Dịp may ưu ái những ai can đảm

Publius Terence

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Ngô Hữu Long
Biên tập: Gió
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1462 / 15
Cập nhật: 2015-01-23 17:05:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Hội Nghị Thường Niên
gày hôm sau là thứ Sáu, ngày ghé thăm của lão Putois. Cần phải nhanh chóng viết một lá thư và đặt nó trong phòng đồ giặt trước khi lão già tạt qua. Helen tranh thủ trong giờ toán từ chín đến mười giờ của mụ Mersch. Mụ này ngồi như đóng đinh trên chiếc ghế bành nên không sợ mụ thình lình xuất hiện và giật lá thư cô viết dở đồng thời rú lên: "Cái này, thưa quý cô, cái này là gì?" Có thể mụ ta sở hữu đôi mắt chim ưng, nhưng Helen, như tất cả những người bạn ở đây, lại có tài khéo léo che dấu.
Cô phân vân một lúc không biết bắt đầu như thế nào. Milos thân mến? Họ chỉ vừa mới biết nhau… Chào Milos? Thế nghe có vẻ suồng sã và không tình cảm. Cuối cùng cô quyết định chỉ viết ngắn gọn Milos. Cậu ta muốn điền thêm gì cũng được. Cô kể cho cậu về phòng thư viện vắng tanh, về chuyến trở về trường nội trú mà không có Milena, và nhất là về nỗi đau đớn phải chứng kiến cô bé Catharina Pancek bị đưa vào ngục tối. Cô kể về Milena có giọng hát tuyệt diệu, và là người cô không bao giờ tin có thể hành động phản bội như thế. Cô đề nghị cậu ta nhanh chóng hồi âm, cô ghi cụ thể rằng cô "rất nôn nóng" chờ thư của cậu. Sau đó, cô làm một phong bì tạm bợ từ tờ giấy nháp khác được gập làm đôi và dán lại. Cô lấy ra từ trong tất mẩu giấy Milos đưa hôm trước và cẩn thận ghi lại tên cậu: Milos Ferenzy. Trường nội trú nam. Năm thứ tư. Trước khi cho lá thư vào phong bì, cô thay đổi ý định và viết thêm bên dưới chữ ký:
Em đã không kể về em với anh. Em mười bảy tuổi, em thích sách và sô cô la (và em vui vì đã gặp anh).
Khi viết dòng cuối cùng ấy, cô cảm thấy không chắc chắn và bối rối. Liệu cô có nói quá nhiều không? Hay chưa đủ?
Trong giờ ra chơi lúc mười giờ, cô kín đáo hòa lẫn vào một nhóm các cô gái năm thứ năm, ở một góc sân và hỏi kkhông ngần ngại:
- Người ta làm thế nào để gửi thư vậy? Ai đó để thư trong phòng đồ giặt, và lão Putois sẽ mang đi, đúng như vậy không?
Một cô gái cao gầy, cũng xinh xắn, sỗ sàng nhìn chòng chọc vào mắt cô:
- Cậu gửi thư cho ai?
- Cho một người con trai ở bên kia.
- Cậu năm thứ mấy?
- Năm thứ tư.
- Cậu tên gì?
- Dormann. Helen Dormann.
- Còn cậu trai đó, cậu ta tên gì?
- Milos Ferenzy, Helen trả lời.
Cô đỏ mặt và thấy nóng bừng.
Các cô gái lớn bàn tính với nhau bằng ánh mắt. Không một ai quen người con trai chắc chắn là quá trẻ đối với họ.
- Đưa đây, cô gái nói, và các cô còn lại tự động tạo thành một bức tường bằng cơ thể họ để việc trao đổi được tiến hành kín đáo.
- Chị là người sẽ để lá thư ư? Helen hỏi.
- Chính tớ.
- Em… em không có quà cho chị và cho lão Putois. Em không có gì. Em đã không kịp thời gian để…
- Được rồi. Tớ sẽ mang cho cậu thư trả lời. Nếu cậu ta viết lại…
Gần đến giữa trưa, từ phòng âm nhạc nhìn ra sân, Helen thấy lão Putois đi đến với chiếc xe kéo cao ngất ngưởng. Lão biến mất trong phòng đồ giặt và từ đó đi ra với chiếc xe chất đầy những tấm chăn ga màu trắng, chắc chắn những lá thư ngày hôm nay được giấu trong đó.
Bay đi, bay đi, lá thư nhỏ,
Bay đi, bay đi, đến với tình yêu của em.
Cô thì thầm hát và rất ngạc nhiên vì nhớ lại dễ dàng đến thế lời hát từ thời trẻ con ấy.
Những ngày tiếp theo trôi đi như không thể chịu đựng nổi. Helen luôn chờ đợi bị triệu hồi đến chỗ mụ Xe tăng. Nhưng không có chuyện gì hết. Sự thiếu vắng phản ứng từ phía giám thị lại là trường hợp tệ hơn tất thảy. Điều đó có nghĩa là điều 16 của bản nội quy được tôn trọng: "Với mọi học sinh không trở về sau ba giờ vắng mặt, một học sinh khác ngay lập tức sẽ bị nhốt trong phòng tối và ở lại đó cho đến khi nào kẻ bỏ trốn quay lại." Mọi chuyện vẫn theo trật tự, và vụ việc đóng lại.
Không ai dám nhắc đến Catharina, nhưng mọi người đều nghĩ đến cô gái. Liệu cô có ngủ được không? Người ta có mang cho cô đồ ăn và đồ uống không? Helen hỏi một cô gái năm thứ năm đã từng trải qua một đêm và một buổi sáng dưới Bẩu Trời vào năm ngoái vì tội ném đĩa canh lên tường nhà ăn và hét lên rằng cô ta đã "chán ngấy, chán ngấy và chán ngấy!" Cô gái này tỏ ra ít nói chuyện, và có vẻ như đặc biệt lo lắng muốn biết liệu Catharina có kịp nhìn thấy hình vẽ trên xà nhà.
