From my point of view, a book is a literary prescription put up for the benefit of someone who needs it.

S.M. Crothers

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Heller
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Catch 22
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 21
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thượng Sĩ White Halfoat
ác sĩ Daneeka sống ở một căn lều xám xịt bẩn thỉu cùng thượng sĩ White Halfoat, người mà ông vừa sợ vừa khinh.
“Tôi có thể chụp ảnh gan của gã,” bác sĩ Daneeka gầm gừ.
“Chụp gan của tôi ấy,” Yossarian gợi ý.
“Gan của anh chẳng làm sao cả.”
“Chứng tỏ ông chẳng biết gì,” Yossarian chộp lấy cơ hội và nói cho bác sĩ Daneeka về cơn đau phiền phức từng làm khó cả y tá Duckett, y tá Cramer và tất cả bác sĩ trong bệnh viện bởi vì nó không trở thành bệnh vàng da mà cũng chẳng chịu biến đi.
Bác sĩ Daneeka không quan tâm. “Anh nghĩ anh gặp rắc rối?” ông vặn. “Thế còn tôi thì sao? Lẽ ra anh phải ở trong phòng khám của tôi cái hôm bọn mới cưới ấy bước vào.”
“Bọn mới cưới nào?”
“Bọn mới cưới đã bước vào phòng khám của tôi hôm đó ấy. Tôi chưa kể anh nghe về họ à? Cô dâu dễ thương lắm.”
Phòng khám của bác sĩ Daneeka cũng dễ thương. Ông đã trang trí phòng chờ bằng bể cá vàng và một trong những bộ nội thất loại rẻ tiền tốt nhất. Ông mua trả góp bất cứ thứ gì có thể, kể cả con cá vàng. Phần còn lại, ông thu tiền từ những người bà con tham lam muốn đổi lấy cổ phần lợi nhuận. Phòng khám của ông ở Staten Island trong một tòa nhà không có lối thoát hiểm dành cho hai gia đình chỉ cách bến phà bốn khối nhà và cách một siêu thị, ba thẩm mỹ viện và hai cửa hàng thuốc lậu có một khối nhà về phía Nam. Nó nằm ở góc phố, nhưng chả ích gì. Dân số ở đây khá thấp và mọi người ở đây đều bám chặt với các bác sĩ mà họ đã quen khám nhiều năm. Các hóa đơn cần thanh toán nhanh chóng chất thành đống, và chẳng mấy chốc ông phải đối mặt với việc mất đi thiết bị y tế quý giá nhất: chiếc máy tính của ông đã bị thế chấp, sau đó là chiếc máy chữ. Con cá vàng chết. May thay, đúng vào lúc mọi thứ tối tăm nhất thì chiến tranh nổ ra.
“Đó là món quà của Chúa,” bác sĩ Daneeka trang trọng thú nhận. “Hầu hết các bác sĩ khác đều sớm phải nhập ngũ, và mọi việc khởi sắc chỉ sau một đêm. Vị trí góc phố trở nên hữu dụng, và chẳng mấy chốc tôi đã thấy mình phải xử lý nhiều bệnh nhân đến mức tôi chẳng thể xử lý cho tử tế. Tôi đã đòi hai cửa hàng thuốc ở đó tăng mức tiền lại quả. Các thẩm mỹ viện có thể phục vụ tốt cho hai tới ba ca nạo thai một tuần. Mọi thứ đang không thể tốt hơn được nữa thì hãy xem điều gì đã xảy ra. Họ điều hẳn một thằng cha từ ban tuyển quân tới kiểm tra nhanh sức khỏe tôi. Tôi ở mức 4-F. Tôi đã tự kiểm tra sức khỏe cho bản thân khá kỹ và phát hiện ra rằng tôi không đủ sức khỏe để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Anh sẽ cho lời của tôi như vậy là đủ, phải không, vì tôi là một bác sĩ được cả hội y khoa hạt lẫn BBB(13) địa phương đánh giá tốt? Nhưng không, như vậy là không đủ, và họ điều thằng cha đó đến chỉ để xem có đúng là tôi bị cụt một chân tới tận hông và đang liệt giường vô dụng vì chứng viêm-thấp khớp nan y hay không. Yossarian, chúng ta đang sống trong một thời đại không có niềm tin và những giá trị tinh thần xuống cấp. Đó là một điều khủng khiếp,” bác sĩ Daneeka nói bằng giọng run run vì bức xúc cao độ. “Thật khủng khiếp khi ngay cả lời của một bác sĩ có chứng chỉ hành nghề cũng bị nghi ngờ bởi chính tổ quốc mà anh ta yêu.”
Bác sĩ Daneeka đã bị gọi nhập ngũ và chuyển tới Pianosa với vai trò bác sĩ phẫu thuật trên máy bay mặc dù ông sợ bay chết khiếp.
“Tôi không cần phải tìm kiếm rắc rối ở trên máy bay,” ông nhận xét, chớp cặp mắt cận thị ti hí màu nâu vẻ tổn thương. “Nó sẽ tự tìm đến tôi. Như cô trinh nữ không thể có con mà tôi đã kể cho anh nghe ấy.”
