A book is like a garden carried in the pocket.

Chinese Proverb

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 744 / 5
Cập nhật: 2017-08-25 12:50:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ình yêu không có lí do để đến, cũng chẳng cần lí do để ra đi. Niềm vui mà tình yêu mang lại rất ảo, nhưng nỗi buồn thì rất thật. Nỗi buồn ở lại lâu hơn những thứ khác trên đời.
*
Hai năm sau chuyến về quê nội, tôi gặp lại Phố.
Tờ tạp chí nơi tôi làm việc đột nhiên có ý tưởng mở một chuyên mục mới nói về các loại cây thuốc. Tôi vinh hạnh được tổng biên tập giao cho viết loạt bài đầu tiên. Vị lương y đầu tiên tôi diện kiến với tư cách mong được chỉ dẫn là anh kết nghĩa của tổng biên tập. Nghe nói, thời điểm đó tổng biên tập mắc một căn bệnh gì đó, chữa thuốc tây không khỏi, nhờ giới thiệu mà được vị lương y này bốc thuốc, khỏi bệnh, cảm kích tấm lòng mà đốt hương trầm, xì xụp lạy nhau nhận làm huynh muội.
Nhà vị lương y cách xa đô thị, từ thủ đô, tôi phải vượt qua rất nhiều các thị trấn, làng mạc lớn nhỏ khác mới đến đại bản doanh của lương y. Quả là danh bất hư truyền. Đại bản doanh của lương y rộng rãi, khang trang, ngoài tòa nhà chính như một biệt thự của quan chức hay doanh nhân giàu có là các dãy nhà phụ chứa thuốc, còn có một cái sân lớn hơn cả những cái sân kho hợp tác xã ở quê nội mà tôi mãi ấn tượng khi còn thơ dại. Cái sân đó dùng để phơi thảo dược. Trong sân, không chỉ có thuốc mà còn có nhiều người mặc đồng phục đang phơi thuốc. Ngoài cửa phòng mạch, mấy chục người già trẻ lớn bé, với những nét mặt đầy lo âu đang chờ được lương y bắt mạch kê đơn. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn cái sân mênh mông những loại thảo dược đang được phơi kia và trong lòng lại dâng lên một nỗi buồn tê dại.
“Chị Hàm Yên!”.
Tên tôi được vang lên bởi một chàng trai trẻ. Chàng trai mặc đồng phục nhà thuốc. Khuôn mặt thanh tú với đôi mày đẹp như vẽ.
Là Phố.
Phố dẫn tôi vào phòng khách. Mỗi ngày khách đến chờ bắt mạch đều rất đông. Vị lương y gần như không hề có thời gian riêng tư cho bản thân, dù ông đã có vợ, con trai, con dâu, con gái làm phụ tá. Vì thế, giờ giấc của ông ấy được ấn định rất nghiêm ngặt. Ông ấy chỉ có mười lăm phút rảnh sau giấc ngủ trưa, giấc ngủ kéo dài đúng một giờ trước khi người bệnh đầu tiên của buổi chiều được đón tiếp.
Nhưng tôi không có tâm trạng nào muốn gặp vị lương y đó nữa. Trong tâm trí tôi chỉ có Phố. Tôi chỉ muốn nói chuyện với Phố về những tháng ngày sau khi rời khỏi ngôi nhà u buồn, nơi mẹ và bố Phố đã nằm chết bên nhau mà không ai biết vì sao họ lại làm như thế. Rằng Phố thực sự không nhớ chuyện gì đã xảy ra, hay Phố cố tình làm tôi rối trí.
Nhưng dẫn tôi đến phòng khách, sau khi giảng giải nhanh cho tôi hiểu về lịch làm việc của lương y, Phố biến mất sau cánh cửa. Và tôi ngồi đó nhìn ra khu vườn tĩnh lặng qua ô cửa sổ được trang trí rất thẩm mĩ bởi những sợi dây leo. Thật kì lạ. Tại sao chỉ sau một cánh cửa, thế giới của những gương mặt người bệnh đầy lo âu và những hỗn độn mùi thơm từ nhiều loại thảo dược khác nhau kia lại khác biệt với căn phòng này đến thế. Nó tĩnh lặng như một cõi thiền, và nó khiến tôi nhớ đến lần đầu tiên gặp Phố sau mười một năm, Phố cũng hiện diện trước tôi với một vẻ rất thiền như thế. Cảm giác đó mơ hồ nhưng có thật.
