám học này, nhưng lại tỏ ra quá nhu nhược, bây giờ chính ông giám học bắt nạt. Anh nghe con bé nó nói đấy. Bọn người đó chỉ nghĩ đến tiền... làm như ở đời chẳng có cái gì quan trọng hơn... Trong khi chờ đợi, chúng tôi vẫn không biết làm sao tìm người thay thế. Nhà tôi luôn luôn tưởng rằng chỉ việc cầu nguyện Chúa là mọi việc an bài.
Bé giúp việc trở vào với đường.
- Thông báo cho cậu Armand chưa?
- Thưa đã, cậu đến bây giờ.
- Còn Sarah? - Tôi hỏi.
- Sarah hai hôm nữa mới về. Nó đi Anh ở với bạn bè, tại nhà cha mẹ cô gái mà anh gặp ở đây đấy. Họ rất dễ thương, tôi cũng mừng cho Sarah có thể phần nào... Như Laura vậy. Tôi thấy Laura tươi tỉnh ra. Sau chuyến xuôi về Nam thì chuỗi ngày ở Thụy Sĩ đỡ đần cho nó được nhiều, còn anh thì thật là tốt bụng đã quyết định giúp nó. Chỉ tội cho thằng Armand suốt bao nhiêu vụ hè không rời Paris.
- Còn Rachel?
- Ừ nhỉ, phải, Rachel cũng thế. Nó được đủ nơi mời mọc, mà vẫn thích ở lại Paris. Với lại ông ngoại nó cần có nó. Nhưng ở đời, có bao giờ mình làm cái mình thích. Thỉnh thoảng tôi cũng buộc lòng nhắc lại cho con cái. Còn phải nghĩ tới người khác. Anh nghĩ, còn tôi, được đi chơi ở Saas-Fée không thú sao? Còn nhà tôi nữa, anh tưởng ông đi xa để vui chơi sao? Armand, con thừa biết là mẹ không thích con vào đây mà không mang cổ áo cứng. - bà nói thêm khi thấy Armand vào.
Armand bắt tay tôi, thưa:
- Thưa mẹ, mẹ đã dạy con một cách hợp đạo là đừng xem trọng cách phục sức, và cũng là rất hợp thời bởi lẽ bà giặt ủi ngày thứ ba mới lại, còn những cổ áo kia của con đều rách hết.
Tôi ôn lại những điều Olivier nói về thằng bạn này và quả nhiên tôi mường tượng một vẻ ưu tư thầm kín cất giấu đàng sau vẻ hóm hỉnh tàn ác của nó. Nét mặt của Armand thanh, mũi kín, cong xuống đôi môi mỏng ra và không màu sắc. Nó nói tiếp:
- Mẹ đã báo cho ông quý khách của mẹ biết chưa? Chúng tôi có quy nạp vào trong tập đoàn tầm thường của chúng tôi, có mời tham gia nhân dịp mở màn cho mùa đông, một vài bộ mặt nổi bật: con trai của một thượng nghị sĩ ưu thời mẫn thế, và tử tước trẻ tuổi dòng Passavant, bào đệ của một tác giả lừng lẫy. Chưa kể hai người được trưng mộ mà ông đây có quen biết, nhưng chính vì thế họ mới đáng vinh danh: hoàng tử Boris và hầu tước Profitendieu, cộng thêm một số khác mà danh tước cùng đức độ còn trong vòng khảo sát.
- Anh thấy nó tính nào tật ấy, - bà mẹ ẩn nhẫn mỉm cười trước những lời pha trò đó.
Tôi rất sợ nó khởi sự đề cập đến Laura, tôi rút ngắn thì giờ viếng bà mẹ rồi nhanh chân xuống gặp Rachel.
Rachel đã xắn tay áo để phụ giúp cất đặt phòng học chung, nhưng nàng đã vội vàng vuốt tay áo xuống khi thấy tôi lại gần.
- Thật vô cùng khổ tâm mà nhờ cậy đến anh, - nàng vừa bắt đầu lên tiếng vừa lôi tôi vào một gian phòng nhỏ bên cạnh dùng làm phòng học riêng biệt. - Em muốn ngỏ lời với Douviers thì hơn, vì Douviers có yêu cầu em, nhưng gặp lại Laura, em chợt hiểu không thể nào làm như thế được nữa...
Khuôn mặt nàng tái bệch, và khi nói lời cuối, cằm với môi nàng nhích động lẩy bẩy ngăn trở nàng nói tiếp một lúc. Sợ nàng ngượng, tôi nhìn lảng. Nàng tựa mình vào cánh cửa mà nàng đã khép lại khi vào. Tôi toan cầm lấy bàn tay nàng nhưng nàng đã giật tay ra. Cuối cùng, nàng tiếp lời, giọng nói như thể co rút lại vì một nỗ lực vô biên:
- Có thể nào anh cho em vay mười ngàn franc? Buổi khai giảng báo hiệu điềm khá tốt, em hi vọng có thể mau chóng trao lại cho anh.
- Chừng nào thì Rachel cần?
Nàng không đáp. Tôi hỏi thêm:
- Tôi sẵn đây hơn một ngàn. Sáng mai tôi bổ túc ngay cho đủ số... Ngay tối nay, nếu cần.
- Khỏi anh ạ, ngày mai cũng được. Nhưng nếu có thể, không bóc lột anh, anh để lại cho một ngàn ngay bây giờ...
Tôi rút ví và giao tiền cho nàng.
- Rachel cần một ngàn tư chăng?
Nàng cúi đầu và “vâng” một tiếng thật khẽ làm tôi nghe không rõ, kế đó loạng choạng hướng về chiếc ghế dài học sinh, buông người xuống rồi chống khuỷu tay lên nắp bàn bưng lấy mặt một lát. Tôi nghĩ là nàng đang khóc, nhưng khi tôi đặt tay lên vai nàng, nàng ngước đầu và tôi thấy mắt nàng vẫn khô ráo. Tôi bảo:
- Rachel, đừng ngượng vì phải hỏi han tôi điều vừa rồi. Tôi sung sướng được Rachel mang ơn.
Nàng nhìn tôi nghiêm trang:
- Điều khổ tâm cho em là buộc lòng yêu cầu anh đừng nói với ông, luôn cả với mẹ. Từ khi các người ủy thác việc kế toán trường nội trú, em vẫn để cho các người tưởng rằng… nói tóm lại các người không dè. Đừng nói nghe anh, em van anh. Ông thì già, mẹ thì ẩn nhẫn thế kia.
- Rachel, đâu phải mẹ ẩn nhẫn... Rachel chứ.
- Mẹ ẩn nhẫn lắm. Nay thì mệt mỏi. Đến lượt em. Em chẳng có việc gì khác.
Nàng rất mực đơn sơ nói lên những lời rất mực đơn sơ. Tôi không cảm thấy trong sự nhẫn nhục của nàng một chút đắng cay nào, mà trái lại, một sự thanh thản nào đó.
- Nhưng anh đừng nghĩ là mọi sự đã tiêu tan, - nàng tiếp. - Có điều đây là một buổi ngặt nghèo, bởi vì một vài chủ nợ tỏ ra mất kiên nhẫn.
- Tôi có nghe hồi nãy con bé giúp việc nói tới một ông giám học nào đòi phần thù lao của ông.
- Phải, ông đến làm một pha thật khổ tâm cho ông ngoại, khổ cho em ngăn cản không nổi. Người đâu mà hung tợn phàm tục thế. Em phải đi trả tiền cho ông.
- Rachel muốn tôi thay mặt đi trả không?
Nàng ngần ngừ một lát, gượng cười mà không được.
- Cảm ơn anh. Nhưng thôi, em đi thì hơn... Hay xin anh đi với em. Em hơi sợ ông đó. Thấy anh, may ra ông không dám nói gì.
Sân của trường nội trú nhô lên chừng vài cấp bực khỏi khu vườn kế cận, ngăn nhau bằng bờ tường, viên giám học cho hai tay ra đàng sau và chống khuỷu tay lên đó. Y đội một chiếc mũ dạ lớn và mềm, ngậm điếu. Trong khi Rachel thương lượng với y thì Armand đến với tôi.
Nó gân guốc bảo tôi:
- Rachel xoay tiền của anh. Anh đến đúng lúc lôi chị ra khỏi một cơn bấn người bẩn thỉu. Cũng do cái thằng anh chó đẻ của tôi là Alexandre mắc nợ nần ở bên thuộc địa. Chị muốn giấu bố mẹ. Trước đây chị đã nhượng một nửa tiền hồi môn của chị để đắp phần nào vào hồi môn của Laura, nhưng lần này thì phần còn lại cũng xong tuốt. Cam đoan chị không tiết lộ cho anh. Tính khiêm nhường của chị làm tôi ngao ngán. Một trong những trò buồn nản nhất ở đời là: hễ kẻ nào hi sinh cho người khác là có thể cầm chắc rằng nó giá trị hơn bọn kia... Bao nhiêu điều chị làm cho Laura! Laura đền đáp tận tình cho chị đấy chứ, đồ điếm!
Tôi bất bình lớn tiếng:
- Armand, cậu không có quyền phê phán chị cậu.
Nhưng nó lại tiếp lời ngay bằng một giọng đứt đoạn sắc sảo:
- Trái lại, chính vì tôi không hơn gì Laura nên tôi mới phán xét chị. Tôi ý thức mà. Còn Rachel thì không phán xét. Không bao giờ phán xét ai... Đúng đấy, đồ điếm, điếm... Những điều nghĩ về chị, thề với anh là tôi không nhờ miệng người khác nói lại đâu... thế mà chính anh đã lấp liếm, bảo bọc những thứ đó! Anh là người biết... Ông ngoại, ông chẳng hiểu ất giáp gì. Mẹ thì cố gắng tránh hiểu. Còn bố, bố phó cho Chúa, giản tiện hơn. Hễ gặp khó khăn là bố quỳ xuống cầu nguyện rồi mặc cho Rachel xoay xở. Điều ông cầu xin, là đừng thấy rõ sự tình. Ông chạy, ông bấn loạn, hầu như không hề ở nhà. Tôi hiểu ông ở nhà thì ngộp thở, còn tôi thì hết thở. Ông tìm cách làm cho quẩn trí, thế chứ! Trong lúc đó, mẹ làm thơ. Không! Tôi không chế giễu bà đâu, chính tôi cũng làm thơ. Nhưng ít ra tôi biết mình là thằng hèn và không hề chạy vạy để đóng vai khác. Anh xem thế này có lợm giọng không nhé: ông ngoại “ra vẻ nhân đạo” với ông cụ La Pérouse, là bởi ông ngoại cần giám học...
Và bất ngờ:
- Cái tên lợn ở đàng kia dám nói gì với chị tao thế? Mày bỏ đi không chào. Tao đấm vỡ mặt...
Armand phóng tới anh chàng phóng đãng, và tôi ngỡ nó giáng tay. Nhưng tên kia, thấy nó đến, lách mình đi bằng một động tác giả nón chào lớn lối bỡn cợt rồi mất hút dưới vòm cổng. Đúng lúc đó, cổng xe ra vào bật mở nhường cho vị mục sư đi vào. Ông mặc áo lễ redingote, mũ cao và găng tay đen, như thể người về từ lễ rửa tội hay an táng. Viên nguyên là giám học và mục sư cùng chào nhau trịnh trọng.
Rachel và Armand tiến lại. Khi mục sư Vedel đã đến bên hai người con gần cạnh tôi:
- Mọi việc đã yên, - Rachel nói với bố.
Mục sự hôn lên trán con:
- Con thấy rõ chưa, bố chẳng nói với con là gì: Chúa có bao giờ bỏ người đặt lòng tin ở Chúa.
Tiếp theo, bắt tay tôi:
- Anh đi rồi sao?... Hẹn gặp lại, nhé!
* * *
(17) Alphonse de Lamartine (1790–1869) là nhà thơ, chính trị gia người Pháp.
III
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
Ngày 29 tháng 9 - Đến thăm ông cụ La Pérouse. Chị giúp việc ngại ngần để tôi vào. “Ông không muốn tiếp ai hết”. Tôi một mực khẩn khoản chị mới đưa tôi vào phòng khách. Cửa liếp đều đóng kín: trong bóng tối nhạt mờ, tôi khó khăn lắm mới phân biệt ra vị thầy già của tôi ngồi lút vào một chiếc ghế bành thẳng đứng. Ông không đứng lên. Không nhìn tôi, ông chìa ra phía bên hông bàn tay mềm, tôi bắt xong là bàn tay rơi xuống lại. Tôi ngồi cạnh, cho nên chỉ thấy trắc diện. Nét mặt ông rắn rỏi và đanh lại. Từng lúc môi ông mấp máy, nhưng không nói gì. Đến độ tôi ngờ ông nhận ra tôi chăng. Đồng hồ gõ bốn tiếng, bấy giờ, như thể được lên dây, ông chầm chậm quay đầu và bằng một giọng trọng thể, mạnh nhưng không hồn và như từ dưới mộ lên:
- Sao lại để cho anh vào? Tôi đã truyền cho chị giúp việc là hễ ai đến hỏi han thì bảo rằng ông La Pérouse đã chết.
Tôi động lòng khó nghĩ, không phải vì lời lẽ phi lí mà vì thanh sắc của lời, một thanh sắc khoa đại, gượng gạo một cách khó nói mà tôi không quen nghe vị thầy già dùng với tôi, thường khi tự nhiên và đầy tín cẩn.
Mãi sau tôi mới trả lời:
- Chị giúp việc không muốn nói dối. Thầy chớ la rầy chị đã mở cửa cho tôi. Tôi vui mừng gặp lại thầy.
Ông lặp lại một cách ngây dại:
- Ông La Pérouse chết rồi, - rồi trầm mình câm nín.
Tôi bị mếch lòng và đứng lên, sửa soạn về, khất lại một hôm nào khác nỗi thắc mắc truy tầm lí do tấn kịch cười buồn này. Nhưng đúng lúc đó, chị giúp việc đi vào, mang một tách sôcôla bốc khói:
- Xin ông gắng cho một tí. Cả ngày hôm nay ông chưa dùng gì.
Ông cụ vùng vằng nóng nảy, như một diễn viên bị kẻ đồng bọn vụng về cúp ngang mất tác dụng của mình:
- Khoan đã. Đợi ông đây ra về rồi hay.
Nhưng chị giúp việc vừa đóng cửa thì:
- Anh làm ơn cho tôi cốc nước. Nước lã thôi. Tôi khát chết được.
Tôi tìm thấy trong phòng ăn một chiếc bình với một cái cốc. Ông cụ đổ đầy cốc, nốc một hơi rồi quệt môi bằng tay áo veston lông lạc đà cũ. Tôi hỏi:
- Thầy bị sốt?
Câu nói của tôi lập tức nhắc nhở ông trở về tình cảnh, vai trò của ông:
- Ông La Pérouse không sốt. Không còn bị gì hết. Từ chiều thứ tư, ông La Pérouse đã hết sống.
Tôi lưỡng lự hay là tốt hơn nên góp mặt đóng trò chăng:
- Đúng ngày thứ tư là ngày cháu Boris đến gặp thầy có phải không ạ?
Ông quay đầu về phía tôi; một nụ cười, như thể bóng dáng nụ cười cô cựu, khi nghe đến tên Boris, làm rạng rỡ nét mặt, và ông cuối cùng bằng lòng bỏ rơi vai kịch của mình:
- Anh ạ, với anh tôi có thể nói lên điều này: ngày thứ tư đó là ngày cuối cùng còn lại cho tôi.
Rồi ông xuống giọng nói tiếp:
- Đúng là ngày cuối cùng tự tôi ban phát cho tôi trước khi... kết liễu.
Thật vô cùng đau lòng cho tôi phải thấy ông cụ trở về với điệu nói u sầu ấy. Tôi hiểu ra rằng tôi không hề bận tâm đến những điều ông nói trước đây, bởi tôi đã để cho kí ức thả mất tất cả, và nay tôi đâm ra trách mình. Nay tôi nhớ lại hết, nhưng lấy làm kinh ngạc là vì ông cụ trước hết nhắc nhở tôi đến một kì hạn xa xưa hơn, và khi tôi bảo cho ông biết thế, ông thú nhận, bằng một giọng tự nhiên trở lại và điểm thêm một chút khôi hài nữa là đàng khác, rằng ông đã gạt tôi về ngày tháng, rằng ông đã lùi ngày lại tí đỉnh, ngại rằng tôi sẽ cố ghi nhớ hoặc ngại rằng do đó mà tôi hối hả quay về, nhưng ông đã nhiều đêm liên tiếp quỳ gối, xin Chúa gia hộ cho ông gặp Boris trước khi lìa đời. Ông nói thêm:
- Không những thế tôi còn giao ước với Chúa là nếu cần, tôi sẽ kéo thêm vài ngày mới quy thiên... giai do là anh đã bảo đảm đưa nó trở về với tôi, anh nhớ chứ?
Tôi nắm lấy bàn tay ông, bàn tay lạnh giá và tôi ấp nó vào hai tay tôi. Ông nói tiếp, giọng đều đều:
- Lúc đó, thấy anh không chờ mãn hè đã trở về và tôi có thể gặp cháu mà khỏi phải triển hạn ngày quy thiên, tôi lại tin rằng... tôi thấy có vẻ như Chúa đã đếm xỉa đến lời cầu nguyện của tôi. Tôi tin rằng Chúa chấp thuận. Phải, tôi tin như thế. Tôi đâu có hiểu lập tức rằng Chúa chơi khăm tôi, như thuở nào đến giờ.
Ông cụ nhấc bàn tay ra khỏi hai tay tôi, và bằng giọng linh hoạt hơn:
- Nghĩa là tối thứ tư là ngày mà trước đây tôi tự hứa là kết liễu, và đúng trong ngày thứ tư anh lại đưa nó về. Phải nói là, khi thấy cháu, tôi không cảm thấy toàn vẹn nỗi vui sướng lòng dặn lòng của tôi. Tôi nghĩ ngợi sau đó. Dĩ nhiên, tôi chẳng có quyền hi vọng rằng thằng bé có thể vui mừng gặp tôi. Mẹ nó chẳng hề nhắc nhở tôi với nó.
Ông cụ ngừng nói, môi ông run rẩy và tôi tưởng chừng ông khóc đến nơi.
- Boris chỉ ước được yêu thầy, nhưng xin thầy để cho nó thì giờ làm thân với thầy. - Tôi ướm lời.
Không nghe gì tôi, ông cụ La Pérouse nói tiếp:
- Sau khi thằng bé bỏ rơi tôi vào buổi tối khi tôi còn lại một mình (vì anh biết nhà tôi không còn ở đây nữa), thì tôi mới tự nhủ: “Thôi! Đến lúc rồi đây”. Anh cũng cần biết rằng ông anh của tôi, người đã khuất, có để lại cho tôi một cặp súng ngắn, tôi luôn luôn giữ bên mình, trong một cái bao, để đầu giường. Thế là tôi đi tìm bao súng. Tôi ngồi trong chiếc ghế bành, đây, như lúc này đây. Tôi nạp một viên đạn.
Ông quay lại tôi và, bất thần, bạo, nói lại lần nữa, làm như tôi ngờ vực cho lời ông nói:
- Phải, tôi nạp đạn. Anh có thể quan sát: súng còn đạn đấy. Chuyện gì xảy ra nào? Tôi không hiểu nổi. Tôi đưa súng lên trán. Giữ thật lâu, kề thái dương. Rồi không bắn. Tôi không đủ sức... Vào phút tối hậu, nói mà xấu hổ... Tôi không có can đảm bắn.
Khi nói ông đổ ra linh động. Ánh mắt đâm ra sáng hơn và máu dâng lên má một cách yếu ớt. Ông ngước nhìn tôi.
- Anh giải thích thế nào đây? Một việc mà tôi đã quyết tâm, mà suốt nhiều tháng không ngừng nghĩ tới... Hay có lẽ tại vì thế cũng nên. Có lẽ tôi đã rút hết đi trước bao nhiêu can đảm của mình bằng tư tưởng...
- Cũng như trước khi Boris về tới thì thầy đã rút hết nỗi vui mừng đoàn viên, - tôi bảo.
Nhưng ông tiếp lời:
- Tôi ngồi như thế hồi lâu, súng kề thái dương. Ngón tay trên cò súng. Tôi bấm nhích một tí, nhưng không đủ mạnh. Tôi nhủ thầm: “Lát nữa sẽ bấm mạnh hơn, và súng sẽ nổ”. Tôi cảm thấy cái lành lạnh của kim khí, và nhủ thầm: “Lát nữa không cảm thấy gì nữa hết. Nhưng trước đó sẽ nghe một tiếng kinh hồn...” Anh nghĩ coi! Sát một bên tai!... Chính điều này cản tôi lại trước hết: sợ tiếng ồn... Vô lí thật, vì đã chết thì thôi chứ... Phải! Nhưng có chết tôi cũng mong giống như ngủ, mà tiếng súng nổ đâu có ru ngủ, nó làm tỉng giấc… Phải, chắc chắn đó là điều khiến tôi sợ hãi. Tôi ngủ, tôi lại thức dậy thình lình.
Ông cụ có vẻ lai tỉnh, hú hồn, và trong một lát, môi ông lại hờ hững rúng động. Ông nói tiếp:
- Bấy nhiêu điều, sau đó tôi mới nhủ thầm. Sự thật, nếu tôi có không tự sát, là vì tôi không tự do. Bây giờ tôi bảo: tôi sợ, nhưng không, không phải thế. Một cái gì đó hoàn toàn xa lạ với ý chí của tôi, mạnh hơn ý chí, cầm giữ tôi lại... Tưởng chừng Chúa không muốn tôi bỏ ra đi. Anh tưởng tượng một con rối lại toan tính rời sân khấu trước khi màn kết thúc... Đứng lại! Còn đoạn cuối, cần tới mày. A! Tưởng muốn bỏ đi lúc nào cũng được sao!... Tôi hiểu rằng cái mình gọi bằng ý chí, chẳng qua là những sợi dây lôi giật con rối, và do Chúa kéo. Anh không hiểu? Tôi sẽ giải thích. Này nhé: bây giờ tôi nhủ thầm: “Mình đưa tay mặt lên”, và tôi đưa lên (ông đưa lên thật). Nhưng chính thật sợi dây đã được kéo nhằm bắt tôi nghĩ rồi nói: “Mình muốn đưa tay mặt lên”... Không, tôi thấy anh không hiểu. Anh không tự do để hiểu tôi... Ô! Nay tôi thấy rõ là Chúa giỡn chơi. Cái gì Chúa bắt mình làm, Chúa đùa để cho mình tưởng mình muốn làm cái đó. Trò chơi ác ở chỗ đó... Anh tưởng tôi điên mất? Nhân thể: anh hãy tưởng tượng nhà tôi... Anh biết, nhà tôi đã vào nhà an dưỡng. Đấy! Anh hãy tưởng tượng nhà tôi in trí đó là nhà điên, và tôi nhờ người ta nhốt bà lại để tôi thoát nợ, với định tâm cho người ta coi bà là người điên... Đồng ý với tôi là kì khôi đấy chứ: bất cứ kẻ qua đường nào mà mình gặp đều hiểu mình hơn là người được mình giao phó cả đời mình… Lúc đầu, tôi đi thăm bà hằng ngày. Nhưng ngay khi thoáng nom thấy tôi: “À! Ông đấy à, Lại đến rình rập tôi...” Tôi phải từ không thăm viếng chỉ tổ bắt bà nổi cáu. Anh bảo mình thiết sống làm gì, khi không còn làm được gì lợi ích cho ai?
Những tiếng nấc nghẹn bóp thắt giọng nói của ông. Ông cúi đầu và tôi tưởng ông sẽ rơi vào lại tình trạng trầm trệ. Nhưng không, ông bất ngờ vọt miệng:
- Anh biết bà làm gì không, trước khi đi? Bà cạy ngăn kéo của tôi và đốt sạch thư từ của ông anh quá cố. Bà vẫn luôn luôn ganh với ông anh tôi, nhất là từ khi ông mất. Bà làm đủ trò với tôi hễ khi nào bắt gặp tôi, ban đêm, đang đọc lại thư từ của ông. Bà la lối: “Giỏi! Chờ cho tôi ngủ đã chứ. Ông giấu tôi.” Còn nữa: “Ông đi ngủ tốt hơn nhiều. Mệt mắt ông.” tưởng như bà ân cần lắm, nhưng tôi hiểu bà, ganh đấy. Bà không muốn để tôi một mình với ông anh.
- Chẳng qua bà yêu thầy. Không có sự ganh ghét nào mà không có tình yêu.
- Được đi! Anh hãy đồng ý với tôi đó là một điều buồn, khi mà tình yêu, thay vì tạo nên chí phúc cho đời, hóa thành tai ương... Có lẽ Chúa yêu ta theo nghĩa đó. - Ông cụ bừng bừng trong khi nói, và bỗng nhiên ông cao giọng. - Tôi đói bụng. Hễ khi nào tôi muốn ăn là con giúp việc đem sôcôla đến. Chắc hẳn nhà tôi có nói với nó là tôi không ăn cái gì khác. Anh làm ơn thân hành xuống bếp... cửa thứ hai phía tay mặt, trong hàng hiện đấy... và anh coi thử có trứng hay không. Hình như nó bảo tôi là có.
- Thầy muốn chị giúp việc chần cho thầy một quả trứng?
- Tôi tin là ăn được hai quả. Anh làm ơn? Còn tôi, tôi không thể làm cho nó nghe lời tôi.
Khi trở lên, tôi thưa:
- Thưa trứng sẽ xong xuôi trong chốc lát. Nếu thầy cho phép, tôi sẽ ở lại mục kích thầy xơi, vâng, tôi thích như thế. Hồi nãy, tôi rất buồn lòng nghe thầy bảo không còn làm được gì lợi ích cho ai. Hình như thầy quên bẵng cháu nội của thầy. Người bạn của thầy, cụ Azaïs, đề nghị với thầy đến sống với cụ, ở trường nội trú. Cụ nhờ tôi chuyển lời. Cụ nghĩ rằng bà La Pérouse này không còn ở đây thì có gì cầm chân thầy nữa đâu.
Tôi chờ đợi một sự chống trả nào đó, nhưng ông lại chỉ hỏi sơ sài những điều kiện của đời sống mới đón mời ông như thế nào. Ông nói:
- Nếu tôi có không chết, thì bây giờ tôi cũng chẳng hơn gì. Ở đây hay ở đằng kia, tôi không hề. Anh có thể xách tôi đi.
Tôi ước hẽn sẽ đến đón ông ngày mốt, từ nay đến đó tôi sẽ để ông sử dụng hai cái hòm cho ông tiện sắp xếp áo xống cần dùng cùng những món ông tâm niệm mang theo. Tôi nói thêm:
- Vả chăng, bởi thầy còn lưu giữ căn nhà này cho đến mãn hạn thuê, cho nên trở lại đây lấy thêm những món nào thiếu sót hãy còn kịp.
Ông cụ nhắc lại:
- Tôi làm khổ anh quá, anh là con người tốt bụng.
Tôi ước ao ông giao lại cho tôi mấy khẩu súng; tôi bảo thầy dùng làm gì nữa, nhưng ông không chịu để lại cho.
- Anh khỏi lo. Điều tôi đã không làm hôm ấy, tôi biết sẽ không bao giờ đủ sức làm. Nhưng đôi súng là kỉ vật duy nhất nay còn lại của anh tôi, và đồng thời tôi cần được chúng nó nhắc nhở cho tôi rằng: tôi cũng chỉ là món đồ chơi trong tay của Chúa.
* * *
IV
Trời rất nóng, ngày hôm đó. Từ các cửa sổ mở của trường Vedel, ta nhìn thấy những đọt cây ngoài vườn, phía trên còn bồng bềnh một khối lượng mùa hè hùng hậu thừa thãi.
Ngày khai giảng này là một dịp cho cụ Azaïs ban huấn từ. Ông đứng dưới chân giảng đàn, ngó thẳng vào đám học sinh, cho phải cách. Ngồi tại giảng đàn là ông cụ La Pérouse. Ông La Pérouse đứng lên khi học sinh vào, nhưng một khoát tay thân tình của ông Azaïs đã mời ông cụ kia ngồi xuống lại. Cái nhìn băn khoăn của cụ La Pérouse thoạt tiên đậu xuống người Boris, và cái nhìn đó làm vướng bận Boris, nhất là vì ông cụ Azaïs, trong lời huấn từ giới thiệu thầy giáo mới cho bọn trẻ, đã tưởng rằng mình cần phải ám chỉ vấn đề ông giáo mới họ hàng với một đứa trong bọn. Trong khi đó, ông cụ La Pérouse vờ không bắt gặp ánh mắt của Boris; lãnh đạm, lạnh lùng, ông định bụng như thế.
Boris thì nghĩ: “Thôi chứ! Cho mình yên với! Ông đừng bắt người ta ‘chú ý’ tới mình!”
Bọn bạn làm hắn khiếp. Bãi trường đi ra ngoài, hắn phải nhập bọn và, suốt đoạn đường từ trường đến “hộp đêm”, hắn đã nghe lời qua tiếng lại của bọn chúng, hắn muốn khép mình vào khuôn phép vì rất cần được cảm thông, nhưng bản chất quá nhạy cảm của hắn cưỡng lại, lời lẽ dừng khựng trên môi, hắn giận mình sao lúng túng, gắng đừng để lộ ra ngoài, lại còn gắng cười ra tiếng để đón trước những lời chế nhạo; nhưng vô ích: giữa bọn kia, hắn có vẻ là đứa con gái, hắn cảm thấy thế và rầu cho điều này.
Từng nhóm từng tụm được lập ra ngay gần như tức tốc. Một tên Léon Ghéridanisol nào đó làm thành tâm điểm và đã chế phục được cả bọn. Lớn tuổi hơn bọn kia tí đỉnh, và học hành cũng khá hơn, da nâu sạm, tóc đen, mắt đen, không lớn lắm, không mạnh khỏe đặc biệt hơn, nhưng được một cái là “chì”. Chì quái đản thật. Ngay thằng Georges Molinier đồng ý rằng Ghéridanisol đã làm cho hắn “nghẹn họng”: “Mà mày biết, muốn làm tao nghẹn họng, phải là một cái gì đã!” Sáng hôm nay hắn đã thấy Ghéridanisol la cà đến một thiếu phụ, bà này bế trên tay một đứa bé:
- Thưa bà, đứa bé là con bà đấy ư? (Vừa nói vừa chào trịnh trọng). Thằng nhỏ không xấu. Nhưng bà tin đi: nó sẽ không sống đâu.
Georges tới bây giờ vẫn cười ầm lên. Philippe Adamanti, một thằng bạn, được Georges thuật lại câu chuyện này, lên tiếng hỏi:
- Bậy nào! Thật sao?
Điệu nói láo xược kia làm chúng khoái trá, tưởng tượng không có gì cơ trí hơn nổi. Trò đã quá cũ, Ghéridanisol thừa kế của thằng chú họ là Strouvilhou, nhưng Georges không cần biết.
Ở trường, Georges và Adamanti được ngồi cùng một ghế với Ghéridanisol, bàn thứ năm, để khỏi quá lộ diện trước mặt ông giám. Georges ngồi giữa, bên trái là Adamanti, bên phải là Ghéridanisol (gọi tắt là Ghéri), đầu mút bàn là Boris. Sau lưng Boris là Gontran.
Gontran de Passavant sống đời buồn tẻ từ buổi cha mất đi, huống chi trước kia đời sống của hắn đã không lấy gì làm vui lắm rồi. Từ lâu hắn đã hiểu không trông mong thông cảm hay đỡ đần gì ở ông anh hắn. Hắn đi nghỉ mát ở Bretagne, được vú già đưa đi, bà Séraphine trung nghĩa, theo với gia đình của vú. Bao nhiêu đặc điểm của hắn đều xếp xó, hắn học. Một ước muốn thầm kín thôi thúc hắn, là chứng tỏ cho anh hắn rằng hắn hơn anh. Chính hắn tự ý và tự chọn vào trường nội trú, cũng vì muốn tránh ở cùng với anh trong cái ngôi nhà lớn tại đường Babylone kia vốn chỉ nhắc nhở cho hắn toàn kỉ niệm buồn. Séraphine, vì không đành lòng bỏ hắn, mướn một chỗ ở tại Paris, khoản tiền trợ cấp mà hai người con của cố bá tước cung ứng cho bà, do điều khoản cố tình của di chúc, cho phép bà thi hành như thế. Ở đây, Gontran có phòng riêng mà hắn chiếm ngụ những ngày ra ngoài, hắn trang hoàng theo sở thích. Hắn ăn hai bữa chung với Séraphine, vú săn sóc và trông chừng không để hắn thiếu thốn thức gì. Ở với vú, hắn tha hồ chuyện văn, dù rằng hắn hầu như không thể bàn bạc với vú những gì canh cánh bên lòng. Ở trường, hắn không để cho bọn kia động tới mình, hắn lơ đãng nghe bạn bè đùa cợt và thường thường không chịu chơi chung. Cũng vì thế hắn thích đọc sách hơn chơi những trò chơi lặt vặt. Hắn thích thể thao, mọi môn thể thao, nhưng trên hết là những môn thể thao đơn độc, cũng vì thế hắn kiêu hãnh và không giao thiệp bừa bãi. Những ngày chủ nhật, tùy theo thời tiết, hắn đi trượt băng, bơi lội, chèo thuyền, hay đi lung vào làng mạc. Hắn có những điều ghét bỏ, nhưng không tìm cách vượt thắng, hắn cũng không tìm cách khai trí mà làm cho trí vững mạnh. Có lẽ tính hắn không đơn giản như hắn tưởng, như hắn tìm cách làm ra như thế; chúng ta đã mục kích hắn ở đầu giường thân sinh hắn lâm chung, nhưng hắn không thích những điều huyền bí và hễ khi nào không còn là chính mình thì hắn không thích. Hắn dẫn đầu lớp học là nhờ cần mẫn, chứ không phải dẫn đầu một cách dễ dàng. Boris sẽ được hắn tiếp trợ, nếu Boris biết mưu cầu, nhưng Boris bị người bạn ngồi cạnh là Georges thu hút. Còn Georges thì chỉ để ý có Ghéri, trong khi Ghéri không để ý đến ai.
Georges có nhiều tin tức quan trọng thông báo với Philippe Adamanti, nhưng Georges xét thấy nên thận trọng hơn là đừng biên thư cho hắn.
Đến trước cổng trường, sáng hôm nay khi khai giảng, mười lăm phút trước giờ học, Georges đã hoài công chờ đợi Adamanti. Đúng lúc đang bách bộ trước cổng là lúc hắn nghe Léon Ghéridanisol ngỏ lời với người thiếu phụ một cách cơ trí như thế đó; tiếp theo hai đứa ôn con mới đàm đạo để rồi nhận thấy rằng chúng nó sẽ trở thành bạn bè cùng trường, điều này Georges lấy làm thú lắm.
Ra khỏi trường, Georges và Phiphi (Philippe Adamanti) mới có thể gặp nhau. Bước về phía kí túc xá chung với bọn kia, nhưng hơi cách quãng, để có thể nói chuyện tự do:
- Mày cũng nên cất cái này đi đã, - Georges vừa khơi chuyện vừa đưa ngón tay chỉ chỏ cánh hoa hồng nho nhỏ mà Phiphi tiếp tục treo nơi khuy áo.
- Tại sao? - Philippe hỏi, hắn thấy Georges đã cất mất cánh hoa.
- Mày coi chừng kẻo bị tóm. Mày ạ, hồi nãy mày chỉ việc đến sớm hơn, tao muốn dặn mày trước giờ học. Tao đã chờ mày trước cổng để báo cho mày.
- Nhưng tao biết đâu, - Phiphi đáp.
- Tao biết đâu. Tao biết đâu. - Georges lặp lại, nhại thằng kia. - Mày phải nghĩ rằng tao dễ có nhiều chuyện nói với mày chứ, tao đâu có gặp lại mày ở đằng Houlate.
Mối quan tâm thường bằng của hai đứa là lấn lướt nhau. Phiphi được vài ưu thế nhờ địa vị và sự giàu sang của cha, nhưng Georges hơn hẳn nhiều nhờ táo bạo và dày dạn. Phiphi phải cố lên tí nữa để khỏi thua sút. Kể ra hắn không ác độc. Có điều mềm yếu.
- Đấy! Chuyện gì nói đi, - hắn bảo.
Léon Ghéridanisol vốn đã xáp lại gần, nghe ngóng. Bị tên này nghe, Georges không hẳn là không thích; tên kia mới đây đã lòe hắn thì hắn cũng dự trữ món để lòe lại; bởi thế, hắn bảo Phiphi, giọng thật bình thường:
- Con nhỏ Praline bị bắt rồi.
- Praline! - Phiphi la hoảng, sự tỉnh táo của Georges làm hắn khiếp vía. Và bởi Ghéridanisol đang ra mặt chăm chú Phiphi hỏi Georges. - Nói cho thằng này biết được không?
- Ăn thua gì! - Georges nhún vai bảo.
Nghe thế, Phiphi trỏ vào Georges nói với Ghéri:
- Con bồ của hắn đấy.
Rồi hỏi Georges:
- Sao mày biết?
- Tạo gặp con Germaine, nó cho tao biết.
Hắn mới thuật lại cho Phiphi, về đến Paris, cách đây mười hai hôm, muốn nhìn lại một ngôi nhà nào đó mà ông biện lí Molinier trước đây chỉ điểm như là “sân khấu của trác táng”. hắn tìm thấy cửa đóng then cài ra làm sao, hắn thất thểu trong khu vực, ít lát sau gặp Germaine, con bồ của Phiphi, con này báo tin cho hắn: một chuyến lục xét của cảnh sát được tổ chức vào đầu vụ nghỉ hè. Điều mà đàn bà trẻ con mù tịt là ông Profitendieu đã cẩn trọng, vì cuộc hành quân đó, chờ ngày cho bọn phạm pháp vị thành niên phân tán xong, ông muốn tránh bủa lưới chúng nó trong vụ bố ráp và muốn tránh xì căng đan cho bậc cha mẹ.
- Hú hồn nhé!... - Phiphi lặp lại, không có lời bình. - Hú hồn nhé... - Hắn cho rằng mình với Georges đã thoát hiểm.
Georges cười khọt khẹt bảo:
- Mày lạnh xương sống, hả?
Dù chính hắn cũng ớn người, hắn nghĩ thú nhận ra cũng hoàn toàn vô ích, nhất là trước mặt Ghéri.
Nghe đối thoại trên, người ta có thể tưởng bọn trẻ con này còn hư đốn hơn chúng nó trong thực tế. Chủ ý làm cho ra vẻ, chúng nó mới nói cách đó, tôi chắc chắn như thế. Trong trường hợp chúng nó, có sự phách lối xen vào. Nhưng cần gì: Ghéri lắng tai nghe, nghe chúng nó và bắt chúng nói. Những lời này, tối nay thuật lại, sẽ làm Strouvilhou thằng chú họ nó thú lắm.
Cũng đêm đó, Bernard gặp lại Édouard.
- Khai giảng khá chứ?
- Không đến nỗi tệ.
Và vì hắn im tiếng, Édouard nói tiếp:
- Này Bernard, nếu cậu không tự ý phát biểu, thì đừng mong tôi thúc bách cậu. Tôi ghét cật vấn. Nhưng cho phép tôi nhắc cho cậu nhớ rằng cậu đã giúp cho tôi nhiều công việc và tôi có quyền hi vọng cậu kể vài mẩu chuyện...
Bernard, hơi dàu dàu nét mặt, nói thêm:
- Ông muốn biết gì? Rằng ông cụ đọc huấn từ long trọng, đề xướng với bọn nhỏ “cùng nhau lấy đà mà lao tới với cái hăng say của tuổi trẻ...”? Tôi nhớ những tiếng đó, vì được lặp lại ba lần. Armand vọt miệng bảo rằng trong chúc từ nào ông cụ cũng chêm mấy tiếng đó vào. Hắn với tôi ngồi ở ghế cuối, tận cùng lớp học, nhìn bọn nhỏ vào như Noé nhìn đoàn súc vật lên thuyền tị nạn. Có đủ loại: loại nhai lại, loại da dày, loại ốc và nhiều loại không xương sống khác. Sau chúc từ, khi chúng nó đổ ra chuyện trò với nhau, Armand với tôi để ý trong mười câu của chúng thì hết bốn câu bằng: “Tao cá là mày không...”
- Còn sáu câu kia?
- Bắt đầu bằng: “Còn tao thì...”
- Quan sát không tệ, e có lẽ thế. Gì nữa?
- Vài đứa khác mang cái nhân cách được đúc sẵn.
- Nghĩa là sao? - Édouard hỏi.
- Tôi đặc biệt nghĩ tới một đứa, ngồi cạnh thằng Gontran de Passavant (thằng Gontran thì có vẻ thuần là một đứa bé ngoan). Thằng kia, tôi quan sát lâu, có vẻ lấy cái “trung dung” của cổ nhân làm chuẩn tắc để sống. Ông không nghĩ là, ở tuổi nó, đó là một châm ngôn phi lí sao? Áo quần bó chẽn, cà vạt ngay đứng, thậm chí dây giày dài đúng ngang với gút, Dù trao đổi ít lời với hắn, hắn vẫn đủ thì giờ để bảo tôi rằng đâu đâu hắn cũng thấy ra một sự phí sức, và lặp lại như một điệp khúc: “Đừng gắng sức thừa vô ích”.
Édouard bảo:
- Tiết chế làm quái gì. Vào nghệ thuật lại hóa ra rườm rà.
- Sao vậy?
- Vì cái gì cũng sợ bỏ mất. Gì nữa? Không đả động gì đến Armand hết?
- Tên đó mới kì cục. Thật ra, tôi không thích nó bao nhiêu. Tôi không thích những kẻ dị hợm. Hắn không ngốc, điều đã hẳn, nhưng trí óc hắn chỉ chuyên chú phá hoại; tuy nhiên, hắn bất đắc dĩ tỏ ra là đứa hung hãn nhất; bao nhiêu cái tốt rộng rãi, cao cả hay đằm thắm trong con người hắn, hắn lấy làm xấu hổ. Hắn nên tập thể thao, cho thoáng con người ra. Hắn bắn hẳn phải sống giam hãm suốt ngày. Hình như hắn quý sự hiện diện của tôi. Tôi không lánh mặt hắn nhưng không thể bắt quen với tinh thần hắn.