“Trinh nữ nào cơ?” Yossarian hỏi. “Tôi tưởng ông kể cho tôi về bọn mới cưới nào đó.”
“Là trinh nữ mà tôi kể cho anh. Họ chỉ là một cặp trẻ con, họ đã cưới được, chậc, khoảng hơn một năm tính đến thời điểm họ bước vào phòng khám của tôi mà không hẹn trước. Giá mà anh nhìn thấy cô nàng nhỉ. Cô ấy quả là ngọt ngào, trẻ và đẹp. Cô ấy thậm chí còn đỏ mặt khi tôi hỏi về chu kỳ kinh nguyệt. Tôi không nghĩ là có lúc nào tôi lại ngừng mê cô ấy. Cô ấy có một cơ thể như mơ và đeo một chiếc dây chuyền với mặt hình Thánh Anthony rủ xuống bên trong bộ ngực đẹp nhất mà tôi từng được thấy. ‘Quả là một cám dỗ khủng khiếp đối với Thánh Anthony,’ tôi đùa, chỉ để cho cô ấy thấy thoải mái hơn, anh biết đấy. ‘Thánh Anthony ư?’ chồng cô ấy nói. ‘Thánh Anthony là ai?’ ‘Hỏi vợ anh đi,’ tôi bảo anh ta. ‘Cô ấy có thể nói cho anh biết Thánh Anthony là ai.’ ‘Thánh Anthony là ai?’ anh ta hỏi cô bé. ‘Ai cơ?’ cô gái muốn biết. “Thánh Anthony,’ anh ta nói cho cô. ‘Thánh Anthony ư?’ cô nói. ‘Thánh Anthony là ai?’ Khi tôi kiểm tra cô gái kỹ hơn ở trong phòng khám riêng thì tôi phát hiện ra cô ấy vẫn còn trinh. Tôi nói chuyện riêng với chồng cô gái trong lúc cô ấy kéo áo nịt eo lên trở lại và cài nó vào tất chân. ‘Tối nào mà chẳng,’ anh ta khoác lác. Một gã tài lanh, anh biết đấy. ‘Tôi không bao giờ nghỉ đêm nào,’ anh ta khoác lác. Ý của anh ta đúng là như vậy thật. ‘Tôi thậm chí còn đưa nó vào cô ấy trước mỗi bữa sáng cô ấy nấu cho tôi trước khi đi làm,’ anh ta tiếp tục khoác lác. Chỉ có thể có một lời giải thích. Tôi kéo cả hai người lại để diễn cho họ biết thế nào là giao họp bằng những hình nộm cao su tôi có trong phòng khám. Tôi có trong phòng khám những hình nộm cao su với đầy đủ bộ phận sinh dục của cả hai giới mà tôi khóa trong một phòng riêng để tránh tai tiếng. Ý tôi là tôi đã từng có chúng. Giờ thì tôi không còn có chúng nữa, thậm chí còn không có cả phòng khám. Điều duy nhất mà tôi có bây giờ là thân nhiệt thấp đã bắt đầu khiến tôi trở nên lo lắng. Hai thằng nhóc làm việc cho tôi ở lều y tế đều chẳng đáng một xu với vai trò của người chẩn bệnh. Tất cả những gì bọn nó biết làm là than phiền. Chúng nghĩ chúng gặp rắc rối ư? Thế tôi thì sao? Lẽ ra chúng nên ở trong phòng khám của tôi vào ngày hai đứa mới cưới đó nhìn tôi như thể tôi đang nói cho chúng biết điều chưa ai từng nghe thấy. Anh sẽ chẳng bao giờ gặp được ai tỏ vẻ quan tâm tới vậy. ‘Ý của ông là như này?’ anh ta hỏi tôi, và tự cho các hình nộm làm việc với nhau một lúc. Anh thấy đấy, tôi biết có một vài loại người chỉ cần làm thế thôi cũng đủ mê mẩn. ‘Đúng rồi đấy,’ tôi bảo anh ta. ‘Giờ thì anh về nhà và thử làm việc đó theo cách tôi vừa chỉ một vài tháng xem sao, được không?’ ‘OK,’ họ nói và trả tiền mặt cho tôi mà không đôi co gì hết. ‘Chúc các bạn vui vẻ,’ tôi nói với họ như vậy và họ cảm ơn tôi rồi cùng nhau ra về. Chàng trai vòng tay ôm eo cô gái như thể anh ta sốt ruột không đợi được tới khi về nhà để đưa nó vào cô tiếp. Vài ngày sau, anh ta quay lại một mình và nói với y tá của tôi rằng anh ta phải gặp tôi ngay lập tức. Ngay khi chỉ còn chúng tôi với nhau, anh ta liền đấm cho tôi một phát ngay mũi.”
“Anh ta làm gì cơ?”
“Anh ta gọi tôi là đồ tài lanh và đấm vào mũi tôi. ‘Ông nghĩ ông là ai, tài lanh quá hả?’ anh ta nói rồi nện tôi ngã ngửa thẳng cẳng. Rầm! Đúng thế đấy. Tôi không đùa đâu.”
“Tôi biết ông không đùa rồi,” Yossarian nói. “Nhưng sao anh ta lại làm thế?”
