Ancient lovers believed a kiss would literally unite their souls, because the spirit was said to be carried in one’s breath.

Eve Glicksman

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1149 / 33
Cập nhật: 2017-07-24 16:14:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
rời đã vào giữa thu. Buổi sáng thức dậy thấy se se lạnh. Sương non đọng mờ mờ dưới chân đê khuất gió. Đó cũng là lúc vào mùa câu cá rô đầm Vực
Bọn trẻ chúng tôi bắt đầu chuẩn bị mồi câu. Chúng tôi luộc khoai sọ, bóc vỏ. Sau đó chúng tôi cho khoai sọ vào cối giã cua, giã cùng thính và mẻ chua. Khoai sọ được giã, quánh lại với mẻ chua, thính rang tỏa mùi thơm phức, béo ngậy.
Chúng tôi bọc mồi câu vào một chiếc lá khoai nước, mang cần câu ra đầm Vực. Sang thu, đầm Vực vắng lặng. Nước đầm Vực có rút đi và sẫm lại. Mỗi đứa trẻ xóm trại đến chọn cho mình một chỗ ngồi câu kín đáo. Anh em tôi vẫn đến địa điểm câu năm ngoái ở cạnh một gốc si già, xung quanh được che kín bằng đủ các loại cây như cây vú bò, cây cứt lợn, cây tóc tiên và những đám dây đậu dại. Hai anh em tôi chui vào giữa những bụi cây. Mặt nước đầm Vực chỗ chúng tôi ngồi sẩm tối bởi bóng tán lá si đổ xuống. Tôi vê một mẩu mồi câu bằng hạt đỗ tương móc vào lưỡi câu buông xuống mặt nước yên tĩnh.
Mấy năm gần đây, cứ sang giữa thu là anh em tôi đi câu cá rô. Vào những mùa câu cá rô, cái vại sành nhà tôi lúc nào cũng có hơn chục con cá rô lớn để ăn dần. Đó cũng là mùa trồng rau cải dọc bãi sông. Bà tôi thường hay nấu món canh cải cá rô. Mỗi lần nấu, bà tôi chỉ bắt hai con cá rô. Bà tôi luộc cá rô, rồi sau đó gỡ thịt để riêng. Phần xương và phần đầu cá được giã kỹ, sau đó lọc lấy nước như lọc cua nấu canh. Chẳng bao giờ bà quên đập một lát gừng cho vào nồi canh. Khi nào chúng tôi câu được nhiều cá thì bà làm món cá rô nướng. Cá rô nướng chấm với tương gừng là món ăn chúng tôi rất thích. Bữa nào có cá rô nướng bố tôi lại lôi hũ rượu trong gầm giường ra.
Cá rô đầm Vực nổi tiếng cả một vùng. Vì đầm Vực không thể nào tát cạn được nên lũ cá rô sống được rất lâu năm. Cá rô đầm Vực con nào cũng mốc thếch, ngạnh cứng như đinh, đầu bạc trắng. Có lúc đang mổ cá thấy dao cùn, bà tôi liếc lưỡi dao vào đầu một con cá rô cứng hơn cả miếng đá mài. Chỉ sau đó một lúc, lưỡi dao đã sáng loáng sắc lẻm.
Hai anh em tôi ngồi câu và ngắm nhìn những con gọng vó chạy loăng quăng. Thằng Mên sốt ruột:
- Sao lâu thế mà cá không cắn
Tôi bảo:
- Cá rô chứ không phải lũ tép mại, mày hiểu chưa.
Thằng Mên lại hỏi:
- Thế con cá thần có cắn câu không?
Tôi bĩu môi:
- Mày dốt lắm. Mồi câu này cá thần chỉ hắt hơi một cái là bay.
Lúc đó, chiếc phao câu khẽ nháy. Tôi ra hiệu cho thằng Mên im lặng. Chiếc phao nháy chậm và đều, rồi từ từ chìm xuống.
- Giật đi, anh! - Thằng Mên kêu lên.
Tôi giật mạnh. Đầu cần câu trĩu xuống, cước căng xiết. Chỉ một loáng, một chú cá rô đực dài hơn gang tay đã được kéo lên. Hai anh em tôi vất vả mãi mới gỡ được con cá và tống vào giỏ.
