He who lends a book is an idiot. He who returns the book is more of an idiot.

Arabic Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Serpent'S Shadow
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
3.Chúng Tôi Đoạt Được Chiếc Hộp Chẳng Có Gì
ỚI MẨU TIN HÂN HOAN ĐÓ, Sadie trao quyền thông báo cho tôi. "Cảm ơn nhiều nhé, em gái."
Tôi ước mình có thể thông báo cho các bạn biết là Sadie đã lầm về Vùng Năm Mươi Mốt. Tôi rất mong được nói ra là chúng tôi đã tìm thấy tất cả những pháp sư khu vực Texas đều an toàn và lành lặn. Nhưng không. Chúng tôi chẳng tìm thấy gì ngoài tàn dư của một cuộc chiến: những cây đũa phép ngà cháy rụi, và pho tượng shabti vỡ tan, mấy mẩu vải lanh và giấy cói còn cháy xém. Giống hệt như những cuộc tấn công ở Toronto, Chicago hay Mexico City, các pháp sư đơn giản và biến mất tăm. Họ đã bị làm cho bốc hơi đi mất,bị ăn ngấu ăn nghiến hoặc tiêu hủy theo cách kinh dị chẳng kém.
Ngay mép hố lửa, một chữ tượng hình cháy xém và cỏ: Isfet, biểu tượng của Thần Hỗn Mang. Tôi có cảm giác như Apophis đã để nó lại đây như tấm danh thiếp.
Tất cả chúng tôi đều sốc, nhưng lại không có thời gian khóc thương cho đồng đội của mình. Chính quyền con người sẽ sớm đến đây kiểm tra hiện trường này. Chúng tôi phải chữa lại tổn thất bằng hết khả năng và gỡ đi bằng hết các dấu vết pháp thuật.
Về hố lửa thì bọn tôi không thể làm gì được nhiều. Dân địa phương hẳn sẽ chỉ cho rằng đấy là một vụ nổ ga mà thôi. (Chúng ta thường gây ra lắm vụ nổ ga cơ mà.)
Bọn tôi dốc sức dọn dẹp bảo tàng và khôi phục bộ sưu tập vua Tut, nhưng đâu phải dễ dàng như dọn một cửa hàng quà lưu niệm. Pháp thuật thì cũng có đến từng ấy là cùng thôi chứ. Cho nên nếu ngày nào đó bạn có đi xem một buổi triển lãm cổ vật vua Tut và để ý thấy mấy vết nứt hay cháy xém trên mấy món tạo vật, hay có lẽ lại là một pho tượng có cái đầu bị dán keo ngược ra sau – e hèm, xin lỗi vậy. Chắc hẳn đấy là lỗi của bọn này rồi.
Khi cảnh sát chặn hết mấy tuyến phố và dàn hàng cách ly khu vực cháy nổ, nhóm chúng tôi túm tụm lại trên mái nhà bảo tàng. Nếu phải khi thích hợp hơn thì hẳn chúng tôi đã dùng một món tạo tác nào để để mở cổng ra đưa chúng tôi về nhà rồi, nhưng trong mấy tháng qua, khi mà Apophis đã thêm hùng mạnh, thì dùng các cổng kiểu đấy trở nên đầy rủi ro hơn.
Thay vì thế tôi huýt sáo kêu xe đến. Điểu sư Freak từ nóc khách sạn Fairmont gần đấy bay lướt tới.
Kiếm được chỗ để giấu đi con điểu sư không dễ chút nào, nhất là khi nó đang kéo theo một chiếc thuyền. Bạn đâu thể nào cứ đậu tấp vào vỉa hè rồi bỏ vài xu vào máy tính tiền là được đâu. Với lại, Freak thường có khuynh hướng bồn chồn khi có người lại ở quanh rồi nuốt chửng lấy họ, nên tôi phải cho nó đậu lên nóc khách sạn Fairmont cùng một sọt đầy thịt gà tây đông lạnh để nó có chuyện mà làm. Thịt gà tây thì phải được đông lạnh. Chứ không thì con điều sư này sẽ ăn rất nhanh đến mức phải nấc cụt mất.
"Sadie đang hối tôi kể chuyện thì kể cho nhanh vào. Nhỏ này bảo mấy bạn không quan tâm đến thói quen ăn uống của điểu sư đâu. Thế à, thế thì xin lỗi vậy."
Mà thôi, Freak sà xuống đậu lên nóc bảo tàng. Con này là một con quái vật đẹp rạng ngời, nếu như bạn thích các loại sư tử đầu đại bàng loạn thần kinh ấy. Bộ lông nó mang màu gỉ sắt, còn khi nó bay, hai chiếc cánh giống cánh chim ruồi của nó nghe như âm thanh giao thoa giữa tiếng cưa máy và tiếu còi tu huýt.
“FREEEEEK!” Freak quàng quạc.
“Được rồi anh bạn,” tôi nhất trí. “Ta hãy thoát ra khỏi đây nào!”
Chiếc thuyền đang kéo theo sau con này là kiểu thuyền Ai Cập cổ đại – có hình dạng như một chiếc ca nô ta đùng làm từ những bó giấy cói, được Walt hóa phép sao cho nó có thể bay trên không trung dù cho trọng lượng mang theo có là bao nhiêu đi nữa.
Lần đầu tiên bọn tôi bay trên chiếc Hãng hàng không Freak, chúng tôi buộc thuyền dưới bụng con Freak, làm vậy không được vững chãi cho lắm. Mà bạn lại không thể cưỡi lên lưng nó mà bay, vì cặp cánh dũng mãnh kia sẽ bằm bạn thành mảnh vụn. Thế nên thuyền kéo là giải pháp mới của chúng tôi. Tác dụng lắm cơ, trừ những lúc Felix gào lên với đám người thường, “Ho, ho, ho, Giáng Sinh an lành!”
Dĩ nhiên, đa số dân thường không thể nhìn rõ được pháp thuật, nên tôi không rõ bọn họ nghĩ mình đã trông thấy gì khi chúng tôi bay qua đầu họ. Chắc chắn nhìn thấy rồi sẽ khiến nhiều người trong số họ phải điều chỉnh lại lượng thuốc men.