“Làm sao tôi biết được tại sao anh ta lại làm thế?” bác sĩ Daneeka giận dữ phản pháo.
“Có thể có liên quan đến Thánh Anthony chăng?”
Bác sĩ Daneeka ngây ra nhìn Yossarian. “Thánh Anthony ư?” ông kinh ngạc hỏi. “Thánh Anthony là ai?”
“Làm sao tôi biết được?” thượng sĩ White Halfoat trả lời, tay ôm chai whisky loạng choạng đi vào trong lều rồi ngồi chen vào giữa hai người với vẻ gây gổ.
Bác sĩ Daneeka đứng dậy mà không nói một lời, đem ghế tựa ra ngoài lều, lưng còng xuống vì một khối bất công giờ đã thành gánh nặng vĩnh cửu. Ông không chịu đựng được sự có mặt của gã bạn chung lều này.
Thượng sĩ White Halfoat nghĩ ông điên. “Tôi không hiểu thằng cha này có vấn đề gì,” gã nhận xét bằng giọng chỉ trích. “Ông ta không có đầu óc, vấn đề của ông ta chỉ có thế. Nếu có chút đầu óc thì ông ta sẽ cầm lấy xẻng mà đào đất. Ngay tại đây ở trong lều này, ông ta có thể đào, ngay dưới giường xếp của tôi. Ông ta có thể thấy dầu ngay lập tức. Ông ta không biết là có thằng lính trơn đã đào được dầu chỉ bằng một cái xẻng ngay ở nước Mỹ sao? Ông ta không biết chuyện đã xảy ra với thằng nhóc đó sao - tên của thằng ranh chết tiệt thò lò mũi xanh ở Colorado ấy là gì nhỉ?”
“Wintergreen.”
“Wintergreen.”
“Ông ấy sợ,” Yossarian giải thích.
“Ồ không. Không phải Wintergreen đấy chứ.” Thượng sĩ White Halfoat lắc đầu với vẻ thán phục không giấu giếm. “Thằng chó đẻ tài lanh thối tha đó không bao giờ sợ ai hết.”
“Bác sĩ Daneeka đang sợ. Đó là vấn đề của ông ấy.”
“Ông ta sợ gì?”
“Ông ấy sợ anh,” Yossarian nói. “Ông ấy sợ anh sẽ chết vì viêm phổi.”
“Ông ta nên sợ,” thượng sĩ White Halfoat nói. Một tiếng cười trầm, sâu khùng khục xuyên qua lồng ngực đồ sộ của gã. “Tôi cũng sẽ sợ, nếu bị. Anh cứ chờ mà xem.”
Thượng sĩ White Halfoat là một người da đỏ đẹp trai, da ngăm đen đến từ Oklahoma với gương mặt nặng nề xương xẩu cùng mái tóc đen bù xù, mang một nửa dòng máu Creek(14) vùng Enid, người đã, vì một vài lý do huyền bí riêng tư nào đó, quyết sẽ chết vì bệnh viêm phổi. Gã là một người da đỏ dữ dằn, thù hận, vỡ mộng vốn rất ghét bọn ngoại lai với những cái tên như Cathcart, Korn, Black và Havermeyer, và ước sao tất cả bọn họ hãy cuốn gói về nơi mà tổ tiên đê tiện của bọn họ đã xuất thân.
“Anh không thể tin được đâu, Yossarian,” gã trầm ngâm nói, cố tình cao giọng để trêu ngươi bác sĩ Daneeka, “nhưng đây đã từng là một đất nước khá tốt để sống trước khi họ làm cho nó hư hỏng bằng sự sùng đạo trời đánh thánh vật của họ.”
Thượng sĩ White Halfoat ra trận để trả thù người da trắng. Gã gần như không biết đọc biết viết, và gã đã được phân làm sĩ quan trợ lý quân báo cho đại úy Black.
“Làm sao tôi có thể học đọc học viết được?” Thượng sĩ White Halfoat hỏi với vẻ thù địch vờ vịt, lại cao giọng để bác sĩ Daneeka nghe thấy. “Bất cứ chỗ nào chúng tôi dựng lều, họ đều đào ở đó một cái giếng. Mỗi lần họ đào một cái giếng, họ lại gặp được dầu. Và mỗi lần họ gặp được dầu, họ lại bắt chúng tôi thu dọn lều và chuyển đi chỗ khác. Chúng tôi là những que dò mạch bằng người. Cả gia đình tôi có mối liên hệ tự nhiên với các mỏ dầu lửa, thế là chẳng mấy chốc tất cả các công ty dầu lửa trên thế giới đều điều các kỹ thuật viên tới để đuổi theo chúng tôi khắp mọi nơi. Chúng tôi liên tục di chuyển. Thật là một cách đặc sắc để nuôi dạy trẻ con ấy nhỉ, tôi có thể nói với anh như vậy. Tôi không nghĩ là tôi dừng lại ở đâu đó quá một tuần.”