- Điều đó có quan trọng đến thế không? Helen hỏi. Chị có nhìn thấy nó không?
- Chưa đến hai giây, nhưng chính nó đã giúp tớ khỏi bị điên. Chính cậu là người mà Milena đã ra ngoài cùng đúng không?
- Đúng vậy.
Cô gái kia quay lưng lại với cô. Với Helen, dường như mọi người quy cho cô phải chịu trách nhiệm về thảm họa này hoặc ít nhất họ coi cô như kẻ tòng phạm. Vì không thể chửi rủa Milena, người đã biến mất, nên mọi người thể hiện thái độ giận dữ và không đồng tình với Helen. Chỉ duy nhất Vera Plasil không quay lưng lại với cô.
- Cậu không liên quan gì hết. Ai mà có thể lường được điều đó? Cậu ấy sẽ trở về, tớ chắc chắn như vậy. Chắc cậu ấy có việc gì đó quan trọng phải làm. Cậu ấy đi làm việc đó và sẽ trở về.
- Vậy thì tại sao cậu ấy không nói gì với tớ?
Vera Plasil không biết nói gì. Cô chỉ biết nhìn Helen với đôi mắt to màu xanh lơ đầy lòng thương cảm.
Kể từ Chủ nhật sau ngày thứ Sáu đó, Helen không còn tính từng ngày cho đến thứ Sáu tiếp theo, ngày lão Putois ghé qua nữa, mà cô tính theo giờ. Thời gian như không trôi. Đề không bị quá thất vọng khi thời điểm ấy đến, cô cố gắng tưởng tượng điều tệ hại nhất: cô sẽ không nhận được thư trả lời của Milos tuần này và phải đợi thêm một tuần nữa. Giả thiết ấy sẽ làm cô bớt sốt ruột mong ngóng.
Và Milena không trở về… có thể sẽ không trở về nữa… Cho đến khi Catharina chết trong ngục tối? Thời gian khủng khiếp nhất là bữa ăn tối. Vì hầm ngục nằm ngay dưới tầng hầm nhà ăn, các cô gái cảm thấy Catharina thật gần và các cô thấy thật khó nuốt trôi suất ăn của mình.
Cuối cùng, vào một buổi sáng, Helen choàng tỉnh và đó là thứ Sáu. Mười hai giờ kém mười, loạng choạng nhưng đúng giờ, lão Putois kéo chiếc xe chất đầy chăn ga sạch sẽ đi qua sân. Từ phòng âm nhạc, Helen nhìn lão biến mất trong phòng đồ giặt để đổi lấy chăn ga bẩn.
Những con tim thanh thản, những tâm hồn trong sáng
Chúng ta cùng nhau cất tiếng hát
Những cánh rừng và nhánh cây…
Mụ Đại bác bắt nhịp cho hát lại lần thứ mười hai, nhưng Helen không còn nghe thấy giọng ca của các bạn. Miễn là có thư dành cho mình, cô thầm nghĩ, miễn là lá thư ở trong đó! Mình sẽ không phải chờ thêm một tuần nữa.
Đi ra từ nhà ăn, một cô gái năm thứ sáu tiến lại gần cô:
- Cậu là Dormann?
- Đúng vậy.
- Nhận lấy thư này, thư của cậu! Và lần sau, nhớ có một chút quà đấy.
- Xin hứa! Helen trả lời, phát điên vì vui sướng, và cô bỏ hai chiếc phong bì vào trong túi.
Bởi vì có đến hai lá thư! Suốt cả tuần cô đã lo sợ không nhận được lá thư nào và giờ đây cô nhận được những hai lá thư.
Cô bồn chồn đi tìm Vera Plasil trong sân.
- Vera! Cậu có thể đến canh cửa cho tớ được không?
Các phòng toilet đều đã cũ nát, nhưng đó là nơi duy nhất người ta có thể ở một mình và yên tĩnh trong chốc lát, với điều kiện có ai đó canh cửa. Ngay sau khi đã ở bên trong, Helen lôi các phong bì thư khỏi túi áo khoác. Trên cả hai lá thư đều ghi tên cô: Helen Dormann. Trường nội trú nữ, và lớp của cô: Năm thứ tư, nhưng chữ viết thì khác nhau. Chữ trên lá thư đầu là của Milos, và chữ viết thứ hai, không thể bắt chước và gần như người lớn, là của Milena! Cô mở lá thư của Milos trước. Sau tất cả những gì diễn ra, đó mới chính là lá thư cô đã hy vọng cả tuần qua. Lá thư ngắn ngủi:
Helen,
Anh đã nhận được thư của em. Đây là thư của anh. Anh hy vọng lão Putois sẽ không "ướp hương" nó nhiều quá. Tối hôm đó Bartolomeo đã không trở về. Anh có nhiều điều khủng khiếp phải nói với em. Hẹn lúc nửa đêm tối thứ Sáu ở góc giao nhau giữa bức tường phía Đông và tường phía Bắc trường em. Hứa nhé?
Milos
Anh đã không nói với anh về em. Anh mười bảy tuổi. Anh thích đấu vật kiểu Hy Lạp-La Mã và ăn (và anh rất vui vì đã gặp em).
Helen tự nhủ phải chăng cô đang cầm trong tay lá thư tình đầu tiên. Việc cậu ta lặp lại từng từ một trong câu cuối cùng của lá thư cô viết cho thấy điều mong muốn tương tự của Milos. Cảm xúc làm cô như chao đảo. Có quá nhiều điều xáo trộn xảy đến với cô trong mấy ngày qua. Cô để lại lá thư trong phong bì và mở thư của Milena. Lá thư này dài hơn.
Helen,
Tớ tưởng tượng được nỗi giận dữ của cậu dành cho tớ và tớ hiểu điều đó. Nhưng cậu phải biết rằng tớ không phản bội cậu.
Đây là chuyện đã xảy ra: Bartolomeo đến thư viện gặp tớ, ngay sau khi cậu đi. Bọn tớ đã nói chuyện với nhau hơn hai giờ đồng hồ và cuối thời gian ấy, tớ đã quyết định bỏ trốn cùng anh ấy. Bọn tớ ra đi tối hôm đó. Tớ sẽ không bao giờ trở về trường nội trú nữa.