Chúng tôi phóng vút vào trời đêm – cả bọn sáu người cùng hộp tủ nhỏ. Tôi vẫn không hiểu Sadie hứng thú gì với chiếc hộp bằng vàng đó, nhưng tôi tin tưởng con bé nên tin rằng hộp đó là quan trọng.
Tôi liếc xuống đống đổ nát từng là khu vườn điêu khắc. Hố lửa đang bốc khói kia trông như một cái mồm toang hoang, đang gào thét. Xe cứu hỏa cùng xe cảnh sát bao quanh hố tạo thành một đường viền đèn trắng đỏ nhấp nháy. Tôi băn khoăn không biết có bao nhiêu pháp sư đã bỏ mạng trong vụ nổ kia.
Freak tăng tốc. Hai mắt tôi cay xè, nhưng không phải vì gió. Tôi quay mặt đi để bạn bè không thể nhìn thấy được.
Sự lãnh đạo của mi tới số rồi. Apophis sẽ nói bất cứ điều gì để khiến chúng tôi hỗn loạn và làm chúng tôi nghi ngờ về nguyên nhân việc mình làm. Dẫu vậy, những lời của hắn vẫn làm tôi lo nghĩ.
Tôi không thích phải làm thủ lĩnh. Tôi cứ luôn phải ra vẻ tự tin vì lợi ích của những người khác, ngay cả những lúc tôi chẳng tự tin gì.
Tôi nhớ quá việc có Cha bên cạnh để dựa dẫm vào. Tôi nhớ chú Amos, chú đã chuyển đến Cairo để cai quản Ngôi Nhà Sự Sống. Còn về Sadie, cô em gái chuyên quyền của tôi ấy à, con bé lúc nào cũng ủng hộ tôi, nhưng nó đã bày tỏ rõ ràng là nó không muốn làm một nhân vật quyền lực. Chính thức thì, tôi chịu trách nhiệm về Nhà Brooklyn. Chính thức thì, tôi là người quyết định. Theo suy nghĩ của tôi, điều này có nghĩa nếu ta phạm sai lầm, như là khiến cho cả một khu vực bị quét sạch khỏi thế gian, thì lỗi là tại tôi.
Okay, Sadie thật ra sẽ không bao giờ trách tôi vì những chuyện như thế, nhưng đấy là những gì tôi cảm thấy thôi.
Mọi thứ mi cố gây dựng lên rồi sẽ đổ sụp…
Dường như thật khó tin rằng chưa được một năm từ khi Sadie và tôi lần đầu đi đến Nhà Brooklyn, hoàn toàn chẳng biết tí gì về dòng dõi cũng như pháp thuật của chúng tôi. Còn giờ thì chúng tôi lại đang cai quản nơi này – đang huấn luyện một quân đoàn pháp sư trẻ tuổi để chiến đấu chống lại Apophis sử dụng con đường của các thần, một loại pháp thuật đã không được luyện đến trong cả mấy ngàn năm. Bọn tôi đã tiến triển thật lắm – nhưng rồi, căn cứ vào cái cách trận chiến giữa chúng tôi và Apophis đã ngã ngũ tối nay, bao nỗ lực cảu chúng tôi vẫn còn chưa thấm thía gì.
Mi sẽ mất sạch những kẻ mà mi yêu quý nhất…
Tôi đã mất quá nhiều người rồi. Mẹ tôi mất khi tôi lên bảy. Năm ngoái Cha tôi đã hy sinh bản thân để trở thành vật chú cho Osiris. Cả mùa hè qua, rất nhiều đồng minh của chúng tôi đã ngã xuống vì Apophis, hay đã bị đánh úp và “biến mất” nhờ ơn những pháp sư nổi loạn không muốn chấp nhận chú Amos của tôi làm Pháp sư trưởng.
Tôi còn có thể mất ai khác nữa đây… Sadie à?
Không, không phải là tôi mỉa mai gì đâu. Mặc dù hầy như hết cả quãng đời chúng tôi không lớn lên cùng nhau – tôi thì chu du khắp nơi với Cha, còn Sadie sống tại Luân Đôn với ông bà ngoại – nhưng con bé vẫn là em gái tôi. Một năm qua chúng tôi đã trở nên thân thiết. Đúng là con nhỏ này khó chịu thật đấy. nhưng tôi cần em gái mình.
Wow, chán thật.
"Và đây là cú đấm vào tay mà tôi đang chờ đợi. Oái."
Hay có lẽ Apophis có ý nói đến người khác nhỉ, như là Zia Rashid chẳng hạn... Con thuyền của chúng tôi bập bềnh bên trên các vùng ngoại ô Dallas lấp lánh ánh đèn. Quàng quạc lên một tiếng bất khuất, Freak kéo chúng tôi vào Cõi Âm. Sương mù nuốt chửng con thuyền. Nhiệt độ hạ xuống mức cóng lạnh. Tôi cảm nhận được cảm giác nhột nhạt quen thuộc trong dạ dày, như thể chúng tôi đang từ trên đỉnh tàu lượn rơi thỏm xuống. Những giọng nói ma quái thì thào vọng ra từ màn sương.
Sadie hét lên. “Chẳng phải ông có một vài kiểu phép thuật GPS nào đó hay…”
“Bọn ta đang tìm kiếm,” Desjardins nói. “Nhưng các ngươi không nên lo lắng về Amos. Các ngươi sẽ phải ở lại đây. Các ngươi phải được… huấn luyện.”
Tôi cứ có cảm giác là ông ta sẽ nói từ khác, từ nào đó sẽ chẳng dễ nghe như được huấn luyện đâu.
Iskandar trực tiếp nói với tôi. Giọng ông ấy nghe khá là thân thiện.
“Thầy ta cảnh báo rằng các Ngày Đen Tối sẽ bắt đầu lúc xế chiều của ngày mai,” Desjardins dịch lại cho chúng tôi. “Hai người các ngươi phải được giữ cho an toàn.”