Ký ức đầu tiên của gã là ký ức của một nhà địa chất…
“Mỗi khi có một White Halfoat nữa được sinh ra,” gã tiếp tục nói, “thị trường chứng khoán lại tăng mạnh. Chẳng mấy chốc tất cả các đoàn khoan dầu đều đi theo chúng tôi khắp nơi, mang theo toàn bộ thiết bị của họ để chiếm ưu thế với các đoàn khác. Các công ty bắt đầu sáp nhập để có thể giảm số người đi theo chúng tôi. Nhưng đám đông đi sau lưng chúng tôi vẫn ngày một phình ra. Chúng tôi chẳng bao giờ có được một giấc ngủ ngon. Khi chúng tôi dừng thì họ cũng dừng. Khi chúng tôi đi thì họ cũng đi, cùng các xe chở thức ăn, xe ủi, giàn khoan, máy phát điện. Chúng tôi chính là sự phát đạt biết đi, và chúng tôi bắt đầu nhận được lời mời từ một số khách sạn xịn nhất chỉ vì các cơ hội làm ăn mà chúng tôi sẽ kéo theo khi đến nơi nào đó. Một số lời mời khá hào phóng, nhưng chúng tôi không thể chấp nhận bởi vì chúng tôi là những thổ dân da đỏ và tất cả các khách sạn xịn có mời chúng tôi đều không nhận khách là thổ dân da đỏ. Phân biệt chủng tộc quả là một điều khủng khiếp, Yossarian ạ. Thực sự là vậy. Thật khủng khiếp khi đối xử với một thổ dân da đỏ tử tế, trung thành như với một thằng mọi đen, Do Thái, lũ Ý lợn hay bọn nhà quê nói tiếng Tây Ban Nha,” thượng sĩ White Halfoat chậm rãi gật gù kết án.
“Thế rồi, Yossarian này, điều đó cuối cùng cũng xảy ra - sự bắt đầu của kết thúc. Họ bắt đầu bám theo chúng tôi từ phía trước. Họ sẽ cố đoán xem chúng tôi sẽ đi đâu tiếp và sẽ bắt đầu khoan trước khi chúng tôi tới đó, điều đó khiến cho chúng tôi không thể dừng lại. Ngay khi chúng tôi trải chăn ra, họ đã đá luôn chúng tôi ra khỏi chỗ đó. Họ luôn tin tưởng chúng tôi. Họ thậm chí còn không đợi tới lúc thấy dầu mới đá chúng tôi đi. Chúng tôi mệt mỏi tới mức gần như chẳng để ý cái ngày mà thời của chúng tôi đã hết. Một buổi sáng chúng tôi ngủ dậy thấy vây kín quanh mình toàn những người đi tìm dầu đang đợi chúng tôi đi về phía họ để họ có thể đá chúng tôi đi. Bất cứ chỗ nào anh nhìn tới đều có một người đi tìm dầu lấp ló, phục sẵn như chính dân da đỏ lúc chuẩn bị tấn công. Đó là dấu chấm hết. Chúng tôi không thể ở chỗ chúng tôi đã đứng bởi vì chúng tôi vừa bị đá khỏi đó. Và cũng không có chỗ nào cho chúng tôi đi. Quân đội đã cứu vớt tôi. Thật may là chiến tranh đã xảy ra đúng lúc, rồi ban tuyển quân đã chọn tôi và đưa tôi tới Lowery Field ở Colorado. Tôi là người duy nhất sống sót.”
Yossarian biết gã đang nói dối, nhưng không ngắt lời khi thượng sĩ White Halfoat tiếp tục thao thao rằng gã không có tin tức gì về cha mẹ mình kể từ đó. Dù sao thì điều đó cũng chẳng mấy khiến gã phiền lòng, gã cũng chỉ biết họ là cha mẹ của gã vì họ nói thế, mà họ đã nói dối gã về quá nhiều chuyện khác, nên rất có thể họ cũng nói dối nốt về chuyện đó. Gã còn thân thuộc hơn với số phận của một bộ lạc của những người anh em họ, họ đã lang thang về phương Bắc trong một lần nghi binh và tình cờ lạc sang Canada. Khi cố trở về thì họ bị chặn lại ở biên giới bởi các quan chức xuất nhập cảnh Mỹ. Họ không thể quay về bởi vì họ là người da đỏ.
Đó là một chuyện cười kinh khủng, nhưng bác sĩ Daneeka không cười cho đến khi Yossarian quay lại sau khi xong một nhiệm vụ nữa và lại năn nỉ ông, dù không có chút hy vọng thành công, cho mình nghỉ bay. Bác sĩ Daneeka cười khẩy một cái và chẳng mấy chốc lại chìm vào những vấn đề của bản thân ông, bao gồm cả thượng sĩ White Halfoat, kẻ mà suốt buổi sáng hôm đó đã thách ông đấu vật kiểu thổ dân da đỏ, và Yossarian, kẻ đã quyết định ngay và luôn rằng y sẽ phát điên.
“Anh đang phí thời gian vô ích đấy,” bác sĩ Daneeka buộc phải nói với y.
“Ông không thể cho một kẻ điên nghỉ bay à?”
“Ồ, chắc chắn là có chứ. Tôi phải làm việc đó. Có quy định là tôi phải cho bất cứ ai điên nghỉ bay.”