Chúng tớ nấp sau đài phun nước lúc cậu đi qua, ngay sau đó, với chiếc giỏ trên tay. Tớ không biết bên trong đó có món gì, nhưng tớ cảm ơn cậu đã mang nó về cho tớ!
Hiện giờ, tớ đang ở nhà mẹ nuôi, nơi tớ ngồi viết cho cậu lá thư này. Mẹ nuôi tớ sẽ nhờ lão Putois chuyển thư.
Đáng ra tớ có rất nhiều chuyện phải nói với cậu, nhưng tớ không có thời gian. Milos, anh ấy biết tất cả, sẽ giải thích với cậu. Hãy hỏi anh ấy nhé.
Tớ hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau. Cậu đã là người bạn tốt nhất của tớ trong những năm qua. Tớ sẽ mãi mãi không quên cậu. Tớ buồn vì phải rời xa cậu.
Tớ ôm hôn cậu.
Milena
Tái bút: Tớ rất đau khổ về Catharina, nhưng tớ phải làm việc tớ cần làm.
- Helen! Tớ mọc rễ ở đây rồi... Và trời đang mưa, tớ báo cho cậu biết!
Vera bắt đầu sốt ruột ngoài cửa. Helen lau nước mắt bằng khăn mùi soa, cất hai phong bì thư vào trong túi trong của áo khoác và ra ngoài.
Trong phòng tự học buổi tối, chỗ trống của Milena Bach ở hàng thứ ba, và chỗ ngồi của Catharina Pancek, hàng đầu tiên, dường như bị những bóng ma của họ chiếm cứ. Sự vắng mặt của hai cô gái như hành hạ tinh thần của những người còn lại. Mụ Zesch, toát nhiều mồ hôi hơn bao giờ hết, gần như ngủ lịm đi.
- "Đấu vật kiểu Hy Lạp – La Mã" là gì vậy, hả Vera? Helen khẽ hỏi.
- Tớ nghĩ rằng đó là những gã mặc quần áo lót lao vào nhau và cố lật lưng đối thủ chạm đất.
- Thế hả?
- Đúng vậy, họ nồng nặc mùi mồ hôi và họ gầm gừ.
- À...
- Tại sao cậu hỏi tớ thế?
- Vì thế đấy...
Helen không ngừng nghĩ đến Milos, đồng thời tự nhủ rằng chắc phải bị điên mới yêu một chàng trai mà người ta mới gặp chưa đến bốn phút, và lại còn trong cảnh mờ tối. Một điều nữa: cô không thể nào hình dung lại khuôn mặt cậu ta! Cô càng cố nhớ lại, khuôn mặt ấy càng chạy thoát khỏi cô. Milos không quá cao, cô nhớ lại, mà cậu ta hơi tròn, đúng vậy, mái tóc xoăn, đúng vậy, nụ cười tươi. Đúng đúng và đúng, nhưng cô không "nhìn" thấy cậu ta nữa. Cô kết luận rằng thực ra cô thèm khát yêu, và người đầu tiên đến thể nào cũng có chuyện. Miễn là cô không quá thất vọng...
Cậu ấy muốn gì ở cô? Cuộc hẹn gặp làm cô thích thú, nhưng cũng làm cô sợ. "Nhiều chuyện nghiêm trọng"? Điều đó có nghĩa gì? Và cần phải trốn khỏi phòng ngủ lúc giữa đêm. May thay, mụ Zesch, sẽ vẫn giám sát tối nay, thường ngáy như lợn rừng ngay sau khi đặt lưng xuống, và mụ chỉ tắt tiếng động cơ kinh khủng ấy lúc mờ sáng. Trong tất cả các giám thị, thì mụ ta chắc chắn là người dễ dàng đánh lừa nhất. Còn tốt hơn gấp nhiều lần giờ gác của mụ Merlute hay mất ngủ, âm thầm và xảo quyệt, vẫn thường lọ mọ dúi cái mũi dài của mụ vào giữa các dây giường vào bất cứ giờ nào trong đêm. Mối nguy hiểm cũng có thể đến từ các cô gái khác. Nhất là từ Vera, đứa bao giờ cũng chỉ ngủ bằng một mắt, và là đứa muốn biết cô đi đâu. Helen đã có ý định tiết lộ điều bí mật cho cô gái đó, rồi cô đổi ý. Để ngăn chặn cô tự bản thân vào cảnh nguy hiểm, Vera-kẻ-lý-sự có khả năng đánh thức cả phòng dậy khi thời điểm đến.
Dưới tấm chăn, Helen nhìn những chiếc kim đồng hồ phát sáng: đã hơn mười giờ và mụ Zéch vẫn không ngáy. Đến mười một giờ, mụ vẫn không ngáy. Đây là điều rất lạ. Ánh đèn vẫn sáng trong ngăn của mụ, nhưng không một tín hiệu nào khác của sự sống hắt ra từ đó. Chẳng nhẽ tối nay mụ sẽ giám sát thực sự và bắt chước mụ Merlute lượn đi quanh các giường nằm với bộ dang của Jack-kẻ-mổ-bụng? Helen đưa tai nghe ngóng một cách tuyệt vọng. Không cần nghe thấy tiếng gầm quen thuộc, chỉ tiếng gáy khe khẽ cô cũng hài lòng, vậy mà cũng không hề có.
Mười hai giờ kém mười lăm, đã cạn kiệt kiên nhẫn, cô quyết định thử vận may và ra ngoài, cho dù chuyện gì xảy đến đi chăng nữa. Cô liếc nhìn sang giường bên cạnh. Vera đang ngủ bình yên, miệng hé mở. Cảm thấy yên tâm, Helen định thay lại quần áo. Đúng lúc cô đứng lên để đi gần đến tủ và chỗ để quần áo thì mụ Zesch mở cánh cửa ngăn tủ của mụ. Ngay lập tức Helen đúng yên như một pho tượng, rồi cô lại nằm xuống, hai mắt mở to.