“Nhưng chúng tôi phải tìm kiếm cha mình!” tôi nói. “Các vị thần nguy hiểm đã được thả ra. Chúng tôi đã nhìn thấy Serqet. Và Set!”
Khi nghe những cái tên đó, nét mặt Iskandar đanh lại. Ông ấy quay đầu và nói với Desjardins điều gì đó như mệnh lệnh. Desjardins phản đối. Iskandar lặp lại lời tuyên bố của mình.
Chỉ đến lúc tôi bắt đầu nghĩ là bọn tôi đã đi lạc thì cơn chóng mặt của tôi mới hết. Sương mù tản đi. Chúng tôi trở lại vùng bờ Đông, đang xuôi thuyền qua cảng New York về phía những ánh đèn đêm của nhà cửa và bờ cảng khu Brooklyn.
Đại bản doanh của Vùng Hai Mươi Mốt nằm ghé bên bờ biển gần cầu Williamsburg. Những người phàm khả tử thì sẽ không nhìn thấy gì cả ngoài một cái nhà kho đổ nát to đùng giữa khu công nghiệp, nhưng với những pháp sư thì Nhà Brooklyn hiển hiện như ngọn hải đăng – một tòa nhà năm tầng xây bằng khối đá vôi và kính khung thép mọc lên từ nóc nhà kho, sáng bừng những đèn màu xanh lục và vàng.
Freak đậu trên mái nhà, nơi nữ miêu thần Bast đang chờ chúng tôi.
“Đám mèo con của ta còn sống này!” Nữ thần cầm lấy hai cánh tay tôi mà săm soi khắp lượt tìm vết thương, rồi cô cũng làm thế với Sadie. Cô chậc lưỡi vẻ không bằng lòng khi coi khám hai bàn tay băng bó của con bé.
Đôi mắt mèo phản ánh dạ quang của Bast có hơi chút làm cho người ta không thấy an tâm cho lắm. Mái tóc đen dài của cô được vuốt ra sau tết thành bím, còn bộ đồ ôm sát người kiểu diễn viên nhào lộn của cô lại thay đổi hoa văn mỗi khi cô di chuyển – lần lượt là vằn lông cọp, đốm da báo rồi loang mèo tam thể. Dù tôi yêu quý và tin tưởng Bast là thế, cô ấy vẫn làm tôi hơi chút lo lắng khi săm soi thăm khám theo kiểu “mèo mẹ” của mình. Bast dấu nhiều lưỡi dao trong ống tay áo – những lưỡi dao bằng sắt chết người có thể trượt ra từ hai bàn tay cô chỉ với một cú phẩy cổ tay – còn tôi thì lúc nào cũng sợ Bast phạm phải sai lầm, vuốt má tôi nhưng kết cục là cắt phăng đầu tôi mất. Ít ra cô ấy không thử túm gáy hay tắm rửa gì bọn tôi cả.
“Đã xảy ra chuyện gì?” Bast hỏi. “Mọi người an toàn chứ?”
Sadie run rẩy hít vào một hơi. “À, ừ…”
Chúng tôi thuật lại cho Bast nghe về vụ tàn phá tại quận Texas.
Bast gừ gừ trầm khàn trong cổ họng. Tóc tai cô dựng đứng lên nhưng bím tóc giữ cho chúng nằm yên nên cả đầu trông như một chảo bắp rang bơ Jiffy – Pop nóng rực. “Lẽ ra ta phải có mặt tại đấy. Lẽ ra ta đã có thể giúp được!”
“Không được đâu,” tôi nói. “Viện bảo tàng được bảo vệ quá chặt chẽ.”
Các thần hầu như không bao giờ có thể bước vào lãnh địa của pháp sư trong lốt hữu hình được. Giới pháp sư đã bỏ ra cả bao thiên niên kỷ để tạo dựng những khu vực được phù phép để ngăn chặn các thần. Chúng tôi đã gặp đủ thứ rắc rối khi phải chỉnh lại những khu vực trong Nhà Brooklyn để cho phép Bast đi vào mà không phải khiến bọn tôi sơ hở bị các vị thần kém thân thiện khác tấn công.
Đem Bast đến viện bảo tàng Dallas hẳn sẽ giống như cố mang một khẩu bazooka qua cổng an ninh trong sân bay – nếu không phải là hoàn toàn bất khả thi thì ít nhất cũng chậm chạp khó khăn kinh khủng. Chúng tôi cần cô ấy bảo vệ cho cứ địa lẫn các học viên vỡ lòng của chúng tôi. Trước đây đã có hai lần, kẻ thù của chúng tôi sém chút tiêu hủy dinh thự này. Bọn tôi chẳng muốn có lần thứ ba đâu.
Bộ đồ ôm của Bast chuyển sang màu đen tuyền, như là nó được tạo ra như thế mỗi khi cô ấy đầy tâm trạng. “Dù là vậy, ta sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân nếu các cháu…” Cô liếc sang đội quân hoảng sợ, mệt nhoài chúng tôi. “Mà thôi, ít nhất là mọi người đều trở về được an toàn. Bước tiếp theo là gì?”
Walt loạng choạng. Alyssa và Felix đỡ lấy cậu ta.
“Mình không sao,” cậu chàng ra sức thuyết phục, mặc cho rõ ràng là không phải thế. “Carter này, cậu có thể nhóm mọi người lại nếu cậu muốn. Họp trên sân thượng nhé?”
Walt trông như thể sắp lăn ra bất tỉnh. Walt sẽ chẳng bao giờ chịu thừa nhận chuyện này đâu, nhưng Jaz, bà lang chính yếu của chúng tôi, đã bảo với tôi rằng hiện tại mức độ đau đớn của Walt gần như lúc nào cũng là không thể chịu được. Cậu ấy có thể đứng được chỉ là nhờ Jaz liên tục xăm những chữ tượng hình giảm đau lên ngực cậu và cho cậu uống thủy dược. Biết là vậy, nhưng tôi vẫn yêu cầu Walt đến Dallas cùng chúng tôi – lại một quyết định nữa đang làm tim tôi trĩu nặng.