“Vậy thì tại sao ông không cho tôi nghỉ bay? Tôi điên mà. Hỏi Clevinger thì biết.”
“Clevinger? Clevinger đang ở đâu? Anh tìm Clevinger đi rồi tôi sẽ hỏi anh ta.”
“Thế thì hỏi bất cứ ai khác đi cũng được. Họ sẽ nói với ông rằng tôi điên tới mức nào.”
“Bọn họ đều điên mà.”
“Thế sao ông không cho họ nghỉ bay đi?”
“Tại sao họ không đòi tôi cho nghỉ bay?”
“Bởi vì họ điên, đó là lý do.”
“Tất nhiên là họ điên rồi,” bác sĩ Daneeka đáp. “Tôi vừa nói với anh rằng họ điên, có phải không? Và ta không thể để cho người điên quyết định xem liệu anh có điên hay không, đúng không?”
Yossarian nghiêm trang nhìn ông và cố thử một cách tiếp cận khác. “Orr có điên không?”
“Tất nhiên là anh ta điên rồi,” bác sĩ Daneeka nói.
“Ông có thể cho anh ta nghỉ bay được không?”
“Tất nhiên là tôi có thể. Nhưng đầu tiên anh ta phải có yêu cầu với tôi đã. Trong quy định có điều đó.”
“Vậy thì tại sao anh ta lại không yêu cầu?”
“Bởi vì anh ta điên,” bác sĩ Daneeka nói. “Chắc chắn là anh ta điên thì mới tiếp tục bay ra trận sau bao lần suýt chết như vậy. Tất nhiên là tôi có thể cho Orr nghỉ bay. Nhưng đầu tiên anh ta phải yêu cầu.”
“Đó là tất cả những gì anh ta cần phải làm để được nghỉ bay sao?”
“Đó là tất cả. Cứ để cho anh ta yêu cầu tôi cái đã.”
“Rồi sau đó ông sẽ cho anh ta nghỉ bay?” Yossarian hỏi.
“Không. Sau đó tôi vẫn không thể cho anh ta nghỉ bay được.”
“Ý ông là có một cái bẫy à?”
“Tất nhiên là có bẫy,” bác sĩ Daneeka đáp. “Bẫy-22. Bất cứ ai muốn ngừng ra trận đều không thực sự điên.”
Chỉ có một cái bẫy và đó là Bẫy-22, nó chỉ ra rằng việc lo lắng cho sự an toàn của bản thân khi đối mặt với những hiểm nguy có thực và ngay trước mắt là sự vận hành của một bộ óc sáng suốt có lý trí. Orr bị điên và có thể được nghỉ bay. Tất cả những gì gã cần làm là đưa ra yêu cầu; và ngay khi gã làm việc đó thì gã không còn điên nữa và sẽ phải tiếp tục bay ra trận. Orr sẽ phát điên nếu phải bay ra trận nữa và sẽ không điên nếu gã không phải bay, nhưng nếu gã không điên thì gã phải bay ra trận. Nếu gã bay thì gã điên và nhờ thế mới không phải bay; nhưng nếu gã không muốn bay thì gã không điên và vì vậy gã phải bay. Yossarian cảm động sâu sắc trước sự đơn giản tuyệt đối của Bẫy-22 và buông ra một cú huýt sáo đầy kính nể.
“Quả là một cái bẫy ra trò, cái Bẫy-22 đó,” y nhận xét.
“Xịn nhất hiện có,” bác sĩ Daneeka đồng ý.
Yossarian nhìn thấy nó rất rõ trong toàn bộ sự hợp lý quay cuồng của nó. Có một sự chính xác súc tích vừa phong nhã vừa gây choáng váng trong các cặp mệnh đề hoàn hảo, giống như nghệ thuật hiện đại đích thực, và đôi lúc Yossarian cũng không thực sự chắc là mình đã nhìn thấy nó, cũng giống như khi y không thực sự chắc về nghệ thuật hiện đại đích thực hay về những con ruồi mà Orr nhìn thấy trong mắt Appleby. Y chỉ biết dựa vào lời của Orr để tin là có ruồi ở trong mắt Appleby.
“Ồ, chúng đang ở đó, khỏe mạnh cả,” Orr khẳng định với Yossarian về chuyện lũ ruồi trong mắt Appleby sau khi Yossarian với Appleby đấm nhau ở câu lạc bộ sĩ quan, “mặc dù có lẽ anh ta thậm chí còn không biết điều đó. Đó là lý do anh ta không thể nhìn nhận sự việc đúng với bản chất của chúng.”
“Làm sao mà anh ta lại không biết được?” Yossarian chất vấn.
“Bởi vì anh ta có ruồi ở trong mắt,” Orr giải thích với vẻ kiên nhẫn cường điệu. “Làm sao anh ta thấy được có ruồi ở trong mắt mình nếu như anh ta có ruồi ở trong mắt?”