Khi hai anh em tôi đang ngồi câu thì nghe tiếng sột soạt ở gần đó và tiếng người nói chuyện. Tôi nhận ra đó là tiếng lão Bương và một người đàn ông khác.
- Ông quyết dùng cái thứ ấy à?
- Hết cách rồi - Lão Bương nói - Bây giờ là mùa nước đầm cạn, dễ tính lắm.
- Bao giờ thì thực hiện
- Tối nay thôi. Có vậy tôi mới tìm ông. Khoảng quá nửa đêm tôi sẽ cho nổ. Gần sáng, ông và mấy thằng con nhà tôi ra đầm vớt cá.
- Đã chuẩn bị xong chưa?
- Chiều nay tôi gói thuốc nổ.
- Cẩn thận đấy nhé.
- Sợ đếch gì. - Giọng lão Bương hùng hổ. - Tôi làm trò này mãi rồi. Nhớ là không lộ cho ai biết đấy.
Khi lão Bương đi rồi, thằng Mên hỏi:
- Ông Bương định làm gì thế anh?
- Lão ấy đánh mìn. - Tôi nói - Lão Bương muốn bắt con cá thần.
- Cá thần có sợ mìn không?
- Tao không biết, nhưng…
Tôi không biết nói với thằng em tôi thế nào. Trong đầu tôi đã có một kế hoạch. Tôi giục thằng Mên về.
Buổi chiều tôi đi qua sân nhà lão Bương, giả vờ vào xin nước uống. Tôi ngậm chiếc gáo dừa, nhưng không uống nước. Tôi quan sát xung quanh và nhận thấy lão Bương đang gói một bọc gì đó ở trong bếp. Tôi nghĩ ngay là lão đ gói thuốc nổ.
Sau khi rời nhà lão Bương, tôi đi tìm mấy đứa bạn trong xóm nói cho chúng nghe chuyện lão Bương sẽ dùng mìn để giết con cá. Bàn bạc với nhau mãi, chúng tôi quyết định sẽ lẻn vào bếp nhà lão để đánh cắp quả mìn.
Buổi tối ăn cơm xong, tôi nói dối mẹ là vào làng thăm bà ngoại. Mấy đứa chúng tôi tập trung trên đê. Từ trên đê nhìn xuống, chúng tôi thấy hiên nhà lão Bương sáng đèn và tiếng anh con cả lão: “Bố thôi đi, say rồi đấy”. Sau đó là tiếng lão Bương: “Hôm nay tao phải uống cho sướng để tối còn làm việc lớn”. Một lúc sau, anh con cả lão Bương đi ra ngõ, lão Bương gọi với theo: “Đi đâu thì nhớ về nhà, khuya có việc đấy”.
Anh con cả đi rồi, lão Bương cầm đèn đi ra chuồng bò lúi húi xem cái gì đó. Rồi lão cầm đèn đi vào nhà. Tôi nói với mấy đứa bạn:
- Hành động thôi chúng mày ạ.
- Chắc ăn chưa?
- Chỉ còn mình lão ở nhà thôi, mà lại say rượu nữa.
- Thế mày biết lão để quả mìn ở đâu không?
- Tao thấy lão gói mìn ở trong bếp. - Tôi nói. - Nhưng bây giờ chắc lão để ở chuồng bò. Lúc nãy thấy lão cầm đèn ra đấy.
- Thôi, cứ vào chuồng bò trước.
Bọn trẻ chúng tôi lặng lẽ đi xuống chân đê. Chúng tôi men theo bờ rào cây dứa dại ở vườn nhà lão Bương. Đêm nhờ nhờ trăng. Chúng tôi quá quen thuộc đường ngang ngõ tắt của khu xóm trại. Mùa hạ, lũ trẻ con xóm trại thường tập trung trên mặt đê, sau đó chia nhau ra từng nhóm đi lấy trộm hoa quả ở các nhà trong xóm trại. Đôi khẫn lũ bạn lẻn vào vườn cắt cả buồng chuối, phủ lá xoan cho chóng chín. Sau này phát hiện ra, chúng tôi vẫn chứng nào, tật ấy. Bởi ở xóm trại heo hút này, chúng tôi chẳng biết chơi trò gì vào buổi tối của kỳ nghỉ hè ba tháng dài vô tận.
Tôi dẫn đầu lũ trẻ tìm lối chui vào vườn nhà lão Bương. Chúng tôi cúi người đi đến sát chuồng bò. Mùi nước đái bò nồng nặc bốc lên cùng với muỗi bay như trấu.