Những người còn lại trong nhóm của chúng tôi cũng cần được ngủ. Hai mắt của Felix sưng húp lên vì khóc. Alyssa thì trông như sắp sửa bị choáng.
Nếu giờ mà họp lại, tôi sẽ chẳng biết phải nói gì. Tôi không có kế hoạch nào cả. Tôi không thể đứng trước toàn khu vực mà không sụp đổ. Sau khi đã gây ra lắm cái chết tại Dallas thì tôi không thể nào không như thế được.
Tôi liếc sang Sadie. Hai anh em ngấm ngầm đồng tình.
“Chúng ta có thể họp vào ngày mai,” tôi nói với những người còn lại. “Các cậu đi chợp mắt chút đi. Chuyện đã xảy ra cho nhữn người Texas…” Giọng tôi nghẹn lại. “Thôi này, tôi biết các cậu cảm thấy thế nào. Tôi cũng đang cảm thấy như thế. Nhưng đây không phải là lỗi của các cậu.”
Tôi không chắc mọi người có thấy thuyết phục hay không. Felix chùi nước mắt khỏi má. Alyssa quàng tay qua Felix dìu cậu đến cầu thang. Walt trong cho Sadie cái liếc mà tôi chịu không biết cắt nghĩa là sao – có lẽ là nuối tiếc hay hối hận gì đấy – rồi đi theo Alyssa xuống lầu.
“Agh?” Khufu vuốt vuốt chiếc tủ vàng.
“Ừ,” tôi nói. “Mày đem nó xuống thư viện nhé?”
Đấy là căn phòng an ninh nhất trong dinh thự này. Tôi không muốn có chuyện gì xảy ra sau bao nhiêu là thứ chúng tôi đã hy sinh để giữ lấy cái tủ. Khufu lạch bạch mang tủ đi.
Freak mệt mỏi đến mức thậm chí còn không lết nổi đến cái chuồng cũ có mái che của mình. Nó chỉ cuộn mình ngay tại chỗ đáp xuống mà bắt đầu ngáy, người vẫn còn buộc vào chiếc thuyền. Phải bay qua vùng Cõi Âm đã lấy đi lắm sức lực của nó.
Tôi tháo cương buộc thuyền ra khỏi Freak và gãi gãi cái đầu lông lá của nó. “Cảm ơn nhé bạn hiền. Hãy mơ về những con gà tây to béo.”
Freak rúc lên trong giấc ngủ.
Tôi quay sang Sadie và Bast. “Chúng ta cần nói chuyện.”
Cũng đã gần đến nửa đêm, nhưng Phòng Lớn vẫn còn chộn rộn. Julian, Paul và vài người khác đang nằm phưỡn trên mấy chiếc trường kỷ, theo dõi kênh thể thao. Đám cạp-mắt-cá (ba nhóc thực tập sinh nhỏ tuổi nhất của chúng tôi) đang tô màu trang trên sàn nhà. Mấy bịch bim bim và lon nước ngọt vương vãi trên bàn nước. Giày dép được quẳng lung tung trên thảm da rắn. Ở giữa phòng, bức tượng thần Thoth cao hai tầng, cái đầu hình con cò của vị thần tri thức, chờn vờn lù lù trên đám thực tập sinh vỡ lòng của chúng tôi cùng với cuộn giấy viết và cây bút lông chim. Ai đó đã đặt một trong những chiếc mũ vành rơm cũ của chú Amos lên đầu bức tượng, khiến tượng trông như một tay nhà cái đang ra kèo cược trong một trận đá bóng. Một trong mấy em cạp-mắt-cá đã dùng chì màu tô lên mấy ngón chân bằng đá vỏ chai của pho tượng hai màu hồng và tím. Tại Nhà Brooklyn này bọn tôi rất biết tôn trọng bề trên.
Khi tôi cùng Sadie bước xuống cầu thang, mấy cậu trên trường kỷ đứng cả dậy.
“Kết quả thế nào?” Julian hỏi. “Walt mới đi qua, nhưng anh ấy chẳng chịu nói-”
“Nhóm của chúng ta được an toàn,” tôi đáp. “Vùng Năm Mươi Mốt thì… không được may mắn đến vậy.”
Julian nhăn mặt. Cậu ta biết tốt hơn là không nên hỏi thêm chi tiết trước mặt bọn nhỏ. “Anh có tìm được gì hữu dụng không?”
“Bọn mình cũng chưa rõ nữa,” tôi thú nhận.
Tôi muốn ngừng mọi chuyện ngang đấy, nhưng nhóc cạp-mắt-cá nhỏ tuổi nhất của chúng tôi, Shelby, lẫm chẫm bước đến khoe với tôi bức vẽ chì màu tuyệt sắc của mình. “Em giết một con rắn,” con bé tuyên bố. “Giết, giết, giết. Đồ rắn hư!”
Shelby vừa vẽ hình một con rắn trên lưng cắm một đống dao còn hai mắt bị gạch hai chữ X. Nếu Shelby mà vẽ hình này trên trường, chắc chắn bức tranh sẽ khiến con bé lãnh phải một chuyến lên gặp thầy tư vấn học đường ngay, nhưng tại đây ngay cả những bé nhỏ tuyệt nhất cũng hiểu được rằng có chuyện gì đó nghiêm trọng đang xảy đến.
Shelby nhe răng cười với tôi, tay lắc lắc bút chì màu như ngọn giáo. Tôi lùi lại. Có thể Shelby còn đang ở tuổi mẫu giáo đấy, nhưng con bé đã là một pháp sư thượng đẳng rồi. Mấy cây bút chì màu của con bé đôi lúc biến thành vũ khí, còn những thứ nó vẽ thường hay tách mình ra khỏi trang giấy – như là con bạch kỳ lân ba màu xanh, trắng đó là Shelby từng triệu gọi về vào ngày Bốn tháng Bảy ấy.