Điều đó có lý chẳng kém bất cứ điều gì khác, và Yossarian đã sẵn lòng tin Orr chừng nào chưa chứng minh được điều ngược lại, bởi vì Orr xuất thân từ vùng hoang vu bên ngoài thành phố New York nên sẽ hiểu biết về cuộc sống hoang dã rõ hơn Yossarian nhiều, và bởi vì Orr, không như mẹ, cha, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, anh chị em dâu rể, thầy cô giáo, lãnh tụ tinh thần, nhà lập pháp, hàng xóm và tờ báo của Yossarian, chưa từng nói dối y một điều gì quan trọng. Yossarian một mình nghiền ngẫm tri thức mới về Appleby này suốt một, hai ngày gì đó và rồi quyết định, như một hành động thiện chí, chuyển lời thông báo cho chính Appleby.
“Appleby, anh có ruồi ở trong mắt,” y thì thầm đầy thiện ý khi họ đi lướt qua nhau ở cửa lều quân trang vào ngày phải đi đưa sữa(15) tới Parma theo lộ trình đã định sẵn hằng tuần.
“Gì cơ?” Appleby gắt lên, rơi vào bối rối vì Yossarian lại nói chuyện với gã.
“Anh có ruồi ở trong mắt,” Yossarian lặp lại. “Có lẽ đấy là lý do tại sao anh không nhìn thấy chúng.”
Appleby lùi xa Yossarian với vẻ hoang mang đầy ghê tởm và chìm trong im lặng cho đến khi gã ở trong xe Jeep với Havermeyer đi dọc con đường dài và thẳng tới phòng tác chiến, tại đó thiếu tá Danby, sĩ quan tác chiến hay sốt ruột của phi đoàn, đang đợi để đưa các chỉ dẫn tác chiến sơ bộ cho các phi công trưởng, những người cắt bom và các hoa tiêu. Appleby nói thật nhỏ sao cho lái xe và đại úy Black, người đang nằm dài nhắm tịt mắt ở ghế trước, không thể nghe lỏm được.
“Havermeyer,” gã ngập ngừng hỏi. “Tôi có ruồi ở trong mắt không?”
Havermeyer nháy mắt chế nhạo. “Cái lẹo(16) ấy hả?”
“Không, con ruồi.”
Havermeyer lại chớp mắt. “Ruồi?”
“Ở trong mắt tôi.”
“Anh điên rồi,” Havermeyer nói.
“Không, tôi không điên. Yossarian mới điên. Nào nói cho tôi biết có ruồi ở trong mắt tôi hay không ngay đi. Nói đi. Tôi có thể chịu được.”
Havermeyer bỏ thêm một miếng kẹo lạc vào miệng và nhòm sát vào mắt Appleby.
“Không thấy gì cả,” gã tuyên bố.
Appleby thở phào nhẹ nhõm. Havermeyer bị dính đầy kẹo lạc trên môi, cằm và má.
“Mặt anh dính đầy kẹo lạc kìa,” Appleby nhắc gã.
“Tôi thà có kẹo lạc trên mặt còn hơn có ruồi trong mắt,” Havermeyer trả đũa.
Xe tải chở các sĩ quan của năm chiếc máy bay còn lại trong mỗi tổ bay đã tới chờ nghe buổi chỉ dẫn tác chiến chung sẽ diễn ra sau đó khoảng ba mươi phút. Mỗi tổ có ba lính không được nghe tác chiến mà được đưa thẳng đến sân bay tới những máy bay khác nhau được bố trí bay vào ngày hôm đó, họ đợi ở đó cùng với các nhân viên mặt đất cho tới khi các sĩ quan bay cùng bước ra khỏi cửa hậu lúc lắc của những chiếc xe tải chở họ, đó là lúc phải leo lên máy bay mà khởi sự. Mấy cái động cơ cáu kỉnh trở mình trên bãi đỗ hình kẹo que, đầu tiên không chịu, sau đó ì ì kêu tại chỗ một lúc, và rồi những chiếc máy bay mới ì ạch lết đi, mũi thảm hại hướng về phía trước bên trên mặt đất sỏi đá như những con vật mù mắt ngu dốt què cụt cho đến khi chúng chạy đà vào đường băng và nhanh chóng cất cánh, nối đuôi nhau, lượn vút lên cao trong tiếng máy gầm, chầm chậm chao cánh rồi xếp lại thành một đội hình phía trên các ngọn cây lốm đốm, bay vòng quanh sân bay với tốc độ không đổi cho đến khi các đội hình sáu máy bay có mặt đầy đủ thì lượn qua mặt nước xanh màu trời trong chặng đầu tiên của hành trình bay tới mục tiêu ở phía Bắc nước Ý hoặc Pháp. Các máy bay nâng dần độ cao, và trước khi tới không phận địch đã đạt tới mức trên hai nghìn bảy trăm mét. Một trong những điều đáng ngạc nhiên luôn là cảm giác êm đềm và yên tĩnh tuyệt đối, chỉ bị phá vỡ bởi loạt đạn bắn thử từ súng máy, bởi những nhận xét ngắn ngủn, không ngữ điệu qua hệ thống điện đàm nội bộ, và, cuối cùng, là bởi lời tuyên bố trang nghiêm của người cắt bom trong mỗi máy bay rằng họ đã tới đúng vị trí và chuẩn bị đối mặt với mục tiêu. Luôn có nắng, luôn có cảm giác dấp dính vướng trong họng vì không khí loãng.