- Bernard không nghĩ rằng những lời châm chọc khôi hài của hắn che đậy một cuộc nhạy cảm cao độ và có thể là một thống khổ? Olivier tin như thế.
- Có thể, tôi có tự nhủ như thế. Tôi chưa quen biết hắn lắm. Phần suy nghiệm còn lại của tôi không được chín. Cần nghĩ lại, tôi sẽ trình bày với ông, nhưng hãy khoan. Tối nay xin lỗi ông, kiếu ông. Hai hôm nữa tôi thi; với lại, thôi thú thật với ông cho xong... tôi cảm thấy buồn.
* * *
V
Nếu tôi không nhầm, ta chỉ nên lấy cái hoa đẹp của mỗi sự vật.
FÉNELON
Olivier, về đến Paris hôm qua, ngủ dậy châu thân khỏe khoắn. Không khí nóng nực, bầu trời thì trong. Khi bước ra, cạo nhẵn nhụi, tắm xong, ăn mặc bảnh bao, hắn ý thức được sức khỏe, tuổi trẻ, vẻ đẹp của mình, lúc đó Passavant hãy còn ngủ.
Olivier bước vội về phía trường Sorbonne. Đúng sáng nay Bernard thi viết. Làm cách nào Olivier biết được? Mà có lẽ hắn không biết cũng nên. Hắn đi thăm dò. Bước vội. Hắn không gặp lại Bernard kể từ đêm Bernard đến ngủ lại trong phòng hắn. Bao nhiêu vật đổi sao dời từ đó! Ai thử bảo xem hắn nôn nóng trình diện với bạn hay là gặp bạn hơn? Rầu một nỗi Bernard sao ít cảm sự ăn mặc đẹp đẽ đến thế nhỉ! Nhưng đó là một cảm thức có khi tìm mức sống thong dong mà đến, Olivier đã thí nghiệm điều này, nhờ bá tước Passavant.
Quả nhiên Bernard thi viết sáng nay. Đứng trưa mới ra, Olivier chờ chực trong sân. Hắn nhận diện vài đứa bạn, bắt tay rồi lảng đi. Hắn hơi ngượng vì phục sức của mình. Hắn càng ngượng hơn khi Bernard, cuối cùng được phóng thích bước tới trong sân và hét vang, trong khi đưa tay ra bắt.
- Cậu đẹp thế!
Olivier vẫn tưởng không đời nào đỏ mặt lần nữa, đâm ra đỏ mặt. Làm sao không thấy ra trong lời lẽ kia, dù giọng rất mực thân tình, điều mai mỉa? Còn Bernard, hắn, vẫn bộ cánh cũ mà hắn mặc đêm trốn nhà. Hắn không chờ đợi gặp Olivier. Trong khi hỏi han, Bernard lôi xệch bạn đi. Nỗi vui mừng tái ngộ trong đột ngột. Nếu ban đầu hắn có cười nhẹ trước cách ăn mặc cầu kì của bạn, thì đó là cười không có ác ý, Bernard tốt bụng, không cay đắng.
- Đi ăn với mình, nghe? Phải, một giờ rưỡi lại phải ráp vào thi La-tinh. Sáng nay, Pháp văn.
- Vừa ý?
- Mình, ừ. Nhưng không hiểu lời lẽ mình đẻ ra có hợp nhãn giám khảo không. Đề tài cho biết ý kiến về bốn câu thơ của La Fontaine:
Platon có lòng tốt so sánh kì quan của ta
Với bướm núi Parnasse, bướm trông giống như ong
Tôi là thứ nhẹ người và bay tìm mọi thứ
Hoa này sang hoa kia và cái này đến cái kia.
Nói thử xem, trường hợp cậu sẽ làm sao?
Olivier không cản ngăn tính hiếu thắng nổi:
- Thì mình sẽ nói rằng trong khi tự họa, La Fontaine(18) vẽ chân dung nghệ sĩ, người nghệ sĩ chỉ bằng lòng nắm cái ngoại diện của cuộc đời, cái mặt ở trên, cái hoa. Kế đó mình đối chiếu chân dung của nhà bác học, nhà tra cứu, của kẻ đào xới, và cuối cùng chứng tỏ rằng, trong khi nhà bác học tìm kiếm thì nghệ sĩ tìm ra, kẻ đào xới thì đi sâu, kẻ đi sâu thì quáng mắt, rằng chân lí là ngoại diện, rằng cái huyền bí là hình thức, và cái sâu thẳm nhất của con người, chính là lớp da.
Câu cuối cùng Olivier học được của Passavant, chính Passavant nhặt nhạnh từ môi của Paul-Ambroise(19) một hôm diễn thuyết trong một phòng văn. Mọi cái gì chưa in thành chữ đều diệu dụng đối với Passavant, Passavant gọi là “những ý tưởng giữa trời”, tất nhiên là: những ý tưởng của người khác.
Không hiểu một cái gì đó trong giọng của Olivier cảnh giác cùng Bernard rằng câu đó không phải của hắn. Giọng của Olivier nghe vướng víu, Bernard suýt hỏi: “Của ai đấy?” nhưng ngoài việc không muốn mếch lòng bạn, hắn còn phải sợ nghe cái tên Passavant mà Olivier, cho đến phút này, không có ý xướng lên. Bernard đành nhìn bạn chăm chăm tọc mạch, và Olivier, lần thứ hai, đỏ mặt.
Sự kinh ngạc của Bernard khi nghe anh chàng tình cảm Olivier diễn tả những ý tưởng hoàn toàn khác biệt những ý tưởng quen thuộc, gần như lập tức nhường chỗ cho một nỗi bất bình dữ dội, một cái gì đột ngột và lạ lùng, khó cưỡng chống như trận cuồng phong. Và không hẳn hắn bất bình đối với chính những ý tưởng đó, dù ý tưởng có vẻ phi lí. Mà ngẫm cho kĩ, có thể không đến nỗi quá phi lí. Trong cuốn tập về ý kiến mâu thuẫn, hắn có thể ghi lại những ý tưởng đó đối chiếu những ý tưởng của riêng hắn. Giá chính cống là ý tưởng của Olivier hay đối với những ý tưởng đó, đàng này Bernard cảm thấy một kẻ nào trốn núp ở đàng sau, Bernard bất bình là bất bình đối với Passavant.
- Với những ý tưởng tương tự thì cả nước Pháp bị tẩm độc mất, - Bernard gầm lên bằng một giọng khàn khàn nhưng hung hăng.
Bernard trọng bạn, muốn vượt Passavant. Và lời hắn nói, chính hắn cũng kinh ngạc, như thể câu nói đi trước tư tưởng của hắn, thế mà cũng chính tư tưởng đó, sáng nay hắn đã khai diễn trong phần việc của hắn; nhưng vì một thứ e ấp, hắn không muốn, trong ngôn ngữ của mình, và đặc biệt khi chuyện trò cùng Olivier, phô trương những cái mà hắn gọi tên là “những tình cảm lớn”. Vừa mới được giãi bày, những tình cảm này đối với hắn lộ vẻ bớt chân thật. Nghĩa là trước đây Olivier không hề nghe bạn động tới quyền lợi của “nước Pháp”, đến lượt Olivier ngạc nhiên. Olivier giương lớn đôi mắt và cũng không còn nghĩ tới chuyện nở nụ cười. Olivier hết nhận ra Bernard của mình. Hắn ngớ ngẩn nhắc lại:
- Nước Pháp?
Kế đó, vì Bernard không đùa, hắn tránh né trách nhiệm:
- Nhưng kìa, cậu, đâu phải tôi nói tư tưởng đó, La Fontaine chứ.
Bernard như đâm ra phản kích, hét:
- Cóc khô! Mình thừa biết đâu phải cậu nói lên tư tưởng đó. Nhưng cậu ơi, cũng chẳng phải là La Fontaine. Nếu La Fontaine chỉ có sự khinh suất đó để sau này phải hối hận và tạ tội, thì ông đã không phải là bậc tài tử cho mình giờ đây khâm phục. Chính là điều mình đã nói lên trong bài luận sáng hôm nay, và làm cho sáng giá bằng nhiều lời trích dẫn, vì cậu biết mình có trí nhớ khá tốt. Nhưng rồi liền đó mình bỏ La Fontaine ở lại, và ghi nhận cái cứ điểm mà, một số người nông cạn có thể nghĩ là tìm thấy trong thơ ông, mình mới tuôn một thôi dài đả kích cái mà người ta gọi là “tinh thần dân Pháp”, tinh thần này ở ngoại quốc đôi khi làm cho chúng ta mang tiếng quá. Mình bảo, qua mấy câu thơ, phải nhận ra, nụ cười cũng không phải, mà là cái nhăn mặt nhíu mày của nước ta; cái tinh thần dân Pháp đích thật là cái tinh thần thẩm sát, luận lí, yêu thương và kiên trì thấu triệt; và giả như tinh thần đó không xúc tác được La Fontaine, thì có lẽ ông vẫn tài tình viết ra những mẩu chuyện sự tích, nhưng không bao giờ viết được những bài thơ ngụ ngôn, cũng như không viết được lá thư tuyệt diệu dưới hình thức thơ mà người ta cho bình luận mấy câu trích ra đó (mình có chứng minh là mình biết bài thơ). Vâng, cậu ạ, mình tố xả láng, cũng có thể vì thế mà mình rớt. Nhưng cóc cần, cần nói thì nói.
Olivier đặc biệt không xem nặng những lời mình phát biểu hồi nãy. Hắn vâng theo cái nhu cầu muốn nổi bật, trích dẫn một câu, lơ lửng thế thôi, mà nó đè chừng có thể lòe bạn. Nếu giờ đây Bernard dùng giọng điệu này đối với hắn, hắn chỉ còn nước thối lui. Nhược điểm lớn của hắn giai do hắn cần cảm tình của Bernard, hơn hẳn là Bernard cần tình cảm của hắn. Lời tuyên bố của Bernard làm hắn tủi và nhục. Hắn giận mình đã nói quá vội. Giờ đây đã quá muộn để làm lại, để nói theo đuôi, như hắn đã làm nếu phải chi hắn để Bernard lên tiếng đầu tiên. Nhưng làm thế nào hắn có thể tiên đoán rằng Bernard sẽ ở thế bênh vực những cảm tình ý tưởng mà Passavant đã dạy cho hắn xét tới một cách cười cợt? Hắn đã làm cho Bernard hung hăng thế. Cười, quả tình hắn hết muốn, hắn ngượng. Và không thể co vòi, cũng không thể bừng dậy chống đối Bernard, cơn cảm khái chính khí của Bernard bắt nó úy kị, nó chỉ còn kiếm cách tự vệ, lách mình ra:
- Thôi, nếu cậu đã viết như thế trong bài thi, thì đâu phải để phản đối mình mà cậu nói ra như thế... Thà vậy.
Hắn phô diễn giống như một kẻ hờn dỗi, nhưng không phải dùng giọng như ý hắn muốn.
Bernard lại nói:
- Nhưng bây giờ thì mình có nói ra là nói ra với cậu.
Câu này quất thẳng vào tim Olivier. Có lẽ Bernard không nói ra ý định cừu nghịch, nhưng làm sao hiểu cách khác? Olivier nín bặt. Hắn kiếm tìm những câu hỏi sẽ có thể ném ra từ bờ vực bên này sang bờ vực bên kia để tái lập mối dây. Kiếm tìm vô vọng. “Bạn mình không hiểu nỗi khổ của mình thật ư?” Hắn tự nhủ, và nỗi khổ của hắn trầm trọng thêm. Chắc hắn không cố nén nước mắt, nhưng hắn tự nhủ sự tình cũng đáng khóc. Âu là lỗi hắn: cuộc tái ngộ sẽ bớt buồn, nếu trước đây hắn dặn lòng là bớt vui trong cuộc tái ngộ này. Cách đây hai tháng, hồi hắn hăm hở đón cậu Édouard, cũng y như thế này. Chuyện đời bao giờ cũng thế, hắn tự nhủ. Olivier những muốn từ bạn, bỏ đi bất cứ đâu, quên Passavant, Édouard... Đến đây, một sự xáp mặt bất ngờ bỗng cắt đứt chuỗi tư tưởng buồn tẻ của Olivier.
Cách mấy bước trước mặt, trên đại lộ Saint Michel mà hai người đang đi ngược, Olivier vừa nhác thấy Georges, thằng em nó. Hắn nắm lấy cánh tay bạn, rồi lập tức quay gót, hấp tấp lôi bạn theo.
- Cậu có tin nó thấy bọn mình rồi không?... Nhà mình chưa biết mình về.
Thằng Georges không đi một mình, hắn có bạn là Léon Ghéridanisol và Philippe Adamanti. Ba đứa chuyện trò rất sôi động, nhưng dù chú tâm vào câu chuyện hắn vẫn “để mắt”, đó là chữ của hắn dùng. Muốn nghe bộ ba này, ta hãy từ giã Olivier với Bernard một lát, vả lại đôi bạn này đã vào tiệm ăn, tạm thời bận ăn hơn bạn nói, điều này khiến Olivier vô cùng nhẹ nhõm.
- Đây, mày đi đi, - Phiphi nói với Georges.
- Trời! Thằng này nó sợ! Thằng này nó sợ! - Georges trả miếng, hắn đặt vào giọng nói khả dĩ đủ vẻ khinh miệt mai mỉa để khích Phiphi.
Còn Ghéri thì kẻ cả:
- Này hai chú, nếu không thích thì nói ngay đi. Tao đâu có ngán phải tìm bọn khác chì hơn hai chú. Thôi, trả lại tao.
Hắn quay sang Georges đang nắm chặt trong tay một đồng tiền nhỏ. Georges đột nhiên vùng lớn tiếng:
- Được lắm, tao đi vậy! Bọn mày đến đây với tao. (Ba đứa đang đứng trước một quầy thuốc lá).
Léon bảo:
- Không, bọn này chờ mày ở góc đường. Nào, Phiphi.
Một lát sau, từ trong tiệm, Georges chui ra; hắn cầm nơi tay một bao thuốc thuộc loại “xa xỉ”, mời bạn.
Phiphi hồi hộp hỏi:
- Thế nào?
- Thế nào gì? - Georges vặn lại, bằng một vẻ thản nhiên vờ vĩnh, làm như thể điều hắn vừa làm bỗng nhiên hóa ra quá thường đến nỗi không đáng nói tới.
Nhưng Philippe hỏi dồn:
- Mày trả được hả?
- Ối dào!
- Họ không nói gì sao?
Georges nhún vai:
- Mày muốn họ nói gì giờ?
- Thế có thối lại tiền không?
Lần này Georges không thèm trả lời nữa. Nhưng bởi thằng kia, hơi đa nghi và sợ sệt, nằng nặc:
- Đưa coi nào.
Georges rút tiền trong túi ra. Phiphi đếm: bảy franc đầy đủ. Hắn muốn hỏi: “Nhưng mày chắc chắn bảy franc này thì thật chứ?” Nhưng lại thôi.
Georges đã trả bằng đồng tiền giả. Theo quy ước, tiền sẽ được chia phần. Hắn đưa ba quan cho Ghéri. Còn Phiphi không được xu nào, được một điếu thuốc là may rồi, cho hắn bài học đấy.
Được phấn khích theo chuyến thành công đầu tiên này, Phiphi bây giờ cũng ham. Hắn đòi Léon bán cho nó đồng tiền thứ hai. Nhưng Léon thấy Phiphi là thằng dễ thối chí, và muốn cho hắn lên tinh thần hoàn toàn, Léon làm ra vẻ khinh miệt cái nhút nhát ban đầu của hắn và vờ bất mãn. “Hồi nãy, hắn chỉ việc quyết định nhanh hơn là được rồi; mình chơi khỏi có hắn”. Vả chăng, liều thêm một thí nghiệm tương tự như thí nghiệm vừa rồi. Léon xét thấy ẩu quá. Thêm vào đó, giờ này đã trễ lắm rồi. Thằng Strouvilhou chú họ hắn chờ hắn về ăn trưa.
Ghéri đâu đến nỗi quá đần độn để không biết thanh toán mấy đồng tiền của hắn; nhưng, theo lời chỉ dẫn của thằng chú họ, hắn tìm bạn đồng lõa cho chắc ăn. Hắn sẽ tường trình nhiệm vụ thi hành tốt đẹp của hắn.
- Bọn con cái nhà lành, mày hiểu chưa, chính bọn đó là bọn mình cần dùng, bởi vì sau đó, nếu công chuyện đổ bể, bậc cha mẹ sẽ vận động để ém nhẹm. (Đây là Strouvilhou, thằng chú họ, thông tin viên tạm thời xử lí, đang ngỏ lời với hắn như thế, giữa lúc hai đứa ăn trưa.) Hiềm một nỗi, với cái phương thức bán tiền ra từng đồng một, mình thanh toán quá chậm. Tao có năm mươi hai hộp, mỗi hộp hai mươi đồng, để đầu tư. Phải bán ra mỗi hộp hai mươi đồng, nhưng không phải là bán cho bất cứ ai, mày hiểu chứ. Điều hay hơn hết có lẽ là thành lập một hiệp hội, phải đóng tiền bảo chứng mới có thể là hội viên. Phải làm sao cho bọn thiếu niên chịu liên lụy và giao nộp một cái gì đó để cầm chân cha mẹ chúng nó. Trước khi tung các đồng tiền ra, mày sẽ cố cho chúng nó hiểu điều ấy, nhớ! Đừng làm cho chúng sợ. Không nên làm cho trẻ con sợ bao giờ. Mày bảo ông Molinier là luật gia? Tốt. Còn ông bố của Adamanti?
- Thượng nghị sĩ.
- Càng tốt hơn nữa. Mày đã khá già dặn, mày hiểu rằng chẳng có gia đình nào khỏi có vài bí ẩn, rằng các đương sự sợ để lộ tẩy. Phải đổ bọn trẻ con ra cho chúng săn tin, cho chúng có việc làm. Thường ngày. Ở trong nhà, chán lắm! Còn điều này nữa, việc này có thể luyện cho chúng nó quan sát, lục lạo. Giản dị vô cùng: thằng nào không có gì đem đến sẽ không được hưởng gì hết. Đến khi hiểu ra là bị kẹt, nhiều bậc cha mẹ sẽ trả đắt giá để được giữ im lặng. Hừ, mình không có ý định tống tiền, mình lương thiện mà. Mình chỉ định tâm giữ chân bọn họ. Sự im lặng của bọn họ đánh đổi sự im lặng của bọn mình. Họ phải câm, và phải mời người khác câm, thì mình, mình cũng câm. Uống mừng họ nhé.
Strouvilhou rót đầy hai ly. Cụng ly, hắn tiếp lời:
- Điều cần làm và có thể nói không thể làm là tạo ra những liên hệ hỗ tương giữa công dân, những xã hội vững mạnh đều thành hình nhờ như thế. Người ta giữ chân nhau, thế thôi! Chúng mình giữ chân tụi nhỏ, tụi nhỏ giữ chân cha mẹ chúng nó, các người này lại giữ chân chúng mình. Thế là hoàn hảo. Hiểu?
Léon hiểu lắm. Hắn cười khẩy.
- Thằng Georges... - hắn mở đầu.
- Thằng Georges... Cái gì?...
- Georges Molinier, tôi cho là hắn già dặn. Hắn trộm thư từ của cha hắn, thư của một cô đào ở Olympia.
- Mày đọc chưa?
- Hắn có đưa ra cho tôi. Tôi có nghe hắn to nhỏ với Adamanti. Tôi đoán hai đứa thích tôi nghe lỏm, dù sao chúng không tránh né tôi, trước đó tôi đã sẵn cách đối phó và đã dọn sẵn cho chúng một vị đúng theo ý chú, cho chúng tin tưởng. Georges bảo Phiphi (để cho thằng này khiếp phục): “Bố tao, ông có bồ.” Phiphi, không chậm trễ ăn miếng trả miếng: “Bố tao có những hai nữa kia.” Thật ngốc, thì đã có gì đáng rối rít, thế mà sao tôi đã sấn lại gần vào hỏi Georges: “Mày biết gì chứ?” “Tao có coi thư”, hắn đáp. Tôi giả bộ nghi, bảo: “Bày vẽ...” Tóm lại, tôi hỏi dồn tới cùng, cuối cùng hắn bảo thư từ, hắn có trong người, hắn rút trong cái ví lớn ra, và khoe với tôi.
- Mày đọc chưa?
- Đọc không kịp. Nhưng có thấy cùng một chữ viết, có một đề là: “Chó cưng của em”.
Kí dưới sao?
- “Con mèo trắng của anh.” Tôi hỏi thằng Georges: “Làm sao mày cuỗm được?” Thế là hắn cười rúc rích rút trong túi quần ra một về chìa khóa và bảo tôi: “Có đủ cho tất cả ngăn kéo.”
- Thế thằng Phiphi nói gì?
- Không nói gì. Chắc hắn ganh.
- Liệu thằng Georges đưa thư cho mày nổi không?
- Nếu cần, tôi có cách ép hắn. Tôi không muốn lấy. Hắn sẽ đưa nếu thằng Phiphi thuận. Hai đứa tranh nhau.
- Tinh thần ganh đua là thế đó. Thế mày không thấy đứa nào khác nữa ở trường?
- Tôi sẽ lần mò.
- Tao muốn nói cái này nữa... Trong đám học sinh lưu trú, hẳn phải có thằng nhỏ Boris. Mày hãy để thằng đó yên. - Hắn im một lát, rồi xuống giọng - Tạm thời đã.
Bây giờ Olivier cùng Bernard ngồi vào bàn trong một khách sạn trên đại lộ. Mối khổ của Olivier, đứng trước nụ cười nồng tình của bạn, tan tành như băng giá tan giữa mặt trời. Bernard tránh gọi cái tên Passavant, Olivier cảm thấy thế, một bản năng thầm kín báo cho hắn biết như thế, nhưng cái tên đó vẫn dính trên môi, hắn phải nói ra, dù sao mặc lòng.
- Phải, bọn mình về sớm hơn ngày mình thông báo cho gia đình. Chiều nay bọn Bạch Tuộc tổ chức tiệc. Passavant muốn dự cho kì được. Ông ấy muốn tập san mới mẻ của bọn mình phải giao hảo với tập san đàn anh và miễn kình địch... Cậu phải đến; và, cậu biết... cậu phải đưa Édouard đến cùng. Có lẽ đừng đến ngay trong bữa tiệc, vì cần phải được mời, nhưng ngay liền sau đó. Mình sẽ vào một gian phòng lầu một, phòng tửu điếm ở Panthéon. Bọn biên tập viên cốt cán của tờ Bạch Tuộc sẽ đủ mặt, cùng một số lớn bọn phải cộng tác với tờ Tiền Phong. Số ra mắt của bọn này gần hoàn bị: nhưng này, cậu... sao không gửi gì cho mình.
- Vì mình không có sẵn cái gì hết, Bernard đáp, hơi cộc lốc.
Giọng Olivier trở nên gần như khẩn khoản:
- Mình đã viết tên cậu gần bên tên mình, ở mục lục… Nếu cần thì chờ một tí chứ có sao... Cái gì cũng được, nhưng phải có một cái gì... Cậu khác nào có hứa...
Bernard khổ tâm phải làm buồn lòng bạn, nhưng hắn vẫn rắn mặt:
- Này cậu, thà nói ngay với cậu: mình sợ không hợp với Passavant lắm.
- Nhưng chính mình điều khiển kia mà! Passavant để mình hoàn toàn tự do.
- Với lại, chính cái việc gửi cho cậu cái gì cũng được là việc mình không thích. Mình không muốn viết “cái gì cũng được”.
- Mình nói “cái gì cũng được” là chính vì mình biết “cái gì cũng được” của cậu thì bao giờ cũng khá... thế thì thật sự đâu phải “cái gì cũng được”.
Hắn không biết nói gì. Lắp bắp lúng búng. Nếu không còn cảm thấy bạn gần với mình trong tập san thì tập san không còn lưu tâm hắn nữa. Cái mộng cùng nhau khởi hành sao đẹp thế.
- Với lại, cậu ạ, nếu khởi đầu biết rõ cái mình không muốn làm, thì mình chưa biết sẽ làm cái gì. Mình không chắc viết được.
Lời tuyên bố này làm Olivier hoảng hốt. Nhưng Bernard nói thêm:
- Cái gì viết dễ, mình không ham. Bởi mình viết được nên mình sợ những câu viết sẵn. Không phải mình ưa cái khó khăn, nhưng mình xét thấy những người làm văn học bây giờ quả tình không chịu khổ công. Muốn viết một cuốn tiểu thuyết, mình chưa biết gì vừa phải về những người khác, và chính mình cũng chưa sống. Thơ thì rầu: câu thơ dài mười hai âm quá cũ, thơ tự do thì chẳng có hình thù. Thi sĩ duy nhất hôm nay thỏa mãn được mình, là Rimbaud.
- Chính mình nói lên điều đó trong bản tuyên ngôn.
- Nếu thế thì cần mình nói thêm lần nữa làm gì. Không, cậu ạ; mình không chắc viết được. Có khi hình như viết lại ngăn cản mình sống, và hình như diễn tả bằng hành vi thì có thể hơn là diễn tả bằng chữ nghĩa.
- Nghệ phẩm là những hành vi trường tại, - Olivier rụt rè dợm lời, nhưng Bernard không chú ý.
- Chính đó là cái mình phục nhất ở Rimbaud, là thích cuộc sống hơn.
- Anh chàng sống hỏng.
- Sao cậu biết?
- Ồ, thì...
- Không thể phán xét đời sống kẻ khác bằng vẻ bề ngoài. Nhưng thôi được, cho là hỏng đi, anh chàng gặp xui, túng với bệnh tật... Đời như thế, mình ao ước; phải, dù anh chàng cuối đời hèn hạ, mình vẫn ao ước như thế hơn là...
Bernard bỏ lửng, đang sửa soạn nêu tên một kẻ đương thời nổi tiếng, hắn lưỡng lự giữa nhiều tên quá. Hắn nhún vai nói tiếp:
- Mình cảm thấy bên trong con người mình, mơ hồ, những khát vọng phi thường, những thứ gì như những luồng sóng ngầm, những động đậy, những chuyển mình khó hiểu, mình không muốn tìm hiểu làm gì, mình cũng không muốn quan sát, sợ gây trở ngại cho sự sinh sôi của chúng. Cách đây không lâu, mình hay còn phân tích con người của mình không ngừng. Trước đây mình có cái thói quen không ngừng đối thoại với mình. Bây giờ dù muốn cũng không nổi. Cái tật đó bỗng nhiên biến mất mà mình không hay. Mình nghĩ rằng sự độc thoại đó, cái “đối thoại nội tâm” đó, như thầy bọn mình bảo, bao hàm một thứ như là phân thân mà bây giờ mình hết chủ quyền, từ ngày mình khởi sự yêu một người khác ngoài mình, hơn mình.
- Cậu muốn nói là Laura, - Olivier lên tiếng. - Cậu vẫn còn yêu?
- Không những thế, - Bernard đáp, - mỗi ngày mỗi hơn thêm. Mình nghĩ rằng đặc chất của tình yêu, là không thể giữ nguyên trạng, mà phải tăng trưởng, nếu không muốn bị giảm sút, và chính điều này làm cho nó khác với tình bạn.
Olivier buồn bã đáp:
- Tình bạn cũng vẫn yếu dần đi.
- Thiết tưởng tình bạn không rộng rãi quá lắm.
- Này... cậu đừng giận, yêu cầu cậu một việc nhé.
- Cứ nói thì biết.
- Mình không muốn làm cho cậu giận mà.
- Nếu cậu hỏi mà không nói ra, mình còn giận hơn nữa.
- Mình muốn biết đối với Laura cậu có cảm thấy sự... ham muốn không.
Bernard vụt trở nên nghiêm trọng:
- Cậu khơi mào đấy nhé... - hắn mở lời. - Là thế này! Cậu ạ, trong lòng mình xảy ra một điều kì quái, là từ buổi quen biết nàng, mình hết còn ham muốn. Trước đây, cậu nhớ không, mình vẫn là con người nhộn nhạo khí huyết vì cả hai chục đàn bà cùng một lúc gặp giữa đường (và cũng chính điều này ngăn cản mình chọn lựa ai), nay mình tưởng như hết có thể xúc động, hết rồi kể từ nay, đối với một hình thể đẹp đẽ nào khác ngoài nàng, không còn có thể yêu vầng trán, môi, mắt nào khác ngoài nàng. Nhưng đó là lòng ngưỡng mộ của mình đối với nàng, và cạnh nàng, mọi tư tưởng về nhục thể đối với mình đều có vẻ khiếm nhã. Mình nghĩ rằng mình hiểu nhầm mình và bản chất của mình là bản chất rất thanh khiết. Nhờ Laura mà những nét tính trời sinh của mình được thăng hoa. Cảm thấy bên trong mình có những sức mạnh chưa dùng đến. Mình muốn đem ra ứng dụng. Mình thèm được như kẻ tu hành dẹp lòng kiêu căng dưới giáo lệnh, kẻ được người ta ngỏ lời: “Tôi trông cậy nơi anh.” Mình thèm được như người lính... hay đúng hơn, không, mình không thèm được như ai hết; nhưng cái huyên náo nội tâm làm cho mình khó thở và mình mong mỏi chỉnh đốn nó lại. Tuồng như là hơi nước ở trong con người mình, hơi nước có thể thoát ra ngoài mà lên tiếng rít (thơ đấy, nhỉ), nó có thể vận chuyển các ống hơi, các bánh xe; hoặc nữa, có thể làm cho động cơ bùng nổ. Cậu có biết đối khi mình có cảm tưởng mình diễn tả đúng đắn nhất là diễn tả bằng cử chỉ gì không? Đó là... Mà thôi! Mình thừa biết mình sẽ không tự sát, tuy nhiên mình hiểu nhân vật Dimitri Karamazov(20) lắm, khi anh chàng hỏi xem người anh có hiểu chăng, rằng con người có thể tự sát vì cao hứng, tự sát chỉ vì thừa thãi sức sống... tự sát vì bung nổ.
Một sự rõ ràng phi thường tỏa từ châu thân hắn. Hắn diễn đạt thần tình thế! Olivier như xuất thần chiêm ngưỡng hắn. Hắn ngại ngần lên tiếng thì thầm:
- Mình cũng hiểu hành động tự sát của con người, nhưng chỉ là sau khi đã hưởng thụ một cuộc vui thật dữ dội đến nỗi đời sống từ đó về sau mất khí sắc; một cuộc vui khiến ta có thể âm thầm nhủ rằng: đủ rồi, mình hài lòng, mình sẽ không còn bao giờ...
Nhưng Bernard có nghe hắn nói gì đâu. Hắn khựng lại. Nói giữa hư vô mà làm gì? Bầu trời của hắn, một lần nữa, sa sầm. Bernard rút đồng hồ ra:
- Đến giờ, mình phải đi. Thế thì, cậu bảo tối nay… mấy giờ?
- À! Mười giờ, mình nghĩ giờ đó là vừa. Cậu đến chứ?
- Ừ, mình sẽ cố kéo ông Édouard theo. Nhưng cậu biết, Édouard không ưa gì Passavant lắm đâu, với lại Édouard ngán những buổi hội họp bọn nhà văn. Chỉ để gặp lại cậu thì được. Này: thi môn La-tinh xong, mình không gặp lại cậu được sao?
Olivier không trả lời ngay. Hắn thất vọng liên tưởng đến việc đã lỡ hứa gặp Passavant tại nhà viên trông coi ấn loát nay mai cho tờ Tiền Phong vào lúc bốn giờ. Bỏ hết để tự do cũng đành!
- Mình muốn lắm, nhưng mình bận mất rồi.
Nỗi khổ tâm của hắn không lộ mảy may, nên Bernard đáp:
- Thôi.
Rồi hai đứa chia tay.
Bao nhiêu điều định nói với Bernard, Olivier có nói được gì đâu. Hắn sợ đã làm bạn chán. Hắn cũng chán lắm. Sáng nay linh hoạt là thế, giờ đây hắn gằm gằm cất bước. Tình bạn của Passavant, mà lúc ban đầu hắn lấy làm hãnh diện, nay vướng víu hắn, bởi hắn cảm nhận sự phủ quyết của Bernard đè nặng lên đó. Đêm nay, dự tiệc, nếu gặp lại bạn, trước trăm con mắt, hắn cũng không thể hé môi. Vui thú chăng, bữa tiệc tối nay, là trước đó hai đứa đã tranh thủ được lòng nhau kia. Huống chi, bị cơn hợm hĩnh mách nước, hắn lại có cái ý nghĩ tai hại là kéo thêm ông cậu Édouard đến nữa! Bên cạnh là Passavant, chung quanh là bậc đàn anh, là bọn đồng sự, là những người cộng tác trong tương lai với Tiền Phong, hắn sẽ phải múa may quay cuồng, Édouard sẽ đánh giá hắn lệch lạc hơn nữa, có thể sẽ lệch lạc mãi mãi từ nay... Giá gặp lại được ông cậu trước bữa tiệc thì may ra! Gặp lại ngay bây giờ, hắn sẽ bá cổ, hắn sẽ khóc có lẽ, sẽ đem chính mình ra kể lể... Từ bây giờ đến đó, còn kịp. Mau mau, một chiếc xe.
Hắn đọc địa chỉ cho tài xế. Hắn đi đến trước cổng, tim đập thình thịnh; hắn bấm chuông... Édouard vắng nhà.
Khổ! Thay vì giấu giếm cha mẹ, tại sao hắn lại không về nhà một cách bình thường thế thôi? Về thì hắn đã bắt gặp cậu ngồi với mẹ hắn rồi còn chi.
* * *
(18) Jean de La Fontaine (1621-1695) là nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng của Pháp.
(19) Ambrois-Paul-Toussaint-Jules Valéry (1871-1945) là nhà thơ, nhà văn, triết gia người Pháp.
(20) Dimitri Karamazov là nhân vật anh cả trong tiểu thuyết Anh em nhà Karanazov của nhà văn người Nga Fyodor Dostoyevsky (1821-1881).
VI
NHẬT KÍ Édouard
Bọn viết tiểu thuyết dụ hoặc chúng ta khi họ triển khai cá nhân mà không kể đến những bức bách từ chung quanh. Cây cối được rừng tiết dưỡng. Chỗ dành cho mỗi cá thể thật quá ít ỏi! Bao nhiêu chồi bị què quặt! Cành nhánh, mạnh đâu nảy đó. Cái cánh thần bí thì lắm khi nhờ bị bế tắc mà sinh nở. Chỉ có thể lách mình bằng phía trên cao. Tôi không hiểu Pauline làm thế nào mà lại không sinh nở được cái cành thần bí, tôi cũng không hiểu chị còn chờ đợi những bức bách gì thêm. Chị đã chuyện trò với tôi thân tình hơn từ trước đến nay. Thú thật, không nghi ngờ vào đâu được rằng, bên dưới những dáng vẻ hạnh phúc bề ngoài, bao nhiêu là cay đắng nhẫn nhục được che giấu. Nhưng tôi thừa nhận rằng, họa là một tâm hồn thậm phàm tục mới không thất vọng vì Molinier chồng chị. Trong buổi chuyện vãn với Molinier, hôm kia, tôi đã đo lường được giới hạn của anh. Làm thế nào chị lại lấy Molinier được nhỉ?... Hỡi ôi! Anh không có cá tính, là cái khiếm khuyết thê thảm nhất được che giấu và chỉ tỏ lộ khi phải dùng đến.
Pauline kì khu đắp điếm những khiếm khuyết và sa sút của chồng, che mắt thiên hạ, và nhất là che mắt bọn con cái. Chị khôn khéo giúp cho con cái nể nang bố, và thật tình chị phải vất vả; nhưng chị dốc sức vào việc đó đến độ chính tôi cũng lọt vào tròng. Chị đề cập đến chồng mà không chê bai, lại bằng một vẻ khoan hồng thế nào đó mang nhiều ý nghĩa. Chị than phiền chồng không có được nhiều uy quyền đối với con cái; và vì tôi tỏ ra ấm ức thấy Olivier đi đôi với Passavant, tôi mới vỡ lẽ rằng, nếu sự việc do một mình chị định đoạt thì chuyến đi Corse đã không xảy ra. Chị nói:
- Tôi không đồng ý cho đi, còn cái ông Passayant đó, nói cho ngay, tôi không thích gì. Nhưng biết làm sao? Cái gì mà tôi thấy không ngăn ngừa nổi thì thà hoan hỉ chấp thuận cho xong. Oscar, ông ấy, luôn luôn nhượng bộ, nhượng bộ luôn cả tôi nữa. Nhưng mỗi khi nghĩ là phải phản đối dự định nào đó của con cái, chống lại chúng nó, đương đầu với chúng nó, thì tôi mất hết điểm tựa bên cạnh chồng. Chính Vincent cũng có can thiệp. Thế thì phản đối Olivier sao nổi, sao cho nó khỏi mất tin tưởng? Mà đó là điều tôi xem trọng hơn cả.
Chị đang mạng những chiếc bít tất cũ, những chiếc bít tất, tôi nghĩ thầm, mà Olivier hết xài. Chị ngừng nói, để xâu chỉ, rồi nói tiếp, giọng trầm hơn, nhưng tâm tình hơn và buồn bã hơn:
- Lòng tin tưởng của nó... Nhưng ít nhất có chắc chắn còn được không đã chứ! Không, tôi đánh mất rồi...
Tôi buông lời không đồng ý với chị, một cách thiếu mạnh dạn, lời của tôi khiến chị nhoẻn miệng cười. Chị ngừng tay và nói thêm:
- Đây này, tôi biết nó hiện ở Paris. Georges có gặp nó sáng hôm nay, nó tình cờ bảo thế, và tôi giả vờ không nghe, vì tôi không thích nó tố giác anh nó. Nhưng dù sao tôi cũng biết. Olivier lánh mặt tôi. Rồi đây gặp lại nó, nó sẽ nghĩ là buộc phải nói dối, còn tôi sẽ vờ vĩnh tin nó, như là vờ vĩnh tin bố nó mỗi khi bố nó lánh mặt tôi.
- Sợ làm buồn lòng chị chứ có gì đâu.
- Tôi cũng buồn lòng hơn thì có. Tôi đâu phải là người không dung thứ. Có vô số khiếm khuyết lặt vặt mà tôi dung thứ, nhắm mắt làm ngơ.
- Chị đang nói ai đấy?
- Ồ! Bố hay con cũng thế.
- Trong khi giả vờ không nhận ra chồng con nói dối thì chị cũng dối chồng con.
- Nhưng cậu bảo tôi làm thế nào bây giờ? Tôi không than van là tốt lắm rồi, hưởng ứng thì đâu có được! Không, cậu thấy, tôi tự nhủ sớm muộn gì cũng hết kham nổi, và tình thương yêu thắm thiết nhất cũng vô dụng. Tôi nói gì thế nhỉ? Tình yêu nó vướng bận, rầy rà. Tôi đi đến chỗ giấu giếm chính cái tình đó.
- Bây giờ thì chị nói chuyện con cái.
- Tại sao cậu nói thế? Cậu cho rằng tôi hết thương yêu chồng? Đôi khi tôi thầm nói như thế, nhưng tôi cũng thầm nói rằng chính vì sợ quá đau khổ mà tôi tránh yêu chồng nhiều hơn. Vì... mà phải, cậu cũng có lí thật đấy: nếu là trường hợp Olivier thì tôi muốn được đau khổ.
- Còn Vincent?
- Vài năm trước đây, những lời nói ám chỉ Olivier tôi có thể dùng ám chỉ Vincent.
- Khổ nhỉ... Không lâu nữa, chị sẽ ám chỉ Georges như thế.
- Nhưng dần dà rồi người ta nhịn nhục. Đòi hỏi gì nhiều lắm ở đời cho cam. Người ta còn tập tành đòi hỏi ít hơn nữa... càng ngày càng ít. - Rồi chị nhẹ nhàng vớt thêm. - Và đòi hỏi mình, càng ngày càng nhiều>
Tôi góp lời, đến lượt tôi cười nhẹ:
- Với những ý tưởng đó thì đã gần giống như người tu hành.
- Chính tôi đôi khi tự nhủ như thế. Nhưng có những ý tưởng đó vẫn chưa đủ để làm người tu hành.
- Làm người tu hành cũng vẫn chưa đủ tư cách để có những ý tưởng đó.
- Lắm khi tôi nghĩ rằng, cậu để tôi nói, vắng mặt bố chúng nó, cậu có thể ngỏ lời với chúng nó.
- Vincent ở xa mà.
- Quá chậm đối với Vincent. Tôi nghĩ tới Olivier nhiều hơn cả. Nó mà đi đôi với cậu thì mới là điều tôi mong ước.
Những lời lẽ bỗng nhiên khiến tôi mơ màng nghĩ đến bao nhiều điều đã có thể xảy ra nếu trước đây tôi đừng vụt chạc nhận lời lãng du. Nghe những lời này, một nguồn cơn cảm xúc gớm ghê làm tôi nghẹn lời, và thoạt đầu tôi không tìm được lời đối đáp; kế đó, vì nước mắt chực dâng, tôi thở dài, muốn gán cho nỗi bối rối của mình một vẻ hữu lí:
- Đối với Olivier cũng thế, sợ quá chậm mất.
Pauline, đến đây, ôm chầm lấy tay tôi, nói lớn:
- Cậu tốt quá, - chị nói lớn.
Lúng túng vì thấy chị hiểu nhầm, mà không thể giải ngộ cho chị, tôi muốn ít ra là chuyển hướng cái đề tài vốn đang làm tôi khó chịu quá sức.
- Còn Georges? - Tôi hỏi.
- Thằng này bắt tôi lo lắng hơn hai anh nó trước kia, - chị đáp. - Không thể bảo rằng tôi hết chịu nổi nó, vì nó có bao giờ tin tưởng ai, phục tùng ai đâu.