Bấy giờ là cuối tháng Ba, đầu tháng Tư dương lịch, mưa bụi không còn giăng kín đất trời. Nắng ấm áp và vàng dịu như một cánh màn tuyn rất dịu dàng bao trùm lấy vạn vật. Tôi và Phố dừng chân nghỉ ở một cung đường núi, dưới gốc một cái cây rất to, không biết tên cây là gì. Từ nơi đó nhìn xuống thung lũng sâu thẳm dưới kia, một khoảng bát ngát cỏ xanh lượn sóng trong gió. Không một cái cây lúp xúp nào xen lẫn vào thảm xanh mềm mại ấy, hệt như những sợi rong tóc tiên dưới lòng sông trong vắt của quê nội năm nào.
“Không hiểu sao nhìn cỏ dưới thung lũng kia, chị thấy rất buồn”.
Phố châm một điếu thuốc, không nhìn thung lũng đầy sóng cỏ, mà nhìn dãy núi xanh trước mặt với những nếp nhà nhỏ xíu như những hạt đậu ngố nằm cô lẻ.
“Chắc chị rất hay buồn, phải không?”.
Phố hỏi tôi như thế, và tôi trả lời: “Phải”.
Phố rít một hơi thuốc. Ngả người lên cái rễ cây.
“Em cũng rất hay buồn. Chẳng hiểu tại sao. Lúc nào em cũng muốn trốn vào một chỗ yên tĩnh và không muốn bị ai quấy rầy. Nhưng mẹ em bảo nếu cứ như thế, em sẽ chết trong cô độc mất. Cuộc đời rất ngắn ngủi, tốt nhất nên tận hưởng những niềm vui mà cuộc sống mang lại, chẳng nên buồn khi mình còn có thể vui”.
“Mẹ em à?”.
“Vâng”.
Phố quay sang nhìn tôi.
“Mẹ Thơm của em. Em chỉ ở với mẹ hai năm thôi, rồi em được phân công ở với mẹ khác”.
Phố đang nhắc nhớ một người mẹ trong trại trẻ mồ côi, một người mẹ mà cuộc đời vô tình ban cho cậu, dù thời gian rất ngắn ngủi.
“Nhưng mà em vẫn buồn. Em chẳng thể nào vui được. Nói chung là em không muốn vui”.
“Có nguyên nhân nào khác không?”.
Phố im lặng giây lát, tiếp tục hút thuốc lá. Bất ngờ Phố dụi điếu thuốc khi nó mới chỉ cháy được một đoạn ngắn.
“Có chứ. Vì mẹ Thơm suốt ngày buồn. Mẹ ấy yêu một người, và chẳng hiểu sao không lấy ông ta, mà thành mẹ của chúng em. Hay chị nhỉ. Người ta cứ khuyên người khác, trong khi chính mình lại không làm được. Nhưng em luôn nhớ mẹ Thơm, em nhớ nỗi buồn của bà ấy”.
“Còn mẹ em?”.
Ý tôi là người mẹ có mái tóc xoăn bồng bềnh như mây như sóng, với những ngón tay thon dài, trắng hồng, khác hẳn với những bàn tay thô vụng, chai sần của tất cả các bà, các chị ở làng ngày ấy.
Phố hiểu rằng tôi đang hỏi về người mẹ đã chết, một cái chết đầy ám ảnh.
“Em không nhớ rõ lắm khuôn mặt mẹ, nói chung là chỉ nhìn qua ảnh thôi. Nhưng vì mẹ em chết cảm, nên em mới quyết định học nghề thuốc. Chị còn nhớ lần chúng ta gặp nhau ở quê không? Sau đó, cậu em xin cho em theo ông thầy này để học bốc thuốc. Hai năm nay ông ấy chỉ bắt em đi khắp nơi, nhận mặt lá cây thuốc, chỉ thế thôi”.
Và vì Phố chỉ phải rong ruổi khắp những ngọn núi, chân đồi, khe suối để tìm và nhận biết các loại thảo dược, nên tôi mới có dịp được vị lương y đồng ý cho đi cùng Phố, và giờ dừng chân ở cung đường này đây.