Mụ Zesch rõ ràng không giống với trạng thái bình thường. Cố tránh không gây một tiếng động, mụ lén ra khỏi ngăn tủ của mụ với vẻ chậm rãi và ngờ vực của một sát thủ. Và nhất là, Helen nghĩ cô đang mơ, mụ đi giày cao gót và mặc váy dạ hội! Vậy mà người ta chưa bao giờ nhìn thấy mụ mặc gì khác ngoài đôi giày ghê người dưới chân và chiếc quần vải rộng thùng thình, hoặc khá hơn, là chiếc váy bằng len to tướng vào những ngày đẹp trời. Mụ khép cánh cửa lại và nhón đi bằng đầu mũi chân. Helen đợi mụ đi xa hoàn toàn, cố kiên nhẫn đợi thêm vài phút nữa, phòng trường hợp mụ có thể quay trở lại, rồi, vì không còn gì động đậy nữa, cô mặc quần áo và đi ra sân hướng về phía cổng.
Trời đêm sáng và mát lạnh. Vài dải mây nhỏ lãng du trước mặt trăng tròn. Helen co người trong chiếc áo khoác, đi vòng theo tòa nhà và đi dọc theo mặt sau. Bức tường bao nổi lên phía bên trái, tối đen và đầy đe dọa. Cô lần theo bức tường. Milos! Cô khẽ ra hiệu bằng tay cho cậu và khẽ lon ton chạy lại gần. Cậu cũng đi về phía cô, tươi cười, và hôn lên hai bên má cô:
- Helen! Anh đã thấy sợ. Em đến muộn quá.
Cô gái sửng sốt vì thấy cậu quá cao lớn so với trí nhớ của cô. Chắc hẳn anh chàng Bartolomeo phải thật khổng lồ để cậu bạn này dường như trở nên nhỏ bé khi đứng cạnh.
- Em xin lỗi, nhưng em không thể ra được. Mụ giám thị đã không ngủ. Anh có hình dung ra được mụ ấy đi ra ngoài không. Mãi gần đến nửa đêm mụ ấy mới ra khỏi phòng ngủ.
- À thế sao? Vậy thì anh biết mụ ấy đi đâu, và anh sẽ cho em thấy! Với điều kiện em giỏi môn thể dục.
- Em là người đứng đầu! Helen nói.
- Tuyệt! Em biết leo dây chứ?
- Như một con sóc!
Cô không chắc những con sóc biết leo dây, nhưng cô muốn nói đồng ý với mọi thứ tối nay. Có lẽ cô cũng sẽ nhảy cả vào lửa với Milos nếu cậu ta đề nghị như thế.
- Vậy thì hãy đợi anh ở đây, anh chỉ đi trong ba phút thôi.
- Dù sao anh cũng giải thích với em đôi chút chứ?
- Để sau nhé!
Milos đã nhét chiếc mũ vào trong túi và trèo thoăn thoắt. Helen sững sờ vì vẻ mềm mại và sức mạnh của cậu. Bám lấy máng nước, cậu leo trèo dễ dàng như một con khỉ. Những ngón tay, hai bàn tay, hai chân cậu ta hoạt động không ngừng, và cậu chỉ dừng lại để lấy hơi khi đặt chân lên cửa chớp ở cửa sổ tầng ba.
- Cẩn thận đấy! ở bên dưới, Helen lo lắng.
Không kịp trả lời, cậu ta lại tiếp tục trèo, và chỉ giấy lát sau cậu ta đã ở bên dưới mái nhà. Cậu giữ tư thế treo trên máng nước trong vài giây, rồi đu đưa hai lần và tung chân phải lên trên. Trong khi cậu lấy thăng bằng, có vật gì đó từ trong túi cậu tuột ra và rơi xuống chân Helen.
- Con dao của anh! Cậu gọi xuống. Nhặt giúp anh!
Helen cúi xuống và nhặt con dao nhíp khá nặng phải có đến ít nhất sáu lưỡi.
Tiêp sau đó, một sự im lặng kéo dài. Milos đã biến mất. Helen cảm thấy không khí lạnh len lỏi dưới lớp áo khoác. Cô đứng làm gì ở đây, vào giữa đêm, với anh chàng này, chàng trai có tài nhào lộn và có "nhiều điều nghiêm trọng" để nói với cô?
Cô vẫn hướng mắt lên mái nhà mà không thấy chút tăm hơi gì thì một tiếng va chạm nhẹ làm cô chú ý. Ở phía xa hơn một chút, một sợi dây nằm sát máng nước và buông xuống theo bức tường. Cô vội chạy đến, cởi cúc chiếc áo khoác để khỏi bị vướng, kẹp sợi dậy vào giữa hai đầu gối chân như cô vẫn thường làm thế rất thuần thục, và bắt đầu trèo lên. Đến tầng thứ ba, cô liếc nhìn xuống dưới và thấy chóng mặt. Chưa bao giờ, khi học thể dục, cô leo đến độ cao thế này. Và ở đây, không có tấm thảm nào đỡ cô trong trường hợp bị ngã. Chắc chắn, cô nghĩ, đây là một cuộc gặp gỡ yêu đương đầy kỳ cục! Hay nó vẫn luôn diễn ra như thế? Cô hít thở sâu và tiếp tục. Đến chỗ chiếc máng dưới nhà, cô không có thời gian để tự hỏi làm sao cô có thể trèo lên mái. Bàn tay Milos đã chìa ra về phía cô:
- Đưa tay phải của em đây và bám lấy cổ anh! Không phải bàn tay anh, mà là cổ tay nhé!
Cô nắm lấy cổ tay cậu ta, và chàng trai cũng nắm lấy cổ tay cô. Ngay lập tức Helen cảm thấy bay bổng trên không. Gần như không phải nhờ đến khuỷu tay và đầu gối, cô đã ở bên cạnh Milos, ở trên mái nhà, cách mặt đất mười hai mét, cũng thoải mái như đang ngồi trên chiếc trường kỷ ở phòng khách.