Chị ngần ngừ một lát. Hiển nhiên những lời sắp nói ra phải nhọc nhằn đối với chị. Cuối cùng chị nói:
- Mùa hè năm nay có xảy ra một việc trọng đại, một việc kể ra cho cậu nghe, tôi khá khổ tâm, nhưng tôi vẫn ngờ một đôi điều... Một tờ bạc trăm franc đã biến mất ở trong tủ, nơi quen tôi quen cất tiền. Sợ ngờ oan nên tôi miễn buộc tội ai; con bé giúp việc cho chúng tôi thì còn nhỏ lắm mà lại có vẻ lương thiện. Tôi có tuyên bố trước mặt Georges là tôi mất tiền, như thế khác nào thú nhận với cậu rằng bao nhiêu ngờ vực của tôi đều đổ lên nó. Nó không bối rối, không đỏ mặt... Tôi xấu hổ vì đã ngờ, tôi muốn tự dỗ dành rằng mình nhầm, tôi tính toán lại. Khổ nỗi! Không còn nhầm gì nữa: thiếu mất trăm franc. Tôi ngần ngại tính cật vấn nó nhưng cuối cùng không làm gì hết. Sợ nó đã đánh cắp, bây giờ nói dối thêm vào nữa, nên tôi khựng lại. Tôi đã lầm lạc chăng...? Phải, bây giờ tôi trách mình sao không dồn dập hơn, cũng có thể tôi sợ phải tỏ ra nghiêm khắc quá, hoặc không biết cách để tỏ ra nghiêm khắc đúng mức. Một lần nữa, tôi đóng vai kẻ mù tịt, nhưng cam đoan với cậu, lòng thì thật rối ren. Tôi đã để cho thời gian đi qua rồi tự nhủ thôi đã quá trễ tràng và hình phạt với lỗi lầm cách quãng quá xa. Mà làm thế nào phạt nó? Tôi chẳng ra tay, đó là điều tôi trách mình... Nhưng nếu đã ra tay thì ra tay như thế nào được? Tôi đã nghĩ cách gửi nó đi Anh, tôi cũng muốn hỏi ý kiến cậu về vấn đề này, nhưng chẳng biết cậu ở đâu... Dù sao, với nó, tôi không giấu giếm nỗi khổ tâm và ưu tư của tôi, tôi chắc nó linh cảm ra, vì cậu biết, nó thiện tâm. Tôi trông mong nó có thể tự khiển trách, giả như do chính nó thật đi, còn hơn là tôi khiển trách. Nó không tái phạm đâu, chắc chắn thế. Nó ở bên ấy với người bạn rất giàu có chắc có lẽ rủ rê nó tiêu pha. Nên chi tôi vẫn để tủ mở... Mà tôi đây, một lần nữa, không dám chắc là chính nó. Khách trọ vẫn ra vào thường xuyên...
Tôi khâm phục chị tài tình viện dẫn những gì có thể giải tội cho con.
- Tôi mong nó trả lại tiền tận nơi nó lấy - tôi nói.
- Tôi cũng đã tự nhủ như thế chứ. Mà vì nó không làm như ý tôi nên tôi muốn nhìn thấy đó là minh chứng cho sự vô tội của nó. Tôi cũng tự nhủ nó không dám đâu.
- Chị có nói với bố nó?
Chị ngần ngừ một lát rồi mới đáp:
- Không. Ông đừng hay biết thì hơn.
Hình như chị ngỡ nghe thấy tiếng động trong phòng kế bên, chị đứng lên coi chắc chắn không có ai rồi ngồi xuống lại bên tôi:
- Oscar có nói với tôi rằng ông với cậu hôm nọ đi ăn chung với nhau. Ông khen cậu quá cỡ, làm tôi nghĩ rằng chắc hẳn cậu phải nghe ông nói nhiều hơn. (Nói lời này, chị mỉm cười hiu hắt). Nếu ông có tâm tình với cậu thì tôi xin tôn trọng những lời tâm tình đó... mặc dù, về cuộc đời riêng tư của ông, tôi biết nhiều hơn ông lầm tưởng... Nhưng mà, từ khi tôi trở về, tôi không hiểu ông mắc phải cái gì. Ông tỏ ra thật hiền hòa, tôi định nói là: rất nhún nhường... Tôi gần như lúng túng theo. Như thể ông sợ tôi. Ông nhầm to. Từ lâu tôi rõ những nơi ông hiện đang giao lưu... tôi còn biết giao du với ai nữa kia. Ông tưởng tôi không hay và bố trí lộ ra ngoài cả nên ông càng giấu nhẹm càng lòi đuôi. Hễ lần nào sửa soạn ra đi, ông làm bộ mắc bận, bực bội, lo liệu, tôi biết ông lao đi du hí. Tôi muốn bảo: “Tôi có cầm giữ ông đâu, ông sợ tôi ghen?” Tôi không đang tâm cười cợt. Chỉ sợ nỗi con cái thấy ra một cái gì đó thôi, ông thật lãng đãng, thật vụng về! Có khi, ông có ngờ gì đâu, tôi thấy mình miễn cưỡng tiếp tay với ông, làm như tôi a dua theo trò hề của ông. Đến độ chính tôi gần như vui lây theo ông, thật thế cậu ạ, tôi bịa những thoái thác giúp ông, đút lại vào túi áo ông những thư từ mà ông để quên vất vưởng.
Tôi nói:
- Đúng rồi, anh sợ chị bắt gặp thư từ.
- Ông có nói với cậu như thế ư?
- Anh ngại là ngại như thế đấy.
- Cậu nghĩ tôi tìm đọc sao?
Một vẻ kiêu hãnh nào đó dựng người chị dậy. Tôi phải nói vớt:
- Không phải những lá thư mà anh sơ ý để lạc, nhưng có những lá mà anh đã cho vào ngăn kéo nhưng anh bảo không tìm ra. Anh ngỡ là chị lấy.
Nghe nói, tôi thấy Pauline tái mặt, và mối ngờ vực thoảng qua con người chị bỗng đâu xâm chiếm trí óc tôi. Tôi ân hận đã nói ra, nhưng quá chậm. Chị nhìn đi chỗ khác và lẩm bẩm:
- Nếu chính tôi thì may quá!
Chị lộ vẻ rã rời. Chị nói đi nói lại:
- Làm sao đây? Làm sao đây? - Rồi lại ngước mắt nhìn tôi. - Cậu, cậu không nói được sao?
Mặc dù chị, cũng như tôi, tránh gọi cái tên Georges, nhưng hiển nhiên chị đang ám chỉ nó.
- Tôi sẽ kiếm cách. Tôi sẽ nghĩ lại, - tôi vừa nói vừa đứng lên.
Và trong lúc chị tiễn tôi ra phòng ngoài, chị nói:
- Cậu đừng nói với Oscar, tôi xin cậu. Cứ để cho ông tiếp tục nghi tôi, để cho ông tưởng điều ông tưởng. Thà như thế. Đến chơi nhé.
* * *
VII
Lúc này đây, Olivier, chán vì không gặp cậu Édouard, và vì không chịu nổi cô đơn, định đưa đẩy lòng mình hướng về Armand để tìm tình bạn. Hắn nhắm trường Vedel cất bước.
Armand tiếp hắn trong phòng riêng. Một chiếc cầu thang ngõ sau dẫn lên đó. Đây là gian phòng nhỏ hẹp, cửa sổ mở ra một cái sân ở phía bên trong kề với những phòng những bếp của tòa nhà bên cạnh. Một mái kẽm uốn cong dùng làm mặt phẳng phản chiếu hứng ánh sáng ban ngày từ trời cao và dội xuống một thứ ánh sáng nhợt nhạt. Gian phòng không khoáng đạt, một mùi nặng nhọc vần vụ ở bên trong.
- Cũng quen đi, - Armand nói. - Mày biết, bố mẹ tao dành phòng tốt cho bọn người đóng tiền. Tự nhiên. Tao nhường phòng năm ngoái của tao cho một chú tử tước: đứa em của Passavant, người bạn tăm tiếng của mày. Phòng sang trọng, nhưng do Rachel coi ngó. Ở đây có lắm phòng nhưng không biệt lập với nhau. Vì thế nàng Sarah, khổ nỗi, vừa từ Anh về sáng hôm nay, muốn rúc vào cái ổ mới của cô nàng buộc lòng băng ngang qua phòng bố mẹ (chuyện không ổn), hoặc là băng qua phòng tao vốn ban đầu, thật ra, chỉ là phòng tắm rửa hay phòng chứa đồ phế thải. Ở đây, tối thiểu có lợi điểm là có thể vào ra tùy ý, khỏi bị ai do thám. Tao thích cái này hơn là loại chuồng bồ câu dùng làm chỗ ở cho bọn gia nhân. Nói thật ra, ở bê bối thế này tao cũng thích, bố tao sẽ gọi điều này bằng cái tên là: sự thích hành xác, rồi sẽ giải thích rằng cái gì phương hại cho thể xác thì dọn chỗ cho sự cứu rỗi linh hồn. Nói thế chứ ông không hề bước chân vào đây. Mày hiểu chứ, ông có những âu lo khác, có đâu lại đi thắc mắc chuyện chỗ ở của con làm gì. Bố tao, ông bảnh lắm. Thuộc nằm lòng một mớ câu trấn an dành cho những biến cố chính yếu trong đời sống. Nghe thì mĩ miều. Tiếc tài ông không hề có thì giờ chuyện vãn... Mày coi dãy tranh của tao, thưởng thức vào buổi sáng được hơn. Đây là bản ấn họa màu, của một học trò của Paolo Uccello(21), dành cho những chuyên viên về thú vật. Trong một nỗ lực tổng hợp đáng phục, họa sĩ dồn hết vào một con ngựa bao nhiều điều bỉ bạc, nhờ đó mà tạo hóa thanh lọc cho hồn ngựa, mày để ý cái thần của con mắt... Cái này là một bức tranh tượng trưng những giai đoạn đời, từ chiếc nôi đến nấm mồ. Về mặt nét vẽ thì không vững lắm, giá trị là ở ý hướng nhiều hơn hết. Và, đàng kia, mày sẽ chiêm ngưỡng tấm ảnh chụp một cung nữ do Titian vẽ, tao để ở đầu giường để cho mình những ý nghĩ dâm dật. Cửa kia là cửa phòng của Sarah.
Cái vẻ gần như tồi tàn của chỗ ở ghi ấn tượng khổ não cho Olivier; giường không dọn và trên bàn rửa mặt, thau không đổ.
Để trả lời cho ánh mắt băn khoăn của hắn, Armand nói:
- Phải, tạo dọn phòng lấy. Mày thấy bàn viết của tao đây này. Mày đâu có nghĩ đến những cảm hứng của tao phát xuất từ hơi hám gian phòng như thế này: “Hơi hám xó xỉnh thân tình…” Chính nhờ hơi hám này mà tao nảy ý sinh tình cho bài thơ mới: Chậu đêm.
Olivier có ý định đến tìm Armand để nói về tập san và mời cộng tác, bây giờ hắn hết can đảm. Thế mà chính Armand cứ gợi ý:
Chậu đêm, nhan đề hay quá, nhỉ!... Kèm theo câu thơ của Baudelaire làm câu mũ: “Chậu âm hồn chờ rưới lệ đó chăng?” Tao lấy lại hình ảnh so sánh cổ xưa (mà vẫn tân kì) của kẻ tạc chậu uốn nắn mỗi sinh vật người như một cái chậu định sẵn để chứa đựng một cái gì đó không hiểu. Giữa nguồn cơn trữ tình, tạo tự so sánh với cái bình cái chậu đó, ý nghĩ tự nhiên đến với tao, như tao đã nói, khi tao hít thở cái mùi trong phòng này. Đặc biệt câu mở đầu bài thơ, tao lấy làm ưng ý: “Tuổi bốn mươi không khốn vì bệnh trĩ...” Trước kia, để trấn an độc giả, tạo viết: “Tuổi năm mươi không khốn...”, nhưng thế này thì uổng mất cái trùng âm. Còn chữ “hémorroide”, bệnh trĩ, thì nhất định là chữ đẹp nhất trong từ ngữ Pháp... tách nó ra khỏi cái nghĩa của nó cũng thế. - Hắn cười hắc hắc nói thêm.
Olivier im lặng, cực lòng. Armand được thể:
- Điều khỏi nói là Chậu đêm được vinh hạnh một cách đặc biệt khi tiếp đón cái bình tràn đầy hương thơm như mày.
Olivier, tuyệt vọng, bây giờ mới lên tiếng hỏi:
- Thế mày không viết được gì khác hơn cái đó sao?
- Tạo định bụng đưa bài Chậu đêm cho tập san danh giá của mày đấy, nay nghe giọng mày vừa bảo “cái đó”, tao thấy rõ chẳng hi vọng gì được mày thích. Những trường hợp như thế này, thằng làm thơ luôn luôn được cái lợi mà viện cớ rằng là: “Ta không phải viết để làm vừa lòng người khác”, rồi tự tin rằng mình đã đẻ ra một tuyệt tác. Nhưng tao không cần giấu giếm rằng tao thấy bài thơ tao dở ẹc. Nhưng mới viết có câu đầu. Và khi tao bảo “viết”, thì vẫn là một cách nói, vì tao mới sáng chế hầu mày, ngay tức tốc đấy... Nhưng mà, coi nào, mày có ý nghĩ đăng một bài gì đó của tao thật sao? Muốn tao cộng tác? Nghĩa là mày không cho tao là bất tài? Mày có nhận ra dấu vết báo hiệu thiên tài trên cái trán trắng mét của tao? Tao biết ở chốn này có soi gương cũng không thấy rõ được gì, nhưng hễ nhìn ngắm vào gương, như Narcisse, thì chỉ thấy cái mặt thằng lỡ vận. Hay có lẽ đó chỉ là hậu quả của ánh sáng sai lầm... Không, Olivier ạ, mùa hè này tao chẳng viết được gì, và nếu mày trông cậy tao viết cho tập san của mày, mày có thể rũ bỏ ý đó đi. Nhưng nói chuyện về mình như thế này đã đủ... Thế nào đi Corse vui vẻ chứ? Đi chơi thú không, hơi hởi chứ? Nhọc nhằn rồi nghỉ ngơi có đã đời không? Có...
Olivier hết nhịn nổi:
- Thôi câm mồm mày lại, đừng lảm nhảm nữa. Nếu mày tưởng tao cho là ngộ...
Armand vụt nói:
- À, thế còn tao! Đừng, đừng có thế chứ! Tao đâu ngu ngốc đến độ. Tao vẫn đủ thông minh để hiểu những lời tao là ngốc chứ.
- Thế mày ăn nói nghiêm trang không được sao?
- Mày đã thích loại nghiêm trang thì bây giờ mình nói nghiêm trang vậy. Chị cả của tao, Rachel, bị mù rồi. Dù sau này mắt chị yếu đi nhiều. Từ hai năm nay, không mang kính là không đọc được. Ban đầu tao tưởng chỉ có việc đổi kính là xong. Nhưng như thế không đủ. Tao yêu cầu chị, chị có đến một chuyên viên để khám. Hình như cái độ nhạy của võng mạc bị suy yếu. Ở đây có hai điều rất khác biệt, mày hiểu chứ: một đàng là sự điều chỉnh kém của thủy tinh thể, cái này thì nhờ kính cải thiện. Nhưng, ngay sau khi kính đưa thị ảnh tới hay lùi thì thị ảnh có thể in hình không rõ lên võng mạc và thị ảnh có thể chỉ còn được chuyển lên não bộ một cách mù mờ mà thôi. Tao nói thế là rõ chứ? Mày hầu như không quen biết Rachel, do đó đừng tưởng rằng tao tìm cách làm cho mày thương xót số phận của bà chị. Thế thì, tại làm sao tao lại kể lể cho mày?... Là thế này, suy trường hợp chị, tao nhận ra rằng ý tưởng, hoàn toàn giống như hình ảnh, có thể hiện hình trong óc rõ ít hơn rõ nhiều. Một trí óc đần độn chỉ thụ nhận những tri giác hồ đồ nhưng chính vì vậy nên không ý thức được sự đần độn, và muốn ý thức được thì đương sự phải trở nên thông minh. Nay, mày hãy để ra một lát tưởng tượng cái quái tượng này: một tên ngốc thông minh vừa đủ để hiểu rõ là hắn ngốc.
- Thế thì còn ngốc gì nữa!
- Ngốc chứ, mày tin tao đi. Vả lại đó là điều tao biết, bởi lẽ thằng ngốc đó là tao.
Olivier nhún vai. Armand tiếp lời:
- Một thằng ngốc thật sự thì không ý thức được một ý tưởng nào vượt quá ý tưởng của nó. Tao đây, tao ý thức được cái “vượt quá”. Nhưng chung quy vẫn là thằng ngốc, vì cái “vượt quá” đó, tao biết mình sẽ không đời nào với tới nổi...
- Nhưng mà này, mày ạ, bọn mình vốn sinh ra là có khả năng tiến tới chỗ khá hơn, và tao thiết tưởng bộ óc thông minh hơn cả là bộ óc đau khổ cho sự hữu hạn của nó hơn cả.
Armand hất bàn tay của Olivier đang đặt dịu dàng lên tay hắn. Hắn nói:
- Một số người có được cái gì thì nghĩ về cái đó, tao chỉ nghĩ đến những gì tao thiếu hụt thôi. Thiếu tiền, thiếu sức, thiếu trí, thiếu tình. Luôn luôn thâm lậm, luôn luôn ở bên này lằn mức.
Hắn đi tới bàn rửa mặt, những cái bàn chải tóc vào nước dơ trong thau rồi ép tóc xuống trán một cách dị hợm.
- Tao đã bảo tao không viết được gì, tuy nhiên mấy hôm gần đây tao nảy sinh ý nghĩ viết một luận văn: Luận về sự bất túc. Nhưng cố nhiên, tao cũng bất túc để viết cuốn đó. Nếu có viết, tao sẽ trình bày... Nhưng thôi, tao làm khổ mày.
- Cứ việc, mày làm khổ tao là khi nào mày giỡn hớt, bây giờ thì mày bắt tao chú ý lắm.
- Nếu có viết, tao sẽ truy tầm khắp cùng trời đất cho ra cái điểm giới hạn mà, nếu ở phía bên này lằn mức, không có cái gì là hiện hữu. Một ví dụ cho mày hiểu. Báo chí có tường thuật chuyện một người thợ vừa bị điện giật chết. Y hờ hững cầm dây điện truyền tin, điện thế không mạnh lắm, nhưng hình như thân hình y toát mồ hôi. Cái chết của y, người ta quy kết cho cái lớp rịn ướt mồ hôi đó đã cho phép dòng điện phủ trùm thân hình của y. Nếu thân hình y khô ráo hơn thì tai nạn đã không xảy ra. Nhưng thêm vào từng giọt, từng giọt mồ hôi... Thêm một giọt nữa: thế là xong.
- Tao không hiểu, - Olivier nói.
- Tại ví dụ chọn dở. Tao luôn luôn chọn ví dụ dở. Ví dụ khác: Sáu kẻ đắm tàu được vớt lên ghe. Đã mười hôm nay họ lạc nhau vì bão. Ba người chết, cứu được hai. Người thứ sáu rạc rài. Người ta vẫn còn hi vọng hồi sinh cho người sau cùng. Nhưng cơ thể của y đã tới điểm giới hạn.
- Rồi, tao hiểu, - Olivier bảo, - sớm một giờ đồng hồ thì đã cứu sống.
- Một giờ đồng hồ, mày nói gì thế! Tao tính toán chi li cái phút cùng cực: còn cứu được... còn cứu được. Hết! Đó là cái mép mỏng, trí óc tao dạo qua dạo lại trên đó. Cái lằn ranh giới giữa cái sắc và cái không, tạo mải miết vạch ra khắp cùng. Cái giới hạn chịu đựng... à, chẳng hạn như chịu đựng cái mà bố tao gọi là sự cám dỗ. Ta còn đè nén, sợi dây bị căng thẳng muốn đứt, ngạ quỷ cứ lôi kéo... Một tí xíu nữa, sợi dây đứt phựt: con người bị đọa. Mày hiểu rồi chứ? Nếu không có một tí xíu kia: là cái không, thì Chúa cũng không tạo lập thế giới ra làm gì. Mọi sự đã không hiện hữu. “Cục diện thế giới đã đổi thay”, Pascal(22) bảo thế. Nhưng nghĩ rằng: “Giá như mũi Cléopâtre ngắn hơn”, tao thấy không đủ. Tao tra vấn. Hỏi: ngắn hơn... mà ngắn hơn bao nhiêu? Vì nói cho cùng, mũi Cléopâtre cũng có thể ngắn hơn một tí xíu nữa, có thể lắm chứ?... Tiệm tiến, tiệm tiến, rồi nhảy vọt bất ngờ một cái... Thiên nhiên không nhảy vọt, cậu đùa đấy! Tao đây như thằng Ả-rập băng qua sa mạc, chết khát tới nơi. Tao chạm tới cái điểm chuẩn xác đó, mày hiểu không, cái điểm hắn còn có thể được cứu sống bằng một giọt nước… hoặc bằng một giọt nước...
Giọng hắn tắt nghẹn, nhuốm âm sắc thê lương làm Olivier nghi hoặc và bối rối. Armand nói tiếp, dịu dàng hơn, gần như đượm tình hơn:
- Mày nhớ câu: “Ta đã đổ giọt lệ như thế thay cho ngươi...”
Đã đành Olivier nhớ câu nói của Pascal, hắn... còn cảm thấy vương vướng vì Armand đọc không đúng câu đó nữa là khác. Hắn không thể không chỉnh lại:
- “Ta đã đổ giọt máu như thế này...”
Cảm khái của Armand tức thì rơi hẫng xuống. Hắn nhún vai:
- Biết làm sao hơn? Có hạng người được hậu đãi… Bây giờ mày hiểu rồi chứ, hiểu thế nào và luôn luôn cảm thấy “ngang giới hạn”? Tao luôn luôn thiếu cái điểm giới hạn.
Đến đây Armand bật cười. Olivier nghĩ rằng chẳng qua là sợ khóc đấy thôi. Olivier muốn tiếp lời, muốn nói với thằng bạn rằng lời lẽ hắn làm mình rúng động biết chừng nào, cùng bao nhiêu nỗi khắc khoải mà chính mình cảm nhận ra bên dưới sự mỉa mai hậm hực kia. Nhưng giờ hẹn với Passavant làm Olivier nôn nóng. Hắn rút đồng hồ, nói:
- Tao phải từ giã mày bây giờ. Tối nay rảnh không?
- Tại sao?
- Để đến gặp tao ở phòng tửu điếm của Panthéon. Nhóm Bạch Tuộc tổ chức tiệc. Mày đến vào lúc tiệc tàn. Ở đó có lắm kẻ nổi tiếng ít nhiều và phần nào quá chén. Bernard Profitendieu có hứa với tao sẽ đến. Có thể vui.
Armand đáp, giọng ủ ê:
- Tao chẳng cạo râu. Mà mày muốn tao đến chen chân với đám nổi danh làm gì? Nhưng mày có ý định gì? Thôi mày hỏi Sarah xem, Sarah mới đi Anh về ngay sáng nay. Cô nàng sẽ lấy làm khoái lắm, tao chắc chắn như thế. Mày muốn tao ngỏ lời mời thay cho mày? Bernard sẽ đưa cô nàng đi.
- Được rồi, bồ, - Olivier nói.
* * *
(21) Paolo Uccello (1397-1475) là họa sĩ và nhà toán học người Ý.
(22) Blaise Pascal (1623-1662) là nhà toán học, vật lí, nhà phát minh và triết gia người Pháp.
VIII
Như thế là, như đã định trước, Bernard với Édouard, hai người ăn tối xong, sẽ tạt ngang đón Sarah trước mười giờ một tí. Được Armand thông báo, Sarah đã vui vẻ nhận lời. Lối chín giờ rưỡi, nàng quay vào phòng, bà mẹ đi theo vào. Muốn vào phòng Sarah, phải đi ngang qua phòng của ông bà; nhưng một cánh cửa khác, cầm bằng như bị niêm, thông thương giữa phòng của Sarah và phòng của Armand; phòng của Armand, như ta đã nói, thì lại mở ra một chiếc cầu thang ngõ sau.
Sarah, đứng trước mặt mẹ, làm ra vẻ đi ngủ, và yêu cầu được ngủ; nhưng, vừa được bỏ lại một mình, nàng tiến ngay lại bàn trang điểm để tô lại môi má cho thêm tươi. Bàn trang điểm chắn ngay vào cánh cửa niêm phong, cái bàn không đến nỗi quá nặng, Sarah có thể xê dịch không gây tiếng động. Nàng mở cánh cửa ngầm ra.
Sarah sợ gặp thằng em, nàng ngại hắn chế giễu. Đã đành Armand hùa theo những việc làm táo bạo nhất, hình như hắn khoái nữa là khác nhưng hắn chỉ rộng lượng một cách tạm thời, bởi vì hắn chỉ rộng lượng chính là để sau đó xét xử những việc làm ấy và xét xử khắc nghiệt hơn, cho nên chi Sarah không hiểu những lối chiều lòng của Armand có phải chính là cái trò giỡn bắt của kẻ kiểm duyệt hay không.
Phòng của Armand trống không. Sarah ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ, thấp, và trong khi chờ đợi, nàng nghĩ ngợi. Bằng một thứ chống đối thủ thế, nàng dung dưỡng trong lòng mình một sự khi dễ đối với những đức hạnh trong xó nhà. Sự câu thúc của gia đình đã khiến nghị lực nàng căng thẳng, khiến bản năng phản kháng của nàng thêm kịch liệt. Suốt chuỗi ngày ở Anh, nàng đã có thể nung nấu lòng can đảm của mình đến cao độ. Thì cũng giống như cô nàng Aberdeen người Anh nội trú, Sarah đã quyết tâm thu phục sự tự do của mình, cho phép mình phóng túng, dám làm đủ thứ. Nàng cảm thấy mình sẵn sàng đương đầu mọi sự khinh bỉ và mọi lời chê bai, nàng đủ sức thách thức mọi điều. Trong những lối mớm tình với Olivier, nàng đã lướt thắng cái tính khiêm cung tự nhiên và nhiều vẻ e ấp bẩm sinh của mình. Cái gương hai bà chị đã dạy cho nàng, nàng coi sự nhẫn nhục đạo hạnh của chị Rachel như một điều bịp bợm, nàng chỉ chịu nhìn thấy trong hôn nhân của chị Laura một sự mặc cả thảm sầu đưa đến tình trạng nô lệ. Cái học mà nàng thụ nhận, cái học mà nàng chọn lấy cho mình, mà nàng thừa tiếp, nàng cho rằng nó vụng chuẩn bị cho cái mà nàng gọi là sự thờ chồng. Nàng không hình dung ra kẻ mà mình khả dĩ lấy làm chồng có thể hơn mình ở điểm nào. Nàng đã chẳng kinh qua những kì thi cử đó sao, khác gì đàn ông đâu? Về đề tài nào cũng thế, nàng đâu phải không có ý kiến, tư tưởng riêng? Đặc biệt vấn đề nam nữ bình quyền và hình như ngay trong thuật xử thế, do đó trong công ăn việc làm, nếu cần, ngay trong chính trị, lắm khi đàn bà chứng tỏ giàu lương tri hơn nhiều đàn ông...
Tiếng bước chân trong cầu thang. Nàng nghe ngóng, rồi nhẹ nhàng mở cửa.
Bernard và Sarah chưa quen biết nhau. Hành lang không có ánh đèn. Trong bóng tối, cả hai chỉ nhận ra nhau một cách khó lòng. Bernard hỏi khẽ:
- Có Sarah Vedel?
Nàng nắm lấy cánh tay hắn một cách tự nhiên.
- Édouard ngồi trong xe chờ ở góc đường. Ông không muốn bước ra, sợ gặp bố mẹ cô. Với tôi, vấn đề đó không quan trọng: cô thừa biết tôi tá túc ở đây.
Bernard đã thận trọng khép hờ cái cổng xe ra vào để khỏi làm cho bác gác cổng để ý. Một lát sau, chiếc xe hơi đổ ba người xuống trước tửu điếm của Panthéon. Trong khi Édouard trả tiền xe thì đồng hồ gõ mười tiếng.
Dạ tiệc tàn. Người ta thu dọn xong, nhưng mặt bàn vẫn còn ngổn ngang tách cà phê và chai cốc. Người nào cũng thuốc lá, không khí đâm ra ngạt thở. Bà Des Brousses, vợ của chủ nhiệm tờ Bạch Tuộc, kêu đòi thoáng khí. Giọng the thé của bà xé thủng những lời trò chuyện riêng tây. Cửa sổ được mở ra. Nhưng Justinien, vì muốn đưa ra một bài thuyết trình, yêu cầu đóng cửa lại ngay “vì vấn về âm thanh”. Đã sẵn đứng lên, Justinien lấy thìa gõ lên cốc mà vẫn không được để ý. Viên chủ nhiệm Des Brousses, can thiệp vào, cuối cùng, vãn hồi được im lặng phần nào, sau đó giọng nói của Justinien dàn trải ra thành nhiều vùng chán chường. Ý tưởng lảm nhảm của y được phủ bằng một đợt hình ảnh. Y diễn đạt huênh hoang làm ra vẻ thông thái, và cũng tìm cách đãi hết người này đến kẻ kia bằng một lời ca ngợi vô duyên. Khi y tạm ngừng nói lần đầu tiên, và đúng lúc này Édouard, Bernard, và Sarah xuất hiện, thì những tiếng vỗ tay phụ họa nổi lên; một vài kẻ vỗ tay kéo dài thêm, có thể phần nào có tính cách chế giễu mà cũng là vì trông mong ngưng ngang bài thuyết trình, nhưng vô ích: Justinien nói tiếp, không có gì làm nhụt lời lẽ hùng hồn của y. Đến đây, đến lượt bá tước Passavant được y quàng phủ phê bằng mĩ từ. Y đề cập tới cuốn Cây đánh đu như một tân kì thư loại Homère(23). Ai nấy nâng cốc chúc mừng Passavant. Édouard không có cốc, Bernard với Sarah cũng thế, cho nên cả ba khỏi phải uống mừng.
Bài thuyết trình của Justinien kết thúc bằng những lời chúc lành gửi đến tân tạp chí kèm theo những lời khen tặng chủ nhiệm tương lai, “Molinier, trẻ tuổi mà tài cán, người tình của Nàng Thơ với vầng trán cao nhã chưa bợn vết nhơ chờ đón vinh quang không còn bao lâu nữa.”
Olivier đang đứng sẵn ở cửa ra vào để có thể tiếp bạn bè cho kịp. Những lời khen tặng quá đáng của Justinien hiển nhiên khiến hắn ngượng ngập, nhưng không làm sao tránh né được tràng vỗ tay hoan nghênh phụ liền theo đó.
Nhóm ba người mới đến, vì vừa ăn bữa tối một cách sơ sài, nên không cảm thấy hòa nhập vào nhịp điệu của đoàn người phó hội. Trong những loại hội họp như thế này, kẻ đến sau hoặc là hiểu sai hoặc là hiểu quá rõ trạng thái khích động của bọn người kia. Kẻ đến sau phán xét, trong khi không nên phán xét làm gì, và thể hiện, dù một cách vô tình bất ý, một lối phê bình không rộng lượng. Còn Sarah, trong môi trường này, cái gì cũng mới mẻ đối với nàng, nàng chỉ nghĩ đến chuyện học hỏi tập tành, và chỉ lo nhập cuộc.
Bernard không quen biết ai. Olivier kéo tay hắn, muốn giới thiệu hắn với Passavant và Des Brousses. Bernard từ chối. Trong khi đó Passavant cưỡng đoạt tình thế, tiến lên, đưa tay ra bắt làm hắn không tiện từ chối.
- Tôi nghe nói về anh từ lâu lắm, tưởng chừng như đã quen biết anh.
-Tôi cũng thế, - Bernard đáp bằng một giọng khiến thái độ ôn nhu của Passavant bẽ bàng. Lập tức, Passavant bước tới Édouard.
Dù lắm lúc đi xa và, ngay ở Paris, cũng sống quá riêng rẽ, Édouard đâu hẳn là không quen biết với nhiều bộ mặt khách khứa, và chàng tuyệt nhiên không cảm thấy lúng túng. Không được yêu mến lắm, nhưng đồng thời vẫn được đồng nghiệp nể nang, trong khi đó chàng chỉ phải một cái là giữ khoảng cách, chàng vẫn mang tiếng là con người kiêu hãnh, Édouard sẵn lòng nghe hơn nói.
Passavant gạ chuyện, giọng nhẹ nhàng và gần như hạ thấp:
- Cháu của ông có nói, làm cho tôi hi vọng ông ghé đến. Tôi lấy làm mừng, vì chính...
Ánh mắt mai mỉa của Édouard ngắt đứt câu nói của y. Vốn khéo léo mê hoặc được người và quen đãi lòng, nên chi Passavant cần đối diện với một tấm gương cũng đãi lòng như y thì mới lóe lên được. Tuy nhiên y kiềm chế kịp, y đâu phải là hạng người để cho mất bình tĩnh dài lâu mà cũng đâu phải hạng người để cho người khác thao túng. Y ngước đầu lên và cặp mắt đầy sừng sỏ. Ví như Édouard không có thiện chí phụ họa, y sẽ sẵn sàng quật lại.
- Tôi muốn hỏi ông xem... - y nói thêm, làm như tiếp tục ý nghĩ của mình: Ông có được tin tức gì về một người cháu khác của ông không, Vincent, bạn tôi? Chính Vincent là người tôi có liên hệ nhiều hơn.
- Không ạ, - Édouard đáp cộc lốc.
Tiếng “không” một lần nữa làm Passavant ngã ngựa, y không biết nên hiểu đó như một sự chối bỏ có tính cách khiêu khích, hay như một tiếng trả lời câu hỏi của y mà thôi. Vẻ ngỡ ngàng của y chỉ trong một thoáng; Édouard hồn nhiên đỡ y lên ngựa bằng một câu nói thêm gần ngay liền đó:
- Tôi chỉ được ông bố của nó cho biết rằng nó đang đi chơi với ông hoàng Monaco.
- Trước đây tôi có cậy một cô bạn giới thiệu Vincent với ông hoàng thật. Tôi lấy làm sung sướng bày biện ra lối thoát đó để cho Vincent nguôi ngoai phần nào cuộc phiêu lưu không may của Vincent với bà Douviers... là người mà ông quen biết. Olivier có nói với tôi như thế. Vincent suýt hỏng đời theo đó.
Passavant sử dụng thần tình cái vẻ khinh khỉnh, cái vẻ chế nhạo, vả chiều chuộng, nhưng chỉ cần lọt vào câu chuyện ngang đến đây là y có thể cầm chân Édouard. Cho Édouard tha hồ tìm kiếm những lời nói rát.
Chàng thiếu cơ trí một cách lạ. Có thể bởi vì thế mà chàng không thấy yêu đời: những điều cần phải có để nổi bật, chàng không có. Giữa lúc này, Édouard cau đôi mày lại. Passavant tinh ý: hễ khi nào thiên hạ có điều khó chịu với y là y cảm nhận ra và lái sang hướng khác. Không cần nghỉ lấy hơi nữa là khác, y nhoẻn miệng cười đột ngột đổi giọng, hỏi:
- Cô bé xinh xắn nào đi với ông thế?
Édouard đáp:
- Cô Sarah Vedel, chính em gái của bà Douviers bạn tôi.
Bởi không tìm được gì hơn, chàng chuốt nhọn tiếng “bạn tôi” như một mũi tên, nhưng tên không đi đến đích, bị Passavant hất xuống:
- Ông vui lòng giới thiệu cùng tôi.
Câu này và câu trước, y nói lớn giọng vừa đủ cho Sarah nghe thấy; và bởi Sarah quay người lại, Édouard không sao thoái thác, gượng cười nói:
- Sarah, bá tước Passavant muốn được hân hạnh quen biết cô.
Passavant sai đem đến ba cốc rồi rót rượu kummel. Cả bốn người mừng Olivier. Chai rượu gần hết, và vì Sarah ngạc nhiên thấy có những mảnh vụn phía đáy chai, Passavant lấy ống hút cố gắng khươi lên. Một tên như thể tên bồi ngớ ngẩn quái dị, mặt mày đánh phấn, mắt đen, tóc dán sát như cái nắp nhạo bằng da, xốc tới và nói như nhai từng miếng một, gắng gượng thấy rõ:
- Làm thế không được đâu. Đưa chai cho tôi thanh toán.
Hắn vớ lấy cái chai, đập một cái vỡ toang trên mép cửa sổ, rồi chìa cái đáy chai cho Sarah:
- Với bao nhiêu cái mảnh nhọn hoắt này, cô em kháu khỉnh này sẽ được thủng ruột như chơi.
- Cậu ấm nào thế? - Sarah hỏi Passavant, y vừa mời nàng ngồi và ngồi xuống bên cạnh.
- Alfred Jarry, tác giả vở kịch Vua Ubu. Nhóm Bạch Tuộc cho y là thiên tài, bởi lẽ mới đây công chúng chê bai vở kịch của y. Dù sao từ lâu nay đó là vở kì quái nhất.
- Tôi rất thích Vua Ubu, - Sarah nói, - và tôi rất thích gặp Jarry. Người ta bảo ông ấy say sưa luôn.
- Tối nay lẽ ra y phải say. Tôi thấy trong bữa ăn y uống hai ly lớn rượu absinthe đắng lòng không pha chế. Y vẫn không có vẻ nao núng. Cô hút thuốc? Phải hút để khỏi bị ngạt vì khói thuốc của người khác.
Y nghiêng người sang mời lửa. Sarah cắn vài miếng thủy tinh.
- Đường phèn, cứ tưởng cái gì cứng lắm, - nàng nói, hơi chưng hửng.
Trong khi nói chuyện với Passavant, nàng vừa mỉm cười với Bernard đang ngồi cạnh. Đôi mắt nàng, được thể, sáng lên lạ thường. Bernard, trong bóng tối, không trông thấy được nàng, ngẩn ngơ vì sự giống nhau giữa hai chị em Laura và Sarah. Cũng cái trán ấy, đôi môi ấy... Nét của Sarah hẳn nhiên tiết ra vẻ kiều mị không thánh thiện bằng, và ánh mắt nàng lay động một nỗi bồi hồi nào đó trong lòng hắn không hiểu. Khẽ lúng túng, hắn quay lại phía Olivier:
- Cậu giới thiệu mình với Bercail bạn cậu đi vậy.
Bernard có gặp Bercail ở vườn Luxembourg rồi, nhưng chưa hề chuyện trò với hắn. Hơi lạc lõng trong môi trường này do Olivier đưa dẫn, nơi mà tính khí rụt rè không được chiêu đãi, Bercail đỏ mặt mỗi khi thằng bạn giới thiệu hắn là một trong những biên tập viên nòng cốt của Tiền Phong. Sự thật là bài thơ ngụ ngôn, mà Bercail lúc vào đầu chuyện có nói với Olivier, bài thơ đó phải xuất hiện ở mấy trang đầu của tập san nay mai, xếp liền sau bản tuyên ngôn. Olivier bảo Bernard:
- Đặng vào chỗ mà mình định dành cho cậu đấy. Mình chắc mười mươi là cậu thích bài thơ đó. Trội hẳn các bài khác trong số báo, và vô cùng độc đáo!
Olivier là người thích ca tụng bạn bè hơn là nghe người ca tụng mình. Thấy Bernard lại, Lucien Bercail đứng lên; hắn đang cầm tách cà phê, cầm vụng, vì xúc động đến nỗi làm sánh nửa tách lên áo gilet. Đúng lúc này, sát cạnh đó có tiếng nói bật ra như máy của Jarry:
- Nhỏ Bercail sẽ ngộ độc, vì ta có bỏ thuốc độc vào tách hắn.
Jarry cứ ghẹo cái tính rụt rè của Bercail và thích làm cho Bercail bối rối. Nhưng Bercail không sợ gì Jarry. Hắn nhún vai rồi uống hết tách.
- Tên nào thế? - Bernard hỏi.
- Sao! Cậu không biết tác giả của vở Vua Ubu?
- Nói lạ! Jarry đấy ư? Cứ tưởng người giúp việc nào thôi.
- Cậu nói quá đáng, - Olivier nói, hơi phật lòng, vì hắn tự hào về những bộ mặt lớn quen biết. Cậu nhìn kĩ hắn mà xem. Cậu không thấy hắn phi phàm?
- Hắn cố gắng hết sức để làm ra vẻ phi phàm, - Bernard nói, vốn chỉ chuộng sự tự nhiên, vẫn biết hắn rất trọng vọng tác phẩm Vua Ubu.
Phục sức kiểu tên vui nhộn xưa nay ở trường đua, mọi thứ trong con người của Jarry đều tiết mùi kì quái, mà nhất là lối nói của hắn, nhiều kẻ trong nhóm Bạch Tuộc thi nhau bắt chước lối nói đó, đọc dằn giọng từng âm, bịa ra nhiều chữ quái gở, đọc nuốt mất một cách quái gở vài âm khác, nhưng thật tình chỉ Jarry mới có được cái giọng nói đó, giọng nói không âm lượng, không có nhiệt, không lên xuống, không nổi bật.
- Khi đã quen hắn, hắn là con người đáng yêu, cam đoan với cậu như thế, - Olivier nói.
- Tốt hơn đừng quen hắn. Hắn có vẻ dã thú.
- Hắn tự tạo như thế. Passavant tin hắn bên trong là con người rất hiền. Nhưng đêm nay hắn uống tợn, mà không có giọt nước nào đâu nhé, tin đi, rượu chát cũng không: toàn rượu abisinthe đắng với rượu mạnh. Passavant sợ hắn làm quá trớn phần nào.
Vô tình cái tên Passavant cứ trở lại trên môi hắn và hắn càng muốn tránh, nó càng trở lại dai dẳng hơn. Bực mình vì cảm thấy thiếu tự chủ, và như thể bị chính mình đuổi bắt mình, Olivier thay dời địa thế.
- Cậu nên tới nói chuyện với Dhurmer một tí. Mình sợ hắn giận mình chết được vì mình có xúi hắn làm chủ nhiệm Tiền Phong, nhưng không phải lỗi mình, và mình đành phải nhận lời. Cậu nên gắng bảo cho hắn hiểu, làm cho hắn bớt giận. Ông Pass... Mình nghe nói rằng hắn giận mình lắm.
Olivier lại vấp, nhưng lần này không ngã. Bercail lên tiếng:
- Tôi hi vọng Dhurmer thu hồi bài của nó lại. Tôi không thích bài nó viết.
Rồi quay sang Bernard:
- Còn, thưa anh, tôi vẫn tưởng...
- Xin anh, đừng dùng tiếng thưa với tôi... Tôi thừa biết tôi mang cái dòng họ nặng nề, lố bịch... Tôi dự tính lấy một biệt hiệu, nếu viết.