“Ai cũng sợ chết phải không chị? Cứ ngồi nhìn những người mà ông thầy cầm tay bắt mạch, em lại buồn cười. Buồn cười lắm. Không phải em ác đâu, mà em chỉ ngạc nhiên là tại sao người ta lại tham sống đến thế. Có người đi viện, bệnh viện trả về, đến nhà ông thầy em bốc thuốc. Ông thầy bảo không sống được bao lâu, cứ về mà hưởng thụ, thế là khóc to một trận, khóc như trẻ con phải đòn. Thầy em bảo, vốn con người sinh ra đều có lí do, bị một căn bệnh là có lí do. Bất kể là khoa học phát triển, can thiệp vào việc cứu người thì cũng tức là can thiệp vào thiên cơ. Nói chung là rất phức tạp. Thầy em bảo, dù cứu được bao nhiêu người, cuối cùng là người ta vẫn chết, vì già, vì tai nạn, vì một căn bệnh khác, nói chung là cuối cùng cũng chết, chỉ là muộn hơn dự kiến của đất trời thôi. Nhưng thầy em bảo ông ấy vì thế mà không thọ. Chỉ sáu mươi hai tuổi là chết. Không phải chết vì bệnh, mà chết vì tai nạn”.
“Thế ông ấy năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”.
“Sáu mươi”.
“Chắc nhiều người hồi hộp chờ đợi năm ông ấy sáu mươi hai tuổi lắm, không phải họ muốn ông ấy chết, mà họ tò mò, họ muốn biết tiên liệu của ông ấy có thành sự thật không”.
“Vâng. Em cũng nghĩ như vậy”.
Thế là Phố đã tránh được chính diện câu hỏi của tôi. Tôi muốn Phố nhắc lại cảnh mẹ Phố chết trong vũng máu chảy ra từ cổ tay trắng hồng của bà ấy, nhưng Phố khẳng định cái chết là do bị cảm như hai năm trước đó.
Phố không nhớ, hay chính tôi mơ hồ?
Phố không nhớ cái chết của mẹ Phố như tôi và cậu ấy chứng kiến, trái lại, cái chết đó, trong trí nhớ của cậu ấy hoàn toàn khác. Một cái chết hiền dịu và không có máu. Vấn đề là trong cái chết ấy không có người bố, và những kỉ niệm thơ ấu cùng tôi đã hoàn toàn biến mất.
Giữa trưa, gió đột nhiên ngừng thổi, và những sóng cỏ trong thung lũng lặng im như bị tạc vào tranh vẽ. Không gian thảng thốt vài tiếng gà gáy từ các nhà dân trên lưng núi. Cũng như tiếng gà, tiếng chó sủa cũng rất đỗi mơ hồ. Lâu lâu, một chiếc xe máy bụi bặm phóng ào qua. Con đường trước mặt hẫng cụt, mất hút vào một khúc quanh, lại hiện ra mờ xa trên sườn một ngọn núi khác.
“Con đường này sẽ đi đến đâu nhỉ? Đâu là điểm cuối cùng của nó?”.
“Không có điểm cuối cùng đâu. Hết là lại bắt đầu. Nhưng chị có muốn thử không?”.
“Thử đi đến cuối con đường này ư?”.
“Vâng. Em sẽ đưa chị đi. Em cũng muốn đi”.
“Đi đến khi nào muốn dừng lại?”.
“Vâng”.
Và những rừng pơ mu trầm mặc, những rừng mai xào xạc, những sườn núi thẫm đỏ hoa gạo, những cung đường trắng muốt hoa trẩu lần lượt hiện ra ở phía trước rồi trôi dần về phía sau.
Con đường quá đẹp. Chúng tôi cứ mê mải trôi theo nó, cho đến khi trời bắt đầu sập tối, một thị trấn nhỏ hiện ra trong lũng bũng sương mù.
Sương mù nặng như mưa bụi, phủ mù mịt lên con đường nhỏ vào thị trấn.