- Đây gọi là kiểu kết hợp bắt tréo và nó làm lực nhân đôi! Cậu giải thích.
- Em tưởng như mình đã chết... Helen nói.
- Em hãy nghỉ một chút. Chúng ta đã xong phần khó khăn nhất.
- Em hy vọng là thế...
Họ bò trên mặt đất ẩm ướt đến ô cửa sổ mái nơi Milos buộc sợi dây thừng. Cậu gỡ sợi dây, cuộn tròn và buộc vào thắt lưng, rồi cậu mở cánh cửa sổ mái đủ để hai người chui vào trong. Thật dễ dàng bám vào mép cửa sổ, đu người và nhảy xuống dưới. Milos làm trước và không gây một tiếng động, cậu gập đầu gối để khỏi ngã. Helen dễ dàng làm theo và cô có cảm giác chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, cô đã gây ấn tượng đến hai lần: đầu tiên là leo dây rất tốt, và bây giờ là nhảy xuống tầng áp mái. Khi chàng trai đón cô, cô thấy mình thật nhẹ trong đôi bàn tay chắc chắn của cậu. Milos lấy chiếc đèn pin từ trong túi ra, bật lên và rọi ánh sáng vào khoảng không gian xung quanh.
Tầng nhà áp mái trống không và đầy bụi. Không có gì ở giữa hai phần mái nhà thô kệch và sàn bằng gỗ sồi. Ở chính giữa, họ có thể đứng thẳng, nhưng ngay khi dịch sang chỗ khác, họ phải cúi khom người.
- Chúng ta làm gì ở đâu vậy? Helen hỏi.
Milos đặt ngón tay trỏ lên miệng cô và chỉ xuống mặt đất
- Suỵt! Hãy lắng nghe!
Từ tầng dưới nổi lên tiếng nói chuyện ồn ào khó nghe rõ. Có cả một tiếng cười cụt lủn.
- Chuyện gì thế? Helen thì thào.
- Em có con dao của anh không? Milos chỉ hỏi lại, không trả lời.
Cô trả lại cậu con dao. Cậu rón rén tiến lên phía trước, không gây tiếng động, mắt cúi xuống, như thể đang làm việc gì đó vậy. Đến bên kia của căn phòng, cậu quỳ gối xuống và ra hiệu cho Helen rằng đã tìm thấy, và cô có thể đến cạnh cậu.
- Soi đèn cho anh! Cậu nói, đồng thời đưa chiếc đèn pin cho cô gái, và bằng đầu mũi dao, cậu rạch một đường dài khoảng chục phân trên tấm ván có vẻ yếu nhất so với những tấm khác.
- Ở chỗ các anh, mọi người cho phép có một con dao ư? Helen ngồi bên cạnh, ngạc nhiên hỏi.
- Nếu bọn anh bằng lòng với những gì được phép, Milos cười, thì anh sẽ không có dây thừng, không có dao, và nhất là anh không ở đây với em vào giữa đêm thế này...
- Khi nào anh mới giải thích với em? Em có quyền được biết, không phải vậy sao?
- Hãy đợi một chút nữa, anh sắp làm việc ấy đây. Nếu em thích những điều bất ngờ, em sẽ không bị thất vọng đâu.
Chàng trai còn mải miết cậy từng miếng gỗ nhỏ thêm vài phút nữa. Cuối cùng cậu mở một lưỡi dao khác và bẩy miếng ván. Miếng ván khẽ rên rỉ, kháng cự rồi cũng phải chịu thua. Milos ra hiệu cho Helen tắt đèn và cậu từ từ gỡ tấm sồi lên. Ngay lập tức những giọng nói hầu như không thể nghe được lúc trước trở nên rõ ràng.
- Xin mời quý cô! Chàng trai nói và cậu mời Helen nhìn xuống trước.
Cô nằm úp xuống sàn và ép sát mặt lên trên lỗ vuông nhỏ hé sáng. Ban đầu, cảnh tượng cô nhìn thấy dường như không có thật đến nỗi cô phải tự hỏi phải chăng mình không còn tỉnh táo nữa.
Có khoảng năm mươi người bên dưới. Cuối gian phòng rộng, một bàn tiệc phủ đầy thức ăn và rượu vang. Nhiều ghế ngồi đặt đối diện với chiếc bục mà trên đó có một chiếc bằng bằng gỗ sồi. Các hàng ghế bên trái của lối đi trung tâm dường như được dành cho phụ nữ, và Helen ngay lập tức nhận ra mụ Xe tăng, đứng gần hàng trên cùng và hẳn nhiên có mụ Merlute kè kè bên cạnh. Mụ hiệu trưởng tươi cười, xun xoe trong chiếc váy màu hoa cà quá chặt để giữ đôi vai đô vật của mụ Mụ Merlute xun xoe bên cạnh, đội chiếc mũ bắp cải lạ thường (mũi của mụ có lẽ được làm từ xúc xích), ngó nghiêng tất cả các hướng hệt như một con gà lôi.
Đằng sau mụ, nhiều gương mặt quen khác đang ngồi trên ghế, không khó nhận ra: đầu tiên mụ Xương khô, mụ cố làm cho mình béo lên nhưng vô ích, với các miếng đệm vai và rất nhiều miếng nhồi; mụ Đại bác, người có hai quả ngực nhọn hoắt như hai quả đạn pháo đáng sợ, trong bộ đồ màu xanh ve chai; mụ Mersch, ngồi trên ghế, bôi trát giống như một chiếc bánh ga tô sinh nhật và cầm trong đôi găng tay ầu trắng một chiếc túi xách có màu đen lấp lánh; cuối cùng là mụ Zesch, như Helen đã nhìn thấy mụ đi ra từ ngăn tủ của mụ, nhưng còn khó coi hơn nữa với chiếc mũ màu vàng kỳ cục. Lẻ loi phía gần bàn tiệc, lão Putois vừa mân mê chiếc mũ lưỡi trai vừa liếc nhìn chai rượu nho.