- Sao anh không cho bọn này bài nào hết.
Olivier, để mặc hai bạn chuyện trò với nhau, đến với Édouard.
- Cậu đến tốt quá! Lâu lắm cháu mới gặp lại cậu. Nhưng cháu vẫn cầu mong gặp lại cậu bất cứ chỗ nào khác chứ không phải ở đây... Hồi chiều, cháu có đến bấm chuông đàng nhà cậu. Họ có nói lại cho cậu hay không? Không gặp được cậu, cháu nản, phải chi biết nơi để kiếm cậu...
Olivier rõ vui sướng thấy mình nói năng trôi chảy, hắn hồi tưởng dạo nào đứng trước mặt cậu Édouard hắn bối rối câm mồm. Khốn nỗi! Hắn nói năng trôi xuôi thế kia là nhờ lời lẽ nhạt nhẽo và rượu, Édouard buồn lòng nhận ra điều này.
- Tôi đến với mẹ anh.
- Về nhà, cháu mới biết, - Olivier đáp, hắn chưng hửng vì lối xưng hô của cậu. Hắn lưỡng lự, nói cho cậu biết như thế chăng.
- Từ giờ trở đi, anh sẽ sống chung đụng với cái giới này đấy sao? - Édouard vừa hỏi vừa quắc mắt nhìn Olivier.
- Không! Cháu không để người ta thương hại đến cháu đâu.
- Anh chắc chắn lắm không?
Câu này được nói ra bằng một giọng thật nghiêm túc, thật trìu mến, thật anh em... Olivier cảm thấy sự vững vàng của mình nao núng theo.
- Cậu cho rằng cháu không nên lui tới với bọn người này?
- Với tất cả thì có lẽ không phải, nhưng chắc chắn là không nên lui tới với vài người trong bọn.
Olivier hiểu tiếng “vài” đó nghĩa là “một”. Hắn ngỡ Édouard đặc biệt nhắm Passavant, và trong bầu trời nội tâm của hắn, đó chính là một lần chớp sáng chói chang và nhức nhối xuyên thủng đám mây đang phủ dày con tim hắn một cách khủng khiếp kể từ hồi sáng. Olivier yêu Bernard, yêu Édouard quá sức nên hắn khó lòng chịu đựng sự rẻ rúng của hai người. Gần Édouard, hắn xiển dương được ưu điểm. Gần Passavant, là khuyết điểm, đó là điều mà bây giờ hắn âm thầm thú nhận; mà đâu phải chỉ bây giờ, có bao giờ hắn không nhìn nhận điều đó đâu? Sự mù quáng của hắn, kề cạnh Passavant, không phải là cố ý đó sao? Lòng tri ân của hắn đối với bao nhiêu điều bá tước làm cho hắn quay trở thành lòng căm hận. Hắn cuống cuồng phủ nhận con người đó. Cái mà nó hiện giờ đang mục kích vĩnh viễn bắt hắn ghét.
Passavant, bổ người sang Sarah, chuồi tay ôm ngang lưng và mỗi lúc mỗi thêm hăm hở. Đã biết những tiếng đồn không hay về sự giao du của nàng với Olivier, Passavant tìm cách à ơi. Và để lên mặt hơn nữa, y tự tiện đẩy Sarah cho ngồi lên gối mình. Sarah nãy giờ ít thủ thế, nhưng mắt vẫn đảo tìm mắt Bernard và đến khi bắt gặp, nàng nhoẻn miệng, như muốn bảo Bernard: “Đấy, với em, người ta táo bạo như thế đấy.”
Trong lúc đó Passavant sợ mình đi quá nhanh. Y kém về mặt thực hành.
“Nếu ép cô bé uống thêm tí nữa thì mình mới liều,” y vừa nghĩ thầm vừa đưa cánh tay để không với lấy bình rượu ngọt curacao.
Olivier, sẵn đang quan sát y, đoán biết động tác của y. Hắn giành lấy bình rượu, chỉ cốt tranh với Passavant, nhưng lập tức hắn tưởng chừng có thể nhờ rượu mà tìm lại được đôi chút can đảm, cái can đảm mà hắn đã cảm thấy suy và hắn cần có để nói ra cho đến tai Édouard lời thở than đang dâng lên môi:
- Mọi sự giai do ở ông...
Olivier rót đầy cốc và uống một hơi cạn. Ngay lúc này, hắn nghe Jarry thốt lên nho nhỏ, Jarry đi từ nhóm này sang nhóm kia, lách ra sau lưng Bercail:
- Bây giờ đến lượt tụi mình thịt thằng nhỏ Bercail.
Bercail vụt quay lại:
- Nói gì nói lớn nghe nào.
Jarry đã lảng ra xa. Trờ tới chiếc bàn làm khúc quanh, hắn lặp lại, giọng eo éo:
- Bây giờ đến lượt tụi mình thịt thằng Bercail.
Kế, hắn rút trong túi ra một khẩu súng lục cỡ lớn mà bọn Bạch Tuộc thường thấy hắn đem ra vọc, và hắn đưa súng lên nhắm.
Jarry đã từng tạo được thành tích thiện xạ. Nhiều tiếng phản đối nổi lên. Không ai lường nổi, trong tình trạng lướt khướt như hắn, hắn có dừng lại ở mức hăm dọa mà thôi không. Nhưng nhỏ Bercail muốn chứng tỏ mình không sợ, trèo lên ghế, hai tay chắp sau lưng, hùng dũng đứng theo thế của Napoléon. Hắn hơi lố và dăm ba tiếng cười trỗi dậy, nhưng lập tức bị lấn át vì những tràng vỗ tay.
Passavant nói với Sarah, thật lẹ:
- Có thể hư sự đấy nhé. Thằng đó say khướt. Em hãy núp xuống dưới bàn.
Des Brousses thử cản ngăn Jarry, nhưng tên này lách khỏi, đến lượt hắn, hắn cũng trèo lên ghế (và Bernard nhận thấy hắn đi giày nhẹ để khiêu vũ). Đứng ngay ngắn trước mặt Barcail, hắn dang thẳng tay nhắm.
- Tắt đèn đi nào! Tắt - Des Brousses quát.
Édouard đứng cạnh cửa ra vào, xoay nút điện.
Sarah đứng lên theo mệnh lệnh của Passavant; và ngay khi ai nấy chìm trong tối, nàng nép người vào Bernard để lôi hắn xuống bàn với mình.
Súng nổ. Viên đạn chỉ nổ mà không có ngòi nổ. Nhưng người ta vẫn nghe một tiếng kêu đau đớn: đó là Justinien vừa lãnh trọn mớ thuốc súng vào mắt.
Và khi bật đèn lên lại, ai nấy nhìn chằm vào Bercail, vẫn đứng thẳng người trên ghế, giữ tư thế cũ, bất động, mặt mày chỉ hơi tái hơn một tí thôi.
Trong lúc đó, bà chủ nhiệm lại bày vẽ ra một màn ngất xỉu. Ai nấy cuống quýt.
- Gây làm gì những trò hú tim thế, ngốc thật!
Vì không có nước lạnh ở trên bàn, nên Jarry hạ đài, lấy chiếc khăn tay nhúng vào rượu cần thoa bóp hai bên thái dương cho bà, thay lời tạ lỗi.
Bernard chỉ ngồi dưới bàn có một lát, vừa đủ để cảm thấy đôi môi nóng bỏng của Sarah nghiến cuồng nhiệt lên môi mình. Olivier bắt được quả tang; vì tình bạn, vì ghen... Men rượu làm xông lên trong đầu óc hắn một cảm giác ghê sợ rất quen thuộc đối với hắn, cái cảm giác đứng bên lề. Khi đến lượt hắn chui ra khỏi bàn, đầu hắn lảo đảo. Đúng lúc này hắn nghe Dhurmer tru tréo:
- Nhìn thằng Olivier kìa! Hắn nhát gan như mụ đàn bà.
Quá sức, Olivier, không còn biết gì nữa, lao người tới, giáng tay, nhắm Dhurmer. Hắn như thể đang loạn động trong cơn mê. Dhurmer né được. Như trong cơn mê, bàn tay Olivier chỉ gặp khoảng không.
Sự hỗn loạn lan tràn cùng khắp, và trong khi một số người lăng xăng cạnh bà chủ nhiệm đang tiếp tục vùng vằng rít lên hư hử, thì một số người khác xúm quanh Dhurmer, thằng này reo lớn: “Hắn đánh hụt! Hắn đánh hụt!...”, còn một số người khác nữa xúm gần Olivier, thằng này mặt mày đổ lửa, chục sắn tới nữa, người ta khó lòng lắm mới dằn hắn nổi.
Dhurmer, bị đánh trúng hay đánh hụt, cũng phải coi như là đã bị đánh, thằng Justinien vừa chặm mắt vừa nói cho Dhurmer hiểu như thế. Vấn đề nhân cách mà lại. Nhưng Dhurmer ít lí gì tới những bài học nhân cách của Justinien. Người ta vẫn nghe Dhurmer dai dẳng:
- Đánh hụt... Đánh hụt...
- Đừng chọc nó nữa có được không, - Des Brousses lên tiếng. - Đừng có ép buộc người ta đánh đấm nhau miễn cưỡng.
Thế mà Olivier lớn tiếng tuyên bố rằng, nếu Dhurmer không thấy thỏa mãn, thì hắn sẵn sàng đấm lại lần nữa; và, nhất định ép thằng kia quyết đấu. Olivier yêu cầu Bernard hợp với Bercail làm nhân chứng cho hắn. Cả hai, không đứa nào thông thuộc cái gọi là vấn đề “danh dự” cả, nhưng Olivier không dám ngỏ lời với Édouard. Cà vạt của Olivier đã sổ, tóc rủ xuống trán nhễ nhại mồ hôi, hai tay run lên từng khi.
Édouard xốc lấy tay hắn:
- Lại đây đắp tí nước lên mặt. Cháu như thằng điên.
Ra khỏi phòng, Olivier hiểu ngay mình say lắm. Khi cảm thấy bàn tay Édouard đặt lên cánh tay mình, hắn tưởng chừng quỵ ngã và để cho chàng lôi đi không cưỡng lại. Lời của Édouard, hắn chỉ hiểu ra trong đó cái giọng trở lại thân tình mà thôi. Như đám mây đầy ắp cơn dông vỡ ra thành dòng, hắn cảm thấy như lòng mình tan ra thành lệ. Chiếc khăn ướt được Édouard đắp lên mặt khiến hắn tỉnh rượu hẳn. Chuyện gì vừa xảy ra? Hắn còn ý thức mơ hồ rằng mình đã hành động như thằng bé con, như tên lỗ mãng... Hắn cảm thấy mình lố bịch, bỉ ổi... Bây giờ, châu thân rung động vì chán nản vì yêu mến, hắn đến với Édouard và, nép vào người chàng, nói không thành tiếng:
- Cậu đem cáu đi thôi.
Édouard, chính chàng cũng vô cùng xúc động:
- Bố mẹ cháu? - Chàng hỏi.
- Bố mẹ chưa biết là cháu đã về đến đây.
Khi hai người băng qua gian phòng cà phê để tìm lối ra, Olivier nói với cậu rằng hắn cần viết ít chữ.
- Viết bỏ bưu điện tối nay, thư sẽ đến ngày mai vào giờ sớm nhất.
Ngồi xuống một chiếc bàn cà phê, hắn viết:
Georges mến,
Phải, chính anh đang viết thư cho Georges đây và để nhờ em một việc nhỏ. Có lẽ tin cho em biết anh đã về tới Paris là một điều thừa vì anh tin chắc em có thấy anh hồi sáng gần trường Sorbonne. Anh đã ở lại nhà của bá tước Passavant (hắn ghi địa chỉ); hành lí của anh còn ở đấy. Vì những lí do nói cho em biết quá dài dòng mà lại chẳng ích gì cho em, anh không muốn quay trở lại đó nữa. Chỉ có thể yêu cầu em đến lấy về cho anh những hành lí ấy. Giúp anh chứ, anh sẽ đền ơn. Có một cái hòm có khóa. Còn vật dụng trong phòng, em sẽ tự tay bỏ vào va li của anh và đem tất cả đến nhà cậu Édouard. Anh sẽ trả tiền xe. Ngày mai là chủ nhật, điều may, em có thể thi hành khi nhận được thư này. Trông cậy ở Georges, được chứ?
Anh,
OLIVIER
T.B: Anh biết Georges xoay xở được và tin Georges làm hoàn hảo. Nhưng hãy thật thận trọng, hãy thật lạnh với Passavant, nếu có chuyện giải quyết trực tiếp với y. Hẹn sáng mai.
Mấy người nào không nghe lọt những lời hạ nhục của Dhurmer thì không hiểu rõ sự gây hấn đột ngột của Olivier. Olivier như mất trí. Nếu hắn biết giữ bình tĩnh thì Bernard đã ngả theo hắn, Bernard không ưa thằng Dhurmer, nhưng nhận rằng Olivier đã hành động như thằng điên và khác nào chuốc mọi lỗi lầm. Bernard khổ tâm vì nghe hắn phán xét khắc nghiệt. Hắn tới gần Bercail. Biến cố dù nghịch đời, cả hai vẫn cần phải đứng đắn. Hai đứa giao hẹn sẽ đến sửa lưng thằng bạn, ngay chín giờ sáng mai.
Hai đứa bạn đều bỏ ra về, Bernard hết lí do mà cũng hết thích muốn ở lại. Hắn đảo mắt tìm kiếm Sarah, và khi thấy Sarah ngồi trên gối Passavant, hắn như phừng phừng điên tiết. Hai người cùng có vẻ say, nhưng Sarah cũng đứng lên khi thấy Bernard lại.
- Mình đi, - Sarah lên tiếng, nắm lấy tay hắn.
Nàng muốn đi bộ về. Đoạn đường không dài, hai người đi không nói năng. Về đến trường, đèn đuốc tắt ngấm. Sợ khiến người ta để ý, cả hai len lén theo ngả cầu thang sau, rồi quẹt diêm. Armand hãy còn thức. Khi nghe bước chân lên, hắn ra đầu cầu thang, cầm đèn.
- Mày cầm lấy đèn, - hắn bảo Bernard (cả hai đã mày tao với nhau từ hôm qua). - Soi đường cho Sarah với, phòng không có đèn... Còn diêm thì đưa đây tao để tao thắp đèn của tao.
Bernard đưa Sarah sang phòng thứ hai. Hai người vừa mới vào thì Armand, từ sau lưng chồm tới, thổi phụt thật mạnh làm tắt đèn, kế đó, cười cười bảo:
- Ngủ ngon! Nhưng đừng có ồn. Ông bà ngủ bên cạnh đấy.
Tiếp theo, đột ngột, thụt đầu, hắn đóng ập cửa lại và cài then.
* * *
(23) Homère là nhà thơ mù sống ở Hy Lạp thời cổ đại, tác giả của hai thiên trường ca Iliad và Odyssey.
IX
Armand nằm để nguyên quần áo. Hắn biết sẽ không ngủ nổi. Hắn chờ cho đêm tàn. Suy ngẫm. Lắng tai. Ngôi nhà yên nghỉ, thành phố, cả bầu trời toàn diện không một tiếng động nào.
Ngay khi một lằn ánh sáng yếu ớt do tấm thiếc phản chiếu từ trời cao xuống đến trong buồng cho phép hắn nhận ra thêm một lần nữa cái nhớp nháp của căn buồng, hắn đứng dậy. Hắn đến bên cánh cửa mà hắn cài then tối hôm qua: nhè nhẹ hé cửa ra...
Các tấm màn cửa buồng Sarah không kéo kín. Ánh bình minh vừa lóe ửng trắng lên tấm kính. Armand tiến lại gần chiếc giường, nơi chị gái mình và Bernard ngủ. Tấm drap che một nửa chân tay đan chéo vào nhau của hai người. Đẹp đôi biết chừng nào! Armand nhìn ngắm hồi lâu. Hắn ước chi mình là giấc ngủ đó, là nụ hôn đó. Trước tiên hắn mỉm cười, kế đó, đột nhiên hắn quỳ gối xuống ở chân giường giữa đám chăn vương vãi. Hắn có thể cầu nguyện vị cao thiêng nào thế mà chắp tay? Một nỗi bồi hồi khó nói khiến hắn nghẹn ngào. Môi hắn run lên... Hắn nhìn lại, dưới gối, chiếc khăn tay hoen máu; hắn đứng lên, chộp lấy, đem theo, và trên cái vết nhỏ màu xám, hắn đặt môi mình lên đó mà thổn thức.
Nhưng trên bực cửa hắn quay lại. Hắn muốn đánh thức Bernard. Bernard phải về lại phòng hắn trước khi người trong nhà và người ở đây thức dậy. Sau tiếng động nhỏ do Armand gây ra, Bernard mở mắt, Armand chạy trốn, để lại cửa mở. Hắn rời khỏi buồng, bước xuống cầu thang, sẽ lánh mặt bất cứ ở đâu, sự có mặt của hắn sẽ gây bối rối cho Bernard, hắn không muốn gặp Bernard.
Từ cửa sổ phòng học chung, lát sau đó, hắn trông thấy Bernard băng qua, nép sát vào tường như tên trộm...
Bernard đâu có ngủ được nhiều. Nhưng đêm vừa rồi, hắn đã được quên, một trận nguôi quên còn bổ dưỡng hơn cả giấc ngủ, vừa là sự phấn khích vừa là sự tiêu tán của châu thân. Hắn nhẹ bước sang một ngày tươi mới, mình khác lạ với mình, tán lạc, nhẹ hẫng, mới mẻ, trầm tĩnh và lung linh như một vị chí tôn. Hắn đã để lại Sarah hãy còn ngủ, len lén lách mình ra khỏi tay nàng. Nhưng kìa! Sao không một nụ hôn nào nữa, không một ánh mắt, một cái ôm siết yêu đương cực lạc? Vì hết cảm xúc mà hắn bỏ đi như thế hay sao? Tôi không hiểu. Chính hắn cũng không hiểu nốt. Hắn cố gắng đừng nghĩ ngợi, hắn lấy làm ngượng vì phải ghép cái đêm số tiền khoáng hậu vừa rồi vào với chuỗi đêm trước đây của đời mình. Không, đó là một cái đuôi thừa thãi, một món phụ tùng không tìm ra được chỗ đứng trong lòng sách - cuốn sách đời trong đó dòng tự sự của hắn, cầm bằng như không có chuyện gì xảy ra, sẽ tiếp tục, chứ còn gì nữa, sẽ tiếp diễn.
Hắn trở lên phòng ở chung với thằng Boris. Thằng bé đang ngủ say. Dễ thương thế! Bernard xào xáo giường mình, vò nhàu mấy tấm drap để che mắt. Hắn rửa ráy kĩ lưỡng. Nhrug nom thấy Boris, hắn hồi tưởng chốn Saas-Fée. Hắn nhớ lại lời Laura nói với hắn dạo đó: “Tôi chỉ có thể nhận ở con người anh lòng mến mộ của anh. Kì dư những cái khác của anh sẽ có yêu sách riêng và sẽ phải tìm sự thỏa mãn một nơi chốn nào khác”. Câu nói làm hắn sôi người. Hắn tưởng chừng còn nghe văng vẳng. Lâu nay hắn không còn nghĩ tới, nhưng sáng hôm nay kí ức hắn linh lợi phi thường. Không dưng trí óc hắn hoạt động tinh xảo diệu kì, Bernard xua đuổi hình bóng Laura, muốn bóp chết kỉ niệm; và muốn đừng nghĩ ngợi, hắn vớ lấy cuốn sách học, nén lòng học thi. Nhưng phòng này ngột ngạt. Hắn bước xuống vườn để học. Hắn muốn ra ngoài đường nữa kia, muốn xoải chân, chạy tung mình ra xa, tìm chỗ thoáng. Hắn trông chừng cổng xe ra vào; ngay khi người gác cổng mở, hắn thoát ra ngoài.
Hắn mon men đến vườn Luxembourg kèm theo cuốn sách, và ngồi xuống ghế. Tư tưởng hắn tuôn ra óng mượt, nhưng dễ đứt, kéo một tí là đoạn tơ. Hễ hắn muốn học, mà bao nhiêu kỉ niệm trêu ngươi dạo qua lại giữa cuốn sách và hắn, nhưng đâu phải những kỉ niệm phút giây cực lạc, mà là kỉ niệm những tiểu tiết thô kệch, hèn mọn bắt tự ái hắn bám víu, trầy trụa và nhục nhã. Từ nay hắn sẽ không tỏ ra quá non nớt nữa.
Đến khoảng chín giờ, hắn đứng lên và đi tìm gặp Lucien Bercail. Cả hai đến nhà Édouard.
Édouard ở vùng Passy, tầng trên hết của một tòa nhà. Phòng chàng nhìn ra một phòng xưởng rộng lớn. Mới hửng sáng Olivier đã dậy, lúc ban đầu Édouard không lấy thế làm thắc mắc. Olivier có bảo:
- Cháu đi nghỉ mình một tí trên đi văng.
Và vì Édouard sợ hắn lạnh, mới bảo hắn lấy chăn theo. Lát sau, Édouard cũng dậy. Dĩ nhiên chàng vừa ngủ thiếp đi mà không hay, bởi bây giờ chàng ngạc nhiên thấy trời sáng rõ. Chàng muốn biết Olivier nằm ngồi thế nào, muốn nhìn lại hắn, và phải chăng một linh cảm mơ hồ nào đó dẫn dắt chàng...
Phòng xưởng trống không. Mền chăn vẫn ở chân đi văng, vẫn xếp nguyên. Một mùi gas ghê rợn báo động cho chàng. Trước mặt phòng xưởng là một phòng nhỏ dùng làm phòng tắm. Hiển nhiên cái mùi kia từ đây tỏa ra. Chàng chạy vào, nhưng lúc đầu không sao đẩy cửa vào nổi, một vật gì chận ngang: chính thân hình Olivier gục xuống, tựa vào bồn tắm, trần truồng, lạnh ngắt, tái mét và nhầy nhụa những thức nôn ọe ghê sợ.
Lập tức Édouard khóa máy đun nước lại, chính máy này đã xả gas. Chuyện gì đã xảy ra? Tại nạn? Đột quy?... Chàng không tin nổi. Bồn tắm khô nước. Chàng xốc kẻ ngắc ngoải trong tay, bế vào trong xưởng, đặt xuống tấm thảm, trước cửa sổ mở rộng. Quỳ xuống, lom khom nâng niu, chàng dò mạch hắn. Olivier còn thở, nhưng thoi thóp. Lúc bấy giờ Édouard cuống quýt tìm cách hồi phục chút sinh lực sắp tàn trước mắt, chàng nhịp nhàng đưa lên xuống hai cánh tay đã mềm xuội, ấn vào hai bên hông, chà xát ngực, đem ra thí nghiệm tất cả những gì chàng còn nhớ về trường hợp tuyệt mạch cần phải thi hành, chàng lấy làm hối tiếc không thi hành được nhiều điều cùng một lúc. Olivier vẫn nhắm nghiền hai mắt. Édouard đưa ngón tay bét mí mắt, mí mắt lộ ra một tia nhìn vô hồn rồi sụp xuống lại. Tim thì hãy còn đập. Chàng loay hoay tìm kiếm rượu cognac cùng các chất muối hóa học mà vô hiệu. Chàng sai đun nước, lau sạch phần trên của thân thể và mặt mày. Kế, chàng đặt tấm thân bất động nằm xuống đi văng và đắp chăn lại. Édouard bụng muốn gọi bác sĩ nhưng không dám bỏ đi. Một người đàn bà giúp việc sáng sáng đến làm công việc nội trợ, nhưng chín giờ mới đến. Vừa nghe ra tiếng thị, chàng sai ngay đi mời một người chẩn bệnh tạm thời trong xóm, nhưng chàng kêu giật lại, sợ phiêu lưu vào việc điều tra biên bản.
Olivier, giữa lúc đó, chầm chậm tỉnh lại. Édouard ngồi xuống cạnh trên đầu đi văng. Chàng ngắm nhìn khuôn mặt bưng bít kia và chạm phải một màn bí ẩn. Tại sao? Tại sao? Có thể hành động không suy tính hồi đêm, đang giữa cơn say; nhưng còn quyết định buổi sớm tinh sướng thì hàm chứa đủ đầy khí lực chứ. Chàng không chịu hiểu gì hết mà chờ đợi đến lúc Olivier có thể trả lời cho chàng rõ. Từ giờ đến đó chàng sẽ không rời xa hắn nữa. Chàng nắm lấy một bàn tay của Olivier và dồn tụ nghi vấn của mình vào đó, dồn ý nghĩ, hết cả sự sống của mình vào xúc giác đó. Cuối cùng chàng tưởng chừng cảm nhận ra bàn tay Olivier đang yếu ớt đáp lại cái ôm siết của mình... Lúc bấy giờ chàng cúi người xuống, đặt môi lên vầng trán đang bị một nguồn cơn thống khổ bí ẩn nào làm nhíu lại.
Chuông reo, Édouard đứng lên để ra mở. Bernard và Lucien Bercail. Édouard cầm chân hai đứa kia trong phòng ngoài và báo cho chúng hay; kế đó, tách riêng Bernard, dò hỏi xem Bernard có biết gì về việc Olivier gặp chuyện bối rối hay khủng hoảng không... Bernard sực nhớ cuộc chuyện trò tay đôi hôm qua, và đặt biệt là một vài lời của Olivier mà hắn đã lắng nghe hờ hững thế thôi, nhưng giờ đây thì hắn nghe ra lại rõ ràng mồn một.
- Chính tôi có đề cập với Olivier chuyện tự sát, - hắn nói với Édouard. - Tôi hỏi có hiểu chăng, rằng người ta có thể tự sát chỉ vì thừa thãi sức sống, “vì hứng khởi”, như lời của Dimitri Karamazov. Tôi bị thu hút vào tư tưởng của tôi và lúc bấy giờ chỉ để ý đến lời mình mà thôi, nhưng bây giờ tôi nhớ nó trả lời gì với tôi rồi.
- Nó trả lời gì thế? - Édouard hỏi dồn, vì Bernard ngưng nói và có vẻ không muốn nói nhiều hơn.
- Nó trả lời rằng nó hiểu con người tự sát, nhưng con người chỉ tự sát sau khi lên tới một đỉnh chí lạc, sau đó chỉ còn có nước tụt dần xuống mà thôi.
Hai người, không nói thêm được gì, nhìn ngó nhau. Ánh sáng lóe lên trong đầu hai người. Cuối cùng Édouard quay mặt đi chỗ khác, và Bernard giận mình đã hé môi. Cả hai tiến lại Bercail.
- Phiền một nỗi, - Barcail bây giờ mới lên tiếng - là người ta có thể nghĩ rằng Olivier muốn tự sát để khỏi phải đấu rửa nhục.
Édouard đã quên bẵng vụ đấu tay đôi đó. Chàng nói:
- Mấy anh cứ làm như không có gì xảy ra. Mấy anh hãy đi tìm Dhurmer và yêu cầu nó cho mấy anh liên lạc với nhân chứng của nó. Hai anh sẽ giải thích với mấy nhân chứng đó trong trường hợp vụ ngốc xuẩn đó không hủy bỏ được. Dhurmer trông cũng không thích hưởng ứng lắm đâu.
Lucien Bercail nói:
- Mình đừng kể lể gì với nó hết để nó lãnh trọn cái nhục thoái thác. Vì rồi nó sẽ trốn chui trốn nhủi cho mà xem, tôi chắc chắn thế.
Bernard yêu cầu nhìn Olivier có được không. Nhưng Édouard muốn cho Olivier nghỉ ngơi.
Bernard và Lucien sửa soạn đi ra thì thằng Georges đến. Hắn từ nhà Passavant lại, nhưng không thu hồi hành lí của anh hắn được.
“Bá tước đi khỏi,” người ta nói với hắn như thế. “Chúng tôi không được lệnh.” Rồi gia nhận đóng sập cửa ngay mặt hắn.
Một vẻ khẩn trương thế nào đó trong giọng nói của Édouard và trong cách thế của hai đứa kia khiến Georges chột dạ. Hắn đánh hơi điều gì bất thường, lên tiếng hỏi. Édouard buộc phải thuật lại đầu đuôi cho hắn.
- Nhưng cháu chớ nói với bố mẹ.
Georges hoan hỉ dự phần vào việc mật. Hắn nói:
- Cháu giữ kín được.
Và, sáng nay không có việc gì làm, hắn xin đi theo Bernard và Lucien đến Dhurmer.
Cả ba bỏ đi xong, Édouard gọi người đàn bà phụ việc. Cạnh phòng chàng là phòng dành cho bạn hữu tá túc, chàng nhờ dọn dẹp giùm, để có thể đặt Olivier vào đó. Kế, chàng lặng lẽ trở vào phòng xưởng. Olivier đang nghỉ, Édouard ngồi xuống lại bên cạnh. Chàng lấy một cuốn sách lên, nhưng chưa được mấy chốc thì ném ngay, chưa kịp mở ra, rồi nhìn hắn yên giấc.
* * *
X
Những gì hiến dâng cho tâm hồn, chẳng có gì là đơn giản; và tâm hồn chẳng bao giờ hiến dâng cho ai một cách đơn giản.
PASCAL
- Tôi tin rằng nó vui mừng gặp lại anh. Sáng nay nó hỏi tôi hôm qua anh có đến không. Chắc nó có nghe ra giọng anh, trong khi đó tôi vẫn tưởng nó mê man. Hiện giờ nó nhắm mắt, nhưng không ngủ. Không nói. Hay đưa tay lên trán tỏ dấu đau đớn. Hễ mở lời với nó, trán nó nhíu lại; nhưng nếu dời chân đi là nó kêu giật và bắt ngồi xuống bên cạnh... Không, không phải ở trong xưởng nữa. Tôi đã đặt nó vào phòng cạnh phòng tôi để có thể tiếp khách khỏi rộn đến nó.
Hai người bước vào.
- Mình đến thăm cậu, - Bernard tên tiếng thật dịu dàng.
Nét mặt Olivier động đậy khi nghe ra giọng bạn. Chừng đó đã gần như cái nhếch môi cười.
- Mình trông ngóng cậu.
- Nếu cậu mệt thì mình đi.
- Ở lại.
Nhưng nói xong tiếng đó, Olivier đưa ngón tay lên môi. Hắn yêu cầu đừng nói. Bernard vốn phải thi vấn đáp trong ba hôm nữa, nên đi đâu không khỏi mang theo loại sách trong đó cô đọng lại thành một chất rượu ngâm tất cả mùi vị đắng cay của các môn học thi. Hắn ngồi xuống đầu giường bạn và trầm mình vào sách. Olivier quay mặt vào tường, ra vẻ ngủ, Édouard đã rút lui về phòng, thỉnh thoảng thấy chàng xuất hiện ở cửa thông vẫn để mở. Cứ hai giờ chàng cho Olivier uống bát sữa, nhưng mới bắt đầu từ hồi sáng hôm nay. Suốt ngày qua, dạ dày bệnh nhân không dung nạp được gì.
Một khoảng thời gian dài trôi qua, Bernard đứng lên để về. Olivier quay người ra, đưa tay bắt và gượng cười:
- Mai đến nhé?
Đến phút chót, Olivier gọi bạn trở lại, ra giấu cho bạn khom người xuống, như thể sợ giọng mình không đủ nghe, rồi thều thào:
- Không phải đâu, cậu tưởng mình ngốc sao?
Rồi, như để đón trước lời cải chính của Bernard, hắn đưa ngón tay lên môi lần nữa:
- Thôi, thôi... Rồi mình sẽ giải thích.
Hôm sau, Édouard nhận được thư của Laura; khi Bernard đến, chàng đưa cho hắn đọc:
Anh thân mến,
Em viết cho anh thật vội để gắng phòng ngừa một tai họa phi lí. Anh sẽ giúp em, em chắc chắn như thế, phải chi thư này đến tay anh vừa kịp.
Félix vừa lên đường đi Paris, với ý hướng sang thăm anh. Chồng em dự liệu sẽ được anh nói cho những lời cặn kẽ mà em không chịu nói, sẽ được anh cho biết tên kẻ mà chồng em muốn thách thức đấu tay đôi. Em đã hết sức cầm giữ anh ấy nhưng quyết định của anh ấy không lay chuyển và bao nhiêu lời em dàn ra chỉ tổ làm cho anh ấy thêm quyết tâm. Chỉ có anh mới có thể hóa giải chồng em được. Chồng em tin anh và sẽ nghe anh, em hi vọng như thế. Thử nghĩ, chồng em có đời nào cầm trong tay cây súng cây kiếm gì đâu. Cứ nghĩ rằng anh ấy có thể mệnh hệ vì em là em chịu không nổi, nhưng điều em sợ hơn hết, điều này em như không dám thú nhận, là anh ấy rước lấy những điều lố bịch.
Từ ngày em trở về, đối với em, Félix toàn một niềm săn đón, đằm thắm, dễ thương, nhưng thật tình em chỉ yêu đến một mức nào đó mà không thể vờ vĩnh yêu hơn. Chồng em lấy làm khổ tâm, và em chắc rằng chính ý muốn cho em thương mến, cảm phục xui khiến chồng em bôn ba như thế đó, điều mà anh sẽ xét thấy là thiếu chín chắn, nhưng mỗi ngày chồng em mỗi nghĩ tới và, từ ngày em trở về, cứ nghĩ tới đinh ninh.
Em xin anh tiếp chồng em, với cảm tình như anh tiếp chính em, đó là bằng chứng cho tình thân hữu đáng cảm kích hơn hết mà anh có thể ban cho em. Em xin lỗi đã không thư từ cho anh sớm hơn để lặp lại tất cả sự biết ơn mà em ghi nhớ đối với lòng tận tụy và ân cần rộng rãi của anh trong chuỗi ngày ở Thụy Sĩ. Kỉ niệm thời gian ấy sưởi ấm lòng em và giúp em chịu đựng cuộc sống.
Người bạn gái của anh luôn luôn khắc khoải và luôn luôn tin anh.
LAURA
- Ông định làm sao? - Bernard hỏi, vừa trả lại bức thư.
-Anh muốn tôi làm gì bây giờ? - Giọng Édouard hơi bực, không phải vì câu hỏi của Bernard mà vì chàng cũng đã tự hỏi như thế. - Nếu anh ta đến, tôi sẽ hết sức đón tiếp. Nếu có hỏi ý kiến tôi, tôi sẽ hết sức khuyên bảo, và cố gắng cho anh ta hiểu rằng anh làm sao để cảm thấy mình tĩnh tâm là điều hay hơn hết. Tội nghiệp, Félix Douviers thuộc những người luôn luôn tưởng lầm rằng phải chạy vạy thế nào để hành động trước người khác. Anh cũng sẽ nghĩ như thế nếu anh quen biết anh chàng ấy, tin đi. Còn Laura, nàng sinh ra để đóng những vai chính. Mỗi người trong chúng ta gánh lãnh một thảm kịch vừa sức vóc mình, và chịu một phần bi thảm. Làm thế nào bây giờ chứ? Thảm kịch của Laura chính là nàng đã lấy một vai phụ làm chồng mình. Chịu thôi.
- Và thảm kịch của Douviers, chính là anh chàng đã lấy một người hơn anh ta, hơn anh ta dù anh ta có làm gì đi nữa.
- Dù anh có làm gì đi nữa... - Édouard phụ họa như âm thanh dội lại, - và dù Laura có làm gì đi nữa. Điều đáng phục là Laura, vì hối tiếc đã gây nên lỗi lầm, vì hối hận, muốn hạ mình trước mặt chồng, nhưng chồng lại tức khắc cúi xuống cho thấp hơn vợ, bao nhiêu điều mà hai người làm cuối cùng khiến cho anh chàng nhỏ thêm và nàng lớn thêm.
Bernard nói:
- Tôi thương cho anh đó. Nhưng tại sao ông không chịu nhận rằng, trong khi cúi mình như thế, chồng của Laura cũng lớn thêm?
- Vì anh chàng thiếu chất trữ tình. - Édouard đáp giọng nhất quyết.
- Ông nói thế nghĩa làm sao?
- Nghĩa là anh ta chẳng bao giờ quên con người của mình trong những công cuộc thử thách. Đừng bắt tôi nói nhiều về khía cạnh này. Tôi có những ý nghĩ riêng nhưng là những ý nghĩ không đo được và tôi cũng không tìm cách đo làm gì. Paul-Ambroise có thói quen bảo rằng cái gì không tính bằng con số thì ông không chịu đếm xỉa, về điều này tôi nghĩ rằng ông đùa giỡn với từ ngữ “đếm xỉa” vì như người ta nói, có “đếm” tất nhiên ta buộc lòng loại bỏ Chúa. Đó là điểm mà ông hướng đến và muốn như thế… À: thiết tưởng gọi trạng thái trữ tình là trạng thái của kẻ bằng lòng để cho Chúa thắng mình.
- Chính là nghĩa của chữ “hứng khởi”, phải thế chăng?
- Cũng có thể là chữ “cảm hứng” luôn. Phải, điều tôi muốn nói là thế đấy. Douviers là một kẻ không thể có cảm hứng. Tôi thừa nhận Paul-Ambroise có lí khi ông xem cảm hứng như một trong những thứ làm hại cho nghệ thuật hơn cả, và tôi sẵn sàng tin rằng con người chỉ là nghệ sĩ với điều kiện chế ngự được trạng thái trữ tình, nhưng điều cần yếu là, muốn chế ngự thì trước hết phải sống với nó đã.
- Ông không nghĩ rằng trạng thái được Thượng đế đoái hoài có thể giải thích một cách sinh lí học bằng cái...
- Hà tất tiên liệu! - Édouard ngắt lời. - Bao nhiêu nhận xét của mình, dù có đúng, chỉ dọa được bọn ngu si mà thôi. Đã đành chẳng có một chuyển động thần bí nào khỏi có một sự đáp ứng vật chất. Nhưng nghĩa lí gì? Tinh thần, muốn hiển lộ, không thể không cần đến vật chất. Cái bí nhiệm của sự hóa thân nhập xác cũng từ chỗ đó mà ra.
- Ngược lại, vật chất lại ngang nhiên không cần đến tinh thần.
- Cái đó thì không hiểu, - Édouard vừa nói vừa cười.
Bernard lấy làm thú vị vô cùng khi nghe chàng nói thế. Thường thường chàng ít phát biểu. Nỗi cao hứng mà chàng để lộ ra hôm nay là do sự có mặt của Olivier. Bernard hiểu như thế. Hắn nghĩ thầm: “Ông nói với mình mà như ông đã có ý muốn nói với chính Olivier. Thư kí của ông đáng lẽ là Olivier. Rồi đây Olivier bình phục, mình sẽ rút lui, chỗ đứng của mình là ở nơi khác kia.”
Hắn nghĩ như thế nhưng chẳng lấy làm chua xót, kể từ nay hắn chỉ bận tâm theo Sarah mà hắn vừa gặp lại đêm qua và sẵn sàng tìm gặp tối nay nữa.
- Từ chuyện Douviers sang chuyện này, mình đi xa quá, - đến lượt Bernard vừa nói vừa cười. - Ông sẽ tiết lộ tên Vincent cho Douviers chăng?
- Ồ không. Ích lợi gì?
- Thế ông không nghĩ rằng Douviers hẳn phải bắn người vì không biết nghi ai?
- Có lẽ anh có lí. Nhưng điều đó, anh đem nói với Laura mới phải. Tôi nói ra thì làm sao khỏi phản bội nàng... Mà nói cho cùng chính tôi chẳng biết nó hiện ở đâu.
- Vincent?... Pasavant ắt phải biết.
- Một tiếng chuông réo vang làm hai người nhưng nói. Bà Molinier đến thăm con. Édouard ra gặp bà trong phòng xưởng.
Pauline đến thăm. Tôi lúng túng không biết làm sao ngăn đón chị, mà tôi lại không thể để cho chị mù mịt về bệnh tình của con chị. Tôi đã nghĩ hà tất phải kể lể vụ toan tính tự sát khó hiểu kia ra làm gì, tôi nói là gặp cơn đau gan dữ dội mà thôi, là hậu quả thật sự của vụ này. Pauline nói:
- Tôi đã yên tâm vì biết Olivier ở đây với cậu. Tôi săn sóc nó cũng chẳng hơn cậu, vì tôi nhận thấy rõ cậu yêu nó cũng như tôi.
Nói câu sau, chị nhìn tôi chăm chăm kì dị. Trong ánh mắt, dáng chừng chị có để vào đó một ý định gì, tôi tưởng tượng được chăng? Trước mặt Pauline, tôi cảm thấy mình, theo như người ta quen gọi, là người có “tà tâm” và tôi chỉ có thể đáp ấp úng những điều rời rạc gì đó không hiểu. Phải nói rằng, từ hai hôm nay đã quá trí vì dao động, tôi đánh mất tự chủ, vẻ luống cuống của tôi hẳn nhiên quá lộ, nên chi chị nói tiếp:
- Vẻ đỏ mặt của cậu nói lên được nhiều điều... Khổ, cậu đừng chờ tôi buông lời trách móc. Trách cậu là nếu như cậu không yêu nó kia, đàng này... Tôi thăm nó được không?
Tôi đưa chị vào với Olivier, còn Bernard, khi nghe chúng tôi vào, rút lui ra.
- Nó đẹp quá! - Chị nói nhỏ trong khi cúi xuống giường.
Kế, quay lại tôi:
- Cậu hôn nó hộ tôi. Tôi sợ đánh thức nó dậy.