“Tranh đẹp kinh, Shelby à.” Tôi thấy như trái tim mình bị quấn chặt trong vải liệm xác ướp. Nhưng mọi nhóc con khác, Shelby ở đây với sự cho phép của bố mẹ. Các phụ huynh hiểu rằng số phận của thế giới đang hồi nguy biến. Họ biết Nhà Brooklyn là nơi thích hợp và an toàn nhất để Shelby kiểm soát được các quyền năng của mình. Tuy vậy, cái kiểu tuổi thơ gì dành cho con bé đây chứ, khi nó phải tập trung vào pháp thuật có khả năng tiêu diệt hầu hết mọi người lớn, học tập về các loại quái vật có khả năng khiến bất cứ ai cũng phải gặp ác mộng?
Julian vò rối tóc Shelby. “Nào nhóc cưng. Vẽ cho anh một bức tranh khác nhé?”
Shelby hỏi lại, “Giết hả?”
Julian đẩy con bé đi ra nơi khác. Sadie, Bast và tôi tiến về phía thư viện.
Hai cánh cửa gỗ sồi nặng nề mở ra cầu thang đi xuống một căn phòng thuôn hình trụ thênh thang như cái giếng. Trên trần nhà mái vòm là hình vẽ thần Nut, nữ thần bầu trời, cùng những chòm sao lấp lánh quanh thân hình màu xanh thẫm của bà. Nền nhà khảm gạch màu hình chồng bà, Geb, nam thần đất, thân hình ông ta phủ đầy những sông ngòi, đồi ụ và sa mạc.
Mặc dù đã khuya rồi, nhưng Cleo, cô nàng quản thủ thư viện tự phong của chúng tôi, vẫn bắt bốn bức tượng đất shabti của mình làm việc. Bốn người đất sét này hối hả chạy quanh phủi bụi kệ sách, sắp xếp lại các cuộn văn tự và phân loại sách trong những ngăn hình tổ ong dọc theo mấy bức tường. Bản thân Cleo đang ngồi tại bàn làm việc, chép lại ghi chú và một cuộn giấy cói trong lúc trò chuyện với Khufu, đang ngồi chàng hảng trên bàn trước mặt cô, vừa vuốt vuốt chiếc tủ cổ mới thu hoạch được của chúng tôi vừa lầm bầm tiếng của loài khỉ đột, như là: Ê Cleo, muốn mua một cái hộp bằng vàng không?
Nói đến can đảm thì Cleo không được can đảm lắm, nhưng cô nàng có trí nhớ cựu kỳ. Cô có thể nói được sáu thứ tiếng, bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ Bồ Đào Nha (Cleo là dân Bra-xin), tiếng Ai Cập cổ vùng vài từ bập bẹ ngôn ngữ khỉ đột. Cleo khoe tự mình đề ra nhiệm vụ lập một danh mục chủ cho mọi cuộn văn thư chúng tôi có và đã thu thập thêm nhiều cuộn nữa từ khắp nơi trên thế giới để giúp chúng tôi tìm ra thông tin về Apophis. Chính Cleo là người đã tìm thấy mối liên hệ giữa các cuộc tấn công gần đây của con mãng xà với những cuộn văn tự do pháp sư huyền thoại Setne thảo ra.
Cleo giúp ích rất lớn, mặc dù đôi khi cô nang cáu tiết lên khi phải dọn chỗ trong thư viện của cô ấy để chứa lấy bài vở của chúng tôi, để tạo ngăn truy cập internet, để cất những tạo tác kích cỡ lớn và để trữ những ấn phẩm tạp chí Cat Fancy thời trước của Bast.
Khi trông thấy chúng tôi đi xuống cầu thang, Cleo nhảy dựng lên. “Các cậu còn sống!”
“Đừng có ra giọng như ngạc nhiên đến thế chứ,” Sadie làu bàu.
Cleo bặm môi. “Ôi xin lỗi, tớ chỉ là… tớ mừng quá. Khufu vào đây có một mình, nên tớ thấy lo. Nó đang cố nói cho tớ biết điều gì đấy về cái hộp vàng, nhưng hộp này rỗng không. Các cậu có tìm ra Cuốn Sách để đánh bại Apophis không thế?”
“Cuộn văn tự ấy cháy mất rồi,” tôi bảo. “Bọn mình không thể cứu lấy nó.”
Cleo trông như thể sắp thét lên. “Nhưng đấy là bản sao cuối cùng rồi! Làm sao Apophis lại có thể tiêu hủy một thứ có giá trị đến vậy được?”
Tôi những muốn nhắc cho Cleo nhớ rằng Apophis thoát ra ngoài này là để tiêu hủy toàn bộ thế giới, nhưng tôi biết cô nàng không muốn nghĩ đến chuyện này. Nghĩ đến là khiến Cleo phát ốm vì sợ.
Nhưng bừng bừng phẫn nộ về cuộn văn tự lại dễ dàng hơn với Cleo. Ý tưởng rằng bất cứ ai cũng có thể tiêu hủy một quyển sách về bất cứ thể loại nào đều khiến cho Cleo muốn tương một quả đấm vào mặt Apophis.
Một trong mấy pho tượng shabti nhảy phóc lên bản. Nó cố dán một chiếc nhãn máy quét lên tủ nhỏ bằng vàng, nhưng Cleo đã xuỵt đuổi nó đi.
“Tất cả bọn anh, quay lại chỗ của mình đi!” Cleo vỗ tay, bốn pho tượng shabti quay lại bục tượng. Chúng biến ngược lại thành tuyền đất sét, mặc dù một tay vẫn còn đang mang đôi găng tay cao su và cầm chổi lông phủi bụi, trông cứ kỳ kỳ thế nào.
Cleo rướn người tới săm soi chiếc hộp vàng. “Trong này chẳng có gì cả. Sao các cậu lại mang về làm gì?”
“Đấy là chuyện mà Sadie, Bast và tôi cần phải thảo luận,” tôi đáp. “Cảm phiền cậu nhé, Cleo.”
“Có gì phiền đâu.” Cleo tiếp tục săm soi cái tủ. Rồi cô nàng nhận ra mọi người chúng tôi đang nhìn cô chăm chú. “Ồ… ý cậu là riêng tư chứ gì. Tất nhiên rồi.”