Bên đường, từ trong hơi ẩm của sương mù, những người đàn ông mặc đồ đen, đội mũ nồi đen dắt những chú ngựa nhỏ thồ trên lưng những bao nông phẩm, và người phụ nữ váy thổ cẩm xập xòe theo bước chân đang tiến vào thị trấn, càng vào sâu trong thị trấn, những người đàn ông, những người phụ nữ như thế càng đông hơn. Họ dừng bên đường, trước ánh đèn lộng lẫy từ những ngôi nhà mặt phố, những cửa hiệu hàng hóa và ríu rít nói chuyện. Tôi không hiểu họ nói gì, nhưng nét mặt người nào cũng vui, cứ như việc miêu tả những người dân vùng cao nghèo khổ u sầu trên các trang văn, trang báo mà người ta đã đăng tải chỉ là một trò láo toét.
Phố bảo chắc ở đây có một phiên chợ, ngày mai là ngày chợ họp và những người đó từ những ngọn núi, những thung lũng rất xa đến để bắt đầu phiên chợ từ lúc nửa đêm.
Nhìn những tấm biển gắn trên các cửa hàng mặt phố, thì thị trấn này có tên là Cẩm Xuyên, một thị trấn sát kề biên giới quốc gia. Và tôi biết là tôi đã đến nơi mà Hải Đường, người bạn hồi đại học của tôi đang công tác. Chúng tôi đừng chân ở đó.
Chỉ có một khách sạn trong thị trấn. Cô lễ tân khá xinh khẽ chớp mắt nhìn hai chúng tôi.
“Cho chúng tôi hai phòng nhé”.
Tôi nói, và vuốt mái tóc đang bết lại vì gió quần suốt hai trăm cây số vi vút với những cung đường tuyệt diệu của tháng Ba.
Cô lễ tân lướt nhìn cuốn sổ to trên bàn, rồi nói nhỏ: “Chỉ còn một phòng thôi ạ”.
Tôi hẫng người.
Phố nhìn tôi, tôi nhìn Phố, rồi nhìn cô lễ tân: “Từ giờ đến nửa đêm liệu có phòng nào trả không?”.
“Không chị ạ. Họ ở đây đến trưa mai cơ. Vì đêm nay có chợ”.
“Vậy à? Vậy ở đây có còn nhà trọ nào nữa không? Ý mình là nhà dân, họ cho trọ?”.
“Phòng thế nào? Có mấy giường?”.
Phố đột ngột chen vào hỏi cô gái. Cô gái lại nhìn cuốn sổ: “Phòng có hai giường đơn ạ”.
“Vậy Phố ở đây nhé, chị sẽ ra ngoài kia. Với lại chị muốn đi xem chợ tối nay”.
Tôi quay người bước ra. Phố giật tay tôi lại.
“Chị sợ gì chứ? Phòng có hai giường đơn cơ mà. Chị là chị, em là em cơ mà”.
“Chị là chị, em là em cơ mà”. Câu nói đó xoáy vào tim tôi một sự ngỡ ngàng.
Trời ơi! Lẽ nào tôi quên mất, khi tôi nhìn thấy Phố lần đầu, tôi đã nghĩ mình sẽ che chở cho cậu bé, cậu bé tội nghiệp đang điều binh khiển tướng một mình với cái lưng bé nhỏ, bờ vai bé nhỏ và cái gáy đáng yêu. Tôi sẽ bảo vệ nó như bảo vệ đứa em bé bỏng của mình cơ mà.
Giờ thì đứa em đó đang ở đây. Tay nó đang nắm tay tôi, như ngày xưa đã nắm tay tôi cùng đi học.
Tôi là chị, Phố là em.
Đêm Cẩm Xuyên đón chúng tôi với sương mù mỗi lúc thêm dày đặc. Trong chợ, khu ẩm thực chỉ thấy mờ mờ những người ngồi ăn uống. Khói bếp và hơi nước bốc lên từ những cái nồi to đen sẫm đã tan trong sương mù.
Tôi và Phố đi bên nhau trong chợ. Sáng hôm sau chợ mới chính thức họp, đêm nay chỉ là dành cho những người từ xa đến cho kịp phiên mà thôi, nên trong những mái lán lúp xúp, những cặp vợ chồng hoặc những nhóm người Mông, Tày, Nùng nằm cuộn bên hàng hóa của mình, rì rầm trò chuyện.
Lạnh thấu tim.