Pauline quả là một người đàn bà phi thường. Đâu phải hôm nay tôi mới nghĩ như thế này. Nhưng tôi vốn không thể nào mong mỏi chị đẩy sự hiểu biết đi quá xa như thế. Dù sao, qua lời lẽ thân tình và cái vẻ khinh khoái trong giọng nói của chị, tôi vẫn tưởng chừng biện biệt một phần nào gắng gượng (có thể là để đáp ứng sự cố gắng che đậy nỗi lúng túng của tôi chăng): và tôi hồi tưởng một câu trong buổi đàm đạo trước đây giữa chúng tôi, câu nói trước đó đối với tôi là một câu nói thuộc loại khôn ngoan nhất trong khi tôi lại không lưu ý đến điều đó: “Điều gì tôi biết không ngăn cấm nổi thì thà vui lòng ban bố cho xong.” Dĩ nhiên chị cố gắng hướng đến sự vui lòng đó, và, như để đáp lại tư tưởng thầm kín của tôi, chị lại nói, khi chúng tôi trở ra phòng xưởng:
- Hồi nãy tôi không la hoảng, tôi đâm ra sợ thái độ của tôi khiến cậu la hoảng. Có một vài tự do tư tưởng mà đàn ông muốn giữ độc quyền. Tuy nói thế chứ những điều gì tôi cảm thấy chống đối là tôi bày ra, với cậu tôi không thể vờ vĩnh làm quá hơn. Đời sống đã luyện cho tôi. Tôi hiểu sự trong trắng nó bấp bênh đến mức nào, dù quả tình nó có vẻ được bảo toàn tối đa. Hơn thế nữa, tôi không tin rằng bọn thiếu niên tinh tấn hơn cả lại là những người chồng tốt hơn cả cho mai sau, và cũng không phải, than ôi, là những kẻ chung tình hơn cả, - chị vừa nói thêm vừa cười héo hắt. - Rốt cục, cái gương của ông cha bầy con tôi khiến tôi mong mỏi cho chúng nó được những đức tính khác hơn kia. Nhưng đối với chúng nó, tôi sợ sự sa ngã, hoặc là những giao du đi xuống dốc. Olivier dễ bị lôi kéo. Cậu nên để tâm ngăn giữ nó. Tôi tin rằng cậu có thể giúp điều lành cho nó. Chỉ do ở cậu...
Những lời lẽ trên làm tôi ngượng ngùng quá lắm.
- Tôi đâu được như chị nói.
Tôi chỉ có thể tìm được bấy nhiêu chữ để đáp lời một cách tầm thường nhất và vay mượn nhất. Chị tiếp lời, bằng một vẻ tế nhị tuyệt vời:
- Chính Olivier sẽ làm cho cậu được như tôi nói. Vì yêu ái, có gì mà mình không được đâu?
- Oscar, anh ấy có biết Olivier ở với tôi không? - Tôi lên tiếng hỏi để giải tỏa không khí giữa chúng tôi.
- Ông ấy không biết nó đã về tới Paris nữa là. Tôi đã nói với cậu, ông ấy chẳng lo lắng gì đến con cái lắm đâu. Vì thế mà tôi đã nhờ cậy cậu nói năng với thằng Georges. Cậu đã nói chưa?
- Thưa chưa.
Vầng trán Pauline bỗng sa sầm.
- Tôi càng ngày càng thêm lo. Thằng đó lại thêm cái vẻ tự tin, trong cái vẻ đó tôi thấy toàn những vô tâm, hoài nghi, hợm hĩnh. Hắn học khá, mấy thầy hài lòng, cái lo của tôi không hiểu là do cái gì...
Và đột ngột, từ bỏ vẻ điềm tĩnh, bằng một sự bồng bột khó nhận thấy ở con người chị:
- Cậu biết đời tôi ra nông nỗi gì chăng? Tôi bóp thắt cái hạnh phúc của tôi, năm một năm hai tôi buộc lòng giảm bớt nó đi; những hi vọng của tôi, tôi cũng rút lại dần dà. Tôi đã buông tay, đã dung thứ, đã vờ không hiểu, không thấy... Nhưng dù sao, mình vẫn bám víu vào một cái gì đó, cho đến khi cái ít ỏi đó vuột khỏi mình!... Ban đêm, hắn tìm tới bên tôi học hành, dưới ngọn đèn, đôi khi hễ hắn ngước mắt lên khỏi sách là tôi bắt gặp trong ánh mắt hắn không phải tình yêu thương, mà là sự thách thức. Tôi đâu đáng nhận chịu điều đó... Có khi bỗng nhiên tôi tưởng chừng bao nhiêu tình tôi yêu hắn quay trở thành ghét hận, và tôi những muốn thà không có con cho xong.
Giọng nói của chị run lên. Tôi nắm lấy bàn tay chị.
- Olivier sẽ đền bù cho chị, tôi xin hứa.
Chị cố gắng trấn tĩnh.
- Phải, tôi điên mới nói thế, làm như mình không có ba đứa con trai không bằng. Hễ nghĩ đến đứa nào là tôi chỉ còn trông thấy có đứa đó... Cậu sẽ phải cho tôi là thiếu lí trí… Nhưng mà có khi quả tình lí trí không đủ.
- Nói thế chứ lí trí là cái tôi phục nhất ở chị, - tôi lên tiếng vụng về, với hi vọng trấn an chị.
- Hôm nọ cậu có nói chuyện với tôi về Oscar một cách khôn khéo thế kia...
Pauling bỗng thẳng người dậy. Chỉ nhìn tôi và nhún vai.
- Bao giờ cũng thế, người đàn bà hễ nhẫn nhục chừng nào là có vẻ như hiểu biết chừng nấy. - chị lớn tiếng ra vẻ hậm hực.
Điều nhận xét này của chị, chính vì nó xác đáng, khiến tôi nhức nhối. Để khỏi lộ ra điều gì, tôi nói ngay:
- Có gì mới lạ không, về chuyện thư từ?
- Mới lạ? Mới lạ!... Cậu muốn giữa tôi với Oscar xảy ra cái gì là cái mới lạ?
- Thì anh chờ đợi được giải thích.
- Tôi đây cũng chờ đợi giải thích chứ. Suốt trọn đời toàn chờ đợi giải thích.
Tôi hơi bực bội, nói:
- Dù sao Oscar cũng cảm thấy lâm vào một hoàn cảnh ngụy tạo.
- Này, cậu ạ, cậu thừa biết rằng chỉ có hoàn cảnh ngụy tạo mới muôn đời không đổi. Những người như cậu, viết tiểu thuyết, lo tìm cách giải quyết; mọi sự mọi vật cứ tiếp diễn. Mình sống trong nghi nan, và cứ như thế mãn đời không biết bám vào đâu; trong khi chờ đợi, đời tiếp diễn, như không có chuyện gì xảy ra. Và đứng trước sự việc đó mình cam đành, cũng như đứng trước những chuyện khác... tất cả những chuyện khác. Thôi, chào cậu.
Tôi nhọc nhằn động tâm vì một vài âm hưởng mới mà tôi phân biệt ra trong giọng nói của chị; một cái gì như là gây hấn buộc tôi nghĩ (có thể ngay lúc đó thì không, nhưng khi hồi tưởng lại) rằng Pauline, đối với những mối quan hệ giữa tôi với Olivier, không nhượng bộ dễ dàng như chị nói đâu, đối với những cái khác lại càng không nữa. Tôi muốn tin rằng thật ra không phải chị không thừa nhận những quan hệ đó, về một vài khía cạnh chị lấy làm hoan hỉ nữa là khác, chị cho phép tôi hiểu như thế; tuy nhiên, dù có lẽ không tự thú nhận, chị không khỏi cảm thấy đố kị.
Trên đây là lời giải thích duy nhất mà tôi thấy ra trong cái giãy nẩy chống đối tiếp theo sau và đối với một đề tài mà tựu trung chị ít tha thiết. Có thể nói rằng sau khi ban bố cho tôi những gì thiệt thòi hơn cả cho chị thì chị cũng vừa tận dụng cái vốn liếng nhân hậu của chị và bỗng chốc thấy mình trần trụi. Vì lẽ đó chị mới có những lời lẽ thiếu hòa hoãn, hầu như quá đáng, chính chị rồi đây tưởng nhớ lại hẳn phải giật mình và qua lời lẽ đó lòng đố kị của chị lộ rõ.
Trong thâm tâm, tôi tự hỏi trạng thái một người đàn bà không chịu nhẫn nhục sẽ ra như thế nào mới được? Tôi muốn nói: “Người đàn bà hiểu biết”... Tưởng chừng cái mà người đời gọi là “hiểu biết”, nơi bọn đàn bà không phải bao giờ cũng bao hàm sự nhẫn nhục!
Đến chiều hôm, Olivier bắt đầu khá hẳn ra. Nhưng sự hồi sức lại lôi kéo âu lo hiện về theo. Tôi loay hoay trấn an nó.
Cuộc đấu tay đôi của nó ư? - Dhurmer đã trốn về quê. Dù sao không chạy theo hắn được.
Tập san? - Bercail phụ trách.
Hành trang để ở nhà Passavant? - Đây là điểm khó lòng hơn cả. Tôi phải nói thật rằng Georges không lấy lại được nhưng tôi hứa thân hành đi lấy lại ngay ngày mai. Trông chừng nó có vẻ sợ Pasavant giữ hành trang kia làm của tin, điều này tôi không hề đồng ý.
Hôm qua, tôi lần lữa trong phòng xưởng sau khi viết những trang trên đây thì nghe Olivier gọi. Tôi vọt vào. Nó nói:
- Chính cháu đáng lẽ phải ra với cậu, nếu cháu đừng quá yếu. Cháu muốn đứng lên, nhưng hễ đứng là đầu quay quay và cháu sợ ngã. Không, không phải, cháu không cảm thấy mệt hơn đâu, trái lại... Nhưng cháu cần nói với cậu. Cậu phải hứa với cháu... là đừng bao giờ tìm hiểu tại sao cháu muốn tự sát hôm kia. Cháu nghĩ chính cháu cũng không hiểu. Cháu muốn nói ra, thật đấy! Mà không thể... Nhưng cậu chớ nên nghĩ là vì một cái gì bí ẩn trong đời cháu, một cái gì mà cậu không biết.
Rồi, xuống giọng hơn nữa, nó nói tiếp:
- Mà cậu cũng đừng tưởng tượng là vì hổ thẹn...
Dù chúng tôi đang ở trong tối, nó vẫn gục đầu lên vai tôi.
- Hoặc nếu cháu hổ thẹn là hổ thẹn vì bữa tiệc tối hôm nọ, vì say sưa, vì bồng bột, vì đã đổ nước mắt, và vì mấy tháng hè... và vì mất công chờ đợi cậu.
Kế đó nó quả quyết rằng nó không chịu nhìn nhận hình ảnh của nó trong mọi chuyện đó, rằng đó là những cái nó muốn giết, và nó đã giết, đã xóa bỏ ra khỏi đời nó.
Tôi cảm thấy, ngay trong cơn xao động, sự yếu sức của nó, và lặng im bế nó như đứa bé. Nó cần được nghỉ ngơi, sự im lặng của nó cho tôi mong rằng nó ngủ, nhưng cuối cùng tôi nghe nó thì thầm:
- Ở bên cậu, cháu sung sướng quá, ngủ làm gì.
Mãi đến sáng nó mới để tôi dời chân.
* * *
XI
Bernard, sáng hôm đó, đến sớm. Olivier hãy còn ngủ. Bernard, cũng giống như mấy hôm trước, kẹp cuốn sách ngồi xuống đầu giường bạn, điều này cho phép Édouard nghỉ việc canh gác và đi đến nhà bá tước Passavant, như chàng đã hứa. Vào giờ sớm sủa thế này, chắc chắn thế nào cũng gặp y.
Mặt trời sáng láng, một bầu khí tươi tắn quét sạch những ngọn lá cuối cùng trên cây, vạn vật lộ sắc trong xanh. Édouard không ra khỏi nhà đã ba ngày. Một nỗi hoan lạc bao la căng đầy lòng, và chàng lại còn tưởng chừng như châu thân là lớp vỏ mở rộng rỗng không đang bồng bềnh trên một mặt biển không ranh giới giữa ta với người, một đại dương của nhà trời làm bằng nhân ái. Đó, tình yêu cùng tiết dương quang khiến bến bờ hóa ra vô hạn.
Édouard biết mình cần có xe để chở hành lí của Olivier, nhưng gấp gì, chàng bước đi thích thú. Tâm trạng ưu ái mà chàng cảm nhận đối với vạn vật sắp xếp oái ăm cho chàng đương đầu với Passavant. Chàng tự nhủ mình phải ghét cái anh chàng ấy, chàng ôn lại trong trí tưởng bao mối bất bình nhưng không còn thấy bị nhột nhạt nữa. Kẻ đối thủ ấy, kẻ mà chàng mới hôm qua đây hãy còn ghét, chàng vừa mới bứng bỏ, và bứng một cách dứt tuyệt nên không thể nào ghét thêm được nữa. Ít nhất, sáng hôm nay chàng không thể ghét. Và đàng khác bởi chàng cho rằng không nên để sự xoay chiều lộ ra ngoài một chút nào hết vì nó có cơ tố giác cái hạnh phúc của chàng, cho nên chàng muốn tránh né xáp mặt để khỏi tỏ ra mình mất sạch khí giới. Mà thật ra, quái, tại sao chàng, Édouard, chính chàng lại đi mới được chứ? Chàng sẽ đến trình diện tại đường Babylone rồi đòi hành trang của Olivier, mà với tư cách gì chứ? Nhận sứ mệnh thật không đắn đo gì hết, chàng vừa đi vừa nghĩ thầm, và rồi sẽ khiến người ta hiểu rằng Olivier đã chọn nơi chàng làm nơi trú ngụ, mà chính đó là điều chàng muốn giấu... Chậm quá mất rồi, không lùi được nữa: Olivier đã nhận lời hứa của chàng. Ít ra, trước mặt Passavant, cần tỏ ra thật lạnh nhạt, thật cương quyết. Chàng bắt một chiếc taxi chạy ngang qua.
Édouard hiểu thiếu sót về con người của Passavant. Chàng không biết một khía cạnh tính tình của y. Passavant, là người không bao giờ để cho ai đột kích, không chấp nhận để cho người chơi trội. Để khỏi phải thú nhận thua cuộc, y luôn luôn làm ra vẻ cầu được ước thấy cái phần số của mình như thế, và dù việc xảy đến theo chiều nào, y tự phụ là xảy đúng như ý muốn. Ngay khi hiểu rằng Olivier thoát khỏi tay mình, y chỉ lo giấu nhẹm sự sôi máu của mình. Thay vì lẽo đẽo chạy theo, và thay vì liều lĩnh thất thố, y gượng lại, bấm bụng mà nhún vai. Cảm xúc của y không đời nào dữ dội đến độ vô phương kiềm thúc. Đây là một điều mà một số người lấy thế làm tự hào, họ đâu có chịu nhìn nhận rằng lắm lúc sự tự chủ không do ở cá tính mạnh mẽ của họ mà là do ở tính khí kém cỏi của họ nhiều hơn. Tôi đề phòng việc vơ đũa cả nắm, cứ coi như những gì vừa nói ra là những điều chỉ ứng vào Passavant mà thôi. Tóm lại Passavant tự mình thuyết phục lấy mình, chẳng khó khăn gì lắm, rằng quả tình y đã chán Olivier, rằng trong hai tháng hè, y đã tận hưởng những hứng thú của một chuyến phiêu du suýt gây kềnh càng cho đời y, rằng tóm lại, y đã quá tâng cái đẹp, cái duyên cùng những tài nguyên tinh thần của tên thiếu niên kia, rằng dù sao đã đến lúc y mở mắt nhìn lại những điều bất tiện nếu giao phó vai trò chủ nhiệm một tập san cho một tên trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm như thế. Xét cho kĩ, Strouvilhou sẽ được việc hơn nhiều, hiểu theo nghĩa là với tư cách chủ nhiệm tập san. Y vừa gửi thư mời hẹn gặp sáng nay.
Hãy nói thêm là Passavant hiểu nhầm về nguyên nhân đào nhiệm của Olivier. Y cứ nghĩ rằng mình đã chọc dậy sự đố kị của Olivier vì y đã tỏ ra quá niềm nở đối với Sarah, y tự đắc với ý nghĩ đó vốn vỗ về cái tính hợm hĩnh bẩm sinh của y, nhờ thế mà y nguôi giận.
Thế là y chờ đợi Strouvilhou; và bởi y có ra lệnh cho mời vào tức tốc nên Édouard nhờ lệnh đó mà đứng ngay trước mặt Passavant không cần phải thông báo.
Passavant không hề để cho vẻ ngạc nhiên của mình lộ ra. May cho y, vai trò cần thủ diễn lại hợp bản chất của y và không làm xáo trộn tư tưởng của y. Ngay khi Édouard trình bày xong xuôi lí do mình đến:
- Ông nói thế thì tôi mừng biết mấy. Thế thì, quả như lời ông đấy chứ? Ông vui lòng lo lắng cho nó? Phiền ông quá lắm không?... Olivier đáng yêu, nhưng sự hiện diện của nó ở đây bắt đầu làm vướng bận tôi một cách khủng khiếp. Tôi không dám để cho nó cảm thấy điều đó, nó dễ thương thế kia thì bảo sao... Với lại tôi biết nó không muốn trở về với mẹ cha... Một khi đã trót xa cha mẹ, thì... có phải thế không? Tuy nhiên, nghĩ lại, bà mẹ nó chẳng phải là chị em khác mẹ với ông là gì?... Hay sao đó giống như thế? Olivier có lúc đã phải dẫn giải điều đó với tôi. Vậy thì, còn gì tự nhiên hơn là nó ở với ông. Không ai có thể cười được điều đó (điều mà chính y, khi nói, lại mỉm miệng cười). Ông hiểu đấy, sự hiện diện của nó tại nhà tôi thêm phần rắc rối. Đó vẫn là một lí do xúi tôi khích nó bỏ đi. Vẫn biết tôi không hề có cái tật lo nghĩ đến dư luận. Không, như thế là lợi cho nó thì đúng hơn...
Cuộc chuyện trò khởi đi không đến nỗi nào, nhưng còn cái thích thú rót độc dược vào hạnh phúc của Édouard bằng cái âm hiểm của mình thì Passavant không đè nén nổi. Y luôn luôn dự trữ độc dược: không hiểu chuyện gì xảy ra đây...
Édouard cảm thấy mất kiên nhẫn. Nhưng đột nhiên chàng nhớ tới Vincent, chắc hẳn Passavant có tin tức. Đã đành chàng tự dặn lòng không hở môi với Douviers về Vincent, nếu Douviers sẽ hỏi tới, nhưng muốn tránh khỏi bị điều tra, tốt hơn có lẽ chính mình phải được tin tức, như thế sự đương đầu của chàng mới vững mạnh. Chàng nắm ngay cái cớ đó để đánh trống lảng.
Passavant đáp:
- Vincent chẳng thư từ cho tôi, nhưng tôi có nhận được một lá thư của cô Griffith, ông thừa biết: là cô tình nhân thay thế đấy, trong thư cô ấy nói dài dòng về Vincent. Đây: lá thư... Nghĩ cho cùng, lẽ nào lại không cho ông biết lá thư này.
Y chìa thư ra. Édouard đọc:
Ngày 25 tháng 8
Anh.
Chiếc du thuyền của hoàng thân sẽ rời Dakar không có chúng tôi đi theo. Khi lá thư này theo thuyền đến tay anh, không biết chúng tôi đã ở nơi nào rồi? Có thể là ở trên bờ sông Casamance ở Phi châu, nơi mà chúng tôi thích, Vincent thì tìm kiếm thảo hoa, còn tôi thì săn bắn. Tôi không còn biết tôi dẫn dắt Vincent hay Vincent dẫn dắt tôi, hay đúng hơn, biết đâu chẳng phải là con yêu ma phiêu lưu đang quần thảo chúng tôi như thế này. Con yêu ma phiền muộn đã dẫn dắt chúng tôi đến giới thiệu với hoàng thân, trên du thuyền chúng tôi làm quen với nhau... A! Anh bạn ạ, phải sống trên du thuyền mới biết mùi phiền muộn. Gặp lúc gió lớn, sống còn dễ chịu, mình dao động theo thuyền. Nhưng kể từ Ténériffe mà đi, không còn chút gió, nếp lăn tăn nào trên biển.
...Tấm gương bao la
Nỗi niềm tuyệt vọng.
Từ đó anh biết tôi lo làm gì không? Lo đem lòng ghét Vincent. Thật đấy, bạn ạ, chúng tôi thấy ái tình nhạt nhẽo quá, chúng tôi định bụng ghét nhau. Thật ra, ghét đã bắt đầu trước đó lâu, chính thế, ngay khi ra đi; thoạt đầu, mới chỉ là sự tức bực, một sự ghét bỏ ngấm ngầm không đến nỗi ngăn cản sự chăn gối. Gặp trời đẹp, thì hóa ra tai ác thật. A! Nay tôi mới hiểu cái tình yêu mê ái là cái quái gì...”
Thư còn dài.
- Tôi không cần đọc thêm, - Édouard vừa nói vừa trả lá thư cho Passavant. - Khi nào nó về?
- Cô Griffith không đề cập chuyện về.
Passavant giận Édouard không tỏ vẻ quan tâm đến lá thư gì cho lắm. Bởi y đã cho đọc nên y xem sự hờ hững kia là một điều sỉ nhục. Từ chối những mời mọc thì y sẵn sàng nhưng những mời mọc của mình bị hắt hủi thì y chịu không nổi. Lá thư vốn làm cho y nhẹ nhõm vô cùng. Y nuôi một cảm tình nào đó đối với Lilian Griffith cùng Vincent, y còn chứng tỏ mình có thể thi ân, yểm trợ cho hai người là đàng khác; nhưng ngay khi người ta ruồng bỏ cảm tình của y thì cảm tình của y suy giảm. Khi bỏ y, hai người chắc không phải là xuôi thuyền đến hạnh phúc, điều này xúi y nghĩ như thế này: đáng kiếp.
Về phía Édouard, nỗi hạnh phúc ban mai của chàng quá chân thành nên đứng trước sự dàn trải tình cảm hung hăng chàng vẫn có thể không cảm thấy khó chịu. Chàng trao trả bức thư, không phải là làm bộ tịch mà chàng trao trả.
Passavant cần lấn lướt ngay:
- À! Tôi muốn báo cho ông điều này nữa: ông biết rằng trước đây tôi có ý nghĩ cho Olivier làm chủ nhiệm một tập san? Dĩ nhiên, không còn có chuyện đó nữa.
- Đã hẳn, - Édouard ứng tiếng lại. Passavant vô tình cởi bỏ cho chàng một mối lo lớn.
Nghe giọng của Édouard, Passavant hiểu mình vừa bị mắc mưu, tiếp theo, không kịp cắn môi suy nghĩ:
- Đồ đạc Olivier để lại hiện ở trong phòng của nó trước đây. Chắc ông có taxi? Sẽ đưa ra xe. Nhân thể, nó thường chứ?
- Mạnh khỏe lắm.
Passavant đứng lên. Édouard làm theo. Hai người chia tay nhau bằng cái chào lạnh ngắt.
Cuộc tiếp đón Édouard vừa rồi bắt Passavant bực mình khủng khiếp.
- Thoát nợ! - Y thốt lên, vừa nom thấy Strouvilhou bước vào.
Mặc dù Strouvilhou cầm cự với y, Passavant cảm thấy thong dong, hay nói cho đúng hơn: y cảm thấy thong dong tự ý. Hiển nhiên y gặp địch thủ, y biết thế, nhưng y tin mình đủ sức và muốn chứng tỏ điều đó.
- Anh Strouvilhou, ngồi đi, - vừa nói y đẩy chiếc ghế về phía hắn. - Gặp anh tôi thật mừng.
- Bá tước truyền gặp tôi. Xin chờ bá tước sai bảo.
Strouvilhou thích chường cái vẻ xấc láo của tên nô bộc, nhưng Passavant đã quen thuộc đường lối của hắn.
- Ta hãy nói thẳng vào việc; bây giờ, giống như tên kia bảo, là đúng lúc ta chui đầu từ dưới bàn lên. Anh đã hành nhiều nghề... Hôm nay tôi muốn đề nghị anh một ghế độc tài thật sự. Xin nói gấp thêm rằng là vấn đề ở đây là vấn đề văn học mà thôi.
- Mặc.
Kế, vì Passavant đưa bao thuốc ra mời, hắn nói:
- Nếu ông cho phép, tôi thích thứ này hơn...
- Tôi không cho phép gì hết. Với loại xì gà bán lậu của anh, anh sẽ đầu độc cả phòng. Tôi không hề hiểu người ta thích thú cái nỗi gì mà hút thứ đó.
- Ồ! Tôi cũng không thể bảo là tôi yêu mê nó. Nhưng được một cái là nó làm cho người chung quanh bực tức.
- Luôn luôn chống đối?
- Nhưng đừng coi tôi là thằng ngu ngốc.
Và, không trả lời thẳng vào lời đề nghị của Pussavant, Strouvilhou thấy nên giãi bày và minh định thế đứng của mình, sau đó hẵng hay. Hắn tiếp lời:
- Cái tính kiêm ái chẳng bao giờ là cái điểm sở trường của tôi.
- Tôi biết, tôi biết, - Passavant đáp.
- Cái tính vị kỉ cũng không nốt. Và đó là điều ông không biết rõ... Người ta muốn cho mình hiểu rằng, đối với con người, muốn tránh vị kỉ, thì chỉ có cách là vị tha, vị tha còn gớm ghiếc hơn! Đối với tôi, tôi cho rằng nếu có một cái gì đó đáng khinh hơn con người ta, và bỉ ổi hơn, thì đó là nhiều con người ta. Không có cái lí luận nào thuyết phục tôi được rằng nhiều đơn vị xấu xa đem cộng lại có thể thành ra một tổng số tuyệt diệu. Leo lên một chiếc xe điện hay tàu lửa, tôi không khỏi cầu mong một tai nạn đẹp đẽ nào đó làm rụi cái mớ rác rưởi nhúc nhích kia thành một mớ bầy nhầy cho xong, ấy, kể cả tôi vào số đó nữa; tôi cũng chưa hề bước vào phòng hát mà khỏi ước sao cái giàn đèn đổ ào xuống hay một quả bom nào nổ tung tóe, và dù tôi có phải tung theo, tôi sẵn lòng ôm bom vào trong áo, nếu như tôi không biết thủ thân để làm việc gì hơn. Hồi nãy ông nói gì thế?...
- Không, không có gì; anh cứ nói tiếp, tôi nghe. Anh không thuộc loại những kẻ hùng biện chờ lời nói mâu thuẫn quất vào mình mới lao đi.
- Sở dĩ tôi hỏi thế là vì hình như tôi có nghe ông mời một ly rượu porto vô giá của ông.
Passavant mỉm cười, chuồi chai rượu cho hắn, nói:
- Thôi anh hãy giữ chai rượu bên mình. Thích thì uống hết, miễn là cứ nói.
Strouvilhou rót đầy ly, thu mình trong chiếc ghế lõm sâu và tiếp lời:
- Tôi không biết phải chăng mình hiện có cái mà người đời gọi là trái tim khô khan hay không, tôi không tin như thế vì tôi vốn thừa thãi những bất bình, nhờm tởm. Đành rằng từ lâu nay tôi đã đè ém trong tim bao nhiêu thứ có thể làm con tim tôi xiêu lòng. Nhưng tôi đâu phải là kẻ không biết ngưỡng mộ hay là không biết tận tụy một cách quá mức như thế nào đó; bởi, với tư cách người, tôi khinh bỉ chính tôi và ghét mình ngang hàng với mọi người khác. Tôi một mực nhắc đi nhắc lại, ở nơi nào cũng thế và bao giờ cũng thế, rằng văn chương, nghệ thuật, khoa học, chung quy lại, đổ công ra cho sự an vui của nhân loại, và thế là đủ để tôi nôn mửa các thứ đó rồi, nhưng không có gì ngăn cấm tôi đảo ngược mệnh đề, và ngay lúc đó tôi mới thở phào. Phải, cái mà tôi thích thú tưởng tượng là, hoàn toàn ngược lại, một nhân loại nô lệ đổ sức lực vào một kiến trúc ác liệt nào đó; một kẻ như Bernard Palissy(24) (người đời đã lải nhải khá nhiều về trường hợp này!) đã đốt vợ đốt con, đốt luôn mình nữa mới tìm ra cái nước men cho chiếc đĩa tinh xảo. Tôi khoái đảo ngược các vấn đề; biết làm sao, tinh thần tôi vốn thế, các vấn đề ở vào cái thế ngược ngạo như thế mới được quân bình hơn. Và ví thử tôi kham không nổi cái ý nghĩ về một đấng Kitô hi sinh thân mình vì sự cứu rỗi vô vị cho cả lũ người khủng khiếp mà tôi hích cánh chen vai, thì tôi cũng tìm thấy sự thỏa mãn nào đó, và tìm thấy một nỗi như là thanh thản nữa là khác khi hình dung bọn tiện nhân kia đang bại hoại để sản xuất ra một đấng Kitô... mặc dù tôi đây ước ao điều khác, bởi lẽ bao nhiêu lời răn dạy của Người chỉ tổ đẩy nhân loại lún sâu thêm vào đống bùn. Tai họa là do sự vị kỉ của bọn ác độc mà ra. Một sự ác độc tận tình thì còn có cơ sản xuất những điều đại sự. Cứ che chở cho bọn khổ, yếu, bọn què quặt, bọn mang thương tích, là chúng ta lầm đường lạc lối, và vì thế, tôi ghét tôn giáo vốn dạy mình điều đó. Sở dĩ bọn người kiêm ái tự hào là thụ hưởng được thái bình trong sự chiêm ngưỡng thiên nhiên, chiêm ngưỡng muôn thú muôn hoa, là vì, ở trạng thái hoang dã, chỉ có bọn sinh vật khang kiện là được hưng vượng; kì dư, cặn bã, dùng làm phân bón. Nhưng người ta không biết nhìn ra điều đó, không muốn thừa nhận.
- Có chứ, có chứ, tôi sẵn sàng thừa nhận. Nói tiếp.
- Ông xem có xấu hổ, khốn khổ không đã chứ... Con người ta thì chạy vạy để được những giống ngựa, trâu bò, gà vịt, ngũ cốc, hoa quả cho tuyệt hảo, trong khi nó, chính nó, thì hãy còn tìm kiếm trong y học một sự thoa dịu cho bớt khổ, tìm đền bù trong việc làm nhân ái, tìm an ủi trong tôn giáo, tìm quên trong say sưa. Làm việc là nhắm sự cải thiện nòi giống mới phải chứ. Nhưng mọi sự gạn lọc bao hàm sự gạt bỏ những cá nhân thiếu tư cách, và đó là điều nan giải cho xã hội Công giáo chúng ta. Ngay như chuyện thiến lớp người lạc hậu, xã hội cũng không kham nổi, mà đó lại là lớp người sinh sản mau lẹ nhất. Điều cần có, không phải là những bệnh viện mà là những địa điểm đúc giống.
- Hà, Strouvilhou, con người anh cứ thế là tôi khoái.
- Thưa bá tước, tôi e ông hiểu nhầm về tôi từ trước đến nay. Ông cho tôi là một tên hoài nghi mà tôi là một tên có lí tưởng, tin thần linh. Hoài nghi chẳng được gì tốt cho tôi. Vả chăng nó dẫn dắt đến đâu thì mình biết rồi... dẫn đến chỗ khoan dung! Tôi coi bọn hoài nghi là những người không lí tưởng, không tưởng tượng là bọn ngốc... Và sự sản xuất ra cái giống người vạm vỡ đó sẽ tiêu hủy không biết bao nhiêu là điều tế nhị, tinh vi trong địa hạt tình cảm, điều này tôi đâu phải là không biết, nhưng rồi sẽ không còn có ai đem lòng tiếc nuối những điều đó vì những con người tế nhị sẽ bị tiêu hủy theo. Ông chớ nhầm, tôi có cái mà người ta gọi là kiến thức, và tôi thừa biết rằng, lí tưởng của tôi, có một số dân Hy Lạp trước kia đã thấy ra; ít nhất tôi cũng thích thú tưởng tượng điều đó, và ghi nhớ rằng nàng Coré, con gái của Cérès, xuống địa ngục, thấy bóng tối mà thương cho bóng tối, nhưng khi trở thành nữ hoàng, vợ của Pluton, thì Homère chỉ còn gọi nàng là “Proserpine đáo để”. Xem Viễn du, ca khúc thứ sáu. “Đáo để” là đặc tính bắt buộc của kẻ nào tự nhận là tiết tháo.
- Mừng thấy anh trở lại chuyện văn chương, nếu quả chúng ta có bỏ lửng. Nếu thế thì, hỡi Strouvilhou tiết tháo, tôi xin hỏi xem anh có bằng lòng trở thành một chủ nhiệm đáo để của một tập san hay không?
- Nói cho ngay, thưa bá tước, tôi phải thú thật rằng, trong tất cả mọi hôi hám tanh hôi của con người, văn chương là cái làm cho tôi lánh xa hơn cả. Đến độ tôi lấy làm ngờ rằng văn chương e không biến đổi thành ra một cái gì khác nổi, ít nhất là chừng nào nó chưa quét sạch được quá khứ của nó. Mình sống bằng những tình cảm được thừa nhận và độc giả thì cứ tưởng tượng cảm nhận những tình cảm đó vì họ tin hết thảy những điều được in thành sách, tác giả suy luận về những điều đó giống như suy luận về những quy ước mà họ tin tưởng là những nền tảng của nghệ thuật mình. Những tình cảm đó mang âm điệu giả hiệu như những miếng đồng dùng làm thẻ, nhưng mà lại được lưu hành. Thế rồi, vì ta biết rằng “tiền xấu phá tiền tốt”, kẻ nào cống hiến cho công chúng những đồng tiền thật thì có vẻ như là kẻ đặt điều văn vẻ. Trong một trường đời mà ai nấy gian lận thì chính con người đích thật hóa ra bịp bợm. Tôi xin báo trước với ông: Nếu tôi điều khiển một tập san là tôi cốt diệt bọn bù nhìn, phá giá mọi thứ tình cảm mĩ miều, và phá giá cái loại hối phiếu chữ nghĩa.
- Hà, tôi muốn biết anh xoay xở cách nào.
- Ông cứ để tôi làm rồi biết. Tôi lắm lúc nghĩ ngợi về điều đó.
- Anh sẽ không được ai hiểu, và không ai theo anh.
- Ông nhầm! Cái bọn trẻ tỉnh ngộ hơn cả bây giờ vẫn đề phòng chống lại sự lạm phát về thi ca. Chúng nó hiểu những tiết điệu thông thái, những điệp khúc trữ tình sang sảng che lấp những gì là rỗng không đàng sau đó. Giả như có người đề nghị phá đổ nhảo, thì luôn luôn tìm thấy những cánh tay chực sẵn. Ông muốn mình dựng một ngôi trường chỉ có mục đích duy nhất là triệt hạ tất cả?... Ông sợ?
- Không... với điều kiện là người ta đừng giẫm vào khuôn viên của tôi.
- Mình có việc làm ở nơi khác... trong khi chờ đợi. Thời khắc thuận lợi. Tôi quen với một bọn chỉ chờ đợi một dấu hiệu chiêu nạp mà thôi; bọn rất trẻ... Phải, ông thích như thế, tôi biết; nhưng tôi xin báo trước với ông là bọn chúng không để cho người khác mách nước đâu... Lắm lúc tôi tự hỏi do sự mầu nhiệm nào mà hội họa tiến triển thế kia, và bằng cách nào mà văn chương lại chịu nhượng bộ đến thế? Ngày nay, cái mà ta quen gọi là “thể tài” trong hội họa phải sa sút lạ lùng! Một đề tài đáng viết! Đáng buồn cười. Bọn họa sĩ thậm chí không dám về liều một bức chân dung, mà chỉ vẽ với điều kiện là tránh né mọi sự giống nhau. Nếu ta thi hành công việc đến nơi đến chốn, mà điều này thì ông có thể tin tưởng ở tôi, tôi đòi hỏi không đến hai năm là đủ để làm cho một thi sĩ của ngày mai, nếu được người khác hiểu thơ, là tưởng chừng như mình bị làm nhục. Thật đấy, thưa bá tước, ông muốn đánh cá không? Mọi ý mọi nghĩa sẽ được coi như là phi thi ca. Tôi đề nghị làm việc yểm trợ cho sự phi luận lí. Tên đẹp đẽ biết bao cho một tập san: Tảo Thanh!
Passavant lắng tai nghe không nao núng. Sau một hồi im lặng, y lên tiếng:
- Trong bọn tùy tùng của anh, anh có kể đến thằng nhỏ cháu của anh không?
- Ghéri là một thằng trong sạch, và nó biết tường tận việc đang bàn đây. Thật tình, giáo huấn nó là một điều thú vị. Trước vụ hè, nó coi như chuyện đáng buồn cười vì nó hơn bọn bạn về môn dịch ở trong lớp và tóm thu hết cả mấy giải thưởng. Từ buổi nhập học, nó không chịu học hành gì hết, không hiểu nó mưu tính chuyện gì, nhưng tôi tin tưởng nó và nhất là không muốn rầy rà đến nó.
- Anh dẫn nó lại tôi?
- Bá tước đùa, chắc thế... Thế còn tập san?
- Mình sẽ nói lại. Tôi cần để cho bao nhiêu dự định chín muồi ở trong đầu đã. Trong khi chờ đợi, anh rất nên cấp cho tôi một người thư kí, thư kí trước đây của tôi hết làm cho tôi thỏa mãn.
- Tôi sẽ gửi đến cho ông ngay từ ngày mai thằng nhỏ Cob-Lafleur, tôi cần đi gặp nó bây giờ, chắc nó sẽ được việc cho ông.
- Thuộc loại làm công tác “tảo thanh”?
- Phần nào...
- Từ đó suy ra...
- Không! Ông đừng suy tất cả bọn từ nó. Nó là một tên ôn hòa. Rất chọn lọc dành cho ông.
Strouvilhou đứng lên, Passavant nói tiếp theo:
- À, có lẽ tôi chưa tặng anh cuốn truyện. Tiếc rằng tôi không còn bản nào của loạt ấn hành đầu tiên...
- Không quan trọng gì, vì tôi không có ý định bán lại.
- Chỉ là vì lần đó in khá hơn cả.
- Ồ, tôi cũng không có ý định đọc... Xin kiếu. Và nếu ông muốn thì tôi xin chờ ông sai bảo. Hân hạnh chào ông.
* * *
(24) Bernard Palissy (1510-1589) là thợ gốm, nhà thủy học người Pháp, ông dành 16 năm ròng rã học hỏi và mô phỏng lại nghệ thuật gốm sứ của Trung Hoa.
XII
NHẬT KÍ Édouard
Đưa đồ đạc về lại cho Olivier. Từ nhà Passavant trở về, làm việc ngay. Hứng khởi trầm trầm mà sáng suốt. Chưa hề hoan hỉ thế này. Viết xong ba chục trang Bọn làm bạc giả, không ngập ngừng, không gạch xóa. Như cảnh bóng đêm bất thần được lằn chớp chiếu rọi trọn tấn tuồng từ bóng tối đột hiện, rất khác với những gì tôi cố sức bịa đặt mà vô hiệu. Những cuốn truyện của tôi viết ra từ trước đến nay đối với tôi hình như có thể so sánh với những bồn nước ở công viên, được tách biệt rõ rệt, có thể là hoàn mĩ, nhưng trong đó nước bị tù hãm không sinh động. Nay tôi muốn để cho dòng nước mặc tình đổ dốc, khi nhanh khi chậm, theo những đoạn quanh co mà tôi không muốn tiên liệu.
X. bênh vực cho quan điểm rằng nhà viết tiểu thuyết giỏi, trước khi viết, phải biết truyện sẽ kết thúc như thế nào. Với tôi, vốn để cho truyện phiêu lãng, tôi cho rằng đời không hề cống hiến cho ta một điều gì, dù là một kết quả, mà ta khỏi coi đó là một điểm khởi hành mới. “Còn nữa...” đó là chữ mà tôi muốn dùng để kết thúc Bọn làm bạc giả.
Douviers viếng thăm tôi. Anh quả là một con người trung hậu lắm.
Vì lỡ vồn vậy, tôi buộc lòng phải đỡ những tràng thổ lộ khá phiền phức. Trong khi ngỏ lời với anh, tôi nhẩm lại những lời của La Rochefoucauld: “Tôi ít biết thương hại, và muốn đừng thương hại gì hết... Tôi đinh ninh rằng mình nên bằng lòng với việc bày tỏ lòng thương hại và thận trọng giữ mình đừng có thương hại”. Tuy nhiên, mối thiện cảm của tôi là thật, không chối cãi được, và tôi xúc động đến rơi nước mắt. Thật tình, nước mắt tôi có vẻ vỗ về được Douviers còn hơn là lời lẽ. Tôi lại đâm ra tin rằng anh hết buồn ngay khi trông thấy tôi khóc.
Tôi đã quyết tâm không tiết lộ tên của anh chàng dụ dỗ gái, ngờ đâu anh cũng không lên tiếng hỏi. Tôi nghĩ cơn ghen của anh tiêu tan ngay khi anh cảm thấy mình không còn được Laura chiêm ngưỡng. Dù sao, sự vận động của anh bên cạnh tôi vừa rồi đây đã làm cho sự ghen tuông nhụt đi phần nào.
Có một sự vô lí nào đó trong trường hợp Douviers; anh lấy làm bất bình cho cái điều rằng anh chàng kia đã bỏ rơi Laura. Tôi đã phân giải rằng, giá không có sự bỏ rơi đó thì Laura đâu có trở về lại với anh. Anh tự nguyện sẽ yêu đứa bé như yêu con đẻ. Sự vui sướng được làm cha, biết đâu, giá không có anh chàng dụ dỗ gái kia, anh ta có hưởng được chăng? Điều này, tôi nén không tỏ bày ra với anh, bởi lẽ, sực nhớ lại sự bất lực của mình, anh sẽ nổi cơn ghen. Và lúc bấy giờ sự ghen tuông sẽ do tự ái mà ra và sẽ hết khiến tôi lưu ý.
Một Othello(25), nếu ghen tuông, thì đó là điều hiểu được, cái hình ảnh vợ vui vầy với người khác ám ảnh hắn. Đàng này, một Douviers, muốn phát ghen, thì phải tưởng tượng rằng mình phải ghen.
Và phải chăng anh duy trì mối ghen si đó lại trong người mình vì cái nhu cầu thầm kín phải thổi phồng cho cái vai trò vốn hơi yếu của mình. Nếu anh mưu cầu hạnh phúc thì đó là điều tự nhiên, nhưng anh lại cần nhìn ngắm con người mình và, thay vì điều tự nhiên, anh lại xem trọng điều mà mình đạt được. Nên chi tôi hì hà hì hục phác họa cái hạnh phúc đơn sơ cho anh thấy nó xứng đáng hơn là sự giày vò và nó rất khó đạt. Đến khi anh trở lại sáng suốt, tôi mới để cho anh đi.