Trông cô nàng hơi chút bực bội vì bị đuổi ra ngoài, nhưng Cleo vẫn nắm lấy tay Khufu. “Đi nào, Babuibozinho. Ta lấy cho mày chút thức ăn vặt nào.”
“Agh!” Khufu phấn khởi đáp lại. Con này quý Cleo lắm, chắc là do tên của cô nàng. Vì những lý do nào đó mà chúng tôi chịu không hiểu nổi, Khufu rất thích những thức có kết thúc với đuôi – o, như là Avodados, Oreos và Armadillos.
Khi Cleo và Khufu đã đi khỏi, Sadie, Bast và tôi quây lại qanh vật vừa thu về.
Chiếc tủ nhỏ này có hình dạng như một bản thu nhỏ của tủ khóa trường học. Ngoại thất bằng vàng, nhưng ắt hẳn chỉ là một lớp dát mỏng bọc lấy phần gỗ, vì cả chiếc tủ không nặng gì mấy. Các mặt bên và phần nóc được khắc chìm những chữ tượng hình cùng những bức tranh về pharaoh và vợ. Mặt trước là cánh cửa đôi có then cài, mở ra để lộ… ừm, chẳng lộ gì nhiều cả. Trong đấy là một bục chân tượng bé xíu mang vết những dấu chân bằng vàng, như thể một con búp bê barbie thời Ai Cập cổ đại đã từng đứng trên ấy.
Sadie chăm chú nghiên cứu những chữ tượng hình dọc hai bên hộp. “Đều là nói về Tut và hoàng hậu của ông ta, cầu chúc cho họ một đời sống hạnh phúc nơi cõi âm, blah blah blah. Có một bức tranh về ông ta đang săn vịt. Phải không đấy? Đấy là ý tưởng về thiên đường của ông đấy ư?”
“Ta thích vịt,” Bast nói.
Tôi xoay hai cánh cửa nhỏ tới lui trên bản lề. “Chẳng biết sao nhưng cháu không nghĩ mấy con vịt là quan trọng đâu. Dù trong này có gì đi nữa, thì giờ thứ ấy đã biến mất rồi. Có lẽ mấy kẻ cướp mộ đã lấy nó đi, hoặc là-“
Bast khúc khích. “Bọn cướp mộ đã lấy nó đi. Phải rồi.”
Tôi cau mày nhìn cô ấy. “Có gì buồn cười ạ?”
Bast cười toe với tôi, rồi với Sadie, trước khi có vẻ ý thức rõ được là chúng tôi không hiểu lời bông đùa này. “Ồ… ta hiểu rồi. Các cháu thật sự không biết đây là gì. Ta nghĩ thế cũng phải thôi. Không có nhiều cái còn tồn tại đâu.”
“Không nhiều cái gì cơ?” tôi hỏi.
“Hộp đựng bóng.”
Sadie chun mũi. “Chẳng phải đấy là một kiểu bài tập ở trường gì đấy sao? Cháu từng làm một bài như thế cho môn tiếng Anh. Chán muốn chết được.”
“Ta thì không biết gì về bài tập ở trường đâu,” Bast ngạo mạn đáp. “Nghe có vẻ đáng ngờ như là làm việc vậy. Nhưng đây mới thật là hộp đựng bóng – là một chiếc hộp cất giữ hình bóng.”
Nghe không có vẻ gì như là Bast đang nói đùa cả, nhưng mà với giống mèo thì cũng khó nhận biết được lắm.
“Cái bóng lúc này đang ở ngay trong ấy đấy,” Bast thuyết phục. “Các cháu không nhìn ra ư? Một chút hình bóng mờ mịt của Tut. Chào bóng Tut!” Bast ngọ nguậy ngón tay và trong chiếc hộp rỗng. “Đấy là lý do vì sao ta cười khi cháu bảo chắc là đám cướp mộ đã đánh cắp nó đi rồi. Haha! Phải giở lắm trò mới làm được như thế.”
Tôi cố hiểu cho ra chuyện này. “Nhưng mà… Cháu từng nghe Cha giảng giải đủ trò về mọi món cổ vật Ai Cập khả dĩ được tạo thành. Cháu chưa từng một lần nào nghe Cha nhắc đến hộp đựng bóng cả.”
“Như ta đã bảo rồi đấy thôi,” Bast nói, “không nhiều thứ này còn tồn tại đâu. Thường thì một hộp đựng bóng được chôn cách phần hồn còn lại rất xa. Tut đúng thật là ngớ ngẩn khi lại cho chôn hộp này ngay trong mộ mình. Có lẽ một trong mấy tay tư tế cãi lệnh Tut mà bỏ hộp lại đấy, vì căm ghét thôi.”
Giờ thì tôi hoàn toàn mù tịt. Nhưng ngạc nhiên thay là Sadie đang hăm hở gật gù.
“Đấy hẳn là điều mà Anubis muốn nói đến,” Sadie bảo. “Hãy chú ý đến thứ không có ở đấy. Khi nhìn vào Cõi Âm, cháu trông thấy bóng tối bên trong hộp. Còn chú Vinnie thì lại bảo đấy là manh mối để đánh bại Apophis.”
Tôi giơ tay làm hiệu chữ T “Ngừng hội ý.” “Khoan đã. Sadie, em gặp Anubis khi nào vậy? Với lại tụi mình có ông chú tên Vinnie từ lúc nào thế?”
Sadie trông hơi lúng túng, nhưng rồi cũng kể lại lần chạm trán với gương mặt trên tường, sau đấy là những cảnh mà con bé mơ thấy về mẹ chúng tôi cùng Isis và người có-vẻ-là-bạn-trai ngoan đạo Anubis của nó. Tôi biết là sức tập trung của em gái mình thường phân tán đi lung tung lắm, nhưng đến ngay cả tôi cũng thấy ấn tượng về số lượng những chuyến dạt lề thần bí mà con bé đã lang thang vào, khi chỉ đang đi qua bảo tàng mà thôi.