“Em có nghe nói về những phiên chợ tình vùng cao không?”.
“Có. Nhiều chuyện. Học thuốc cùng em có một anh người Nùng. Ông ấy cũng hay kể chuyện chợ tình, vì ông ấy đi nhiều nơi. Nhưng em không ấn tượng lắm. Em không thích vợ mình đi gặp người yêu cũ, hoàn toàn không thích, em không chịu nổi”.
“Nhưng đó là một nét văn hóa của họ mà. Họ coi đó là chuyện bình thường”.
“Biết thế. Nhưng em không chịu được”.
Phố châm một điếu thuốc. Khuôn mặt Phố hiện ra khi ánh lửa châm thuốc lóe sáng, rồi sương mù nhanh chóng nuốt chửng làn khói thuốc đầu tiên.
“Vậy chị có ấn tượng gì không?”.
“Có”.
Tôi dừng lại ở một gian chợ đang bỏ trống. Tựa lưng vào chiếc cột bằng bê tông lạnh buốt. Phố đứng trước mặt tôi.
“Chị có hút thuốc không?”.
“Có”.
Phố có ngạc nhiên khi tôi trả lời thế không, khi mà Phố cho tay vào túi áo và lấy ra bao thuốc. Xòe lửa châm thuốc cho tôi.
“Chị kể đi”.
Tôi nhìn về phía những ánh đèn của khu ẩm thực, sương mù đột nhiên như dần tan ra. Phía sau tôi, tiếng những con ngựa giậm chân trên nền đất chợ, và tiếng chúng thở, nghẹn ngào, hồi hộp.
“Chị nghe nói có một phiên chợ tình, mỗi năm chỉ họp một lần thôi. Đó là ngày duy nhất mà những đôi tình nhân cũ có dịp gặp nhau, rồi sau đó ai về nhà nấy. Có một người phụ nữ, suốt sáu mươi năm trời, năm nào cũng đi chợ tình, nhưng không năm nào vào chợ. Bà chỉ đứng trên con dốc cuối cùng nhìn xuống chợ, dù biết có một ông già năm nào cũng đợi mình ở đó”.
“Cuối cùng bà ấy có đến chợ không?”.
“Có. Cuối cùng bà ấy quyết định đến chợ để gặp ông ấy. Nhưng ông ấy không đến”.
Phố bật cười. Tiếng cười của Phố có lẽ khiến những con ngựa giật mình, hoặc hưởng ứng, chúng giậm chân một hồi lên nền đất.
“Hay nhỉ. Hóa ra là ảo tưởng. Tình yêu không dài đến thế đâu chị”.
“Chị cũng nghĩ như vậy. Hạnh phúc rất mong manh. Tình yêu càng dễ vỡ. Nhưng ông ấy không đến vì ông ấy chết rồi. Chết trong phiên chợ tình năm trước”.
Phố im lặng. Chúng tôi rời gian hàng trống khi sương mù có vẻ loãng hơn để về khách sạn.
“Dù sao chỉ là một câu chuyện thôi mà”.
“Đúng vậy”.
“Sao chị nghĩ hạnh phúc rất mong manh?”.
Tôi không trả lời. Tôi không biết trả lời sao. Tôi sắp ba mươi tuổi. Trong khi những người bạn cùng trang lứa ra rả nói về hạnh phúc, tôi chỉ im lặng.
Tôi im lặng và không hề thấy một chút rung cảm nào ngay cả khi Song Hào, người yêu tôi nói với tôi vào đêm tỏ tình: “Mình yêu cậu. Yêu mãi mãi”.
Lúc đó, ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi chính là: “Tình yêu à? Thứ đó không thuộc về ta”.
“Em cũng nghĩ như vậy”.
Phố nói khi chúng tôi bước lên các bậc cầu thang để đến tầng hai của khách sạn.
“Nghĩ gì cơ?”.
Phố không trả lời. Chúng tôi đứng trước cánh cửa phòng khách sạn. Hành lang có vài người đàn ông trông như dân giang hồ, xăm trổ đầy mình qua lại. Nhiều tiếng ồn, tiếng cười và nói chuyện phát ra từ những căn phòng cùng tầng.
“Về hạnh phúc ấy”.