Helen suýt phá lên cười. Nhiều người đàn ông lạ cô không biết ngồi trên các hàng ghế bên cánh phải. Cô gái trẻ đứng lên, sửng sốt:
- Đây là buổi trình diễn mốt à?
- Không, đây là đại hội thường niên của hai trường nội trú chúng ta, Milos nói và đến lượt mình, cậu nằm xuống để nhìn.
- Đại hội gì? Làm thế nào anh biết cả những việc này?
Cô gái phải kiên nhẫn một chút. Bị thôi miên vì cảnh tượng bên dưới, chàng trai chăm chú xem không để sót một mẩu vụn nào. Thỉnh thoảng cơn buồn cười làm cơ thể cậu rung bần bật trong im lặng. Sau vài phút, cậu chống khuỷu tay và nhìn Helen. Tia sáng lọt qua lỗ hổng của miếng ván khẽ chiếu lên bàn tay và khuôn mặt họ.
- Hãy nghe anh, Helen, Milos nói khẽ, cảnh chúng ta đang thấy ở đây chưa bao giờ học sinh nào nhìn thấy. Khi anh nói với em lúc nãy, "xin nhường vinh dự cho em", đó còn hơn là một kiểu cách. Em nhận ra những người đàn bà bên trường nội trú của em không?
- Có, tất cả họ đều ở đây. Có vẻ họ đã trang điểm! Trông họ như những người điên ấy!
- Các bà ấy bị điên. Và những người đàn ông bên trường nội trú của anh. Họ cũng điên theo cách của họ.
- Milos, anh làm em sợ... Và họ tụ tập ở đây làm gì, tất cả bọn họ?
- Anh đã nói với em: đây là đại hội thường niên, nó là tối mật. Họ tập hợp để đón một tay nào đó tên là Van Vlyck. Đó là một trong những nhân vật lãnh đạo của hội Phanlange, hắn là một trong những sếp bên an ninh và hắn chủ yếu phụ trách những trường nội trú như trường của chúng ta. Có vẻ như họ sợ hắn khủng khiếp, em sẽ thấy...
Helen còn hạ thấp giọng xuống nữa, vẻ khiếp sợ:
- Anh nói đó là tối mật? Và nếu như họ tóm được chúng ta? Đáng ra anh phải nói cho em trước...
- Họ không bao giờ tóm được chúng ta. Họ không bao giờ tóm được anh.
- Và tại sao họ không bao giờ tóm được anh?
- Bởi vì anh may mắn. Anh đã luôn may mắn...
- Anh may mắn? Và anh muốn em yên tâm vì thế?
- Xin em...
Helen đáng ra muốn giận điên lên nhưng cô không thể. Trong nụ cười của Milos có sự chắc chắc khiến cô cảm thấy tin tưởng điều cậu ta nói, không mảy may nghi ngờ gì nữa: người ta sẽ không bao giờ tóm được họ...
- Milos, anh nói: "các trường nội trú giống như trường chúng ta". Thế có nghĩa là gì?
- Khiếp quá! Như thế thì có quá nhều thứ phải giải thích cùng một lúc, Helen ạ! Anh sẽ lần lượt giải thích sau, anh hứa đấy.
- Đồng ý. Vậy hắn làm gì ở đây, lão Van Vlyck của anh ấy?
- Để xem mọi chuyện có ổn không, anh cho là thế. Để kiểm tra các lão điên các con mụ dở hơi có luôn như thế không... Đợi đã! Anh tin là bên dưới bắt đầu nhộn nhịp rồi đấy... Cho em nhìn này! Ghi nhớ thật kỹ những điều em nhìn thấy nhé!
Helen trở lại vị trí quan sát. Tất cả mọi người đứng dậy vẫy tay chào đón một người đàn ông lực lưỡng có bộ râu màu hung, mặc bộ vest lót da cừu đã cũ mòn chỗ khuỷu tay đang mạnh chân bước vào. Hắn ta không mất công bận trang phục dự tiệc. Đôi ủng vấy bẩn của hắn đáng phải lau qua và đánh xi. Hai gã đàn ông, chắc là tay chân của hắn, theo ngay đằng sau. Hắn bước thẳng lên bục và làm chiếc ghế mất hút dưới cái mông khổng lồ, thậm chí không cởi cả áo vest, theo cách của một người không có ý định ngồi lại lâu. Hắn ra hiệu mời mụ Xe tăng và người đàn ông chắc là hiệu trưởng bên ký túc xá nam đến ngồi bên cạch hắn. Mụ Xe tăng núng nính như một con ngỗng béo đi tới. Hoa cài trên khuy áo, ông hiệu trưởng trường nội trú nam cũng không kém phần long trọng. Hai gã tay chân đứng quan sát ngay ở cửa ra vào và không nhúc nhích nữa...
- Thưa các bà, các ông, các đồng nghiệp thân mếm...
Giọng lão Van Vlyck vang lên trong bầu không khí im lặng tuyệt đối. Ánh mắt rực lửa của hắn quét qua đám người tham dự.
-... vậy là một lần nữa chúng ta lại tập hợp bên nhau... tôi rất thích những cuộc gặp gỡ ban đêm như thế này, các ông bà biết điều đó. Nó cho phép chúng ta mỗi năm gặp lại nhau và...
- Anh có nghe được không? Đang ở vị trí thuận lợi, Helen hỏi.
- Không rõ lắm, Milos thú nhận.
- Đến đây, chúng ta sẽ nằm sát bên nhau...
Cô dịch sang một chút và hai người nằm dài bên cạnh nhau, gần như má chạm má.
- Tốt hơn rồi chứ? Helen khẽ hỏi.
- Hoàn hảo, Milos trả lời.