“Gương mặt trên tường kia có thể là một cú lừa đấy,” tôi bảo.
“Cũng có thể… nhưng em lại không nghĩ thế. Gương mặt ấy nói là chúng ta cần đến sự giúp đỡ của ông ấy, mà chúng ta thì chỉ còn được hai ngày thôi trước khi có chuyện gì đấy xảy đến với ông ta. Ông ta bảo em rằng chiếc hộp này sẽ cho chúng ta thấy thứ chúng ta cần. Anubis gợi ý rằng khi cứu lấy cái tủ này là em đang đi đúng hướng. Với lại mẹ thì…” Sadie ngập ngừng. “Mẹ bảo đây là cách duy nhất để chúng ta có thể được gặp lại bà. Có chuyện gì đấy đang xảy ra cho những linh hồn của người chết.”
Thốt nhiên tôi thấy mình như đang quay lại Cõi Âm, với sương mù lạnh cóng quấn quanh mình. Tôi nhìn chăm chú vào trong hộp, nhưng vẫn chẳng trông thấy thứ gì cả. “Làm cách nào mà các hình bóng lại trói buộc vào Apophis và các linh hồn của người chết được thế?”
Tôi nhìn sang Bast. Cô ấy bấu đầu móng tay và bàn, sử dụng bàn như là nơi quào cấu, như thường hay làm khi đang căng thẳng. Bọn tôi sắm sửa nhiều bàn lắm.
“Bast này?” Sadie nhẹ nhàng hỏi.
“Apophis và các bóng,” Bast ngâm nga. “Ta chưa khi nào nghĩ đến…” Cô lắc đầu. “Đây quả thật là những câu hỏi mà các cháu nên hỏi thần Thoth. Ông ta biết nhiều hơn ta.”
Ký ức ùa về. Cha tôi đang giảng bài tại một trường đại học nơi nào đó… Munich chăng? Sinh viên có hỏi ông về khái niệm về tâm hồn của người Ai Cập, khái niệm này bao gồm nhiều phần, và Cha tôi đã có nhắc gì đấy đến hình bóng.
Như một bàn tay có năm ngón tay, Cha tôi đã bảo. Một tâm hồn có năm phần.
Tôi giơ mấy ngón tay mình ra, cố mà nhớ lại. “Năm thành phần của tâm hồn… chúng là gì ấy nhỉ?”
Bast vẫn im lặng. Cô trông khá là bất an.
“Carter này?” Sadie hỏi. “Chuyện này có liên quan gì đến-?”
“Thì cứ trả lời anh đi,” tôi đáp. “Phần thứ nhất là ba, phải không nào? Là tính cách của chúng ta ấy.”
“Trong hình dáng con gà,” Sadie nói.
Cứ giao cho Sadie thì con bé sẽ đặt biệt danh cho các thành phần trong tâm hồn chúng ta theo tên gia cầm ngay, nhưng tôi hiểu ý con bé. Phần ba có thể rời bỏ thân xác khi chúng ta ngủ mơ, hoặc nó có thể quay lại dương thế như là một hồn ma sau khi chúng ta chết đi. Khi đấy, ba sẽ xuất hiện dưới hình dạng một con chim to lớn tỏa sáng hào quang mang đầu người.
“Phải. Hình dáng con gà. Rồi đến phần ka, là nguồn sinh lực sẽ rời bỏ thân xác khi chết đi. Rồi đến phần ib, là con tim-”
“Là kỷ yếu về những việc làm tốt lẫn xấu,” Sadie đồng tình. “Đấy là phần được người ta đong đếm trên các cân công lý ở kiếp sau.”
“Và thứ tư là…” tôi lưỡng lự.
“Phần ren,” Sadie tiếp lời. “Danh tính bí ẩn của anh.”
Tôi ngượng quá không dám nhìn và mặt Sadie. Mùa xuân rồi con bé đã cứu mạng tôi bằng cách gọi bí danh của tôi ra, làm thế thì cơ bản đã cho phép con bé quyền đi vào những suy nghĩ riêng tư và tình cảm bí mật nhất của tôi. Từ dạo ấy Sadie tỏ ra bình thản về chuyện này lắm, ấy nhưng mà… đấy không phải là một loại cơ tay trên mà to muốn trao cho em gái mình bao giờ.
Ren cũng là phần hồn mà người bạn Bes của chúng tôi đã hy sinh trong trận chiến cá cược giữa chúng tôi và thần mặt trăng Khonsu sáu tháng trước. Giờ đây Bes chỉ còn là mọt cái xác thần rỗng, đang ngồi trên xe lăn trong bệnh xá cho thánh thần nơi Địa Ngục.
“Phải rồi,” tôi nói. “Nhưng phần thứ năm…” tôi nhìn sang Bast. “Là phần bóng, phải không nào?”
Sadie cau mày. “Là bóng à? Làm sao bóng lại có thể là một phần trong tâm hồn ta được? Chỉ là một cái bóng thôi, đúng không? Chỉ là trò lừa mị của ánh sáng.”
Bast giơ một tay lên trên bàn. Những ngón tay cô ta tỏa ra một hình bóng mờ ảo trên mặt gỗ. “Ta sẽ không bao giờ thoát khỏi bóng của chính mình – gọi là sheut. Mọi sinh vật đều có bóng.”
“Cả mấy hòn đá, viết chì hay giày dép cũng thế,” Sadie bảo. “Vậy có nghĩa là chúng cũng có tâm hồn ư?”
“Cháu biết rõ hơn thế mà,” Bast quở. “Sinh vật thì khác với đất đá chứ… à, ít ra đa phần là vậy. Sheut không đơn thuần chỉ là một cái bóng không đâu. Mà nó là một phép hiện hình kỳ diệu – là hình bóng của tâm hồn.”
“Thế chiếc hộp này…” tôi nói. “Khi cô bảo hộp này đang cất giữ bóng của vua Tut-”
“Ý ta là nó đang giữ một phần năm tâm hồn ông ta,” Bast xác nhận. “Hộp này chứ đựng sheut của pharaoh để phần này sẽ không bị thất lạc trong cõi âm.”