Vấn đề tính tình bất nhất. Những nhân vật, từ đầu đến cuối truyện hay kịch, hành động đúng như ta dự liệu trước được... Người ta đề ra sự bất di bất dịch đó bắt ta thán phục, đó là điều, trái lại, khiến tôi nhìn nhận rằng nhân vật có tính cách nhân tạo và được uốn nắn.
Tôi vẫn không vỗ ngực cho rằng sự bất nhất là dấu hiệu chắc chắn của sự tự nhiên, vì ta bắt gặp, và đặc biệt bắt gặp trong giới phụ nữ, vô số những điều bất nhất ngụy tạo; đàng khác, tôi có thể thán phục, nơi một số ít người, cái mà ta gọi là “tinh thần mạch lạc”; thế nhưng, rất thường khi, sự nhất trí của con người chỉ đạt được là khi con người thủ cựu một cách tự cao và đánh mất dần cái tự nhiên của mình. Cá nhân, bản chất càng đại lượng và khả năng càng phong phú thì nó càng dễ biến cải, nó càng không đành lòng nhượng bộ cho quá khứ quyết định tương lai mình. Câu “trời sập vẫn không làm nao núng kẻ chính trực và quyết tâm”, mà người ta đề ra làm mẫu mực, rất lắm khi chỉ cống hiến cho ta một thửa đất lởm chởm đá bất lợi cho sự trồng cây.
Tôi còn làm quen với một loại người khác nữa kiên tâm đào luyện cho mình một sự khác người cố ý, những người này, sau khi đã có một vài chọn lựa, chỉ chuyên lo không bao giờ sửa đổi những chọn lựa đó, họ thủ thế và không cho phép mình từ bỏ. (Tôi liên tưởng đến X. từ chối cốc rượu Montrachet cất từ năm 1904 do tôi mời: “Tôi chỉ thích rượu Bordeaux”, hắn nói. Kịp đến lúc tôi nói tráo là rượu Bordeaux, thì hắn cho là rượu Bordeaux ngon.)
Hồi nhỏ tuổi, tôi có những quyết định mà tôi tưởng tượng là những quyết định tốt. Tôi ít thắc mắc về con người hiện tại của mình cho bằng thắc mắc làm sao trở thành con người mà mình dự ước. Nay, thiếu một tí nữa là tôi thấy ra trong sự bất quyết chính là bí quyết của sự lâu già.
Olivier hỏi tôi hiện đang làm gì. Tôi bất ưng nói với nó về cuốn truyện của tôi và lại còn đọc cho nó, bởi nó có vẻ quan tâm vô cùng những trang tôi vừa viết xong. Tôi ngại sự phê phẩm của nó, vốn biết tính quyết liệt của tuổi trẻ cảm thấy khó lòng chấp nhận một quan điểm khác với quan điểm mình. Thế nhưng một vài nhận xét mà nó e ấp ướm thử đối với tôi rõ là những nhận xét chính xác hơn cả, đến độ tôi lợi dụng ngay.
Cảm giác tôi, hơi thở của tôi, chính là do nó và qua con người nó mà ra cả.
Nó vẫn còn lo lắng về tập san mà nó có bổn phận điều khiển, và đặc biệt lo lắng về cái truyện ngắn mà nó phủ nhận, nó viết truyện đó theo lời yêu cầu của Passavant. Tôi đã nói với nó, những cải tổ của Passavant sẽ lôi kéo theo sự tu sửa ở nơi mục lục, nó có thể lấy lại bản thảo.
Tiếp ông dự thẩm Profitendieu, thật bất ngờ. Ông chặm trán và thở hồng hộc, không hẳn vì hụt hơi sau khi leo hết sáu tầng mà vì lúng túng, có vẻ thế. Ông vẫn cầm mũ nơi tay và đợi tôi mời ông mới ngồi xuống. Ông là một người đàn ông đẹp mã, rất gọn ghẽ và, không thể chối cãi, oai phong. Ông mở lời:
- Ông là em vợ của ông chủ tịch Molinier thì phải. Chính vì chuyện thằng Georges Molinier mà tôi đường đột đến tìm ông. Chắc ông cũng vui lòng bỏ lỗi cho về cuộc thăm dò này, nó thoạt tiên có vẻ hớ hênh đối với ông, nhưng lòng kính mến của tôi đối với ông đồng nghiệp Molinier, mong rằng nó đủ để giải thích cùng ông.
Ông ngừng nói một lát. Tôi đứng lên và buông màn cửa xuống, sợ bà giúp việc vốn rất tọc mạch nghe lọt, mà tôi thì biết bà đang ở phòng bên cạnh. Ông Profitendieu mỉm cười tỏ ý đồng tình, ông tiếp lời:
- Với tư cách dự thẩm, tôi có phận sự phụ trách một vụ làm tôi bấn người. Thằng cháu nhỏ của ông trước đây đã vướng mắc vào một chuyện li kì... Nhưng cái này nói giữa ông với tôi thôi nhé... chuyện li kì khá kinh thiên động địa, tôi vẫn muốn tin, bởi nó còn quá nhỏ, rằng mối thiện tâm, tính hồn nhiên của nó bị lợi dụng ở bên trong câu chuyện; nhưng tôi xin thú nhận rằng tôi đã phải cần đến một sự khôn khéo nào đó để... châm chế mà không làm tổn hại đến quyền lợi của luật pháp. Đứng trước một sự tái phạm... thuộc phạm vi hoàn toàn khác biệt, tôi xin nói gấp thêm điều đó... tôi không thể bảo đảm rằng thằng Georges có thể thoát nạn một cách tốt đẹp như trước. Không những thế, tôi không dám chắc rằng tìm cách cứu thằng bé là vì có lợi cho nó, vẫn biết vì tình bạn tôi muốn tránh cho người anh rể của ông vụ xì căng đan này. Nói thế chứ tôi vẫn cố thử, nhưng tôi còn có nhân viên, ông hiểu chứ, họ ham việc và không phải tôi ngăn cản họ được mãi. Hay là, nếu ông muốn, hiện giờ tôi còn khả năng ngăn họ, nhưng qua ngày mai thì chịu. Bởi thế tôi sực nghĩ là ông nên ngỏ lời với thằng cháu của ông, nói cho nó biết nó đang lâm vào cảnh ngộ như thế nào...
Cuộc viếng thăm của ông Profitendieu, mà tại sao lại không thú nhận cho xong, thoạt tiên làm tôi lo lắng khiếp đảm; nhưng từ lúc hiểu rằng ông đến không phải với tư cách cừu địch hay quan tòa, thì tôi lại cảm thấy thú vị là đàng khác. Tôi đoán được điều này một cách rõ rệt hơn nữa khi ông nói tiếp theo đó:
- Dạo sau này, có những đồng tiền giả được lưu hành. Tôi đã được cáo giác về vụ này. Tôi vẫn chưa tìm ra được manh mối. Nhưng tôi biết rằng thằng Georges là một đứa trong bọn hiện đang xài và phát ra những đồng tiền đó - một cách nông nổi thế thôi, tôi muốn tin như thế. Bọn chúng có vài đứa, trạc tuổi cháu của ông, đang lao vào cuộc mậu dịch xằng bậy này. Không ngờ vào đâu được, người ta lạm dụng tính chân chất của bọn chúng, và bọn nhỏ, không phân thiệt hơn, đang đóng vai những món đồ chơi trong tay một số đàn anh phạm pháp. Đáng lẽ ra, chúng tôi đã có thể tóm vài đứa nhỏ phạm pháp, và khiến chúng nó khai xuất xứ của mấy đồng tiền, không khó khăn gì, nhưng tôi thừa biết, có thể nói là, bước quá một điểm giới hạn nào đó, nội vụ vuột đi mất... có nghĩa là sự thẩm vấn không thể hủy bỏ để mà làm khác đi, và chúng tôi lâm vào tình trạng buộc lòng biết những điều mà đôi khi nếu không biết thì hay hơn. Trong trường hợp đặc biệt này, tôi dự tính khám phá cho ra bọn chính phạm khỏi cần tới lời cung khai của bọn vị thành niên. Nghĩ thế nên tôi mới ra lệnh đừng làm xao động bọn nhỏ mảy may nào cả. Nhưng lệnh tạm thời thôi. Tôi mong cháu của ông đừng ép tôi bắt nó. Tốt cho nó nếu nó biết người ta đang đề phòng. Ông, nếu có làm cho nó hoảng sợ tí đỉnh, thì cũng là điều hay; nó đang ở trên một triền dốc tội lỗi...
Tôi đáp lại rằng tôi sẽ hết sức cảnh cáo nó, nhưng ông Profitendieu dường như không nghe. Ông nhìn xa vắng. Ông lặp lại hai lần câu: “Cái mà người ta gọi là triền dốc tội lỗi”, rồi im bặt.
Tôi không biết ông nín lặng bao lâu. Không cần ông dọn lời tìm ý, tôi đã tưởng chừng hình dung ra cái tình ý đó diễn ra trong óc ông, và ông chưa kịp nói ra, tôi đã nghe lời này: “Chính tôi đây cũng làm cha, ông ạ...”
Và bao nhiêu lời trước đây vụt tan biến, giữa chúng tôi chỉ còn có Bernard. Kì dư chỉ là cái cớ, ông đến đây chỉ để nói với tôi về nó.
Nếu sự dào dạt tâm tình có bắt tôi bực bội, nếu sự thái quá trong tình cảm có làm tôi nhột nhạt, thì trái lại chẳng có cái gì đáng cho tôi động lòng cho bằng cơn cảm xúc cố nén kia. Ông hết sức dằn lòng nhưng ông cố gắng cho đến nỗi môi và tay ông run lên bần bật. Bất thần ông giấu mặt vào hai bàn tay và bán thân lay giật theo tràng tức tưởi. Ông lắp bắp:
- Ông thấy đấy, ông thấy, con cái có thể bắt mình khốn khổ đến chừng nào.
Ông hà tất phải nói quanh? Tôi cũng vô cùng khích động, nói lớn:
- Nếu Bernard trông thấy ông nó sẽ nát lòng, cam đoan với ông như thế.
Ấy thế mà tôi chỉ một mực vô cùng luống cuống chứ không làm gì khác. Hầu như Bernard không hề nhắc nhở cha nó cho tôi nghe. Tôi đã đồng tình với sự bỏ nhà ra đi của nó, tôi vốn nhặm lẹ nên lẹ làng coi sự tẩu thoát như thế là một điều tự nhiên, và sẵn sàng thấy đó là điều có lợi lớn cho đứa con. Trong trường hợp của Bernard, có phụ thêm vấn đề con rơi con rớt. Nhưng nay, nơi người cha không chính thống này, hiển lộ những tình cảm chắc hẳn là mãnh liệt lắm nên mới thoát ra ngoài vòng kiềm chế, và bởi vì những tình cảm này vốn không bị bó buộc phải có nên chúng lại càng chân thật. Và đứng trước tình yêu này, nỗi khổ này, tôi buộc lòng tự hỏi Bernard bỏ đi có hữu lí chăng. Tôi không còn lòng dạ nào đồng ý với nó. Tôi nói:
- Xin ông sai sử tôi nếu ông nghĩ tôi có thể giúp ông, nếu ông nghĩ tôi nên nói với nó. Nó là con người tốt bụng.
- Tôi biết. Tôi biết... Phải, ông giúp được nhiều. Tôi biết nó sống với ông mùa hè này. Cảnh sát của tôi khá được việc... Tôi cũng biết rằng chính hôm nay nó thi vấn đáp. Tôi đã chọn đúng lúc mà tôi biết nó phải ở tại Sorbonne mới đến thăm ông. Tôi ngại gặp nó.
Nãy giờ cơn xúc động của tôi suy giảm xuống, bởi tôi vừa chợt nhận ra cái chữ “biết” có mặt trong hầu hết các câu nói của ông. Lập tức tôi đâm ra ít băn khoăn về lời ông nói cho bằng quan sát cái nếp nhăn kia của ông ước chừng là nếp nhăn nghề nghiệp.
Ông bảo tôi cũng “biết” rằng Bernard đã đậu thi viết rất xuất sắc. Vị giám khảo, bạn của ông, ân cần đưa cho ông xem bài luận của chính con ông, một trong những bài hay nhất, hình như thế. Ông bàn chuyện Bernard bằng một vẻ khâm phục vừa phải khiến tôi băn khoăn không hiểu, nói cho cùng, ông không tưởng mình là cha của nó thật sao. Ông nói thêm:
- Trời! Nhưng trước hết ông đừng đem ra kể lại cho nó! Nó bẩm chất kiêu hãnh, đa nghi thế kia!... Nó mà nghi hoặc rằng, từ buổi nó bỏ đi, tôi không ngớt tưởng tới nó, theo dõi nó... Nhưng dù sao, ông có nói với nó, thì nói là ông có gặp tôi. - Ông hô hấp khó nhọc giữa mỗi câu. - Điều mà chỉ có ông mới nói được với nó, là tôi không giận nó... như con. Vâng, tôi thừa biết rằng ông biết điều đó... Điều mà ông cũng nói với nó được... (đến đây, không nhìn tôi, cực lòng, trong một trạng thái ngượng ngập cực cùng) là mẹ nó đã bỏ tôi... phải, dứt tuyệt, mùa hè năm nay, và nếu như nó muốn trở về thì tôi...
Ông không nói hết nổi...
Một người đàn ông to lớn khỏe mạnh, tin ở điều xác thực, an vị trong đời sống, chễm chệ trên con đường sự nghiệp, thế mà bỗng chốc bỏ tất cả mọi nghi thức, mở lòng mình và thổ lộ trước mắt một kẻ xa lạ, cho kẻ xa lạ ấy là tôi một cảnh tượng rõ phi thường. Nhân dịp này, một lần nữa, tôi có thể nhận thấy rằng tôi dễ xúc động vì những lời trào lòng của một người lạ hơn là của người thân thuộc. Sẽ tìm cách giải thích điểm này hôm khác.
Ông Profitendieu không giấu giếm với tôi là trước đây ông mang nhiều thành kiến đối với tôi, ông đã tự diễn giải với mình một cách sai lạc, nay vẫn tiếp tục giải thích sai lạc rằng Bernard bỏ nhà là để theo tôi. Đây chính là điều trước đây đã ngăn đón ông tìm tới tôi. Tôi không dám thuật lại mẩu chuyện về chiếc va li của tôi và chỉ nói tới tình bạn giữa con ông và Olivier, tôi bảo nhờ thế mà Bernard với tôi mau kết thân, Profitendieu lại nói:
- Bọn trẻ lao mình vào đời mà không biết hiểm họa. Sự mù mịt về nguy cơ làm thành sức mạnh cho bọn chúng, có lẽ thế. Nhưng mình làm cha, mình biết, mình run sợ cho chúng nó. Mình ân cần lại làm chúng nổi cáu, và tốt hơn đừng để lộ cho chúng thấy. Tôi biết lòng ân cần của mình đôi khi tác dụng một cách thật phiền hà và vụng về. Thay vì không ngớt nhắc nhở với đứa trẻ rằng lửa đốt nóng, mình nên chịu để cho nó bỏng lửa tí đỉnh. Kinh nghiệm dạy chắc chắn hơn là lời khuyên bảo. Tôi vẫn luôn thuận lòng cho Bernard tự do tối đa rằng tôi không lo lắng gì bao nhiêu đến nó. Tôi sợ nó hiểu lầm, vì thế mà nó trốn nhà. Nhưng dù nó trốn đi, tôi vẫn cho rằng để cho nó tự ý là điều tốt, trong khi vẫn ở xa nhìn ngó nó không để cho nó ngờ vực. Nhờ trời, tôi sẵn phương tiện để thực hiện điều này. (Hiển nhiên ông Profitendieu tự hào về sự thể và đặc biệt tỏ ra hãnh diện về tổ chức cảnh sát của ông, ông nhắc lại điều này kể lần này là lần thứ ba.) Tôi nghĩ mình nên đề phòng đừng giảm thiểu những thách thức của ý định ban đầu của tên thiếu niên. Tôi nên thú thật ra đây chăng. Rằng cái hành vi bất phục tòng kia, dù đã gây nhọc nhằn cho tôi, vẫn chỉ khiến tôi quyến luyến nó hơn thêm? Tôi đã biết nhìn ra trong hành vi đó một bằng chứng của can đảm, của giá trị cá nhân...
Bây giờ thì ông cảm thấy tin tưởng được, ông thao thao bất tuyệt. Tôi cố sức đưa đẩy câu chuyện trở về cái mà tôi chú trọng, thế là tôi ngắt lời, hỏi ông xem ông có mục kích những đồng tiền giả mà ban đầu ông có đề cập. Tôi tò mò muốn biết chúng nó có giống như mẫu đồng tiền bằng thủy tinh mà Bernard đã trưng ra cho bọn tôi xem. Mới kịp nói thì ông Profitendieu biến sắc mặt, mi mắt lim dim, trong khi một ánh lửa dị kì sáng lên trong mắt sâu, nếp nhăn chân vịt hằn lên bên thái dương, môi mím lại, tất cả nét mặt ông nhướng lên và chăm chú. Bao nhiêu điều ông nói trước đây coi như không còn đáng kể. Ông quan tòa lấn lướt ông cha, và chỉ còn nghề nghiệp là còn tồn tại đối với ông mà thôi. Ông dồn dập hỏi, ghi chú và tính chuyện phái nhân viên đi Saas-Fée để lấy tên những du khách trong sổ sách của những khách sạn. Ông nói thêm:
- Vẫn biết, dáng chừng cái đồng bạc giả đó là do người bán tạp hóa nhận từ tay một du khách tại một nơi mà người đó chỉ ghé qua.
Tôi đáp lại rằng Saas-Fée ở tận cùng một ngõ cụt không dễ gì đi tới rồi trở về nội một ngày. Ông đặc biệt tỏ ra mãn nguyện về lời chỉ dẫn sau cùng này và cáo từ ngay, sau khi vồn vã cảm ơn tôi, dáng đăm chiêu, hoan hỉ, rồi thôi không còn đả động tới Georges hay tới Bernard gì nữa.
* * *
(25) Othello là nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Shakespeare.
XIII
Bernard, bản tính đã rộng rãi như hắn, tất cảm thấy, sáng ngày hôm đó, rằng không có niềm vui nào lớn cho bằng được làm cho kẻ khác vui. Bernard không được cái vui đó. Hắn vừa thi đậu cao, và vì không tìm thấy ai gần bên mình để báo cái tin may mắn đó, hắn ấm ức. Bernard biết rõ rằng kẻ phải hoan hỉ hơn cả là bố mình. Chính hắn lưỡng lự trong chốc lát xem có nên tức tốc đi báo cho bố biết không, nhưng tính tự phụ cầm chân hắn lại. Édouard? Olivier? Quan trọng hóa một cái bằng làm gì lắm thế. Cậu tú đấy. Thong thả! Chính từ nay cam go mới khởi đầu.
Trong sân trường Sorbonne, hắn nom thấy một đứa bạn, cũng đậu như hắn, đang đứng riêng mà khóc. Thằng này có tang. Bernard biết nó mới mất mẹ. Mối thông cảm dâng dậy đẩy hắn tới đứa mồ côi, hắn tiến lại; kế đó, vì e dè một cách vô lí thế nào, hắn đi thẳng. Tên kia, thấy hắn lại rồi đi quá, lấy làm ngượng vì mình khóc; hắn xem trọng Bernard và khổ tâm tưởng là Bernard coi thường mình.
Bernard bước vào vườn Luxembourg. Đặt mình trên ghế, cũng cùng một góc vườn như buổi chiều nào hắn đến tìm Olivier xin tá túc. Không khí vừa âm ấm và trời xanh tươi cười qua đám cành đại thụ đã trụi lá. Ngỡ như gần sang đông thật rồi sao; chim chóc gật gù tính nhầm theo. Nhưng Bernard nào có ngắm công viên, hắn hình dung trước mặt biển đời mênh mông. Người ta bảo có những lối đi trên biển nhưng không được vạch ra, và Bernard chẳng biết đường mình.
Hắn trầm ngâm nãy giờ thì chợt thấy tiến lại gần hắn, tiến lướt thướt bằng cước bộ thật êm tưởng chừng như lướt trên sóng, một vị thiên thần. Bernard chưa hề trông thấy thiên thần nhưng không một thoáng do dự, và đến khi thiên thần bảo hắn “Lại đây”, hắn ngoan ngoãn đứng lên và đi theo. Giá như nằm mơ thì hắn cũng ngạc nhiên như thế này là cùng. Sau này hắn tìm cách hồi tưởng xem thiên thần có dắt tay mình không, nhưng thật ra thiên thần với hắn không chạm vào nhau và còn giữ một khoảng cách nho nhỏ là đàng khác. Cả hai trở lại sân trường, nơi Bernard đã bỏ rơi thằng bạn mồ côi, cả hai quyết ngỏ lời với nó, nhưng sân trường giờ này vắng tanh.
Bernard cất bước, thiên thần đi theo, hướng về ngôi nhà thờ của trường, thiên thần vào trước, Bernard thì chưa bao giờ vào đây. Nhiều thiên thần khác qua lại bên trong, nhưng Bernard không có mắt đặc cách để nom thấy. Không khí yên bình lạ lùng bao phủ người hắn. Thiên thần tiến lên chính điện và Bernard, khi hắn thấy thiên thần quỳ xuống, hắn quỳ theo bên cạnh. Hắn không tin thần linh nào hết, cho nên chi không cầu nguyện được, nhưng một nhu cầu dâng tặng, hi sinh xâm nhập lòng hắn, hắn dâng hiến. Cảm xúc quá rộn ràng, không diễn tả được, nhưng bỗng đâu tiếng đại phong cầm ngân vang.
- Trước đây con cũng hiến mình cho Laura, - thiên thần phán; và Bernard cảm thấy nước mắt ròng ròng trên má. - Nào, theo ta.
Bernard, trong khi thiên thần kéo hắn đi, suýt đâm đầu vào một thằng bạn cũ cũng vừa mới thi vấn đáp xong. Bernard xét nó là bợm nhác và ngạc nhiên thấy hắn đậu. Thằng bợm nhác không biết có Bernard, Bernard thì thấy nó dúi tiền vào tay ông từ để mua nến. Bernard nhún vai rồi bỏ đi ra.
Ra tới ngoài đường, hắn chợt phát giác rằng thiên thần đã bỏ đi mất. Hắn vào trong một tiệm thuốc lá, đúng cái tiệm Georges đã liều thử đồng tiền giả tám hôm trước. Và thêm nhiều đồng tiền khác cũng trót lọt sau đó. Bernard mua một gói thuốc và hút. Tại sao thiên thần bỏ đi? Không có gì để nói với nhau hay sao chứ?... Đồng hồ gõ mười hai giờ trưa. Bernard đói bụng. Trở về trường chăng? Đi gặp Olivier, cùng ăn trưa với Édouard?... Hắn yên tâm có vừa đủ tiền túi và bước vào tiệm ăn. Khi hắn ăn xong, một giọng nói êm ái thì thầm:
- Đã tới lúc tính toán sổ đời.
Bernard ngoái lại. Thiên thần lại đứng một bên, nói:
- Phải quyết định rồi đây. Con chỉ sống nổi trôi. Con để mặc cho ngẫu nhiên định đoạt đời con hay sao? Con muốn hữu ích cho một việc gì đó. Cần phải biết là việc gì.
- Xin ngài dạy con, dẫn dắt con, - Bernard đáp.
Thiên thần đưa Bernard vào một gian phòng đầy ắp người. Cuối phòng là một cái bục, trên đó là cái bàn phủ khăn màu huyết lựu. Ngồi sau bàn là một người trẻ tuổi, y nói:
- Tự hào khám phá ra một cái gì đó là một điều quá điên rồ. Cái gì của ta cũng đều là của cải được thừa hưởng. Mỗi người chúng ta, lúc còn trẻ, có bổn phận hiểu rằng mình tùy thuộc vào quá khứ và quá khứ đó câu thúc ta. Nó vạch trọn đường tương lai của chúng ta.
Y khai triển xong đề tài trên thì một diễn giả khác điền chỗ và mở đầu bằng lời tán đồng kẻ trước, kế đó lên giọng chống báng kẻ nào tự phụ cho rằng mình sống không theo học thuyết nào, hoặc tự mình dẫn dắt mình và noi theo nẻo sáng của riêng mình. Y nói:
- Học thuyết là cái mà ta thừa kế. Nó đã kinh qua bao thế kỉ. Tất nhiên nó hơn tất cả và độc đáo, mỗi người chúng ta có bổn phận chứng tỏ điều đó. Đó là học thuyết mà các bậc tiên sư của ta truyền thụ lại. Đó là học thuyết của xứ sở ta, hễ ta mạo phạm đến nó là phải trả đắt giá cho sự lỗi lầm của ta. Công dân tốt không thể thành tựu một việc gì tốt đẹp mà không nép mình vào đó.
Một diễn giả thứ ba tiếp theo sau, nói lời cảm tạ hai vị kia đã khéo vạch ra cái mà y gọi là lí thuyết của chương trình chung, kế đó xác định rằng chương trình đó bao hàm sự hồi sinh của nước Pháp không hơn không kém, âu cũng là nhờ nỗ lực của từng hội viên. Y tự vỗ ngực là người hoạt động, y xác nhận rằng mọi lí thuyết đều tìm thấy mục đích và minh chứng trong sự thực hành, và mỗi công dân Pháp xứng đáng đều có bổn phận là kẻ chiến đấu. Y nói thêm:
- Nhưng hỡi ôi! Bao nhiêu là lực lượng bị xé lẻ, bị thiệt thòi! Giá như lực lượng được hàng ngũ hóa, giá những công trình đều tôn trọng luật tắc, giá cá nhân tự chiêu tập, thì xứ sở sẽ lớn lao, công trình sẽ rạng rỡ, cá nhân sẽ sáng giá biết ngần nào.
Và trong lúc y tiếp tục, bọn trẻ tuổi bắt đầu qua lại giữa đám cử tọa, phân phát phiếu gia nhập, chỉ có việc áp chữ kí lên đó. Lúc bấy giờ thiên thần lên tiếng:
- Con đã muốn dâng hiến, còn chờ đợi gì nữa?
Bernard được đưa cho một mẩu giấy, hắn cầm lấy, nội dung bắt đầu bằng dòng chữ: “Tôi long trọng cam kết...” hắn đọc, rồi ngó thiên thần và thấy thiên thần mỉm cười, kế đó hắn nhìn đại hội, và nhận ra trong đám trẻ có tên tân khoa hồi nãy đã đốt nến tạ ơn trong nhà thờ trường Sorbonne; và bỗng nhiên, xa hơn một tí, hắn nhác thấy ông anh trưởng mà hắn chẳng gặp lại từ buổi bỏ nhà. Bernard chẳng yêu gì anh hắn và lại đố kị phần nào sự hậu hĩnh mà bố dường như dành cho anh. Hắn nóng nảy vò tấm phiếu:
- Ngài thấy con cần phải kí?
- Phải, điều tất nhiên, nếu con nghi ngờ chính con, - thiên thần đáp.
- Con hết nghi ngờ, - Bernard nói, hắn ném mẩu giấy ra xa.
Diễn giả vẫn còn nói. Lúc Bernard tiếp tục lắng nghe, thì y đang giảng dạy một phương cách chắc chắn không đời nào nhầm lẫn và đừng bao giờ đích thân phán đoán mà tốt hơn là luôn luôn phó cho thượng cấp phán đoán.
- Thượng cấp là những ai thế? - Bernard hỏi, và bỗng đâu một mối bất bình lớn tràn ngập người hắn. Hắn nói với thiên thần. - Nếu ngài leo lên bục rồi túm lấy ông kia, chắc ngài sẽ vật ngã...
Nhưng thiên thần cười khẽ:
- Ta có vật lộn là vật lộn với con chứ. Đêm nay, nhé?...
- Vâng, - Bernard đáp.
Hai người bỏ đi ra. Ra ngoài đại lộ. Đám đông dập dìu hình như chỉ gồm toàn kẻ giàu có, kẻ nào cũng ra vẻ tự tin, dửng dưng với bọn kia, nhưng dáng tư lự.
- Hình ảnh của hạnh phúc đó sao? - Bernard hỏi, hắn cảm thấy cõi lòng tràn nước mắt.
Tiếp theo, thiên thần đưa Bernard vào những khu vực nghèo nàn mà trước đó Bernard thừa biết cảnh khốn cùng. Hai người lang thang hồi lâu giữa đám nhà cao bẩn thỉu, nơi cư ngụ của bệnh hoạn, đĩ điếm, ô nhục, tội lỗi và đói kém. Đến bây giờ Bernard mới nắm lấy bàn tay của thiên thần, và thiên thần quay mặt đi mà khóc.
Bernard không ăn tối hôm đó, và khi trở về trường, hắn không tìm cách đến với Sarah, mấy hôm trước cũng thế, mà lên thẳng phòng ở chung với Boris.
Boris đã lên giường nằm nhưng chưa ngủ. Dưới ánh nến, hắn đang đọc lại lá thư của Bronja mà hắn nhận được hồi sáng nay. Bronja bảo hắn:
“Bronja sợ không bao giờ gặp lại Boris. Ở Ba Lan về, Bronja bị cảm hàn. Bronja ho, và dù bác sĩ giấu giếm, Bronja cảm thấy khó lòng sống lâu.
Nghe Bernard tiến lại, Boris giấu thư xuống gối và hối hả thổi tắt ngọn nến.
Bernard bước trong tối. Thiên thần vào phòng với hắn nhưng, dù bóng đêm không đen tối lắm, Boris chỉ trông thấy Bernard mà thôi. Bernard hỏi khẽ:
- Ngủ hả?
Và vì Boris không lên tiếng, Bernard nghĩ rằng hắn ngủ.
- Nào, bây giờ chỉ có ngài với con, - Bernard nói với thiên thần.
Và suốt đêm cho đến hừng sáng, cả hai vật lộn với nhau.
Boris lờ mờ nom thấy Bernard vật vã. Hắn ngỡ đó là lối cầu nguyện của Bernard và không dám can dự vào. Hắn vẫn muốn ngỏ lời với Bernard vì hắn cảm thấy khổ quá. Thức dậy, hắn quỳ xuống chân giường. Hắn muốn cầu nguyện, nhưng chỉ nức nở được mà thôi:
- Bronja ơi, Bronja thấy được thiên thần, Bronja phải làm cho Boris tỉnh ngộ, mà bây giờ Bronja bỏ Boris. Không có Bronja, Boris ra làm sao đây? Boris ra làm sao đây?
Bernard với thiên thần quá bận rộn, không nghe tiếng Boris. Cả hai vật lộn tới bình minh. Thiên thần rút lui mà không ai là kẻ thắng cuộc.
Sau đó, khi đến lượt Bernard ra khỏi phòng, hắn chạm đầu Rachel ngoài hành lang.
- Tôi có việc nói với anh.
Giọng nàng quá buồn bã khiến Bernard hiểu ngay những lời nàng muốn nói. Hắn không đáp, cúi đầu, và bởi xót xa vô cùng cho Rachel, hắn bỗng đâm ra ghét Sarah và lấy làm ghê tởm cho cuộc vui vầy mà hắn đã hưởng với Sarah.
* * *
XIV
Lối mười giờ, Bernard đến Édouard với chiếc xắc tay đủ để đựng ít áo xống, vải bô và sách mà hắn có. Hắn đã cáo từ cụ Azaïs và bà Vedel, nhưng không tìm cách gặp lại Sarah.
Bernard nghiêm trọng. Cuộc vật lộn với thiên thần đã làm hắn chín chắn. Hắn không còn là hình ảnh của tên đánh cắp va li một cách vô tâm và chỉ tưởng ở đời chỉ có việc dám làm là đủ. Hắn bắt đầu hiểu rằng sự dám làm lắm khi chỉ mưu cầu hạnh phúc cho kẻ khác. Hắn nói với Édouard:
-Tôi đến xin tá túc với ông. Bây giờ vô gia cư một lần nữa.
- Sao lại bỏ trường?
- Lí do riêng... xin phép ông cho tôi giữ kín.
Édouard, buổi tối dạ tiệc, đã quan sát Bernard với Sarah khá đủ để hiểu phỏng chừng sự im lặng đó. Chàng cười nhẹ, nói:
- Được rồi. Cái đi văng trong phòng xưởng của tôi để cho anh nằm. Nhưng trước hết, tôi phải nói rằng là bố của anh có đến nói chuyện với tôi hôm qua.
Rồi chàng thuật lại một đoạn trong buổi chuyện trò mà chàng xét là diệu dụng bắt hắn xúc động.
- Anh nên ngủ lại đêm nay không phải là ở đây mà là ở đàng kia. Bố anh chờ anh.
Bernard vẫn lặng thinh. Cuối cùng hắn bảo:
- Tôi sẽ nghĩ lại. Trong khi chờ đợi, cho phép tôi để các thứ này ở đây. Tôi thăm Olivier được không?
- Trời đẹp quá nên tôi giục nó đi ra ngoài. Tôi đã muốn đi theo nó vì nó còn yếu lắm, nhưng nó muốn đi một mình. Nó đi được một tiếng đồng hồ rồi đấy và sẽ về bây giờ. Anh đợi nó... Nhưng, coi nào... còn thi cử của anh?
- Tôi đậu rồi, không quan trọng gì mấy. Điều quan trọng là tôi sẽ làm gì bây giờ. Ông biết cái gì ngăn tôi trở về nhà hơn cả không? Tôi không thích tiền bạc ở nhà. Chắc ông cho tôi là thằng phi lí khinh bỏ dịp may này, nhưng đó là một lời hứa, tự hứa đừng cần khoản đó. Tôi cần chứng tỏ với lòng rằng mình là một kẻ giữ lời có thể trông cậy vào chính tôi.
- Tôi thấy đó là lòng kiêu căng đấy thôi.
- Ông gọi bằng danh từ nào tùy thích: kiêu căng, huênh hoang, tự mãn... Cái tình cảm sinh động bên trong con người tôi, trước mắt tôi, ông không làm nó nhụt được. Nhưng bây giờ, đây là điều tôi muốn biết: muốn định hướng trong đời sống, có cần để mắt chăm chăm vào một mục đích hay không?
- Anh nói rõ hơn.
- Tôi đã tranh biện điều đó suốt đêm. Cái sức lực mà tôi cảm thấy trong người tôi, nó dùng vào việc gì? Làm thế nào nắm được sở trường của mình? Bằng cách lấy một mục đích mà định hướng chăng? Thế nhưng cái mục đích ấy, làm thế nào chọn? Làm thế nào biết, suốt thời gian chưa đạt tới mục đích đó?
- Sống vô mục đích, chính là phó mặc rủi may định đoạt đời mình.
- Tôi ngại ông không hiểu rõ tôi. Khi Christophe Colomb khám phá Mỹ châu, nào có biết mình trôi dạt đến đâu? Mục đích của ông là đi về phía trước, thẳng về trước. Mục đích của ông, chính là ông, và ông phóng bản thân về phía trước...
Édouard ngắt lời:
- Tôi vẫn thường hay nghĩ rằng, trong lãnh vực nghệ thuật, và đặc biệt là văn học, chỉ có những kẻ lao thân vào điều chưa biết trước là những kẻ đáng kể mà thôi. Không chịu lạc mất bến bờ, lúc ban đầu và suốt một thời gian dài, thì không khám phá ra đất mới. Nhưng những nhà văn của ta sợ ra khỏi, chỉ toàn những kẻ ôm men bờ.
Bernard, không nghe, nói tiếp:
- Hôm qua, ra khỏi trường thi, không hiểu ma quỷ nào xúi tôi bước vào một phòng họp. Vấn đề được thảo luận là vấn đề danh dự quốc gia, hết lòng với Tổ quốc, nhiều vấn đề khác nữa làm tôi bừng bừng. Thiếu chút nữa là tôi kí tên vào mẫu giấy trên đó tôi hứa danh dự phải đem hoạt động của tôi ra phục vụ cho một chính nghĩa hẳn nhiên có vẻ cao đẹp.
- Mừng cho anh không kí tên. Nhưng cái gì khiến anh chùn tay?
- Có lẽ một linh tính thầm kín nào đó...
Bernard suy nghĩ một hồi, rồi cười nói tiếp:
- Chắc là vì bộ mặt những người gia nhập nhiều hơn cả, bắt đầu bằng bộ mặt ông anh cả của tôi mà tôi nhận ra trong cử tọa. Tất cả bọn trẻ đó có vẻ được nung nấu bằng những tình cảm đẹp nhất đời và họ đã khôn khéo từ bỏ ý định ban đầu, vì đầu óc họ không dẫn dắt họ đi xa, vì đầu óc họ kém cỏi và vì sự độc lập về tinh thần của họ chóng rơi vào bế tắc. Tôi cũng tự nhủ rằng may mắn cho nước nhà, giữa đám công dân, có được nhiều ý chí ẻo lả tốt đẹp như thế, nhưng còn ý chí của tôi thì không đời nào giống như thế. Lúc bấy giờ tôi mới tự hỏi làm thế nào đặt định ra một luật tắc, bởi tôi không chấp nhận sống vô luật tắc, và tôi không chấp nhận một luật tắc nào của ai.
- Tôi thấy dễ giải đáp: là phải tìm ra luật tắc đó ngay tự bản thân, phải lấy sự khai triển bản thân làm mục đích.
- Phải, chính đó là điều mà tôi tự nhủ. Nhưng nếu thế thì chẳng tiến bộ được gì hơn. Vạn nhất tôi tin chắc mình thích cái gì khá hơn cả trong con người mình thì đã may, thì tôi đã để cho nó lấn lướt những cái còn lại. Đàng này, cái gì khá hơn cả, chính tôi cũng không biết nổi... Tôi đã tranh biện suốt đêm, như tôi nói. Sáng ra, tôi mệt mỏi quá đến nỗi tôi nghĩ đến chuyện trốn nợ trước giờ điểm danh lớp học của tôi.
- Trốn tránh vấn đề đâu phải là giải quyết vấn đề.
- Tôi đã tự nhủ như thế, và vấn đề dù có khất lại vẫn sẽ đặt ra lại một cách trầm trọng hơn sau buổi nghỉ việc của tôi mà thôi. Nên chỉ tôi đến tìm ông nghe lời khuyên bảo.
- Tôi chẳng khuyên bảo gì anh. Lời khuyên, anh chỉ có thể tìm thấy ở nơi anh, và anh cũng chỉ có thể học cách sống bằng cách chính anh sống.
- Thảng hoặc tôi sống sai lầm, trong khi chờ đợi quyết định một cách sống, thì làm thế nào?
Chính điều ấy sẽ dạy cho anh. Đi theo triền dốc của mình là một điều tốt chứ sao, miễn là đi ngược lên.
- Ông nói đùa?... Không, chắc tôi hiểu ông, và tôi chấp nhận cái công thức đó. Nhưng mà, trong khi phát triển con người tôi, như ông nói, thì tôi phải tìm sinh kế. Có một lời rao chói chang đăng trong báo, ông xem thử thế nào: “Thanh niên tương lai xán lạn, có thể sử dụng vào bất cứ việc gì.”
Édouard bật cười.
- Không có gì khó đạt được cho bằng bất cứ việc gì. Xác định lại thì dễ hơn.
- Tôi nghĩ đến kẻ làm một mớ công việc liên lạc nho nhỏ trong tổ chức một nhật báo lớn. Ồ! Một vai phụ tôi cũng chấp nhận: thầy cò, đốc công... gì gì đó biết đâu? Tôi cần chỉ ít ỏi thôi!
Hắn nói ngập ngừng. Thật ra, điều hắn mong mỏi là một vai thư kí, nhưng hắn ngại nói ra với Édouard, vì người này trót mất hi vọng ở người kia. Dù sao, lỗi không phải ở Bernard, nếu sự toan tính làm thư kí của hắn có thất bại thảm hại như ta đã thấy.
Édouard bảo:
- May ra tôi có thể tiến cử anh vào tờ Đại Nhật Báo, tôi có quen biết ông chủ nhiệm.
Trong khi Bernard với Édouard chuyện trò thì Sarah mở một màn giảng giải cực kì gay cấn với chị Rachel. Sarah chợt hiểu rằng những lời khuyến cáo của Rachel là nguyên nhân của sự bỏ đi đột ngột của Bernard, và nàng giận chị. Chị đâu có quyền buộc ai nấy phải đạo hạnh, mà cái đạo hạnh đó, chính cái gương của chị đã đủ làm cho nó hoen ố.
Rachel lảo đảo theo những lời buộc tội trên đây, bởi nàng là người luôn luôn xả kỉ, nàng chống chế, mặt mày tái bệch và môi thì run rẩy:
- Chị không thể để cho em hư hỏng.
Nhưng Sarah nức nở to tiếng:
- Tôi không tin cái thiên đàng của chị. Tôi không muốn được cứu rỗi gì hết.
Nàng tức tối quyết định bỏ đi Anh lần nữa, bên đó có bạn gái tiếp đón. Vì “dù sao, nó là đứa con gái phóng túng và muốn sống sao thì sống”. Cuộc đấu khẩu não lòng trên đây làm Rachel tan nát.
* * *
XV
Édouard đã thận trọng đi đến trường nội trú trước khi học sinh trở về. Chàng chưa gặp lại cụ La Pérouse kể từ ngày khai giảng và chính ông là người mà chàng muốn ngỏ lời trước hết. Vị giáo sư dương cầm tuổi tác đem hết sức mình ra trang trải nhiệm vụ mới của mình là làm giám thị, nói như thế có nghĩa là làm thật chật vật. Ban đầu ông cố sức làm cho trẻ yêu mình, nhưng ông thiếu mất cái uy, bầy trẻ lạm dụng, ông rộng lượng thì chúng cho là ông yếu đuối rồi đâm ra lộng hành lạ lùng. Ông cụ rồi đây sẽ gắng sức nghiêm trị, nhưng quá muộn; những lời răn đe, dọa nạt, khiển trách của ông chỉ tổ làm cho học sinh bất mãn một cách dứt khoát đối với ông. Ông nói lớn tiếng ư, chúng nó cười khặc khặc; cụ đấm bàn rầm rầm, chúng nó vờ la lối sợ hãi; chúng nó nhại ông, gọi bằng “cụ Mụ”; từ bàn này sang tới bàn nọ, những tấm hí họa hình ông được chuyền tay, ông vốn người nhu mì thế kia, mà hình ông lại được phác họa hung dữ, võ trang súng lục to tướng (khẩu súng này, chính Ghéridanisol, Georges và Phiphi đã khám phá ra được nhân một chuyến lục lạo trộm trong buồng của ông), đang sát hại vô số học sinh; hoặc là, quỳ gối trước mặt học sinh, chấp tay lại, cầu khẩn, giống như mấy ngày đầu: “Xin im lặng giùm cho một tí.” Tưởng chừng như, giữa bầy chó săn, con nai già tội nghiệp đã cùng đường. Những điều xảy ra trên đây, Édouard không hay.