- Theo như truyền thống, Van Vlyck nói tiếp, trước hết chúng ta sẽ điểm lại tình hình trong các tháng qua kể từ chuyến viếng thăm cuối cùng của tôi. Hãy bắt đầu từ trường nội trú nữ. Tôi vui mừng chuyển những lời khen ngợi của tổ chức Phanlange đến bà hiệu trưởng vì tính cương quyết và nghiêm khắc của bà. Bà sẽ vẫn tiếp tục đảm nhận chức vụ đó...
Mụ Xe tăng ấp úng nói những lời cảm ơn lộn xộn, nhưng lão Van Vlyck không để mụ có thời gian tận hưởng thêm nữa những lời khen ngợi:
- Cũng xin khen ngợi những người giám thị, đặc biệt là cô Zesch và Merlute vì sự nghiêm khắc trong công việc của họ... Xin có lời khen ngợi đến cô Mersch, giáo viên môn toán, lòng tận tụy gương mẫu của cô...
Lần lượt theo những cái tên được xướng, những cái đầu quay về phía mấy mụ đàn bà được chọn đang sung sướng ngất ngây vì thỏa mãn. Câc mụ còn lại cố gắng mỉm cười, nhưng trong lòng ghen tuông gần như làm biến đổi khuôn mặt họ. Đặc biệt là mụ Xương khô, mụ mím môi và vươn ra cái cổ gà gớm ghiếc.
Khi đã đi đủ vòng trường nữ, Van Vlyck chuyển sang trường nam, vẫn với vẻ long trọng và lạnh lùng ấy. Rồi bỗng nhiên hắn cao giọng.
- Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến đấu khó khăn, các đồng nghiệp thân mếm! Một cuộc chiến đấu đòi hỏi tính kiên trì và lòng quyết tâm. Tất cả các vị phải biết rằng cùng với nỗ lực của chính các vị, các vị được ủng hộ bởi tổ chức Phalage mà tôi có vinh dự được đại diện tại đây. Nhưng các vị cũng biết sai lầm nhỏ nhất của các vị sẽ bị trừng phạt không khoan nhượng. Chẳng hạn, để lọt ra hay lọt vào những lá thư cũng bị chúng ta coi như một tội lớn, các vị biết điều đó...
Ở cuối phòng, lão Putois miệng vẹo sang một bên trông rất nực cười, và trong toàn bộ phần còn lại của bài diễn thuyết, lão chỉ dán mắt xuống mũi giày.
- Tôi nhắc lại điều này với các vị, lão Van Vlyck nói tiếp, nếu có một lúc nào đó, các vị thấy nghi ngờ về các vị, nếu các vị cảm thấy manh nha dâng lên trong lòng mình tình cảm thương hại đối với một cô hay một cậu học sinh nào trường nội trú, thì hãy nhớ lại điều này: những con người đó không giống như các vị và tôi!
Kèm theo câu nói đó, hắn đập ngón tay giữa xuống mặt bàn, và tiếp tục, mặt tái xanh vì giận dữ:
- Những con người đó khinh miệt các vị trong im lặng, đừng bao giờ quên điều ấy!
- "Những con người đó", Helen thì thào, hắn nói về ai thế?
- Về em và về anh... Milos trả lời. Hãy nghe nào...
-... chúng là sự đe dọa với xã hội của chúng ta, giống như bố mẹ chúng từng như thế.
Helen rùng mình.
- Hắn ta kể gì vậy? Bố mẹ chúng ta? Milos. Thế là sao?
Chàng trai nằm dịch lại gần bên cô thêm một chút nữa:
- Suỵt... hãy nghe cho hết nào...
-... chúng ta đã rộng lượng đón tiếp chúng trong những cơ sở như thế này, chúng ta cho chúng cơ hội cải tạo, Van Vlyck nói tiếp. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là ngăn chặn hạt giống xấu nảy mầm. Chúng ta phải giẫm nát nó dưới đế giày, một cách không thương xót. Bản nội quy ở đây là để hướng dẫn các vị trong nhiệm vụ ấy. Không có gì là phức tạp cả: tôn trọng nội quy, và các vị sẽ tránh được mọi rắc rối. Quên đi điều đó, các vị sẽ tự đặt mình trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất. Một điều cuối cùng, tôi nói kín với các vị: tổ chức Phalange ghét sự phản bội...
Vừa đe dọa như thế, Van Vlyck vừa đẩy cái hàm lực lưỡng về phía trước và bầu không khí im lặng ngột ngạt bao trùm đám người tới dự.
- Tôi không thể chiếm thêm thời gian của các vị nữa, hắn nói tiếp, trông mãn nguyện ra mặt vì hiệu quả đạt được, tôi biết bữa tiệc thân mật đang chờ đợi các vị. Nếu ai đó có ý kiến gì, thì hãy phát biểu ngay bây giờ, nếu không tôi bế mạc buổi họp.
Hắn dang rộng hai tay, chắc mẩm sẽ không ai dám có ý kiến, và khi hắn chuẩn bị kết thúc thì việc rắc rối xảy đến.
Do không tiêu hóa được việc công lao của mình không được ghi nhận, mụ Xương khô đứng dậy khỏi ghế, nhợt nhạt như một xác chết và gầy hơn bao giờ hết.
- Thưa ngài Van Vlyck, mụ bắt đầu với giọng nói căng thẳng và đứt hơi, nếu tôi được phép, liệu ngài đã được thông báo về việc một trong các nữ sinh của chúng tôi bỏ trốn chưa?
Van Vlyck, đang gần như đứng lên, lại từ từ ngồi xuống:
- Một... cuộc bỏ trốn, cô Fitzfischer, thật sao? Hãy trình bày...
- Vâng thưa ngài, mụ Xương khô trả lời, mụ vô cùng xúc động vì được gọi bằng họ của mình. Tôi đã báo cáo với bà hiệu trưởng, cách đây một tuần, việc biến mất của một cô gái năm thứ tư.
Van Vlyck từ từ quay về phía mụ Xe tăng, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, mụ ta thay đổi sắc mặt đến ba lần: đầu tiên màu trắng, sau đó màu đỏ, và cuối cùng màu tai tái.