Đầu óc tôi có cảm giác như sắp nổ tung. Tôi biết mấy cái chuyện về bóng hình này phải là rất quan trọng, nhưng tôi lại không hiểu quan trọng thế nào. Cứ như là tôi vừa được quẳng cho một mảnh ghét trong trò ghép hình, nhưng lại không phải cho trò ghép hình phải có.
Chúng tôi đã thất bại không cứu được mảnh ghép đúng – là cuộn văn tự không thể thay thế được có khả năng giúp chúng tôi đánh bại Apophis – rồi chúng tôi cũng thất bại không cứu được cả một khu vực đầy những pháp sư thân thiện. Tất cả những gì chúng tôi có thể trưng ra được từ chuyến đi vừa rồi là một chiếc tủ rỗng được trang trí với tranh ảnh về mấy con vịt. Tôi những muốn đạp cho chiếc hộp đựng bóng của vua Tut lăn lông lóc.
“Những hình bóng thất lạc,” tôi làu bàu. “Nghe cứ như truyện Peter Pan.”
Hai mắt Bast long lên như những chiếc lồng đèn giấy. “Thế cháu nghĩ cái gì đã gợi cảm hứng cho câu chuyện về chiếc bóng bị mất của Peter Pan hử? Bao thế kỷ này đã có rất nhiều câu chuyện dân gian về hình bóng rồi đấy, Carter ạ - tất cả đều bắt nguồn từ thời Ai Cập đấy.”
“Nhưng thế thì giúp gì được cho chúng ta?” tôi cật vấn. “Cuốn Sách để đánh bại Apophis thì may ra còn giúp được. Mà giờ nó tiêu mất rồi!”
Okay, tôi nghe có vẻ giận dữ đấy. Tôi đang giận dữ mà.
Việc nhớ lại bài giảng của Cha khiến tôi lại muốn trở về thời con nít, chu du khắp thế giới cùng ông. Cha con tôi đã cùng nhau kinh qua nhiều trò kỳ quặc, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy an toàn và được bảo bọc. Cha luôn biết phải làm gì. Giờ đây những gì tôi còn lại được từ khoảng thời gian ấy là chiếc vali, đang nằm gom bụi trong tủ chìm trên lầu của tôi.
Thật chẳng công bằng gì cả. Nhưng tôi biết Cha mình sẽ nói gì về điều này: Công bằng nghĩa là mọi người đều có được thứ họ cần. Và cách duy nhất để đạt được thứ con cần là tự con phải làm cho chuyện ấy xảy ra.
Hay quá Cha nhỉ. Con đang đối mặt với kẻ thù ngoài sức tưởng tượng, còn thứ mà con cần để đánh bại được hắn thì vừa mới bị tiêu hủy mất rồi.
Hẳn là Sadie đã đọc được vẻ mặt tôi. “Carter à, tụi mình sẽ tìm ra cách thôi mà,” con bé hứa hẹn. “Bast, lúc này cô định nói gì về Apophis và mấy cái bóng ấy.”
“Nào có,” Bast lầm bầm.
“Sao cô lại bồn chồn về chuyện này quá vậy?” tôi hỏi. “Các vị thần có bóng hay không? Apophis có không? Nếu có, thì bóng của họ hoạt động thế nào?”
Bast dùng móng tay khoét khoét vài chữ tượng hình lên bàn. Tôi khá đoan chắc mấy chữ này có nghĩa là: NGUY HIỂM.
“Nói thật nhé, mấy đứa ạ… đây là câu hỏi dành cho Thoth. Phải, thánh thần cũng có bóng chứ. Tất nhiên là bọn ta có rồi. Nhưng mà – nhưng mà đây không phải là chuyện bọn ta được phép nói đến.”
Hiếm khi nào tôi lại thấy Bast có vẻ bị kích động đến vậy. Không rõ là vì sao. Đây là vị nữ thần từng chiến đấu chống lại Apophis mặt đối mặt, vuốt đối nanh cơ mà, trong một nhà tù phép thuật cả ngàn năm rồi ấy. Thế sau cô ta lại e sợ mấy cái bóng chứ?
“Bast này,” tôi bảo, “nếu chúng ta không nghĩ ra được giải pháp nào tốt hơn, thì chắc sẽ phải chuyển sang kế hoạch B thôi.”
Vị nữ thần cau mày. Sadie chán ngán nhìn trừng trừng xuống bàn. Kế hoạch B là điều mà chỉ có Sadie, Bast, Walt và tôi từng bàn thảo đến. Những học viên vỡ lòng khác của chúng tôi không biết đến kế hoạch này. Thậm chí chúng tôi còn chưa nói cho chú Amos biết. Kế hoạch này đáng sợ đến mức ấy đấy.
“Ta – ta ghét như thế lắm,” Bast đáp. “Nhưng Carter ạ, ta thật sự không biết lời đáp đâu. Còn nếu cháu bắt đầu hỏi han về bóng thì cháu sẽ phải đào bới vào trong vùng vô cùng nguy hiểm-”
Có tiếng gõ lên cửa thư viện. Cleo và Khufu xuất hiện ngay đầu cầu thang.
“Xin lỗi đã quấy rầy,” Cleo nói. “Carter này, Khufu mới từ phòng cậu đi ra. Hình như nó đang nôn nóng muốn được nói chuyện với cậu đấy.”
“Agh!” Khufu nài nỉ.
Bast dịch lại ngôn ngữ khỉ đột. “Nó bảo có lời triệu gọi cậu từ chậu nước bói cầu đấy Carter. Lời triệu riêng tư.”
Cứ như là tôi chưa bị đủ áp lực không bằng. Chí có một người triệu gọi tôi qua hình ảnh bói cầu, và nếu cô ấy đang liên lạc với tôi giữa lúc khuya khoắt thế này thì hẳn phải là tin xấu rồi.
“Cuộc họp giải tán,” tôi bảo những người còn lại. “Gặp lại mọi người vào sáng mai.”
Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn