Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 3
“T
rò Alpers?” Bị tóm rồi. Tôi dừng lại, rồi từ từ quay người trên hành lang. Tôi biết giọng nói đó. Ai ở trường St. Anselm’s cũng biết. Đó là Adelaide Beezemeyer, hiệu trưởng nhà trường. “Em rảnh không?” “Không hẳn, thưa cô Beezemeyer. Em đang trên đường tới buổi học nhạc.” “Cô sẽ gọi thầy Goldfarb để báo thầy biết là em đến trễ.
Mời em vào văn phòng tôi.” Cô vẫy tôi vào trong và gọi thầy Nathan. Tôi đặt guitar xuống và ngồi xuống. Đồng hồ trên tường chỉ 3:01. Trọn một phút học hành quý giá của tôi vừa trôi qua. Sáu mươi giây âm nhạc tôi sẽ không bao giờ lấy lại được. Chân tôi bắt đầu nhịp. Tôi ép chặt đầu gối để bắt nó dừng lại.
“Trà thảo dược nhé?” Beezie hỏi khi cô đặt điện thoại xuống. “Cô vừa pha một ấm.” “Không ạ, cám ơn cô.” Tôi nhìn thấy một tập hồ sơ trên bàn. Trên đó có tên tôi – Diandra Xenia Alpers, đặt theo tên cả hai bà nội ngoại. Tôi đổi sang là Andi ngay khi biết nói. Tôi đánh mắt khỏi tập hồ sơ – chuyện không lành rồi – và nhìn Beezie khi cô đi quanh.
Trông cô như một người lùn Hobbit – thấp và tóc tai bờm xờm. Dù là thời điểm nào trong năm, cô cũng đi giày Birkenstock, và mặc đồ màu tím. Cô đột ngột quay lại và thấy tôi đang nhìn, thế nên tôi đưa mắt nhìn quanh phòng. Trên bậu cửa sổ có đặt các loại bình hoa, những chậu hoa treo lủng lẳng trên trần nhà, chén bát đựng trong một tủ búp phê – tất cả đều được tráng men những sắc màu của bùn đất.
“Em có thích chúng không?” cô hỏi tôi, hất đầu về mấy cái bát. “Đẹp lắm ạ.” “Của cô đấy. Cô đã nặn các chậu hoa.” Mẹ tôi cũng vậy. Trên tường. “Chúng là phương tiện thỏa mãn sự sáng tạo của cô,” cô nói thêm. “Nghệ thuật của cô.” “Chà.” Tôi chỉ vào một giỏ hoa.
“Cái đó làm em nhớ tới Guernica.” Beezie mỉm cười. Mặt cô sáng ngời lên. “Thật à?” “Không ạ.” Nụ cười biến khỏi mặt cô, rơi xuống sàn, vỡ tan tành. Giờ thì chắc chắn là cô sẽ tống tôi ra khỏi đây. Tôi sẽ đi. Nhưng cô không làm thế. Cô đặt một cốc trà lên bàn và ngồi vào ghế của mình.
Tôi lại nhìn đồng hồ. 3:04. Chân tôi nhún bần bật. “Andi, cô sẽ đi thẳng vào vấn đề. Cô lo ngại,” cô nói, mở tập hồ sơ của tôi ra. “Mai là kỳ nghỉ đông, và em chưa nộp đơn theo học đại học nào cả. Không một trường nào. Em cũng chưa nộp đề cương cho luận văn năm cuối.
Ở đây cô thấy là em đã chọn đề tài… một nhà soạn nhạc người Pháp thế kỷ mười tám, Amadé Malherbeau… một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên viết cho guitar.” “Cho dụng cụ sáu dây,” tôi nói. “Các nhà soạn nhạc khác viết cho đàn luýt, măng đô lin, viola, và ba rốc.” “Thú vị quá,” Beezie nói.
“Cô thích tiêu đề… ‘Bố của bạn là ai? Lần theo DNA về mặt âm nhạc của Amadé Malherbeau tới Jonny Greenwood’.” “Cám ơn cô. Vijay nghĩ ra tên đó. Cậu ấy bảo tên cũ em đặt – ‘Di sản âm nhạc của Amadé Malherbeau’ không hề đủ độ hoành tráng.” Beezie lờ tịt câu đó đi. Cô đặt tập hồ sơ xuống và nhìn tôi.
“Sao không có tiến triển gì?” Vì em không quan tâm nữa, cô Beezemeyer ạ, tôi muốn nói thế. Không phải vì Amadé Malherbeau, trường lớp, đại học, hay cái gì cả. Mà bởi cái thế giới xám xịt hai năm qua tôi vất vả sinh tồn đã bắt đầu chuyển sang màu đen ở ngoài rìa. Nhưng tôi không thể nói như thế.
Nó chỉ khiến tôi nhận tíc-kê trở lại văn phòng bác sĩ Becker để tái diễn một đợt trị liệu bằng thuốc tê cứng cảm giác. Tôi vén một lọn tóc trên mặt, cố câu giờ nghĩ ra cái gì đó để nói. “Chúa ơi, Andi. Tay của em,” cô nói. “Em bị sao thế?” “Bach.” Cô lắc đầu. “Tất cả là về nỗi đau, phải không? Bỏ học, điểm kém, và giờ thậm chí em còn tìm ra cách dùng thứ âm nhạc đẹp đẽ để làm đau mình.
Như thể em đang hành xác miên viễn vậy. Em phải chấm dứt ngay chuyện này, Andi. Em phải tìm được sự tha thứ cho chuyện đã xảy ra. Tha thứ cho bản thân em.” Cơn giận bắt đầu dâng lên trong tôi, đỏ ngầu và chết chóc. Hệt như lúc thằng nhỏ ở trường Slater chạm vào cái chìa khóa. Tôi nhìn đi chỗ khác, cố gắng nén giận, ước gì Beezie sẽ nhảy qua cửa sổ và mang theo những cái bình xấu xí của cô đi.
Ước gì tôi đang nghe những nốt nhạc và gam nhạc, chứ không phải giọng cô ta. Ước gì tôi đang nghe bản Suite no. 1 viết cho cello và chuyển thể cho guitar của Bach. Nhẽ ra tôi đang phải chơi bản đó với thầy Nathan. Ngay lúc này. “Cục cưng điên rồ của tôi thế nào?” thầy lúc nào cũng nói vậy khi tôi bước vào lớp.
Nhạc sĩ yêu thích của thầy là Bach, Mozart, và ban Pink Floyd. Nathan già rồi. Thầy bảy mươi lăm. Khi còn nhỏ, thầy mất cả gia đình ở Auschwitz. Mẹ thầy và chị gái bị xử tử bằng hơi ngạt cái ngày họ đến vì họ không đủ mạnh khỏe để làm việc. Nathan sống sót vì là thần đồng, một bé trai tám tuổi chơi violon như một thiên thần.
Thầy chơi trong nhà ăn tập thể của các sĩ quan hàng đêm. Các sĩ quan thích âm nhạc của thầy, vì thế họ cho thầy ăn đồ ăn thừa. Thầy sẽ về lại trại của mình lúc đêm khuya và nôn thức ăn ra cho bố thầy ăn. Thầy cố làm thật khẽ khàng, nhưng một đêm bọn cai ngục bắt được. Chúng đánh thầy thừa sống thiếu chết và đưa cha thầy đi.
Tôi biết thầy Nathan sẽ nói gì về tay tôi. Thầy sẽ nói chảy máu vì Bach thì chả là gì cả. Thầy sẽ bảo rằng những người như Beethoven và Billie Holiday và Syd Barrett từ bỏ mọi thứ họ có cho âm nhạc của họ, vậy một cái móng tay thì có xá gì? Thầy sẽ chẳng coi chuyện đó bi thương.
Thầy hiểu đời hơn. Thầy biết thế nào là bi thương. Thầy biết thế nào là mất mát. Và thầy biết không có thứ gì gọi là sự thứ tha. “Andi? Andi, em có nghe cô đang nói gì không đấy?” Beezie vẫn đang lải nhải. “Vâng có ạ, thưa cô Beezemeyer,” tôi nghiêm nghị nói, hy vọng nếu trông tôi hối lỗi tôi có thể thoát ra khỏi đây trước nửa đêm.
“Cô đã gửi thư về nhà em. Về việc em không nộp đề cương luận văn. Có lẽ em đã biết chuyện thư từ này. Cô gửi một lá cho bố em và một cho mẹ em.” Tôi biết lá thư gửi cho mẹ tôi. Người đưa thư nhét qua khe cửa. Nó nằm trên sàn trong sảnh trước một tuần liền cho đến khi tôi đá nó qua một bên.
Tôi không biết là Beezie đã gửi một lá nữa cho bố tôi nhưng chuyện đó cũng chả quan trọng. Bố không mở thư. Thư từ là dành cho những chuyện ít trọng đại hơn. “Em có gì để nói về tất cả những chuyện này không, Andi? Bất cứ điều gì?” “Chà, em đoán là… Ý em là, chỉ là em nghĩ sẽ không xong, cô Beezemeyer, cô biết không? Chuyện luận văn năm cuối ấy.
Chắc là không xong. Em nhận bằng vào tháng Sáu rồi ra đi thôi thì có được không?” “Hoàn thành luận văn tốt nghiệp giá chót cũng ở mức điểm trung bình là điều kiện để em nhận được bằng. Em biết điều đó. Cô không thể cho em tốt nghiệp mà không có luận văn. Thế sẽ là bất công với các bạn khác.” Tôi gật đầu.
Không quan tâm. Mảy may. Tuyệt vọng muốn đến lớp nhạc. “Thế còn đơn xin nhập học đại học thì sao? Vào trường Juilliard? Curtis? Eastman School?” Beezie hỏi. “Em viết các bài luận chưa? Có kế hoạch đi diễn thử nào chưa?” Tôi lắc đầu, ngắt lời cô. Giờ thì cả hai chân tôi đều rung bần bật.
Tôi đổ mồ hôi. Run rẩy. Tôi cần lớp học. Thầy giáo của tôi. Tôi cần nhạc của tôi. Cực kỳ. Cần. Ngay bây giờ. Beezie thở dài sườn sượt. “Em cần phải khép lại chuyện cũ, Andi ạ,” cô nói. “Cô biết là vẫn còn khó khăn. Cô biết em cảm thấy thế nào. Về Truman. Về chuyện đã xảy ra.
Nhưng đây không phải là về Truman. Đây là về em. Về tài năng xuất chúng của em. Tương lai của em.” “Không. Không phải thế, thưa cô Beezemeyer.” Tôi muốn ngăn những lời đó lại, nhưng tôi không thể. Beezie có ý tốt. Cô ấy tốt theo kiểu của cô ấy. Cô ấy quan tâm. Tôi biết cô quan tâm.
Nhưng tôi không đừng được. Lẽ ra cô không nên nói về Truman. Không nên nói tên em. Cơn giận lại nổi dậy, trào lên cao hơn, và tôi không ngăn nổi nó. “Đây không phải là về em. Mà là về cô,” tôi nói với cô. “Nó là về các con số. Nếu năm ngoái có hai đứa cuối cấp được vào Princeton, năm nay cô muốn có bốn đứa.
Ở đây mọi chuyện là vậy và chúng ta đều biết tỏng. Không ai trả tiền học phí ngang với mức lương trung bình hàng năm ở bang New Hampshire để con họ vào một trường vớ vẩn. Các bậc phụ huynh muốn Harvard, MIT, Brown. Em vào đại học Juilliard thì cô thêm phần danh giá. Chỉ riêng cô thôi, cô Beezemeyer ạ, không phải em.
Chuyện ở đây là thế.” Beezie trông như thể cô vừa bị tát. “Chúa ơi, Andi,” cô nói. “Nếu em cố gắng thì cũng không thể nào nói những lời gây tổn thương hơn những lời này.” “Em đã cố đấy.” Cô im lặng vài giây. Mắt cô ngấn lệ. Cô hắng giọng nói, “Hạn nộp đề cương luận văn cuối năm là lúc trường mở cửa lại – mùng năm tháng Giêng.
Cô thực lòng hy vọng là em sẽ nộp. Nếu không, cô e là em sẽ bị đuổi học.” Giờ thì tôi chả nghe cô nói gì nữa. Tôi đang tan rã. Trong đầu tôi và tay tôi có nhạc, và tôi cảm giác như thể mình sẽ nổ tung ra nếu tôi không cho nó thoát ra ngoài. Tôi túm lấy cây đàn. Đồng hồ chỉ 3:21.
Chỉ còn có ba mươi chín phút. May là hành lang gần như trống không. Tôi chạy như điên. Tôi không để ý, co giò chạy thẳng, thì đột nhiên chân tôi vấp phải gì đó và tôi bay vèo lên. Tôi nện đánh bụp xuống sàn nhà, cảm thấy đầu gối, ngực, cằm mình nện xuống. Chiếc thùng đựng guitar cũng nện xuống sàn và trượt văng đi chỗ khác.
Đầu gối phải của tôi đang hát. Tôi có thể nếm được máu trong miệng mình, nhưng tôi không quan tâm. Tất cả những gì tôi quan tâm là chiếc guitar. Nó là một chiếc Hauser từ những năm 1940. Nó là của Nathan. Thầy cho tôi mượn. Tôi bò về phía cái hộp. Phải một lúc tôi mới mở được khóa vì tay tôi run bần bật.
Khi cuối cùng tôi nâng nắp hộp lên, tôi thấy mọi thứ đều ổn. Không có gì bị vỡ cả. Tôi đóng hộp lại, thở phào nhẹ nhõm. “Ối.” Tôi nhìn lên. Là Cooper. Nó đang đi lại trên hành lang, cười đểu. Arden Tode đi cùng nó. Tôi hiểu rồi. Nó chơi tôi. Trả đũa vụ sáng nay. “Cẩn thận đấy Andi.
Chạy kiểu đó thì gãy cổ có ngày,” nó nói. Tôi lắc đầu. “Không, không gãy đâu,” tôi nói. “Kiểu đó không gãy. Tớ thử rồi. Cám ơn cậu vì đã giúp, Coop ạ. Tớ rất cảm kích.” Máu nhỏ ra từ miệng tôi khi tôi nói. Cooper đứng chết trân. Nụ cười khểnh của nó biến mất. Trông nó bối rối, rồi sợ hãi.
“Thần kinh,” Arden rít lên. Cô ả khoác tay cậu ta. Tôi đứng dậy và khập khiễng bước đi. Xuống hành lang. Vòng qua góc. Và rồi tôi đến nơi. Cuối cùng cũng đến nơi. Tôi mở toang cửa lớp. Nathan nhìn lên từ một bảng nhạc. Thầy mỉm cười. “Cục cưng điên rồ của tôi thế nào?” “Điên rồ,” tôi nói, giọng nức nở.
Đôi mày bạc trắng rậm rịt của thầy nhướng cao. Cặp mắt thầy mở to đằng sau cặp kính dày, nhìn từ cái miệng đầy máu tới bàn tay đầy máu của tôi. Thầy băng qua phòng và nhấc một chiếc guitar ra khỏi bục. “Ta chơi chứ?” thầy nói. Tôi dùng ống tay áo chùi miệng. “Vâng, thầy Nathan,” tôi nói.