- Vào đi. - Một đứa thì thầm.
Chúng tôi tìm cửa chuồng bò chui vào. Thấy người, con bò phì mạnh một cái làm chúng tôi giật mình túm vào nhau.
- Không có gì đâu! - Tôi nói run run - Có mỗi con bò thôi.
- Nhưng quả mìn nó như thế nào?
- Cứ tìm đi rồi thì biết -Tôi thì thầm - Mỗi đứa tìm một góc.
Lũ trẻ chúng tôi bắt đầu rờ rẫm. Chuồng bò lỉnh kỉnh đủ thứ, nào cuốc, xẻng, cày, rổ rách…
- Ối giời! - Tiếng một đứa kêu lên.
- Làm sao thế?
- Tao thọc tay vào đống phân bò rồi.
Có tiếng một đứa cười hinh híc.
- Cười cái gì mà cười.
- A, lại đây, lại đây.
- Thấy rồi à? - Tôi vội hỏi nhỏ.
- Không phải. Ở đây có sọt cỏ, lại mà lau tay.
Đứa bị dính phân bò mò mẫm bước lại. Nó vừa lấy cỏ lau phân bò vừa làu bàu trong miệng. Chợt nó kêu lên khe khẽ:
- A, cái gì đây này, Mon, lại đây mà xem.
Tôi vội bước lại bên sọt cỏ. Lúc này chúng tôi đã quen với bóng tối trong chuồng bò. Vì vậy mọi vật như rõ hơn.
Tôi cầm lấy cái vật thằng bạn đưa cho và khẽ reo lên:
- Đúng rồi. Đúng là quả mìn chúng mày ạ.
- Cẩn thận, nó nổ thì tan xác đấy.
- Thôi chuồn đi.
Ngay lúc đó, có tiếng người ngoài sân. Chúng tôi hoảng hốt nhìn ra, nhận thấy lão Bương đang cầm đèn đi về phía chuồng bò.
- Chạy đi. - Một đứa giục.
- Không được. - Tôi nói - Chạy bây giờ là lão ấy biết ngay. Cứ nằm
Mấy đứa chúng tôi nép vào nhau. Chúng tôi nhìn rõ lão Bương nên cứ tưởng lão cũng nhìn rõ chúng tôi. Lão Bương vẫn mỗi lúc một gần chuồng bò. Ánh đèn từ tay lão đã hắt vào cửa chuồng bò. Chúng tôi nép người sau đít con bò. Khi đến trước cửa chuồng bò, lão Bương dừng lại vạch quần đái. Vừa đái, miệng lão vừa tóp tép. Sau đó, lão bước vào cửa chuồng bò. Mặt tôi nóng rát. Lão Bương giơ ngọn đèn lên nhìn con bò và cười:
- Ngoan nhé, ăn uống no say rồi chứ, bò?
Nói xong, lão Bương cầm đèn quay vào nhà. Chúng tôi vội vã ôm quả bộc phá (mà chúng tôi quen gọi là mìn) chui ra khỏi vườn lão Bương, chạy thục mạng lên mặt đê.
Cả bọn nằm vật ra mặt đê, thở dốc. Một lát sau, chúng tôi ngồi dậy bàn cách giấu quả mìn.
- Vứt xuống sông cho nó trôi đi. - Một đứa nói.
Đứa khác cãi.
- Không được đâu. Nguy hiểm lắm.
- Hay là giấu vào gò cây dứa ấy.
- Càng chết, đến lúc rét bọn nó hay đốt cây dứa khô lắm.
- Tớ bảo thế này nhé. - Tôi đề nghị. - Chúng mình đào một cái hố sâu, chôn quả mìn xuống là yên tâm.
- Phải rồi. Phải rồi. - Cả bọn nhao nhao đồng ý.
Chúng tôi n công một đứa về lấy xẻng. Sau đó cả bọn kéo nhau đến gò đất mọc đầy những cây dứa dại. Chúng tôi chọn một nơi kín đáo, thay nhau đào hố, khá sâu.
Khi chúng tôi chôn xong quả mìn thì sương đêm đã ươn ướt trên cỏ. Trước khi chia tay, lũ trẻ ngoắc tay nhau thề không được nói cho ai biết. Nếu đứa nào để lộ thì cả bọn sẽ không cho chơi cùng nữa.