NHẬT KÍ Édouard
Cụ La Pérouse tiếp tôi trong một căn phòng nhỏ ở tầng trệt, tôi quen biết nơi này, đó là gian phòng kém nhất của cơ ngơi. Đồ đạc chỉ có bốn chiếc ghế dài đính với bốn cái bàn hộc, ngó lên một tấm bảng đen, và một chiếc ghế dựa bằng rơm, ông bắt tôi ngồi lên đó. Ông cụ ngồi gập trên ghế dài, nghiêng mình, sau khi hoài công gắng đút hai chân quá dài của mình xuống hộc bàn.
- Không, không. Tôi thế này là được lắm rồi, tin tôi.
Và âm sắc trong giọng nói, vẻ mặt của ông, nói lên điều này: “Tôi thế này thì khổ quá, và tôi mong ai cũng thấy rõ cho, nhưng tôi thích thế này, và tôi càng khổ, anh sẽ càng ít nghe tôi than van.”
Tôi gượng bông đùa, nhưng không làm cho ông cụ cười nổi. Ông vờ ra vẻ lễ mễ và như thể trịnh trọng, cốt để giữ khoảng cách giữa chúng tôi và thầm cho tôi hiểu: “Vì anh mà tôi phải ở đây”.
Thế mà ông bảo rất hài lòng mọi thứ; hơn thế nữa, ông tránh né những câu hỏi của tôi và bực mình vì thái độ nằng nặc của tôi. Tuy nhiên, khi tôi hỏi buồng của ông nằm ở đâu, ông bỗng bật giọng:
- Hơi xa nhà bếp quá.
Và bởi tôi kinh ngạc:
- Có khi, ban đêm, tôi cần ăn... khỉ ngủ không xuống.
Tôi ngồi một bên ông, tôi xích lại gần hơn và đặt nhẹ tay lên tay ông. Ông lại nói, giọng tự nhiên hơn.
- Phải nói rằng tôi mất ngủ lắm. Lúc nào thiếp đi, tôi vẫn không mất cái cảm giác về giấc ngủ. Như thế đâu hẳn là ngủ, phải không? Ngủ thật thì chẳng cảm thấy mình ngủ, chỉ đến khi thức dậy thì mới nhận ra là mình có ngủ.
Tiếp theo, vẫn dai dẳng tãn mãn tỉ mỉ, ông bổ người về phía tôi:
- Có khi tôi thử tin rằng mình nhầm và tôi cũng có ngủ thật đấy chứ, thế mà vẫn tưởng không ngủ. Nhưng bằng chứng rằng tôi không ngủ thật, là, nếu tôi muốn mở mắt ra lại là tôi mở. Thường thường thì tôi chẳng có muốn như thế. Anh hiểu, làm như thế có lợi gì đâu, nhỉ? Hà tất chứng minh với chính mình rằng mình không ngủ? Tôi luôn luôn giữ cái hi vọng được ngủ thiếp đi bằng cách tự thuyết phục là mình đã ngủ quên...
Ông nghiêng người thêm nữa, và nhỏ giọng hơn.
- Với lại, có cái này nó làm rầy tôi. Anh đừng tiết lộ nhé... Tôi không phàn nàn về điều này, nhưng vô phương, mà cái gì không thể đổi thay, thì phàn nàn cũng bằng thừa... Anh tưởng tượng, sát giường tôi, trong tường, ở chính chắn ngay đầu tôi, có một cái gì đó gây ra tiếng động.
Ông nóng người lên khi nói như thế. Tôi đề nghị ông đưa tôi đến buồng của ông. Ông vụt đứng dậy, nói:
- Phải! Phải! Chắc anh có thể nói cho tôi biết là cái gì... Tôi thì không hiểu nổi. Anh đi với tôi.
Chúng tôi leo hai tầng lầu, rồi dọc theo một hành lang khá dài. Tôi không hề léo hành đến chốn này.
Buồng của cụ La Pérouse mở cửa ra đường. Buồng nhỏ nhưng nhã. Tôi nhận thấy trên chiếc bàn kê ở đầu giường, cạnh cuốn sách kinh, cái hộp đựng súng lục mà ông lì lợm mang theo. Ông nắm lấy tay tôi, rồi xê dịch nhẹ cái giường:
- Này, đấy... Anh áp sát vào tường... Anh nghe không?
Tôi lắng tai và chăm chú hồi lâu. Nhưng dù thiện chí nhất đời vẫn chẳng phân biệt được cái gì hết. Ông cụ La Pérouse lấy làm giận. Giữa lúc này một chiếc xe cam nhông chạy qua, làm rung động cả ngôi nhà và lung lay cửa kính.
Tôi bảo, mong giải tỏa tức bực cho ông cụ:
- Giờ này, tiếng động nhỏ nào làm thầy khó chịu cũng bị lấp theo tiếng huyên náo của đường sá thôi...
Ông cụ hung hăng quát:
- Lấp với anh đấy, vì anh đâu có biết phân biệt tiếng động đó với tiếng động khác. Tôi ư, tôi vẫn nghe. Không muốn vẫn tiếp tục nghe. Có khi quá trí, tôi tự hứa đem ra nói với ông Azaïs hay nói với chủ nhân... Ấy! Không phải muốn nhờ người ta dẹp tắt tiếng động đâu... Nhưng tôi muốn, ít ra, biết xem đó là cái gì.
Cụ hình như nghĩ ngợi một lát, rồi nói tiếp:
- Có thể nói là tiếng gặm nhấm. Tôi đã thử đủ cách để khỏi nghe. Xê giường rời khỏi tường. Nhét bông gòn vào tai. Treo chiếc đồng hồ quả quýt (anh thấy đấy, tôi có đóng chiếc đinh nhỏ kia kìa), ngay ngắn vào chỗ cái ống thông, tôi đoán như thế, để cho tiếng tích tắc của đồng hồ trùm mất tiếng động kia... Nhưng lúc bấy giờ tôi còn mệt hơn, vì buộc phải cố sức để nhận ra tiếng động kia. Phi lí, nhỉ? Nhưng tôi vẫn muốn nghe cho ra, vì tôi vẫn biết nó có đấy... Trời! Đáng lẽ không nên kể cho anh nghe. Anh thấy, tôi chỉ còn là một lão già.
Ông ngồi xuống thành giường như ngẩn ngơ. Sự sa sút trầm trệ của tuổi tác, trong trường hợp cụ La Pérouse, tác hại đến trí năng thì ít mà tác hại thâm trầm đến tính khí. Con sâu lọt vào giữa trái, tôi nghĩ thế, khi trông thấy cụ, là người rất ư vững vàng và kiêu hãnh trước đây, nay ngả lòng theo một nỗi thất vọng trẻ con. Tôi lập tâm lôi kéo ông cụ ra khỏi đó bằng cách đề cập đến Boris. Ông ngước đầu lên, bảo:
- Phải, phòng nó gần phòng tôi. Tôi sẽ chỉ cho anh. Anh đi theo tôi.
Ông dẫn cho tôi trong hành lang và mở cửa kế bên.
- Cái giường mà anh trông thấy kia là giường của thằng Bernard Profitendieu, (Tôi xét thấy không cần cho cụ biết rằng Bernard, ngay từ hôm nay trở đi, sẽ hết ngủ ở đó.) - Cụ nói tiếp, - Boris vừa ý được có Bernard làm bạn và chắc hai đứa ăn ý nhau lắm. Nhưng, anh biết, cháu tôi chẳng nói năng gì nhiều với tôi. Nó rất khép kín... Sợ tâm tình thằng nhỏ hơi khô khan.
Ông nói thật buồn bã khiến cho tôi quyết cãi lại mà bảo đảm cho tình cảm của cháu ông. Ông bảo:
- Nếu thế thì nó có thể chứng tỏ nhiều hơn một chút nữa. Chẳng hạn, thế này, buổi sáng, khi nó đến trường với bạn bè, tôi nhoài ra cửa sổ để nhìn nó đi qua. Nó biết thế... Thế mà nó không ngoái lui!
Tôi muốn thuyết phục ông rằng có lẽ Boris ngại làm trò cho bạn bè và sợ chúng nó chế giễu; nhưng đúng lúc này, tiếng náo động từ dưới sân vọng lên.
Cụ La Pérouse nắm lấy tay tôi, và lạc giọng:
- Anh nghe! Anh nghe! Bọn chúng đi học về.
Tôi nhìn ông. Ông run lật bật hoàn toàn. Tôi hỏi:
- Bọn nhãi con bắt thầy sợ chăng?
Ông ấp úng đáp:
- Đâu có, đâu có, làm sao lại tưởng như thế...
Cụ nói tiếp.
Kế, ông nói thật lẹ:
- Tôi phải đi xuống mới được. Ra chơi chỉ có mấy phút, mà anh biết tôi giám thị cho chúng học tập. Chào anh. Chào anh.
Ông cụ lao ra hành lang không kịp bắt tay tôi. Một lát sau, tôi nghe tiếng ông vấp ở cầu thang. Tôi lắng nghe giây lát, vốn không muốn đi ngang qua trước mặt bọn học sinh. Tiếng bọn chúng hò reo, cười, hát. Kế đó là tiếng chuông, và bỗng lặng im.
Tôi quá bộ thăm cụ Azaïs và được cụ cho mấy chữ cho phép Georges rời phòng học đến nói chuyện với tôi. Chẳng mấy chốc nó đến gặp tôi ngay trong cùng một căn phòng nhỏ, nơi cụ La Pérouse thoạt tiên tiếp tôi.
Ngay khi đứng lên trước mặt tôi, Georges cho là mình nên giữ một vẻ khinh khỉnh. Đó là cách che lấp lúng túng của nó. Nhưng tôi không dám chắc, giữa nó và tôi, ai mắng mỏ. Tôi thấy hình như nó tìm cách thu góp, mau lẹ chừng nào hay chừng đó, những khí giới khả dĩ chống đỡ lại tôi, chẳng thế mà, ngay trước khi tôi mở lời, nó hỏi tôi tin tức về Olivier bằng một giọng bỡn cợt làm tôi muốn tát nó quá. Tôi nhường nhịn nó. “Với lại, cậu biết nhé, cháu đâu có sợ cậu”, hình như đó là lời nói tiết ra từ ánh mắt mai mỉa, từ cái nếp nhăn khinh khỉnh ở môi nó và từ âm sắc giọng nói nó. Tôi nao núng ngay và chỉ lo sao đừng để lộ điều này. Những lời lẽ định đem ra thuyết giảng của tôi bỗng như mất hết ý nghĩa. Tôi không đủ uy tín để thủ vai ông giám học. Bên trong, Georges bắt tôi vui lây nhiều quá đi mất. Mãi sau, tôi mới bảo:
- Cậu đến không phải để rầy rà cháu, cậu chỉ muốn cảnh báo cháu.
- Mẹ phái cậu đến, phải như thế không đã?
- Phải mà không phải. Cậu có nói chuyện cháu với mẹ cháu, nhưng đã cách đây mấy hôm. Hôm qua đây, có một nhân vật rất quan trọng có nói với cậu một chuyện rất quan trọng dính líu đến cháu. Một ông dự thẩm. Chính ông yêu cầu cậu đến đây. Cháu có biết ông dự thẩm là một ông như thế nào không?
Georges bất thần biến sắc, và dễ thường tim nó ngừng đập một thoáng. Nó nhún vai, phải, nhưng giọng nó hơi run:
- Cậu cứ cho ra tất cả những cái gì lão Profitendieu đã nói với cậu cho xong.
Sự nhanh nhảu của thằng nhỏ làm tôi rã rời. Có lẽ nếu nói thẳng sự việc thì giản dị hơn, nhưng thật ra trí óc tôi đi ngược lại với điều gì giản dị hơn cả và nhất quyết tập kích vào điều quanh co. Để giải thích một lối xử sự, mà ngay liền sau đó tôi thấy như là phi lí, tuy là lối xử sự nhặm lẹ, tôi có thể nói rằng cuộc đàm luận cuối cùng của tôi với Pauline đã tác dụng rất nhiều đối với con người tôi. Những suy nghiệm mà tôi rút tỉa ra từ đó, tôi lập tức đổ vào cuốn truyện dưới hình thức một đoạn đối thoại rất thích hợp cho một số nhân vật của tôi. Tôi hiếm khi hưởng dụng trực tiếp một cái gì của đời sống, nhưng lần này, câu chuyện li kì của Georges giúp cho tôi, tưởng chừng truyện của tôi chờ đợi đoạn đó, bởi lẽ, đem đoạn đó vào, thật là đúng chỗ, chỉ phải biến đổi một vài chi tiết mà thôi. Nhưng câu chuyện li kì đó (tôi muốn nói những vụ cắp vặt của nó), tôi không trình bày thẳng. Người ta chỉ thấy câu chuyện lấp ló, còn những gì xảy ra sau đó thì thấy qua những đoạn đàm thoại. Tôi đã ghi lại những mẫu đàm thoại này vào một cuốn sổ tay mà tôi thủ ngay ở trong túi. Ngược lại, câu chuyện về bạc giả, mà ông Profitendieu tường thuật lại cho tôi thì hình như không dùng được gì đối với tôi. Và có lẽ vì thế nên chỉ, thay vì để cập ngay đến điểm đó với Georges, tôi nói quanh. Tôi bảo:
- Trước hết, cậu muốn cháu đọc mấy dòng này. Cháu sẽ hiểu lí do.
Rồi tôi đưa cho nó cuốn sổ tay mở sẵn ở trang khả dĩ lưu ý nó.
Tôi xin nói lại: cử chỉ trên đây của tôi, bây giờ đây, tôi thấy nó có vẻ phi lí. Tuy nhiên, trong truyện của tôi, chính tôi nghĩ nên cảnh giác nhân vật trẻ tuổi nhất của tôi bằng cách bắt nó đọc như thế. Tôi cần biết phản ứng của Georges, tôi hi vọng phản ứng này sẽ có thể mách bảo cho tôi ngay cả về... và phẩm chất của những điều tôi viết.
Tôi sao lại đoạn đó:
Bên trong thằng nhỏ đó, có cả một vùng âm u lôi cuốn tính hiếu kì thiện cảm của Audibert. Dù thằng Eudolfe ăn cắp mặc lòng, biết điều đó vẫn chưa đủ; chàng mong muốn Eudolfe thuật lại tại làm sao nó đi đến nước đó và nó cảm nghĩ thế nào khi ăn cắp lần đầu. Vẫn biết, thằng nhỏ, dù an tâm, có lẽ không làm sao biết cách diễn đạt. Mà Audibert thì không dám cật vấn, sộ dẫn dụ nó trả lời gian dối.
Một buổi tối nọ, Audibert cùng ăn với Hildebrant, chàng đem trường hợp Eudolfe ra nói, vẫn không chỉ đích danh nó, và sắp xếp sự kiện làm thế nào cho người bạn đừng nhận ra nổi. Hildebrant mới bảo:
- Anh không thấy sao, những hành động quyết định nhất của đời mình, tôi muốn nói: những hành động có cơ quyết định trọn vẹn tương lai của mình hơn cả, lắm lúc là những hành động lếu láo?
- Tôi tin lắm chứ, - Audibert đáp. - Đó là con tàu chuyên chở mình mà mình không để ý, mà mình không tự hỏi nó đưa mình đến đâu. Thậm chí, rất nhiều khi, hiểu ra thì đã quá chậm, không leo xuống tàu được nữa.
- Nhưng cũng có cái thằng nhỏ nào đó tuyệt nhiên không muốn leo xuống cũng nên?
- Có lẽ nó chưa muốn leo xuống. Nó đang buông xuôi. Cảnh vật làm nó vui, đi đâu chẳng quan hệ gì mấy.
- Anh sẽ giảng đạo đức cho nó chăng?
- Điều đó thì nhất định không. Vô ích. Nó chán mứa đạo đức, và đến độ nôn mửa.
- Tại sao nó ăn cắp?
- Tôi không biết đích xác. Nhất định không phải vì cần thật sự. Nhưng là để ứng cho mình một số lợi điểm nào đó, để khỏi thua sút bạn bè giàu có hơn... hay gì đó không hiểu. Vì một khuynh hướng bẩm sinh và vì thích ăn cắp thế thôi.
- Tệ hại là chỗ đó.
- Đấy! Bởi nếu quả như thế thì nó lại tái diễn.
- Nó thông minh không?
- Lâu nay tôi ngỡ nó kém thông minh hơn mấy thằng anh nó. Nhưng bây giờ tôi e mình nhầm và ấn tượng lệch lạc của tôi là do nó chưa ý thức được cái khả năng của mình. Tính hiếu kì của nó cho đến nay, đi lệch đường; hay nói cho đúng hơn, dừng lại ở trạng thái phôi thai, ở giai đoạn tò mò tọc mạch.
- Anh sẽ nói với nó?
- Tôi dự tính làm cho nó so đo giữa cái lợi nhỏ là những cái nó ăn cắp và, đàng khác, những điều mất mát, do tính bất lương của nó, là lòng tin của những người thân, tình nghĩa của họ, của tôi nữa... bao nhiêu thứ không thể diễn bằng con số mà ta chỉ có thể ước lượng giá trị bằng cái nỗ lực ghê gớm của ta về sau để chuộc lại bấy nhiêu thứ. Có nhiều người suốt đời hao mòn theo đó. Tôi sẽ bảo nó, nó còn quá nhỏ không nhận ra: gần nó là bao nhiêu nghi ngờ đổ lên đầu nó. Có thể nó sẽ thấy mình bị buộc vào những tội trầm trọng không thể bào chữa. Những điều nó đã làm sẽ điểm chỉ nó. Nó, như cái tiếng người đời bảo, là thằng “hết thời”. Tóm lại, những điều tôi muốn nói với nó... Nhưng tôi ngại nó cãi lại.
- Anh muốn nói với nó cái gì?...
- Rằng là hành động của nó tạo ra một tiền lệ, và nếu lần đầu ăn cắp nó có cần phải quyết tâm, thì trong những lần sau, chỉ có mỗi một việc là nhượng bộ sự lôi cuốn. Mọi việc xảy ra về sau chỉ còn là một sự buông thả... Tôi muốn nói với nó, là, lắm khi, hành vi đầu tiên của mình, mà ta làm hầu như không để ý, nó vẽ ra nét mặt của ta, không sửa đổi được nữa, và bắt đầu kẻ ra một nét mà sau này bao nhiều nỗ lực của ta không sao xóa nổi. Tôi muốn... nhưng tôi, không biết cách nói.
- Sao anh không chép lại những lời lẽ tối hôm nay? Anh đưa cho nó đọc?
- Cũng là một ý kiến, - Audibert đáp. - Tại sao không, nhỉ?
Tôi nhìn theo Georges suốt thời gian nó đọc, nhưng mặt nó không để lộ điều gì mà nó có thể nghĩ.
- Cháu có nên đọc tiếp? - Nó hỏi, chực lật trang giấy.
- Không cần, đối thoại kết thúc ở đó.
- Đáng tiếc thật.
Nó trả cuốn sổ tay, và bằng một giọng gần như vui thú:
- Cháu thích biết Eudolfe trả lời ra sao sau khi đọc xong cuốn sổ tay.
- Chính thế, chính cậu chờ đợi biết xem sao.
- Eudolfe là một cái tên lố bịch. Cậu không đặt tên khác được sao?
- Không quan trọng.
- Nó trả lời được gì cũng chẳng quan trọng. Sau đó nó ra làm sao?
- Cậu không rõ. Điều đó là tùy nơi cháu. Chưa biết.
- Nghĩa là, nếu cháu hiểu đúng ý cậu, thì chính cháu phải giúp cậu viết tiếp. Nhưng mà, cậu hãy thú thật rằng là..
Nó ngừng lại, như thể khó khăn diễn tả ý mình. Tôi khích lệ nó:
- Rằng là sao?
- Cậu hãy thú thật rằng là, - cuối cùng nó nói tiếp, - cậu sẽ bị mắc lỡm nếu như thằng Eudolfe...
Nó lại ngừng nói. Tôi tưởng chừng nghe ra ý nghĩ của nó và nói nối theo giúp nó:
- Nếu như nó trở nên một thằng lương thiện?… Không, cháu ạ.
Và bỗng nhiên nước mắt dâng lên mắt tôi. Tôi đặt tay lên vai nó. Nhưng nó lách người ra:
- Bởi vì, nói cho cùng, nếu nó không ăn cắp thì cậu đã không viết ra bấy nhiêu đó.
Đến đây tôi mới hiểu ra lỗi lầm của mình. Bên trong Georges nhận thấy mát dạ đã bắt tôi bận tâm đến nó hồi lâu. Nó cảm thấy mình đáng mặt. Tôi đã quên bẵng ông Profitendieu, chính Georges làm tôi sực nhớ lại.
- Ông dự thẩm của cậu kể gì cho cậu đấy?
- Ông nhờ cậu cảnh cáo cháu rằng ông biết cháu cho lưu hành những đồng tiền giả...
Georges lại biến sắc. Nó hiểu hà tất chối cãi, nhưng gượng nói:
- Không phải chỉ có cháu.
-...Và nếu các người không ngừng ngay vụ lậu đó, - tôi nói tiếp, - thì ông buộc lòng tóm các người, cháu với bọn bạn.
Georges, lúc đầu, mặt tái hẳn ra. Bây giờ má nó ửng đỏ. Nó nhìn chăm chăm trước mặt và chân mày nhíu lại làm hằn lên hai nếp nhăn ở chân trán.
Tôi bảo nó, vừa đưa tay ra bắt:
- Thôi, chào. Cậu khuyên cháu cảnh cáo bọn bạn luôn. Phần cháu, nhớ lấy.
Nó lặng lẽ bắt tay tôi, rồi trở về học không nhìn lại.
Đọc lại những trang Bọn làm bạc giả mà tôi đưa cho Georges xem, tôi thấy hơi dở. Tôi sao lại y như Georges đã được đọc, nhưng trong chương đó phải viết lại. Hiển nhiên, ngỏ lời với thằng nhỏ là điều hay hơn. Dĩ nhiên, đến độ đó, thằng Eudolfe (tôi sẽ đổi tên này, Georges có lí), khó đưa nó về lại sự lương thiện. Nhưng tôi muốn đưa nó về lại, và dù Georges nghĩ như thế nào, chính đó là điểm hay nhất, vì khó nhất. (Tôi lại nghĩ giống như Douviers mất rồi!) Hãy dành riêng sự buông xuôi cho bọn nhà văn tả chân.
Ngay khi trở về phòng học chung. Georges mách lại cho hai thằng bạn những lời cảnh cáo của Édouard. Những lời mà Édouard nói với hắn về chuyện ăn cắp lướt trên người hắn không làm hắn động tâm; nhưng còn những đồng tiền giả, vốn có thể bày ra những cái tai hại, nên dứt bỏ sớm chừng nào tốt chừng đó. Mỗi đứa có giắt sẵn mấy đồng và hứa hẹn sẽ thanh toán lần sắp tới khi đi ra khỏi đây. Ghéridanisol thu góp các đồng tiền và chạy đi thả xuống cầu tiêu. Ngay tối đó, hắn báo động cho Strouvilhou, thằng này cũng lập tức đề phòng.
* * *
XVI
Cùng chiều hôm đó, trong khi Édouard chuyện trò với cháu mình là Georges, thì Olivier, sau khi chia tay Bernard, tiếp đón Armand.
Armand Vedel khác hẳn ra, râu mày nhẵn nhụi, tươi vui, ngẩng cao đầu, bộ complet mới và bó sát người quá, có lẽ hơi chướng, hắn cảm thấy thế và để lộ cho người ta biết rằng hắn cảm thấy điều đó.
- Đáng lẽ tao đến thăm mày sớm hơn kia, nhưng tao lắm việc quá!... Mày rõ là nay tao làm thư kí cho Passavant chứ? Hay, nói rõ hơn: chủ bút tờ tập san do ông ta điều khiển. Tao sẽ không yêu cầu mày cộng tác, vì theo tao thấy hình như Passavant khá hận mày. Vả chăng tập san này tả khuynh rõ rệt. Nên chi bắt đầu bằng sự gạt bỏ Bercail cùng những bài thơ đồng quê của hắn.
- Mặc kệ tập san, - Olivier nói.
- Nên chi, ngược lại, tập san đón nhận bài Chậu đêm của tao, tiện đây nói luôn thể, nếu mày cho phép, bài thơ sẽ được đề tặng mày.
Mặc kệ tôi.
- Passavant lại còn muốn bài thơ tao đăng đầu số ra mắt, ông khen ngợi bài thơ tao quá làm cho tao vốn nhún nhường cũng khó lòng chống đỡ. Nếu tao tin chắc không làm mệt tai vừa khỏi bệnh của mày thì tao sẽ thuật lại buổi gặp mặt đầu tiên của tao với tác giả nổi tiếng của cuốn Cây đánh đu, mà tao trước đây chỉ biết qua mày thôi.
- Tôi nghe cậu vậy, biết làm gì hơn.
- Khó chịu khói thuốc không?
- Tôi cũng hút cho cậu yên tâm.
Armand châm điếu thuốc, bắt đầu:
- Phải nói rằng sự bỏ bê của mày đặt anh chàng bá tước vào tình thế hoang mang. Nói không phải nịnh nọt gì mày, chứ dễ dầu gì thay thế nổi cái mớ thiên tư, cái mớ đức tính, ưu điểm giúp cho mày thành ra một thứ...
- Nói tóm lại... - Olivier ngắt ngang, giọng nói mát nặng trịch của thằng bạn làm hắn ê ẩm.
- Nói tóm lại, Passavant cần một tay thư kí. Nhằm Passavant có quen một tên Strouvilhou nào đó, nhằm chính tao cũng biết tên này, vì tên này vừa là chú vừa là liên lạc viên của một thằng ở trường nội trú, nhằm thằng này quen với Jean Cob-Lafleur mà mày quen.
- Tôi không quen, - Olivier đáp.
- Nếu thế thì, mày, mày nên quen. Một tên lạ đời, tuyệt diệu, một loại bé con khô héo, nhăn nheo, chải chuốt, sống bằng rượu khai vị và hễ say là hắn làm thơ tuyệt tác. Mày sẽ đọc thơ hắn trong số ra mắt. Thế là Strouvilhou đặt điều phái hắn đến Passavant để chiếm chỗ của mày. Mày có thể tưởng tượng cảnh hắn bước chân vào khách sạn đường Babylone. Phải nói rằng hắn, Cob-Lafleur, mặc áo quần lấm lem, để phất phơ cả một mớ tóc bù xù xuống vai và có vẻ không tắm rửa gì tám ngày trước đó. Passavant là người tự hào luôn luôn điều khiển tình thế, chàng ta quả quyết là khoái thằng đó lắm. Cob-Lafleur khéo léo tỏ ra hiền, vui vẻ, lụt lịt. Hễ hắn muốn, là hắn có thể y hệt như anh chàng Gringoire của Banville(26). Nói tóm lại, Passavant tỏ ra xiêu lòng và sẵn chực mời hắn. Phải nói với mày rằng Lafleur không có một đồng xu... Tới lúc hắn đứng lên các từ: “Trước khi về, tưởng cũng nên báo trước cho bá tước biết là tôi có vài khuyết điểm.” - “Ai mà khỏi có khuyết điểm?” - “Và vài thói xấu. Tôi hút thuốc phiện.” “Không hề gì,” Passavant đáp, vẫn không nao núng, “Tôi có thứ tốt lắm để biếu anh.” - “Vâng ạ, nhưng mà hễ khi nào hút,” Lafleur nói tiếp, “tôi hoàn toàn quên khuấy mất khái niệm về chính tả.” Passavant ngỡ là lời nói đùa, gượng cười và đưa tay ra bắt. “Với lại, tôi dùng mê dược nữa.” - “Tôi đây thỉnh thoảng cũng có dùng,” Passavant bảo. - “Thế ạ, nhưng mà khi mê dược điều khiển tôi, thì tôi không ăn cắp không được.” Passavant bắt đầu thấy thằng nhỏ cóc kể gì mình, còn Lafleur, thì được thể, hung hăng nói tiếp, “Với lại, tôi uống ête, và lúc bấy giờ tôi xé nát, đập nát hết cả”, rồi hắn vớ lấy một chiếc lọ thủy tinh toan ném vào lò sưởi. Passavant giật lại: “Cảm ơn anh báo trước.” Rồi đuổi cổ hắn. Tiếp theo đó, Passavant trông chừng qua cửa sổ xem hắn bỏ đi có nhét chất nổ trong hầm nhà không.
Olivier, sau một hồi im lặng, hỏi:
- Nhưng tại sao thằng Lafleur của cậu lại làm thế? Theo như cậu nói thì hắn cần chỗ làm đó lắm mà.
- Mày ạ, cũng phải chấp nhận có những kẻ hành động ngược lại với quyền lợi chứ. Vả lại, mày muốn tao nói không: Lafleur... hắn lợm cho sự xa xỉ của Passavant, cái hào hoa của y, những bộ điều khả ái, sự chiều đãi, sự che đậy cái vẻ làm cao. Phải, những cái đó làm hắn ớn người. Và tao nói thêm là tao hiểu... tựu trung, nôn mửa được, anh Passavant của mày.
- Sao cậu bảo “Passavant của mày”? Cậu thừa biết tôi đã hết gặp con người đó. Thế tại sao cậu nhận việc, nếu cậu cho là Passavant đáng lợm đến thế?
- Chính tại vì tao thích cái gì làm cho tao lợm giọng... bắt đầu bằng cái thằng người thằng ngợm của tao, Vả lại, Cob-Lafleur là một thằng lụt lịt, nếu hắn không cảm thấy lúng túng thì hắn đã không thốt được những lời đó.
- Thì ra thế...
- Chứ gì nữa. Hắn lúng túng và ghê sợ phải cảm thấy lúng túng vì một kẻ mà thâm tâm hắn khinh bỉ. Chính vì cốt che đậy sự lúng túng mà hắn nói ào.
- Tôi thấy cái đó ngốc xuẩn.
- Cậu à, người ta không thông minh như cậu cả đâu.
- Cậu có nói với tôi như thế rồi, lần gặp sau cùng.
- Nhớ giỏi thế!
Olivier tỏ ra quyết tâm đương đầu. Hắn nói:
- Tôi cố gắng quên những lời giễu cợt của cậu. Nhưng lần gặp sau cùng, cậu mới nói chuyện nghiêm chỉnh với tôi. Câu có nói những lời mà tôi không làm sao quên.
Ánh mắt Armand ủ xuống, hắn gượng cười nói:
- Ồ, mày ạ, lần sau cùng đó, tao nói với mày đúng như ý mày muốn tao nói. Mày đòi một bản nhạc buồn, thế là, để chiều mày, tao đã chơi một khúc ngâm với tâm hồn quặn như trôn ốc kèm theo những giày vò kiểu Pascal... Biết làm sao giờ? Tao chỉ thành thật khi tao bông đùa.
- Cậu đừng bắt tôi tin là cậu không thành thật với những lời như hôm nọ. Chính bây giờ mới chơi đấy.
- Người đâu ngây thơ thế, rõ là tâm hồn thiên thần! Dễ thường mỗi chúng ta không chơi đấy ư, không chơi một cách ít nhiều thành thật, ít nhiều chủ ý đấy ư. Mày ơi, đời chỉ là một tấn hài kịch. Nhưng khác nhau chăng, giữa mày với tao, là tao biết tao chơi, trong khi...
- Trong khi... - Olivier hậm hực nhắc lại.
- Trong khi bố tao, chẳng hạn, là để khởi động đến mày, bố tao ấm ớ khi ông chơi trò mục sư. Tạo có nói gì hay làm gì, luôn luôn một phần của tao ở lại đàng sau mà nhìn phần kia trầm lụy, mà quan sát, bất sá, đả đảo hay hoan nghênh cái phần kia. Trót phân thân thế kia, làm sao thành thật cho được? Đến nước đường tao hết hiểu cái chữ đó có nghĩa là gì nữa. Chịu thôi: nếu tao buồn, tao thấy tao dị hợm, tao bật cười khi tao vui, tao làm trò hề ngốc xuẩn đến nỗi muốn chảy nước mắt.
- Khổ thân, cậu cũng làm cho tôi muốn chảy nước mắt nữa đấy. Tôi đâu có ngờ cậu lắm chứng như thế.
Armand nhún vai, rồi bằng một giọng khác hẳn:
- Để an ủi mày, mày có muốn biết nội dung số ra mắt không? Này nhé, sẽ có bài Chậu đêm của tạo, bốn ca khúc của Cob-Lafleur, một đoạn đối thoại của Jarry, vài bài thơ xuôi của thằng nhỏ Ghéridanisol, hiện trú tại trường nội trú của nhà tao, và thêm bài Cái bàn ủi, một bài tiểu luận rộng rãi về vấn đề phê bình tổng quát, trong đó được minh định những khuynh hướng của tập san. Bọn tao nhiều đứa xúm lại đẻ ra kiệt tác đó.
Olivier, chẳng biết nói năng ra làm sao, lập luận vụng về:
- Chẳng có kiệt tác nào là kết quả của một sự cộng tác.
Armand cười vang:
- Kìa, cái thằng này, tao bảo kiệt tác là để mà cười. Bảo là tác phẩm không thôi, cũng chưa được nữa là. Mà trước hết, phải biết hiểu cái chữ “kiệt tác” như thế nào đã. Chính bài Cái bàn ủi lo việc giải thích minh bạch cái đó. Có vô số tác phẩm mà người đời hùa theo mà tán thưởng, trước nay không ai thức tỉnh gióng tiếng, hay là không dám gióng tiếng lên rằng toàn là tác phẩm ngốc xuẩn. Chẳng hạn, ở đầu số báo, bọn tao phóng lại họa phẩm La Joconde(27) có dán thêm bộ râu cá chốt. Rồi mày coi: kết quả sẽ thất điên bát đảo.
- Như thế nghĩa là mày coi bức tranh La Joconde là một cái gì ngốc xuẩn?
- Đâu có, mày. (Mặc dù tao cũng chẳng thấy nó ghê gớm gì lắm.) Mày không hiểu ý tao. Cái ngốc xuẩn, chính là sự tán thưởng mà người ta gán cho nó. Chính là cái thói quen hễ nói tới cái gọi là “kiệt tác” là chắp tay bái phục. Cái bàn ủi (cũng là chủ đề của số báo) có mục đích biến sự trọng vọng đó thành trò hoạt kê, hạ uy tín... Một phương cách khác, là đề nghị độc giả tán thưởng một tác phẩm ngốc xuẩn nào đó (thí dụ bài Chậu đêm của tao) của một tác giả hoàn toàn thiếu lương tri.
- Passavant đồng ý hoàn toàn?
- Anh chàng khoái lắm.
- Tôi thấy mình rút lui là phải.
- Rút lui... mày ạ, dù sớm dù muộn, dù muộn dù không, bao giờ cái đó cũng phải là điểm cuối cùng. Lời nhận xét thần tình này của tao cho phép tao xin mày rút lui một cách rất là tự nhiên.
- Ở lại tí nữa, cậu hề thế... Cái gì khiến cậu bảo rằng ông bố cậu chơi trò mục sư? Cậu không tin ông được giác ngộ thật sao?
- Ông bố tao đã bố trí cuộc sống của ông theo một lề lối khiến ông không còn có quyền được giác ngộ, cũng không có cách gì được giác ngộ. Đúng thế, ông là một người được giác ngộ nhờ nghề nghiệp, một người dạy cái môn giác ngộ. Ông dạy đức tin, lẽ sống của ông đấy, ông thủ cái vai trò đó và phải đeo đuổi tới cùng. Nhưng còn cái mà ông gọi là “tòa án lương tâm”, cái gì xảy ra trong đó?... Hỏi ông cho vỡ lẽ thì, mày nghĩ, hóa ra tọc mạch. Ông đã nhồi nhét một mớ bổn phận, những bổn phận này, nếu lòng tin của ông giảm sút, sẽ mất hết ý nghĩa, thành thử những bổn phận đó câu thúc và nuôi dưỡng lòng tin đó. Ông cứ tưởng tượng mình tin đạo, vì ông vẫn tiếp tục hành động như là có đức tin. Ông không còn tự do để không tin. Nếu hết tin, thì là đại họa, mày ạ! Một sự sụp đổ! Và cùng lúc, gia đình tao hết đường sống, mày nghĩ coi. Một sự kiện đáng xem trọng, mày ạ: đức tin của bố tao, chính là sinh kế của gia đình. Cả nhà sống nhờ đó. Thế thì đem ra hỏi tao xem bộ tao có đức tin thật sự không, mày hãy thú nhận rằng mày không được tế nhị cho lắm.
- Tôi vẫn nghĩ gia đình cậu sống nhờ tiền của trường nhiều hơn cả chứ.
- Cũng đúng phần nào. Nhưng đem điều này ra để loại bỏ chuỗi ý nghĩ tình cảm của tao, một lần nữa, mày không tế nhị gì hết.
- Thế cậu không còn tin tưởng gì nữa cả sao? - Olivier buồn bã hỏi, vì hắn yêu Armand và hắn khổ tâm theo những lời điếm nhục của Armand.
- “Tái đoạn trường...” Olivier ạ, hình như mày quên rằng bố mẹ tao định bụng tác tạo con người tao thành một mục sư à. Tao bị đốc thúc, bị nhồi bằng những huấn thị đạo hạnh cốt sao cho đức tin được dãn nở ra, tạo mạo muội diễn tả như thế... Rồi cũng đành phải nhìn nhận rằng tao không được ơn trên kêu gọi. Đáng tiếc. Đáng lẽ tao dám trở thành một đấng truyền giáo làm cho người ta lé mắt đấy. Thiên chức dành cho tao, là viết Chậu đêm.
- Cậu có biết là cậu đáng thương lắm không?
- Bao giờ mày cũng sẵn có cái mà bố tao gọi là “tấm lòng vàng”... Tao không muốn lạm dụng nó lâu hơn nữa.
Hắn lấy mũ. Đã gần dời chân thì hắn bỗng quay lại:
- Mày không hỏi tin tức Sarah?
- Không hỏi là vì cậu sẽ không biết gì mới lạ ngoài những cái Bernard đã cho tôi hay.
- Nó đã rời trường, nó nói cái đó với mày chưa?
- Nó bảo chị Rachel của cậu mới nó đi.
Armand đã đặt tay lên nắm cửa, tay kia cầm chiếc gậy đang nhích tấm màn cửa lên. Chiếc gậy thọc vào một lỗ hổng ở tấm màn và phanh lớn nó lên, Armand, vẻ mặt rất nghiêm trọng, bảo:
- Mày cứ tùy tiện diễn giải. Tao tin chắc Rachel là người độc nhất mà tao yêu và trọng. Tao trọng chị bởi vì chỉ đạo hạnh. Và tao cứ mãi hành động tổn thương đức độ của chị. Còn như việc Bernard với Sarah, chị biết hết. Chính tao kể sạch cho chị... Thế mà bác sĩ chữa mắt khuyên chị đừng khóc! Hoạt kê thế.
- Bây giờ tôi nên tin là cậu chân thật chăng?
- Ừ, thiết tưởng cái chân thật hơn hết của tao là: gớm và ghét tất những gì mà người đời gọi là đạo hạnh. Mày đừng tìm cách hiểu. Mày đâu hiểu nổi, cái giáo dục khổ hạnh buổi ban đầu nó có khả năng tác dụng như thế nào đối với con người. Nó để lại trong tim một nỗi hằn học suốt đời không lành nổi... Nếu tao xét điều đó qua tao, - Armand nói thêm, vừa cười khặc khặc. - Nhân thể, tao mắc phải cái gì đây này, mày nên nói tao biết.
Hắn đặt mũ xuống và tiến tới cửa sổ.
- Này, nhìn xem: ở mép môi phía trong đấy.
Hắn nghiêng người tới Olivier và đưa ngón tay lật môi.
- Không thấy gì hết.
- Có đấy chứ, đấy, trong góc.
Olivier nhìn ra, cạnh khóe môi, một vệt trăng trắng. Hơi âu lo, hắn nói cho Armand yên lòng:
- Lở miệng đấy.
Armand nhún vai.
- Đừng nói bậy bạ, mày là một đứa nghiêm trang. Lở miệng thì cái vết nó mềm với mau khỏi. Đàng này, cứng mà lại mỗi tuần mỗi lớn. Với lại nó sinh ra một vị khó chịu trong miệng.
- Đã lâu chưa?
- Tao phát giác được hơn một tháng. Nhưng, giống như người ta nói trong những “tác phẩm lớn”: Bệnh phát xuất từ xa hơn...
- Thế thì, nếu cậu lo, cậu nên đi khám.
- Mày tưởng tao đợi mày khuyên đấy hẳn!
- Bác sĩ bảo sao?
- Tao không đợi mày khuyên mới tự nhủ là phải khám. Nhưng tao lại không đi khám, vì nếu cái đó đúng là cái mà tao nghĩ thì thà đừng biết.
- Thế thì ngu.
- Chó má nhỉ! Mà lại rất người, mày ạ, rất người...
- Ngu là không chữa trị kia.
- Và ngu là có thể tự nhủ, khi bắt đầu chữa trị: “chậm quá mất!” Cob-Lafleur diễn tả điều này rất đạt, trong một bài thơ mà mày sẽ đọc:
Nên hàng phục điều hiển nhiên,
Dưới trần gian này
Lắm lúc múa trước hát sau.
- Cái gì cũng có thể thành văn chương.
- Mày bảo: cái gì cũng có thể. Nhưng, mày ạ, không dễ lắm đâu. Thôi, chào mày... À! Tao muốn nói với mày cái này nữa: tao được tin tức của Alexandre. Phải mày hẳn biết: ông anh của tao, ông đã cút đi Phi châu, khởi sự các trò mờ ám rồi nuốt sạch các món tiền do chị Rachel gửi qua. Giờ đây thì định cư bên bờ sông Casamance. Ông viết thư bảo là việc buôn bán của ông thịnh vượng và rồi đây sẽ đủ sức gửi tiền trả lại đủ số.
- Buôn cái gì?
- Ai biết? Buôn cao su, ngà, buôn mọi đen, có lẽ... một lô những món vặt vãnh... Ông bảo tao sang bên đó với ông.
- Cậu đi?
- Nếu chưa kẹt việc, tao sẽ đi ngày mai. Alexandre là một thứ khốn nạn như tao. Chắc sẽ ý hiệp tâm đầu với ông... Này, muốn xem không? Có thư đây.
Hắn rút trong túi ra chiếc phong bì, đưa thứ cho Olivier.
- Không cần đọc hết. Đọc từ chỗ này.
Olivier đọc:
Anh sống từ khoảng nửa tháng nay cùng với một nhân vật lạ lùng mà anh lưu lại trong nhà. Chắc hẳn mặt trời xứ này đập mạnh lên đầu hắn. Ban đầu cái điên thật sự, anh lại ngỡ là mê sảng thôi. Anh chàng kì lạ này - trạc ba mươi tuổi, lớn, mạnh, khả đẹp trai và nhất định là “gia giáo” theo chữ của người ta, cứ xét cung cách, ngôn ngữ và hai bàn tay quá mảnh không hề làm việc nặng của hắn thì biết - hắn cứ cho hắn là bị ma ám; hay đúng hơn, nếu anh hiểu đúng lời hắn bảo, thì hắn cho hắn chính là ma thật. Chắc hẳn đã gặp một câu chuyện li kì nào đó, bởi lẽ, trong cơn mơ hoặc trong trạng thái nửa mê nửa ngủ thường thường của hắn (gặp những lúc này hắn nói một mình làm như anh không có mặt), hắn không ngớt nói đến chuyện những bàn tay bị chặt. Và vì trong những lúc đó hắn quơ tay rồi tròn xoe mắt dễ sợ, anh cẩn thận dẹp khí giới đi mất. Những lúc khác thì hắn là thằng đôn hậu, vui vầy - là điều mà anh lấy làm quý, em tin đi, sau bao nhiêu tháng ngày đơn độc - và hắn phụ tá anh trong khi anh lo việc khai thác. Hắn không hề đả động đến đời hắn, thành thử anh không sao khám phá hắn là ai. Hắn đặc biệt quan tâm đến sâu bọ và thảo mộc, và một số câu chuyện của hắn để lộ cho thấy hắn là kẻ học thức khác thường. Hắn có vẻ vui thích ở với anh và không nói gì đến chuyện ra đi, anh định để cho hắn ở lại đây lâu mau tùy hắn. Trước đây chính anh muốn một người trợ lực; tóm lại, hắn đến đúng lúc.
Một tên da đen xấu xí đi theo hắn, cùng với hắn ngược dòng Casamance và anh có chuyện trò tí đỉnh. Thằng mọi đề cập đến một người đàn bà đi theo anh chàng. Nếu anh hiểu đúng thì nàng kia đã bị chết đuối giữa sông vì bị lật thuyền hôm đó. Giá anh chàng kia để mặc cho nàng kia chết đuối, thì đó là một điều không làm anh ngạc nhiên. Ở xứ này, hễ muốn trừ khử ai thì có trăm cách, và chẳng hề có ai lưu ý. Nếu hôm nào được tin nhiều hơn, anh sẽ thư từ cho mà biết - hoặc anh sẽ nói thẳng thừng với em chừng nào em sang đây với anh. Phải, anh biết... vấn đề công việc của em... Đành vậy! Anh sẽ đợi. Vì, em hãy nhớ, nếu muốn gặp lại anh, em nên quyết định sang đây. Anh ở đây sống vui vẻ và thích hợp, Buôn bán thịnh vượng, còn cái nước sơn của văn minh, đối với anh, có vẻ là một cái vỏ mà anh sẽ không bao giờ chịu đựng nổi.
Kèm theo đây một bưu phiếu cho em tiện dụng. Cái bưu phiếu trước dành cho Rachel. Em hãy giữ cái này cho em.”
Armand bảo:
- Đoạn sau không ích lợi gì.
Olivier trao trả lá thư không nói gì. Hắn không nghĩ ra rằng kẻ giết người được nói tới lại là anh hắn. Vincent không cho biết tin tức gì của anh đã từ lâu, bố mẹ vẫn tưởng anh còn ở Mỹ. Thật ra, Olivier chẳng bận tâm gì bao nhiêu đến anh.
* * *
(26) Théodore Faullain đe Banville (1823-1891) là nhà thơ, nhà viết kịch người Pháp.
(27) La Joconde hay Mona Lisa là bức chân dung nổi tiếng do Leonardo da Vinci sáng tác.
XVII
Một tháng sau, bà Sophroniska đến viếng trường nội trú, Boris mới được tin Bronja chết. Từ hôm được lá thư buồn bã của bạn gái, Boris không được tin tức gì. Nó trông thấy bà Sophroniska bước chân vào phòng khách của bà Vedel, nó có thói quen ở trong phòng này vào giờ chơi, và vì bà vận đại tang, cho nên bà chưa kịp nói, nó đã hiểu tất cả. Chỉ có hai người trong phòng. Sophronista ôm lấy Boris và cả hai chan hòa nước mắt. Bà chỉ một nước nói đi nói lại: “Khổ con… Khổ con...”, làm như thể chính Boris mới là kẻ đáng thương và như quên lãng nỗi buồn làm mẹ khi đứng trước nỗi khổ tràn trề của Boris.
Bà Vedel, được thông báo, đến nơi, và Boris, hãy còn nức nở lánh mặt đi để cho hai bà trò chuyện. Nó mong đừng ai nhắc đến Bronja. Bà Vedel, vốn không biết mặt Bronja, nói tới Bronja như thể nói tới một đứa bé thông thường nào đó. Ngay những câu hỏi bà đặt ra, đối với Boris, có vẻ thiếu tế nhị vì vô vị. Nó mong sao bà Sophroniska đừng trả lời và nó lấy làm khổ sở, thấy bà phơi bày nỗi buồn của mình ra. Nó xếp cái buồn của mình lại và ủ giấu như báu vật.
Dĩ nhiên, chính Bronja đã tơ tưởng tới nó khi Bronja hỏi, ít ngày trước buổi lâm chung:
- Mẹ ơi, con muốn biết... Mẹ nói đi: người ta bảo là yêu, thật ra là gì thế, mẹ?
Những lời này đâm suốt con tim, Boris muốn mình là kẻ độc nhất biết đến.
Bà Vedel mời trà. Có một tách dành cho Boris, nó vội uống cạn giữa lúc giờ ra chơi chấm dứt, rồi từ biệt bà Sophroniska, bà này hôm sau sẽ đi Ba Lan vì công chuyện gọi bà trở về.
Đối với nó, trời đất vắng tanh. Mẹ nó thì ở quá xa, luôn luôn vắng mặt, ông nội thì quá già, ngay cả Bernard cũng không còn gần gũi, người bạn mà nó tin tưởng... Một tâm hồn đượm tình như nó cần có người để nó trao gửi phần cao quý và tinh tấn của nó. Nó không có đủ tự kiêu để tự mình an ủi lấy mình. Nó đã đem lòng yêu Bronja quá đậm đà nên khó thể trông mong tìm lại được cái lẽ yêu đương đã đánh mất theo Bronja. Bao nhiêu thiên thần mà nó từng ước ao gặp mặt, kể từ hôm nay, vì thiếu bóng Bronja, làm sao tin nổi? Ngay cả vầng trời của nó giờ đây cũng trống không.
Boris trở vào học lại mà tưởng chừng như đang hụp lặn vào cõi âm ti. Có lẽ may ra nó có thể đánh bạn với Gontran de Passavant, thằng này đôn hậu và cả hai cùng một tuổi, nhưng Gontran chỉ miệt mài vào việc học mà thôi. Philippe Adamanti thì cũng không phải là kẻ ác độc, không mong gì hơn là nối kết với Boris, thế nhưng Phiphi bị Ghéridanisol xỏ mũi đến độ chẳng dám biểu lộ một tình cảm riêng tư nào; hắn vừa bén gót theo là Ghéridanisol nhanh chân thêm, và Ghéri không chịu nổi Boris. Cái giọng nói như hát của Boris, cái vẻ con gái, mọi thứ trong con người Boris bắt Ghéri khó chịu, chịu không nổi. Có thể nói là, thấy mặt Boris, Ghéri tự động cảm thấy ghét hận, bắt buộc kẻ mạnh, trong đám đông, vồ chụp lấy kẻ yếu. Có thể hắn đã nghe theo lời dạy vẽ của thằng chú, và sự ghét bỏ của hắn có vẻ lí thuyết phần nào vì hắn thấy sự ghét bỏ đó mang mặc vẻ bài xích. Hắn kiếm tìm nhiều lý do để tán thưởng mình đã đem lòng ghét. Hắn quá thừa hiểu Boris cảm nhận ra sự bỉ bạc đó của hắn như thế nào, hắn thích thú rồi giả vờ cấu kết với Georges và Phiphi, chỉ cốt để bắt gặp cặp mắt của Boris trĩu đầy một thứ gì như là nghi vấn băn khoăn. Những lúc như thế này, Georges bảo:
- Kìa! Thằng kia nó tò mò thế! Nên nói cho nó biết chăng?
- Vô ích. Hắn không hiểu đâu.
“Hắn không hiểu đâu.” “Hắn không dám đâu.” “Hắn không biết đâu.” Với Boris, bọn kia không ngớt ném vào đầu nó những lời thông thuộc đó. Nó khổ sở ghê gớm vì bị loại trừ. Mà thật vậy, nó không hiểu rõ ngọn ngành, hoặc hiểu ra thì lấy làm bất bình cho cái hỗn danh hạ nhục mà người ta gán cho nó, là “thằng không không.” Giá có thể chứng minh mình chẳng phải là cục đất như người ta tưởng mà phải mất mát cái gì đó thì nó cũng cam!
Ghéridanisol bảo Strouvilhou:
- Tôi chịu không nổi thằng Boris. Tại sao chú yêu cầu tôi để cho hắn yên thân? Hắn cũng chẳng thiết gì được yên thân. Hắn luôn luôn để mắt về phía tôi... Hôm nọ, hắn làm cả bọn ôm bụng cười vì hắn tưởng “phụ nữ mày râu” là “người đàn bà có râu”. Thằng Georges chê hắn. Đến khi hắn hiểu là nói sai, tôi tưởng hắn sửa soạn chảy nước mắt.
Tiếp theo, Ghéridanisol hỏi dồn thằng chú họ, cuối cùng thằng này đành trao cho hắn cái bùa của Boris cùng với cách thức sử dụng.
Ít ngày sau, Boris, khi vào phòng học chung, trông thấy trên học bàn cái mẩu giấy mà nó hầu như đã quên khuấy mất. Hắn đã xóa bỏ trong trí nhớ tấm bùa đó cùng với đủ thứ phát nguyên từ cái trò “ảo thuật” trong tuổi ấu thơ, nay nó lấy làm ngượng ngùng. Thoạt tiên nó không nhận ra ngay, vì Ghéridanisol đã thận trọng đóng khung câu công thức thần chú: “KHÍ, ĐIỆN THOẠI, TRĂM NGÀN FRANC.” bằng một đường viền màu đỏ và đen tô đậm được điểm thêm bằng những hàng răng nanh quỷ sứ tục tĩu, mà lại vẽ khá đẹp. Mẫu giấy hóa ra có vẻ cổ quái, “âm ti”, Ghéridanisol nghĩ thế, cái vẻ mà hắn xét thấy là có thể gây đảo điên cho Boris.
Có thể đó chỉ là một trò chơi, nhưng trò chơi lại thành công quá mức mơ ước. Boris đỏ mặt vô cùng, không nói một tiếng, nhìn bên phải bên trái, và không trông thấy thằng Ghéridanisol đang núp sau cửa quan sát nó. Boris khó lòng ngờ vực nó, mà cũng không hiểu nguyên lai tấm bùa làm sao lại lù lù ở đó, như thể từ trời rơi xuống hay, hữu lí hơn, từ âm ti đục lên. Dễ thường Boris đến cái tuổi nhún vai trước những trò quỷ của học sinh, có điều chúng nó quậy lên cả một quá khứ đục ngầu. Boris cầm tấm bùa lên và đút nhẹ vào áo. Suốt thì giờ còn lại trong ngày, kỉ niệm về những buổi thực hành “ảo thuật” cứ ám ảnh nó. Nó vật lộn cho đến chiều hôm, chống cự với một lực dụ hoặc u minh, kế đó, vì không còn có cái gì nâng đỡ nó trong cuộc vật lộn, nên chi, vừa rút vào buồng, nó lăn ra thiếp mất.
Nó có cảm tưởng đang trầm lạc, đang ngập chơi vơi trong cõi trời, nhưng nó lấy làm hoan lạc được trầm lạc và lại lấy đó làm nỗi đê mê.
Tuy nhiên, nó giữ lại trong con người mình, dù tuyệt vọng, giữ lại trong tận cùng nỗi cô trích, những êm ái tàn, một nỗi khổ nhức nhối vì sự ghét bỏ của bạn bè đối với mình, thậm chí, vạn nhất được người đếm xỉa đến mình, e Boris dám liều bất cứ cái gì nguy hiểm, phi lí.
Cơ hội đến ngay.
Sau khi buộc lòng từ bỏ vụ mậu dịch tiền giả, Ghéridanisol, Georges và Phiphi không chịu thất nghiệp lâu. Những ngón chơi tủn mủn cục mịch buổi đầu chỉ là những màn phụ diễn. Óc tưởng tượng của Ghéridanisol mau mắn đẻ ra món khác súc tích hơn.
Hội Kẻ Mạnh chỉ có lí do hiện hữu lúc đầu là không chấp nhận Boris, như thế thì mới thú. Nhưng Ghéridanisol thấy ngay ra rằng, trái lại, để cho Boris gia nhập thì mới độc hơn nhiều, như thế là một cách dẫn dụ nó vướng mắc vào những quy ước, nhờ đó mà về sau có thể lôi kéo nó đến một hành động tàn khốc nào đó. Nghĩ thế, ý tưởng này nung nấu thằng Ghéridanisol; và bởi đây là điều thường hay xảy ra trong một việc được trù tính, Ghéridanisol nghĩ ngay tới việc đó thì ít mà nghĩ đến cách làm sao cho thành tựu thì nhiều. Nói tóm lại, Ghéridanisol là thằng hung ác, nhưng hắn cảm thấy, ít nhất là trước mặt Phiphi, cần che giấu sự hung ác. Phiphi thì không có gì là ác, cho đến phút cuối hắn vẫn đinh ninh chỉ là trò chơi mà thôi.
Đã là hội, thì phải có một khẩu hiệu. Ghéridanisol, vốn có định ý, đề nghị: “Kẻ mạnh cải cái chết như lông hồng”. Khẩu hiệu được chấp nhận, và được coi là lời của Cicéron(28). Về dấu hiệu riêng, Georges đề nghị xăm cánh tay mặt, nhưng Phiphi sợ đau nên một mực bảo rằng thợ xăm lành nghề chỉ tìm được ở hải cảng mà thôi. Lại thêm Ghéridanisol phản đối rằng là sự xăm chàm để lại dấu vết khó tẩy có thể gây trở ngại về sau. Nói cho cùng, dấu hiệu riêng không lấy gì làm cần thiết cho lắm, hội viên long trọng tuyên thệ là đủ.
Hồi còn vấn đề mậu dịch bạc giả còn có chuyện cam kết, và chính vì thế mà Georges đã phô trương thư từ của bố mình. Nhưng không ai nghĩ tới chuyện đó nữa. Thật may, bọn nhỏ không bám mãi vào đó. Tóm lại, chúng nó hầu như chẳng khẳng quyết chuyện gì, về vấn đề “điều kiện gia nhập” cũng như điều kiện “tư cách cần thiết”. Ích lợi gì cho cam, bởi rồi ra cả bộ ba chúng nó “là thành phần”, và Boris “là ngoại thành phần” kia mà. Mặt khác, chúng nó quyết nghị rằng “kẻ nào thoái nhượng sẽ bị coi là phản trắc và vĩnh viễn bị đào thải ra khỏi hội”. Ghéridanisol, vốn lập tâm đưa Boris vào hội, nhấn mạnh kĩ lưỡng về điểm sau.
Phải nhìn nhận rằng, nếu không có Boris, thì trò chơi thành ra nhạt nhẽo và khí lực của hội không có chỗ dùng. Muốn lung lạc Boris, Georges là thằng có lợi điểm hơn Ghéridanisol, Ghéri dễ chọc sự ngờ vực của thằng bé kia dậy, còn Phiphi thì không đủ giảo quyệt và thích tránh né lầm lỡ.
Và đây có lẽ là cái có vẻ tàn khốc hơn cả trong câu chuyện bỉ ổi này: là cái màn kịch về tình bạn mà Georges thuận tình diễn xuất. Hắn vờ yêu Boris bằng một mối cảm tình đột ngột; từ trước đến nay, có thể nói hắn không buồn ngó đến thằng nhỏ kia. Và tôi cũng nghi ngờ không hiểu chính hắn có bị trò chơi cuốn hút theo không, hoặc giả những tình cảm giả vờ của hắn có suýt trở thành như thật hay không, hay là đã trở thành chân thật ngay khi có sự đáp ứng của Boris chăng. Khuynh hướng tình cảm của Georges với Boris có dáng dấp mềm mỏng; được Ghéridanisol mách nước, hắn gạ chuyện với Boris... Và ngay những lời gạ gẫm đầu tiên, Boris, tiếp theo sau một ít lời yêu mến nể trọng, ấp a ấp úng rồi bị chinh phục.
Lúc bấy giờ Ghéridanisol thảo chương trình và bày biện ra cho Phiphi và Georges biết. Vấn đề là bịa ra một “cuộc thử thách”, hội viên nào bị chỉ định vì bốc thăm sẽ phải chịu thử thách; và, để trấn an Phiphi, hắn cho hai đứa kia hiểu rằng sẽ bố trí thế nào cho cái thăm kia chỉ có thể chỉ định Boris mà thôi. Cuộc thử thách nhằm mục đích thăm dò lòng can đảm.
Cuộc thử thách thật sự ra làm sao thì Ghéridanisol vẫn chưa để lộ ra cho biết. Hắn ngại Phiphi có thể cản trở.
-Cái đó thì không có tao đâu nhá, tạo không chịu đâu! - Quả nhiên đây là lời tuyên bố của Phiphi sau đó, khi Ghéridanisol bắt đầu rỉ tai bảo khẩu súng lục của “cụ Mụ” La Pérouse sẽ có thể đắc dụng.
- Thằng này dốt! Giỡn chứ có phải thật đâu, - thằng Georges lên tiếng nói át, hắn đã xiêu lòng.
Ghéri nói thêm:
- Vả lại, nếu mày thích chơi ngu, thì mày cứ việc nói ra. Không cần tới mày.
Ghéridanisol biết rằng kiểu nghị luận như thế bao giờ cũng đưa Phiphi vào tròng, và vì hắn đã chuẩn bị mẩu giấy gia nhập, hội viên phải ghi tên mình lên đó:
- Nhưng mà phải nói ngay, vì một khi mày đã kí xong thì coi như xong.
- Thôi! Đừng nổi cáu, - Phiphi đáp. - Đưa tờ giấy đây.
Và hắn kí.
Georges quàng tay âu yếm qua cổ Boris, bảo:
- Mình thì mình muốn lắm chứ, nhưng chính thằng Ghéridanisol không thích cậu.
- Tại sao thế?
- Vì hắn không tin. Hắn bảo cậu sẽ bỏ cuộc.
- Sao hắn biết?
- Hắn bảo cậu sẽ chuồn lẹ ngay cuộc thử lửa đầu tiên.
- Để xem.
- Cậu dám bốc thăm thật sao?
- Ôi dào!
- Nhưng cậu có biết phải kí kết thế nào không đã?
Boris không biết, nhưng nó muốn biết. Thế là thằng kia giải thích. “Kẻ mạnh xem cái chết như lông hồng.” Cái đó thì để coi đã.
Boris cảm thấy choáng váng ngập đầu, nhưng nó cứng người lại và che giấu vẻ luống cuống của mình:
- Mấy người kí rồi thật sao?
- Này, xem.
Và Georges chuồi tấm giấy ra, Boris đọc ra ba tên.
- Thế thì... - Nó ấp úng ướm lời.
- Thế thì sao?... - Georges cắt ngang, phũ phàng đến nỗi Boris không dám nói tiếp. Điều nó muốn hỏi, Georges thừa hiểu: là bọn kia có kí kết không, có thể chắc chắn bọn kia không bỏ cuộc chăng.
Boris đáp:
- Không sao cả.
Nhưng ngay lúc đó, nó bắt đầu ngờ vực bọn kia, nó bắt đầu ngờ rằng bọn kia giữ miếng và không chơi một cách thẳng thắn.
“Mặc,” nó thầm nghĩ ngay liền đó. “Chúng nó bỏ cuộc cũng mặc, mình sẽ tỏ cho chúng biết mình can đảm hơn chúng nó.”
Rồi nhìn ngay mặt Georges:
- Cậu nói với Ghéri có thể tin tưởng nơi tôi.
- Nghĩa là cậu kí tên?
Ồ! Đâu cần kí gì nữa: lời hứa mà. Boris chỉ đáp:
- Nếu cậu muốn.
Và, dưới ba chữ kí của hội Kẻ Mạnh, trên mẫu giấy đọa đày, nó viết tên mình, bằng nét chữ lớn đậm nét.
Georges đắc thắng đem tờ giấy về cho hai thằng bạn. Chúng đồng tình cho rằng Boris đã hành động rất chì. Cả ba cùng nghị quyết.
- Hẳn nhiên! Không cho đạn vào súng. Huống chi mình không có đạn.
Phiphi vẫn sợ là vì hắn có nghe nói rằng một cơn xúc động quá mãnh liệt có khi đủ để gây ra cái chết. Hắn quả quyết rằng cha hắn có kể trường hợp một vụ xử tử giả mà lại... Nhưng Georges đã quạt ngay.
- Cha mày người Nam kể gì.
Không, Ghéridanisol sẽ không nạp đạn. Hà tất. Viên đạn ngày nào ông cụ La Pérouse đã nhét vào súng nào đã lấy ra đâu, Ghéridanisol quan sát thấy thế nhưng hắn không hở môi với bọn bạn.
Tên được bỏ vào trong một cái mũ, bốn mẩu giấy nhỏ giống nhau và xếp lại cùng một cách. Ghéridanisol, vì phải “bốc thăm”, đã thận trọng viết thêm một tên Boris vào mẩu giấy thứ năm mà hắn nắm trong tay; rồi, như thể bỗng dưng, chính mẩu giấy thứ năm này được bốc lên. Boris ngờ bọn kia chơi lận, nhưng nín thinh. Cãi mà làm gì? Nó biết mình thua thiệt. Nếu là để tự vệ, nó cũng chẳng buồn nhúc nhích; và nói cho cùng, nếu rủi may chỉ định một đứa trong bọn kia, không biết chừng nó sẽ tình nguyện thay thế, bởi nỗi niềm thất vọng đã tràn về.
- Bạn ơi, bạn không may mất rồi.
Georges tưởng cần phải nói lên như thế. Âm sắc giọng nói thốt ra quá giả tạo khến Boris quay nhìn hắn mà lấy làm buồn. Nó nói:
- Điều tất nhiên.
Sau đó, toàn thể quyết định thi hành việc tập dượt. Nhưng vì sợ bị bắt gặp, nên chi chúng nó giao hẹn không dùng ngay đến súng mà làm gì. Đến giờ phút chót, khi nào diễn “thực thụ” kia, thì mới trình khẩu súng ra. Không nên làm thiên hạ ngờ vực nọ kia.
Như thế là, hôm ấy, cả bọn biểu đồng tình hẹn giờ và hẹn nơi, vị trí thì được vạch một vòng tròn phấn trên sàn nhà. Câu chuyện xảy ra trong phòng học chung, trong góc tường, phía tay phải bàn giám thị, cạnh cánh cửa bị bít kín đã từng mở ra làm cửa ra vào trước kia. Còn về giờ giấc; sẽ là giờ học. Câu chuyện phải diễn ra trước trăm con mắt của bọn học sinh, như thế sẽ làm cho chúng câm họng.
Cảnh tập dượt, chỉ có ba kẻ đồng mưu làm nhân chứng, trong khi phòng học không có người. Nhưng, tựu trung, tập dượt là một việc chẳng ăn khớp bao nhiêu với việc gì hết. Chỉ có thể nhận thấy rằng từ chỗ đứng hiện tại của Boris đến chỗ vạch phấn, vừa đúng mười hai bước.
- Nếu mày sợ, mày đừng bước thêm bước nào nữa hết, - Georges bảo.
Sự nghi ngờ dai dẳng của thằng này chửi vào mặt Boris. Boris đáp:
- Tôi sẽ không sợ.
Tính cường cường của thằng nhỏ bắt đầu đập vào ba đứa kia. Phiphi cho là nên dừng lại ngang đây. Nhưng Ghéridanisol tỏ ra cương quyết đẩy cái chơi cho tới kì cùng.
- Được! Hẹn mai vậy. - hắn bảo, kèm theo một nụ cười nhếch mép kì quái.
- Mình hôn hắn đi!
Phiphi cảm khái vọt miệng. Hắn tưởng tới cái ôm hôn thuở xưa của hiệp sĩ khi phong tước. Boris khó khăn lắm mới dằn được nước mắt khi Phiphi hôn hai cái thật kêu, như trẻ con, trên má nó. Georges và Ghéri, không đứa nào bắt chước theo; thái độ của Phiphi có vẻ không xứng đáng cho lắm đối với Georges. Còn Ghéri, hắn cóc cần!...
* * *
(28) Cicéron (106-43 TCN) là triết gia, nhà hùng biện, chính trị gia La Mã.
XVIII
Chiều hôm sau, tiếng chuông đã tập họp bọn học sinh trong trường.
Trên cùng một ghế ngồi, là Boris, Ghéridanisol, Georges và Philippe. Ghéridanisol rút đồng hồ ra, đặt giữa mình với Boris. Đồng hồ trỏ năm giờ ba mươi lăm. Giờ học bắt đầu từ năm giờ và sẽ phải kéo dài đến sáu giờ. Đến sáu giờ kém năm, như giao ước, Boris phải lo cho xong, ngay trước khi học sinh phân tán, như thế là đẹp nhất, liền sau đó có thể nhanh chân tẩu thoát. Và thấm thoắt Ghéridanisol nói với Boris, bằng giọng trung bình, không nhìn nó, nghĩ rằng như thế giọng nó mới có vẻ là giọng định mệnh hơn:
- Cậu, chỉ còn mười lăm phút nữa.
Boris nhớ lại một cuốn tiểu thuyết đọc trước đây, có đoạn bọn cướp, khi sắp sửa giết một phụ nữ, mời nàng đọc kinh, để thuyết dụ nàng nên chuẩn bị chết. Như một kẻ ngoại quốc, ra đến ranh giới một xứ sở mà hắn sửa soạn từ giã, sửa soạn giấy tờ, Boris cũng thế, nó lục lạo kinh cầu nguyện trong tim trong óc mà chẳng tìm thấy được gì; nhưng hắn quá mệt và đồng thời quá khẩn trương nên không lo lắng xa xôi. Nó cố nghĩ ngợi mà không nghĩ được gì. Khẩu súng đè nặng túi, chẳng cần đặt tay vào mà vẫn cảm nhận ra.
- Chỉ còn mười phút.
Georges, bên trái của Ghéridanisol, theo dõi tấn tuồng qua khóe mắt, nhưng vờ không thấy. Hắn học một cách yếu xịu. Chưa bao giờ phòng học yên tĩnh đến thế này. Ông cụ La Pérouse hết nhận ra lũ ôn con và, lần đầu tiên, dễ thở. Trong khi đó, Phiphi không yên tâm. Ghéridanisol làm hắn sợ; cuộc chơi này có thể kết thúc thảm hại, đó là điều hắn bán tín bán nghi; con tim phồng căng của hắn bắt hắn nhọc và, từng lúc lại từng lúc, hắn nghe mình trút tiếng thở dài. Cuối cùng, hết chịu nổi, hắn xé một nửa trang giấy trong cuốn vở sử có sẵn trước mặt, - vì hắn hiện đang soạn thi, nhưng hàng lối lòe nhòe trước mắt, sự kiện với ngày tháng nhập nhằng trong đầu - cuối mẩu giấy, hắn hí hoáy thật nhanh: “Chắc chắn súng không có đạn không đã?” rồi chuồi giấy cho Georges, Georges đẩy qua cho Ghéri. Nhưng Ghéri đọc xong, nhún vai mà chẳng buồn ngó Phiphi, rồi vo tròn mẩu giấy lại, búng cho mẩu giấy lăn thẳng tới chỗ có lằn phấn. Sau đó, thích thú đã nhắm hay, hắn mỉm cười. Nụ cười này, ban đầu là cố tình, kéo dai dẳng cho đến hết màn kịch, tưởng chừng như đã đóng cứng lại trên nét mặt hắn.
- Còn năm phút.
Câu nói gần như cao giọng. Ngay cả Philippe cũng nghe. Một nỗi khắc khoải khó nén xâm chiếm lấy hắn và, dù giờ học sắp hết, hắn làm ra vẻ cần đi ra ngoài gấp, hoặc có thể là bị quặn thắt thật sự, giơ tay lên và búng ngón tay, như bọn học sinh quen làm như thế để xin xỏ giáo sư điều gì, kế đó, không đợi ông cụ La Pérouse trả lời, hắn lao ra khỏi ghế. Muốn ra đến cửa, hắn phải qua trước mặt bàn thầy, hắn gần như chạy, nhưng chạy lảo đảo.
Gần như ngay liền sau khi Philippe chạy ra, Boris, đến lượt nó, đứng lên. Thằng bé Gontran de Passavant, mải học đàng sau lưng, ngước mắt lên. Sau này, nó thuật lại cho Séraphine rằng là Boris lúc đó mặt mày “tái mét một cách khủng khiếp”, nhưng đó là người ta quen nói trong những trường hợp như thế. Nhưng, gần như liền đó, nó thôi nhìn và cắm đầu học lại. Đó là điều mà về sau nó tự trách lắm lắm. Giá như hiểu được chuyện gì xảy ra thì chắc chắn nó đã ngăn chặn, sau này nó vừa khóc vừa nói thế. Nhưng nó có ngờ chuyện gì đâu.
Đấy, Boris tiến về địa điểm vạch sẵn. Bước chậm như người máy, mắt không nhấp nháy, như một kẻ mộng du thì đúng hơn. Bàn tay phải đã nắm lấy súng, nhưng vẫn giấu trong túi áo, đến phút cuối thì nó mới rút ra. Địa điểm định mệnh, tôi đã nói, nằm kề cạnh cánh cửa bị niêm phong, cửa này, phía bên tay phải bàn thầy, làm thành một chỗ hõm vào, thành thử, thầy, từ chỗ ngồi, nghiêng người qua thì mới trông thấy.
La Pérouse nghiêng người qua. Và lúc đầu ông cụ không hiều thằng cháu mình làm cái trò gì, mặc dù vẻ nghiêm trọng dị thường trong cử chỉ nó là đáng ngại. Bằng giọng thật lớn, mà ông cố để uy vào đó, ông hắng tiếng:
- Cậu Boris, tôi yêu cầu cậu lập tức trở về chỗ...
Nhưng hốt nhiên ông nhận ra khẩu súng, Boris vừa đưa súng lên thái dương. Ông hiểu và lập tức cảm thấy lạnh tràn, như thể máu cóng lại trong huyết mạch. Ông muốn đứng lên, chạy lại cháu, ngăn nó lại, hét lên... Một thứ gì như tiếng khào khào khan khan ra khỏi môi miệng, ông đứng trân, tê liệt, lật bật toàn thân.
Súng nổ, Boris không ngã xuống ngay. Thân thể đứng yên một lát, như móc vào góc; kế đó, đầu ngoẹo xuống vai, xốc luôn toàn thân đổ nhào.
Trong buổi điều tra của cảnh sát ít lâu sau đó, người ta ngạc nhiên không tìm thấy khẩu súng cạnh thi thể Boris - tôi muốn nói: cạnh chỗ nó gục ngã, vì khi đó người ta gần như tức tốc ẵm xác đứa nhỏ lên giường. Giữa cảnh hỗn loạn tiếp liền đó, và trong khi Ghéridanisol ngồi lì tại chỗ, Georges, phóc qua ghế, đã chớp được khẩu súng mà không bị ai để ý; trước hết hắn đá khẩu súng lùi ra sau, rồi trong khi bọn kia xúm xít quanh Boris, đã lẹ làng thủ lấy súng và giấu trong áo và chuồi kín cho Ghéridanisol. Sự chăm chú của mọi người dồn cả vào một điểm, và cũng không ai để ý Ghéridanisol, thằng này lẻn chạy một mạch lên buồng ông cụ La Pérouse, bỏ khẩu súng vào chỗ cũ. Kịp đến sau, khi khám xét, cảnh sát tìm thấy lại khẩu súng bỏ vào vỏ; khẩu súng trước đấy đã được lấy ra hay không, và Boris có dùng nó không, đó là điều có thể lấy làm ngờ, nếu phải chi Ghéridanisol nhớ mà lấy vỏ đạn ra ngoài. Dĩ nhiên hắn đã cuống cuồng phần nào. Sơ suất nhỏ, mà sau này hắn tự trách. Ôi, trách cho mình sơ suất hơn là hối hận về tội lỗi của mình. Thế mà chính sự sơ suất đó đã cứu hắn. Bởi vì, khi hắn trở xuống lại trà trộn vào cả bọn, thấy thi thể của Boris được đem đi, hắn đâm ra run rẩy rõ rệt, run vì phát hoảng; bà Vedel và Rachel, cả hai chạy xuống, thấy hắn run như thế, thuận tình coi đó là dấu hiệu cảm động cùng cực. Thà giả thuyết đủ điều khác, còn hơn là ngờ sự bất nhân của một thằng quá nhỏ tuổi; và khi Ghéridanisol biện bạch mình vô tội, ai nấy tin hắn. Mẩu giấy nhỏ của Phiphi và Georges chuyền qua cho hắn, mà hắn đã búng đi, và được người ta tìm ra lại sau đó dưới ghế, mẩu giấy nhỏ nhàu nhò đã giúp cho hắn. Dĩ nhiên hắn vẫn bị buộc tội, giống như Georges và Phiphi, vì đã hùa nhau chơi một trò nguy độc, nhưng, hắn quả quyết, nếu hắn biết súng có đạn thì hắn đã không chơi. Chỉ có Georges là thằng trước sau vẫn đinh ninh mình hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Georges không đến nỗi quá hư hỏng cho nên lòng khâm phục dành cho Ghéridanisol cuối cùng nhường chỗ cho sự ghê tởm. Khi về đến nhà, nó sà vào tay mẹ, và Pauline bỗng dậy lòng cảm tạ trời đất vì tấn bi kịch khủng khiếp đó mà trao trả đứa con lại cho mình.
NHẬT KÍ Édouard
Chính vì không dám giải thích điều gì hết, nên tôi muốn tránh trình bày bất cứ việc gì mà lại không giãi bày đầy đủ nguyên ủy. Bởi thế cho nên tôi sẽ không dùng đến đoạn tự sát của nhỏ Boris cho cuốn Bọn làm bạc giả của tôi, tôi đã quá lận đận theo việc tìm hiểu nó rồi. Với lại, tôi chẳng thích những “việc vặt vãnh”. Những việc này có một cái gì đó quyết đoán, không thể biện giải, độc địa, thật đến nỗi làm uất khí... Tôi đồng ý rằng thực tế giúp cho tư tưởng của tôi, nhưng giúp như một bằng chứng, chứ không phải đi trước tư tưởng của tôi. Tôi không muốn bị chận họng. Vụ tự sát của Boris đối với tôi hiện thân là một việc sỗ sàng, vì tôi không ngờ.
Có một chút hèn nhát xen vào bên trong mọi sự tự sát, dù cụ La Pérouse có nghĩ gì thì nghĩ, có lẽ ông coi thằng cháu mình can đảm hơn mình. Nếu nó tiên liệu được cái tai họa mà cử chỉ của nó đem lại cho gia đình Vedel, thì nó là thằng không thể tha thứ. Cụ Azaïs đã buộc lòng giải tán trường nội trú, - tạm thời, cụ bảo; nhưng Rachel thì sợ sập nghiệp. Bốn gia đình đã khởi sự rút con cái lui. Tôi không thể ngăn chị Pauline gọi Georges về nhà, nhất là thằng bé, chấn động sâu xa vì cái chết của bạn, hình như sẵn sàng tu tỉnh. Cái tang kia đưa đến những hậu quả như thế nào? Chính Olivier cũng tỏ ra xao xuyến. Armand, dù cẩu trệ, cũng lo lắng cho thân quyến của mình dễ bị rơi vào tình cảnh tan gia bại sản, hắn tình nguyện dành thì giờ cho trường chừng nào Passavant còn vui lòng cho phép hắn, vì ông cụ La Pérouse hiển nhiên trở nên hết thích đáng cho công việc mà người ta kì vọng ở ông.
Tôi sợ gặp lại ông. Chính ngay trong căn buồng nhỏ của ông, ở tầng hai của trường nội trú, là nơi ông tiếp tôi. Ông ôm chầm ngay lấy tay tôi, và, bằng vẻ bí mật, gần như vui vẻ, khiến tôi ngạc nhiên vô cùng vì tôi chỉ nghĩ là ông cụ khóc mà thôi:
- Cái tiếng động, anh biết đấy... Tiếng động mà tôi nói với anh hôm nọ đấy...
- Ra sao rồi ạ?
- Im mất. Hết. Không nghe nữa. Tôi lắng tai nhưng vô ích.
Giống như hùa nhau chơi trò trẻ con, tôi nói:
- Tôi cá là bây giờ thấy lấy làm tiếc vì hết nghe nó.
- Đâu có, đâu có, không... Khỏe thế này mà lại! Tôi rất cần im lặng... Anh biết tôi nghĩ gì không? Rằng là suốt đời mình không thể biết im lặng đích thật là cái gì. Ngay máu của mình đây cũng gây ra tiếng động liên tục trong người mình, mình hết phân biệt ra tiếng động, vì đã trót quen từ thuở nhỏ... Nhưng tôi nghĩ rằng có nhiều cái mà, trong đời mình không nghe ra, những hòa âm... vì bị tiếng động lấp mất. Phải, tôi nghĩ rằng chỉ khi nào chết xong xuôi mình mới nghe được thật sự.
- Thầy có nói với tôi rằng thầy không tin...
- Không tin ở sự vĩnh cửu của linh hồn? Tôi có nói với anh thế ư?... Phải, chắc anh nhớ kĩ. Nhưng mà, hiểu cho tôi, điều ngược lại, tôi vẫn không tin.
Và vì tôi im, ông nói tiếp, hất hàm và bằng một giọng trịnh trọng:
- Anh có để ý chăng rằng, dưới trần gian. Chúa luôn luôn im lặng? Chỉ có quỷ là kẻ lên tiếng. Hay ít ra, hay ít ra... - ông nói vớt thêm, - dù mình chủ ý thế nào, có nghe ra thì cũng chỉ nghe ra có quỷ mà thôi. Mình không có tai để nghe giọng Chúa. Lời Chúa phán! Có khi nào anh tự hỏi lời Chúa có thể ra làm sao không?... Ồ! Tôi không nói đến thứ lời của Chúa được đổ vào ngôn ngữ của con người đâu... Anh nhớ câu mở đầu Phúc Âm: “Khởi thủy là Lời”. Tôi thường hay nghĩ rằng Lời Chúa phán, đó là sự tạo lập toàn diện. Nhưng quỷ giành giật lấy. Tiếng động của quỷ nay lấp mất giọng Chúa. Này! Anh nói cho tôi biết: anh không tin rằng, dù sao, lời cuối cùng vẫn là lời của Chúa hay sao?... Và, nếu thời gian, sau khi ta chết, không tồn tại nữa, nếu mình vào cõi vĩnh cửu ngay, anh có nghĩ rằng mình có thể nghe Chúa một cách... trực tiếp?
Một cơn gì như là cao hứng bắt đầu lay động con người ông như thể ông sắp ngã từ cao xuống, thế mà bỗng nhiên ông quay ra tức tưởi từng cơn:
- Không! Không! - Ông vùng vằng la lối. - Quỷ với Chúa từ tâm chỉ là một, họ ăn ý nhau. Mình cố gắng tin rằng bao nhiêu những cái xấu đều do quỷ mà ra, kì thật chính vì, nếu không phải như thế, mình sẽ không tìm đâu ra sức lực để tha thứ cho Chúa. Chúa đùa bỡn mình, như mèo vờn chuột, giày vò chuột... Thế mà, sau đó Chúa lại đòi hỏi mình phải biết ơn. Biết ơn cái gì? Cái gì?...
Rồi, nghiêng người sang tôi:
- Và anh có biết Chúa làm cái gì ghê gớm nhất không! Là hi sinh con ruột của mình để cứu vớt chúng ta. Con mình! Con mình!... Ác độc, đặc tính đầu tiên của Chúa đấy.
Ông cụ vật người xuống giường, quay mặt vào tường. Ông bị lay động giậm giật vài hồi nữa, rồi, vì ông như có vẻ thiếp đi, tôi để ông ở lại.
Ông không nói với tôi một lời nào về Boris, nhưng tôi nghĩ là nên nhìn thấy trong nỗi tuyệt vọng thần bí đó sự diễn tả gián tiếp của nỗi thống khổ của ông, thống khổ quá kinh mang, ta không thể đăm đăm chiêm ngưỡng nó.
Nhờ Olivier, tôi hay rằng Bernard đã quay trở về với bố; và, thú thật, đó là điều hay hơn cả cho nó. Được thằng nhỏ Caloub, tình cờ gặp, cho hay rằng ông dự thẩm không được khỏe, Bernard chỉ còn nghe theo con tim mình. Chúng tôi thế nào cũng gặp nhau chiều mai, vì Profitendieu mời tôi lại ăn tối cùng với Molinier, Pauline và hai đứa con. Tôi cũng rất tò mò muốn biết Caloub.
HẾT
Bọn Làm Bạc Giả Bọn Làm Bạc Giả - André Gide Bọn Làm Bạc Giả