- Đó là sự thật, thưa ngài... nhưng chúng tôi ngay lập tức áp dụng nội quy và... một học sinh nội trú khác hiện đang bị nhốt ở trong ngục và...
- Một tuần? Van Vlyck từ từ phát âm thật rõ, vẻ hoài nghi. Cuộc bỏ trốn đã xảy ra được một tuần...
- Vâng thưa ngài, mụ Xe tăng lắp bắp, đột nhiên mụ cũng tỏ ra sợ hãi như một đứa trẻ lên sáu, nhưng tôi đã nghĩ rằng... rằng không cần thiết...
-... phải báo cáo cho tôi... Van Vlyck nói nốt câu với vẻ nhẹ nhàng đáng ghê sợ. Bà hiệu trưởng, bà cho rằng "không cần thiết phải báo cáo cho tôi", có phải thế không?
- Đúng vậy, mụ Xe tăng thú nhận, và mụ cúi đầu, không thể nói thêm một lời nào nữa.
- Cô Fitzfischer, Van Vlick một lần nữa quay đầu sang nhìn mụ Xương khô vẫn còn đang đứng, hỏi tiếp, cô gái bỏ trốn tên là gì, thưa cô?
- Cô gái tên Bach, thưa ngài, Milena Bach.
- Milena Bach... Van Vlyck từ từ nhắc lại, và Helen dường như thấy hắn ta trở nên tái mét.
Cô rùng mình. Nghe tên bạn mình phát ra từ miệng của con yêu tinh này, cô có cảm giác hắn ta đã gần như tóm được bạn cô trong móng vuốt dơ bẩn của hắn.
- Và cô ta thế nào? Hắn tiếp tục, tôi muốn nói ngoại hình của cô ta thế nào?
- Cô ta khá cao, rất xinh...
- Tóc của cô ta, thưa cô… Tóc của cô ta thế nào?
- Màu hạt dẻ... sáng... mụ Xe tăng ấp úng với giọng như hấp hối trong khi không ai hỏi mụ.
- Màu hạt dẻ sáng? Van Vlyck ngạc nhiên.
- Không, tóc cô ta màu vàng, thưa ngài, mụ Xương khô chỉnh lại, hoàn toàn màu vàng.
Mụ Xe tăng vẫn còn sức ngẩng đầu nhìn mụ đàn bà canh cổng từ hai mươi năm nay, và ánh mắt nhìn nhau giữa hai mụ đàn bà là một chất độc đặc quánh đáng ghê sợ. Trong bầu không khí im lặng bao trùm, Van Vlyck đưa hai bàn tay lên mặt thật lâu như để lau sạch bùn vậy.
- Con bé đó, cuối cùng hắn cũng tiếp tục với giọng rất nhỏ, con bé đó, cô Fitzfischer, nó có điều gì đặc biệt không?
- Dạ có, mụ Xương khô trả lời, hớn hở ra mặt vì có thể nói như thế.
- Và... điều gì đặc biệt, thưa cô?
- Cô ta hát rất hay, thưa ngài.
Lại một bầu khôn khí im lặng ngột ngạt.
- Một câu hỏi cuối cùng, cô Fitzfischer, Van Vlyck lên tiếng, và tôi xin gửi đến cô lời khen ngợi tương xứng với cô: con bé đó bỏ trốn một mình sao?
Ông hiệu trưởng trường nội trú nam, bên phải Van Vlyck, ngồi vặn hai bàn tay từ bấy lâu. Viễn cảnh phải thừa nhận cùng một lỗi với người đồng nghiệp bên trường nội trú nữ khiến lòng ruột ông ta thắt lại.
- Thưa ngài... bên trường tôi... cũng phát hiện ra... ông ta bắt đầu lên tiếng.
- Thằng đó tên là gì? Van Vlyck thô bạo cắt ngang.
- Thằng bé tên là Bartolomeo Casal, thưa ngài, và…
Ông ta không thể nói hết câu. Van Vlyck, đã giữ được vẻ bình tĩnh đến lúc đó, giờ nhắm mắt, phồng ngực và hoàn tất một việc mà mọi người ngỡ là không thể: hắn giơ cao nắm đấm khổng lồ đầy lông lá, giáng xuống chiếc bàn bằng gỗ sồi hắn từng chống khuỷu tay và đập chiếc bàn làm đôi. Kèm theo hành động ấy là tiếng thét khủng khiếp từ miệng hắn, đám người tới dự đông cứng vì khiếp sợ.
- Hãy bảo cho tay Mills! Hắn ta hét lên, điên dại. Hãy mang cho Mills và đám Quái vật của hắn mấy mẩu quần áo, khăn mùi soa, giày hay bất cứ vật gì có mùi của hai con mọt đó!
- Milos, Helen kinh sợ rên rỉ, chúng sẽ làm gì bọn họ? Em không hiểu gì hết... Hãy giải thích cho em...
Hai người nhổm dậy, quỳ gối trước mặt nhau. Chàng trai mở rộng vòng tay và Helen đỏ mình vào, sắp bật khóc.
- Milos, Milos, đây là cơn ác mộng...
Họ nghe thấy dưới kia tiếng ghế đổ và tiếng tháo chạy.
- Cút đi! Van Vlyck gào đến cháy họng. Tất cả các người biến đi trước khi ta bóp nát các người!
Tiếng ồn ào nhạt dần, và cuối cùng là tiếng sập cửa rất mạnh. Helen nhìn lại lần cuối qua lỗ hổng được mở ra trên sàn nhà. Không ai kịp thời gian để tắt đèn, và căn phòng trống rỗng lại rơi vào im lặng. Còn lại một mình, lão Putois đứng bên bàn tiệc, chiếc mũ lưỡi trai của lão để trên ghế, ngay gần lão. Lão cầm một cốc rượu vang, uống từng ngụm nhỏ, đá lưỡi trong vòm miệng, đặt cốc rượu xuống và phết bơ lên bánh sandwich chả lợn.
Trận Đấu Mùa Đông Trận Đấu Mùa Đông - Jean Claude Mourlevat Trận Đấu Mùa Đông