Về đến nhà tôi bị bố tôi mắng cho một trận vì tội nói dối. Vì thấy tôi về muộn, mẹ tôi vào làng tìm tôi. Bà ngoại nói với mẹ tôi là không thấy tôi vào làng.
Khi lên giường đi ngủ, thằng Mên hỏi:
- Anh đi đâu về đấy?
- Mày hỏi làm gì?
- Anh đi chơi mà không cho em đi nhé.
- Việc đêm nay mày không thể đi được.
- Các anh làm gì thế. - Thằng Mên năn nỉ. - Nói cho em nghe với nào.
- Không thể nói cho ai nghe được.
- Vì sao?
- Chúng tao đã thề rồi, mày đừng hỏi nữa.
Tôi đã thiu thiu ngủ, chợt nghe tiếng ầm ĩ từ phía nhà lão Bương. Tôi dỏng tai nhưng không nghe rõ. Khi bà tôi lên giường đi ngủ, tôi hỏi:
- Người ta cãi nhau gì thế, bà?
- Bố con nhà ông Bương cãi nhau vì mất cái gì đấy.
Nghe bà nói, tôi cười khúc khích. Bà tôi hỏi:
- Tối nay cháu đi đâu?
Tôi im lặng. Bà bảo:
- Lần sau không được nói dối mẹ nhé.
- Vâng ạ! - Tôi đáp - Nhưng cháu không đi chơi đâu.
- Thế thì đi đâu? Sao bố cháu hỏi không trả lời.
- Vì cháu hứa với bạn cháu rồi.
- Không được làm việc xấu cháu ạ.
- Cháu không làm việc xấu đâu. Lẽ ra cháu nói với bà. Nhưng chúng cháu đã thề với nhau không được nói với ai.
- Ừ, đã thề thì… phải giữ lời thề.
- Vâng.
Tôi đáp nhỏ và chìm dần vào giấc
Tôi mơ thấy lão Bương tìm được quả mìn mà chúng tôi đã chôn sâu dưới đất. Lão Bương khoái chí cười sằng sặc. Lão ôm quả mìn đi ra bờ đầm. Lão đứng bên bờ đầm, ngực phanh áo, tay cầm quả mìn có dây cháy chậm đang phì phì phun khói. Lão giơ cao quả mìn và gọi to: “Hỡi con cá ma quỷ, tao sẽ cho mày ăn quả mìn này, rồi tao sẽ mổ bụng mày ra, lấy bộ lòng nhắm rượu”.
Nói xong, lão Bương ném quả mìn xuống lòng hồ. Quả mìn nổ. Một lúc sau con cá từ từ nổi lên. Hai cái vây của nó rách bươm. Cùng với con cá là những bức tượng gỗ của ngôi chùa đồng loạt đội nước đứng lên. Những bức tượng phủ đầy rêu từ từ lội vào bờ. Đi sau những bức tượng kia là một nhà sư già. Và sau nhà sư già là bà tôi và ông Bộc. Chợt tôi nghe tiếng bà tôi lay gọi:
- Gì đấy Mon? Ngủ mê hả cháu? Thôi ngủ đi, chạy đuổi suốt ngày rồi đêm lại ngủ mê.
- Bà ơi…
Tôi định kể cho bà về việc chúng tôi ăn cắp quả mìn của lão Bương. Nhưng tôi vội thôi khi nhớ đến lời thề của lũ trẻ chúng tôi.
- Ngủ đi cháu.
Giọng bà tôi ấm áp. Tôi kéo chiếc chăn chiên lên tận cổ, nằm im lặng.
Đêm mùa thu se lạnh và vắng lặng lạ thường. Đã mấy tháng nay, không ai nghe thấy tiếng con cá thần quẫy trong đêm. Những đêm như thế, tôi thường dỏng tai trong đêm để nghe tiếng “i i” từ đâu đó ngoài đầm Vực vọng về. Nhưng tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng côn trùng quanh nhà và tiếng lá vườn trong những đêm có gió. Tôi tin rằng con cá thần đã theo sông Đáy ra biển. Có lẽ mùa hạ năm sau nó mới trở về.
Bí Mật Hồ Cá Thần Bí Mật Hồ Cá Thần - Nguyễn Quang Thiều Bí Mật Hồ Cá Thần