Chúng tôi bước vào căn phòng. Nó dường như đã thấm lạnh khi tôi quên không khép cửa sổ trước khi ra ngoài và xuống chợ.
“Chị có để ý những người ngoài hành lang vừa nãy không? Họ là dân nhiều tiền lắm của. Họ mang tiền mặt sê-ri đi mua hàng, toàn xấp tiền một trăm, hai trăm, cả năm trăm. Tiền ngồn ngộn trong túi áo, túi quần, nên họ toàn mặc quần hộp, có nhiều túi”.
“Họ mang tiền mặt nhiều như thế chỉ để đi chợ vùng cao bán toàn ngô, rau dớn, hoa bí và dưa chuột thế này ư?”.
Phố cười.
“Ai mà biết được với họ. Thôi. Chúng ta đi ngủ. Hôm nay đi nhiều, chị có mệt không?”.
Tôi nhìn chăm chăm lên trần nhà. Trần nhà không có gì cả, vì trong phòng tối om.
Giường bên cạnh, Phố cũng chưa ngủ. Đêm khuya, tiếng bước chân ngoài hành lang cũng lặng. Căn phòng lạnh lẽo cứ như bao nhiêu cái lạnh ngoài trời đã luồn qua khe cửa, cô kín lấy tôi và Phố. Và từ trong bóng tối, một tiếng cọt kẹt vang lên.
Tôi lạnh thấu tim. Tiếng kẽo kẹt như có ai đó đang nhón tay đẩy cánh cửa có bản lề hoen rỉ của một ngôi nhà hoang vắng. Một hồi im lặng, đột nhiên như có ai đó lục đục trong chiếc tủ gỗ đứng sừng sững trong góc phòng. Một luồng hơi lạnh toát phủ trên đầu giường. Tôi bất giác đưa tay lên chạm vào tóc. Tóc tôi lạnh buốt.
“Chị Hàm Yên. Chị làm chuyện đó lần đầu… là khi nào?”.
“Gì cơ?”.
Tiếng Phố vang lên trong đêm tối lạnh buốt như đóng băng không khí. Tôi nóng mặt, cảm thấy Phố không nghiêm túc.
“Lần đầu của em ở nhà kho của trại trẻ. Hôm đó em bị phạt dọn nhà kho. Cô ấy tên là Vân. Lúc đó bọn em đều mười tám. Còn chị?”.
Tim tôi đập dồn trong lồng ngực. Làm sao tôi lại có cảm giác dữ dội như thế? Vì Phố đang đề cập đến một vấn đề nhạy cảm, hay chính việc Phố đã trở thành một người đàn ông?
Một người đàn ông?
Mọi đứa trẻ trai cuối cùng cũng trở thành những người đàn ông. Làm sao tôi giữ Phố mãi mãi là cậu bé sáu tuổi của tôi trong tay mình được. Phố đã rời xa bàn tay tôi từ lâu rồi, lâu đến nỗi Phố không còn nhớ gì về tôi nữa. Mọi thứ thuộc về tôi đối với Phố chỉ bắt đầu vào khoảnh khắc Phố đang quét lá trong sân và tôi xuất hiện với câu hỏi: Phố phải không? Em có nhớ chị không?
“Chị chưa ngủ mà. Sao chị không trả lời em?”.
Bị Phố dồn, tôi đành trả lời: “À… lâu rồi…”.
“Thế à? Chị và người đó yêu nhau chứ?”.
“Ừ”.
“Bây giờ chị còn yêu không?”.
“Không”.
Phố im lặng. Căn phòng cũng trở lại lặng im. Và cái lạnh càng lúc càng thít chặt lấy chúng tôi.
“Chị Hàm Yên. Chị có tin em không?”.
“Sao lại hỏi thế?”.
Tôi hỏi lại sau vài giây, giọng tôi run vì lạnh. Nhưng Phố không trả lời.
Tiếng cọt kẹt lại vang lên, lấp vào khoảng trống im lặng kéo dài khá lâu. Tôi không sao ngủ được.
Đột nhiên, một cảm giác về một hơi ấm lại gần. Tôi mở mắt, Phố đã ở bên giường của tôi.
“Chị phải tin em. Em không làm việc gì xấu. Em chỉ muốn ôm chị, để cả hai chị em không chết rét thôi”.