Những chiếc B-25 mà họ lái đều là những máy bay chắc chắn, đáng tin cậy, màu xanh đục với cánh lái kép, động cơ đôi và sải cánh rộng. Lỗi duy nhất của chúng, từ chỗ Yossarian ngồi với tư cách là người cắt bom, là lối trườn quá hẹp ngăn giữa chỗ của người cắt bom ở phần mũi máy bay bọc kính plexi với cửa thoát hiểm gần nhất. Lối trườn là một đường ống vuông hẹp lạnh lẽo khoét vào bên dưới buồng điều khiển bay, và một gã to con như Yossarian sẽ phải rất vất vả mới có thể ép thân trườn qua được. Một gã hoa tiêu mập mạp, mặt tròn với cặp mắt lươn và một cái tẩu như Aarfy cũng sẽ gặp rắc rối, và Yossarian thường phải đuổi gã ra khỏi khoang mũi máy bay khi họ tới gần mục tiêu, lúc chỉ còn cách vài phút nữa. Khi ấy luôn có một khoảng thời gian căng thẳng, một khoảng thời gian chờ đợi chẳng có gì để nghe và chẳng có gì để thấy và chẳng có gì để làm ngoài chờ đợi trong lúc các khẩu súng phòng không bên dưới ngắm bắn và nếu có thể thì sẵn sàng hạ cả bọn gục thẳng cẳng mà đi vào giấc ngủ vĩnh hằng.
Lối trườn là con đường sống dẫn Yossarian ra khỏi một chiếc máy bay sắp rơi, nhưng Yossarian chửi bới nó với sự thù địch sôi sục, rủa xả coi nó là một vật cản được ý trời đặt ở đó như một phần của âm mưu hủy diệt y. Có đủ chỗ để làm thêm một cửa thoát hiểm nữa ở ngay phần mũi máy bay nhưng không hề có cửa thoát hiểm nào ở đó. Thay vào đó là một lối trườn, và kể từ vụ lộn xộn trong trận Avignon, y đã trở nên căm ghét từng xăng ti mét của lối trườn ấy, bởi vì nó luôn quẳng vào mặt y hàng đống giây đồng hồ ngăn cách y với dù của mình, chiếc dù này quá cồng kềnh y không thể mang theo lên tận mũi máy bay được, rồi sau đó lại quẳng thêm ra cả đống giây đồng hồ nữa ngăn cách y với cửa thoát hiểm trên sàn nằm ở khoảng giữa đuôi của buồng điều khiển được thiết kế nâng lên và chân của tay súng không thấy mặt ngồi trong tháp súng cao phía trên. Sau khi đuổi Aarfy khỏi phần mũi máy bay, Yossarian lại khát khao được ở chỗ gã đang ở; Yossarian muốn được co ro ngồi cuộn tròn trên sàn ngay trên cửa thoát hiểm, bên trong sự che chở của một bộ giáp chống đạn dự trữ mà nếu được thì y rất sẵn lòng mang theo, dù đã ở đúng vị trí trên người, một tay ghì chặt sợi dây mở dù màu đỏ, tay kia bấu chặt chốt mở cửa thoát hiểm sao cho y có thể bị hất thẳng ra không khí về phía mặt đất ngay khi nghe thấy tiếng rít chết chóc hủy diệt đầu tiên cất lên. Trong tình huống xấu nhất thì y muốn ở đó thay vì mắc kẹt ở mũi máy bay như một con cá vàng chơ vơ chết tiệt trong một bể cá vàng chơ vơ chết tiệt trong khi những tầng đạn phòng không đen sì thối tha chết tiệt tóe ra và ầm ầm và cuồn cuộn khắp xung quanh, ở trên và ở dưới y, một vẻ gớm ghiếc dâng cao, nổ lạch tạch, đan chéo nhau, nổ đùng đoàng, như ảo ảnh, như vũ trụ, rung chuyển, lật nhào, làm run rẩy, gây náo động, đâm xuyên qua và đe dọa sẽ xóa sổ tất cả bọn họ chỉ trong một sát na bằng một quầng lửa khổng lồ bùng cháy.