Tôi không biết trả lời thế nào. Lưỡi tôi như đóng băng bởi cái lạnh xứ này. Tôi hoàn toàn không ngờ được đêm hôm đó trời lạnh đến thế. Với cái rét thế này, những người khốn khổ ngoài chợ kia làm sao chịu nổi.
Và Phố ngả người bên cạnh tôi. Nằm im một lát. Có lẽ cả tôi và Phố đều nín thở. Rồi một tay Phố luồn xuống dưới cổ, tay kia vòng qua vai tôi. Bờ ngực thanh xuân của Phố ép chặt khuôn mặt tôi. Tôi gối đầu lên cánh tay Phố. Cả người tôi và Phố đều run lập cập.
“Chị có nghe thấy tiếng cọt kẹt vừa nãy không?”.
“Có”. Tôi đáp, và dần bớt run.
“Chị có sợ không?”.
“Có”.
Phố xiết vòng tay cho thêm chặt.
“Chị có biết tiếng gì không?”.
“Không”.
Phố im lặng giây lát.
“Tiếng gỗ cựa mình đấy. Người ta bảo những đồ vật làm từ những cây gỗ bị chết khô, chết đứng trong rừng, về đêm sẽ phát ra những tiếng kêu rợn người như thế”.
“Tại sao thế?”.
“Em không biết. Chắc là linh hồn của cây. Nhưng để cho nó khỏi kêu chỉ cần đóng một vài cái đinh vào đồ vật đó là hết. Nguyên lí kim khắc mộc mà”.
Tiếng Phố nhỏ dần, cuối cùng chỉ như tiếng gió thì thào, và rồi cả hai chúng tôi đều hết run, tôi nằm im trong vòng tay Phố. Phố thở đều dần, và vòng tay dần lơi lỏng. Phố chìm vào giấc ngủ.
Tiếng chim hót líu chíu ngoài tán cây sát cửa sổ. Tôi gỡ tay Phố ra, nhẹ nhàng rời khỏi giường, ấp tấm chăn thế vào khoảng trống mà tôi vừa để lại. Ngoài cửa sổ, sương mù dày đặc. Có lẽ vẫn còn quá sớm cho phiên chợ.
Tôi ngồi ở giường bên cạnh nhìn Phố ngủ. Khuôn mặt Phố bình thản. Đôi mày thanh tú, sống mũi thẳng và đôi môi gợi cảm. Có thể nói Phố là một chàng trai đẹp. Và dù Phố chẳng giống chút nào với hình dung của tôi suốt bao năm trời xa cách, thì khi nhìn Phố ngủ trong buổi sáng đầy sương mù Cẩm Xuyên ấy, trong lòng tôi một lần nữa cuộn lên cái cảm giác rằng tôi muốn được che chở cho Phố suốt cuộc đời.
Nhưng sao mà mong manh quá. Tôi không có một dự cảm nào về sự gắn kết dài lâu. Tôi có cảm giác Phố sẽ xa rời tôi như trước đây đã từng xa rời.
Ý nghĩ rằng một hôm nào đó, một lần nữa Phố không nhận ra tôi, không biết tôi là ai, khiến lòng tôi lại tràn ngập một nỗi buồn tê tái.
Tôi gặp một cô gái lễ tân khách sạn, khi cô bưng khay trà đi qua hành lang.
“Đêm hôm qua lạnh quá. Sao khách sạn không trang bị đủ ấm cho khách hả em?”.
Cô gái nhìn tôi, vẻ hơi ngỡ ngàng.
“Không rét mà chị. Có mấy người còn đòi mang chăn mỏng lên cho họ đắp mà”.
Tôi đứng trân trân. Cô gái mỉm cười.
“Hay là chị không quen? Nhưng không rét mà”.
Rồi cô bỏ đi.
Tôi hòa mình vào dòng người đến chợ. Sương mù chưa tan, và trong sương mù, váy áo thiếu nữ, các bà, các chị rực rỡ, càng thêm huyền ảo. Tôi cứ đi trong cái chợ đẫm sương mù như thế. Lòng tôi thầm hỏi lòng tôi: Cuối con đường là nơi tôi dừng lại?
Theo Đuổi Theo Đuổi - Phạm Thanh Thúy Theo Đuổi