Aarfy không giúp được gì cho Yossarian với tư cách một hoa tiêu hay bất cứ vai trò nào khác, nên lần nào Yossarian cũng kịch liệt đuổi gã ra khỏi khoang mũi để bọn họ khỏi cản đường nhau nếu như bỗng nhiên họ phải trườn đi giành lấy sự an toàn cho bản thân. Khi Yossarian đã đuổi được gã trở lại khoang lái, Aarfy đã được tự do ngồi co rúm lại trên sàn, ở chỗ Yossarian khao khát được ngồi đó mà co rúm, nhưng thay vì thế Aarfy chỉ hiên ngang đứng thẳng, hai cánh tay lực lưỡng thoải mái tựa lên ghế phi công chính và phi công phụ, tay cầm tẩu thuốc và niềm nở tiếp chuyện McWatt và với bất cứ ai làm phi công phụ, tay chỉ trỏ vào đủ thứ vặt vãnh thú vị trên bầu trời mà hai tay phi công kia quá bận bịu không thèm để ý. McWatt quá bận điều khiển máy bay theo những chỉ dẫn đinh tai nhức óc của Yossarian khi Yossarian cho máy bay trút vội bom rồi gào thét đòi cả bọn quất ngựa truy phong ngay giữa những cột đạn khát máu nổ tung tóe bằng những lệnh cộc lốc, chát chúa và thô tục gửi tới McWatt giống như những tiếng ú ớ của Hungry Joe trong những cơn ác mộng thống khổ thê thảm giữa đêm. Aarfy sẽ trầm ngâm rít tẩu trong suốt khoảng thời gian đụng độ hoảng loạn đó, đăm đắm nhìn cuộc chiến với vẻ tò mò trầm tĩnh qua cửa sổ chỗ McWatt ngồi như thể nó chỉ là một chút náo động xa xăm chẳng thể nào ảnh hưởng gì đến gã. Aarfy là một thành viên tận tụy của hội sinh viên rất thích các hoạt động cổ vũ và họp lớp và lại không có đầu óc nên chẳng biết sợ là gì. Yossarian thì lại có đầu óc nên biết sợ, và điều duy nhất ngăn y rời vị trí hứng đạn mà chui trở lại vào lối trườn như một con chuột hèn nhát là vì y không sẵn lòng trao nhiệm vụ điều khiển quá trình tẩu thoát khỏi mục tiêu cho bất cứ ai khác. Không có bất cứ ai trên thế giới này mà y có thể trao cho trọng trách vinh quang tới vậy. Không có ai khác mà y quen biết mà lại hèn nhát được như y. Trong nhóm Yossarian là người giỏi tẩu thoát nhất, nhưng y không hiểu tại sao.
Không có một quy trình cụ thể nào cho việc tẩu thoát. Tất cả những gì y cần là nỗi sợ, và cái đó thì Yossarian có rất nhiều, nhiều hơn cả Orr và Hungry Joe, hơn cả Dunbar, kẻ đã sớm chấp nhận rằng một ngày nào đó gã sẽ phải chết. Yossarian thì không chấp nhận điều đó và y điên cuồng chạy trốn để giữ lấy mạng sống của mình trong mỗi trận đánh, ngay tại khoảnh khắc trút xong bom, rống lên với McWatt “Mạnh nữa lên, mạnh, mạnh, mạnh, đồ chết tiệt, mạnh nữa lên!” và căm ghét McWatt đến hằn học trong suốt khoảng thời gian đó cứ như thể McWatt là người chịu trách nhiệm cho việc bọn họ phải ở tít trên đó và sắp bị giết sạch bởi toàn những người dưng, và cả bọn còn lại đều mặc xác máy điện đàm; chỉ trừ trong vụ lộn xộn đáng tiếc hồi trận Avignon khi Dobbs phát điên giữa trời và khóc nức lên cầu xin được giúp đỡ.
“Cứu anh ta với, cứu anh ta với,” Dobbs nức nở. “Cứu anh ta với, cứu anh ta với.”
“Cứu ai? Cứu ai?” Yossarian hỏi khi cắm lại tai nghe vào hệ thống điện đàm nội bộ, sau khi nó bị bật tung ra lúc Dobbs giật cần lái khỏi tay Huple, đột ngột quăng tất cả bọn họ vào một cú bổ nhào inh óc, tê liệt, kinh hoàng, dán chặt đỉnh đầu Yossarian lên trần máy bay trong tuyệt vọng, và Huple đã kịp cứu họ khi giành lại cần lái từ tay Dobbs và gần như cũng đột ngột như vậy đưa máy bay thăng bằng trở lại ngay giữa lớp đạn phòng không chói tai bắn tới tấp mà họ chỉ vừa mới thoát được trước đó một khoảnh khắc. Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi! Yossarian cầu khẩn không nên lời trong khi đỉnh đầu vẫn dán trên trần mũi máy bay, thân lủng lẳng, không sao cựa quậy.
“Người cắt bom, người cắt bom,” Dobbs thét lên trả lời khi Yossarian nói. “Anh ta không trả lời, anh ta không trả lời. Hãy giúp người cắt bom, hãy giúp người cắt bom.”
“Tôi là người cắt bom,” Yossarian hét lên. “Tôi là người cắt bom. Tôi không sao. Tôi không sao.”
“Vậy thì cứu anh ta đi, cứu anh ta đi,” Dobbs cầu xin. “Cứu anh ta với, cứu anh ta với.”
Và Snowden đang nằm hấp hối ở phía sau.
13. Better Business Bureau, thường viết tắt là BBB, là một tổ chức phi lợi nhuận lập ra để thúc đẩy lòng tin của thị trường, hoạt động chủ yếu tại Mỹ và Canada. BBB thu thập và cung cấp miễn phí các nhận xét về doanh nghiệp.
14. Còn gọi là người Muscogee, một tộc người thổ dân châu Mỹ.
15. Milk run: từ lóng trong không quân, chỉ một nhiệm vụ dễ dàng.
16. Nguyên gốc “sties” (những cái lẹo) đồng âm với từ “flies” (những con ruồi).
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22