Nguyên tác: The Gun Seller
Số lần đọc/download: 1495 / 11
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:59 +0700
Ba
C
húa và bác sĩ là những người chúng ta tôn sùng Nhưng chỉ khi chúng ta hoạn nạn, còn trước đó thì không.
JOHN OWEN
Sự thực là tôi cảm thấy tội nghiệp cho bản thân mình.
Tôi đã quen với cảnh túng quẫn, còn thất nghiệp đối với tôi thì hơn cả một người quen. Tôi đã bị những người đàn bà tôi yêu rũ bỏ, và thi thoảng lại có vài cái răng đau dữ dội. Nhưng chẳng hiểu sao, không thứ nào trong số đó có thể bằng được cảm giác cả thế giới đang chống lại mình.
Tôi bắt đầu nghĩ về những người bạn mà tôi có thể trông cậy nhờ vả, nhưng, như tất cả những lần cố kiếm tìm các quan hệ kiểu đó, tôi lại nhận ra rằng có quá nhiều người đã ra nước ngoài, đã chết, đã cưới những người chả ưa gì tôi, hoặc họ không thật sự là bạn tôi, và bây giờ tôi bắt đầu nghĩ về điều đó.
Đó là lý do tại sao tôi vào một bốt điện thoại trên đường Piccadilly, gọi cho Paulie.
“Tôi e là ông ấy đang ở tòa án,” một giọng trả lời. “Ông có để lại lời nhắn không?”
“Hãy nói với ông ấy tôi là Thomas Lang, và nếu ông ấy không có mặt ở quán Simpson đường Strand đúng lúc một giờ để mời tôi bữa trưa thì sự nghiệp pháp lý của ông ấy sẽ chấm dứt.”
“Sự nghiệp pháp lý... chấm dứt,” người thư ký nhắc lại. “Khi ông ấy gọi về tôi sẽ chuyển tin nhắn của ông tới ông ấy, ông Lang.”
Paulie, tên đầy đủ là Paul Lee, và tôi có một mối quan hệ khác thường.
Nó lạ thường ở chỗ chúng tôi vài tháng gặp nhau một lần, theo kiểu quan hệ xã hội thuần túy - quán bar, cơm tối, rạp hát, opera, những thứ Paulie yêu thích - và cả hai chúng tôi cũng thẳng thắn thừa nhận rằng chúng tôi không quý mến nhau một chút nào. Không một tí nào. Nếu như cảm giác của chúng tôi dành cho nhau mạnh như lòng căm thù, thì anh có thể suy diễn rằng đó chỉ là một cách nói bị bẻ queo đi để biểu đạt sự quý mến. Nhưng chúng tôi không ghét nhau. Chúng tôi chỉ không thích nhau, thế thôi.
Tôi thấy Paulie là một kẻ tham vọng, vênh vang hợm hĩnh, còn anh ta thấy tôi là một kẻ lười chảy thây, không tin tưởng được, và là một kẻ thô lỗ nhếch nhác. Điều tích cực duy nhất anh có thể nói về “tình bạn” của chúng tôi là: nó có tính tương hỗ. Chúng tôi thường gặp gỡ, dành khoảng chừng một giờ nói chuyện về những vấn đề của nhau, và rồi chia tay nhau với cùng cảm giác “Ơn Chúa, may mình không như thế” ở cường độ mạnh như nhau. Và để đổi lại việc bao tôi bữa trưa thịt bò quay cùng rượu vang trị giá năm mươi bảng, Paulie thú nhận rằng anh ta đã nhận được cảm giác bề trên trị giá đúng năm mươi bảng.
Tôi phải hỏi mượn cà vạt từ người phục vụ khách sạn, rồi anh ta trừng phạt tôi bằng cách cho tôi lựa chọn giữa một cái màu tía và một cái màu tía khác, nhưng tới mười hai giờ bốn mươi lăm thì tôi đã yên vị ở một cái bàn tại quán Simpson, giải tỏa những phiền phức hồi sáng bằng một cốc lớn rượu vodka tăng lực. Rất nhiều thực khách khác là người Mỹ, điều đó lý giải tại sao thăn thịt bò lại bán chạy hơn thăn thịt cừu. Người Mỹ chưa bao giờ thực sự biết thưởng thức thịt cừu là như thế nào. Tôi nghĩ họ cho rằng nó quá mềm.
Đúng một giờ thì Paulie đến, nhưng tôi biết anh ta sẽ xin lỗi vì tới muộn.
“Xin lỗi tôi tới muộn,” anh ta nói. “Anh có cái gì ở đó thế? Vodka à? Cho tôi một cốc như thế đi.”
Người bồi bàn đi khỏi còn Paulie nhìn quanh căn phòng, vuốt cà vạt thẳng xuống trước sơ mi và thi thoảng hất cằm để cổ áo đỡ tì vào ngấn cổ. Vẫn như mọi khi, mái tóc của anh ta mượt mà, bóng loáng. Anh ta tuyên bố rằng kiểu tóc rất hợp với bồi thẩm đoàn, nhưng kể từ khi tôi biết Paulie thì tình yêu đối với mái tóc đó luôn luôn là một điểm yếu của anh ta. Thực tế thì anh ta không được may mắn về mặt ngoại hình, nhưng, như để an ủi cái thân thể lùn tịt tròn lẳn của anh ta, Chúa đã ban cho một cái đầu với mái tóc đẹp, mà có lẽ anh ta sẽ giữ, dưới nhiều sắc thái khác nhau, cho tới tận tám mươi tuổi.
“Uống nào Paulie,” tôi nói rồi nốc một ngụm vodka.
“Mọi việc thế nào?” Khi nói chuyện, Paulie chẳng bao giờ nhìn vào anh. Anh có đứng dựa lưng vào một bức tường gạch thì anh ta vẫn cứ lơ đãng nhìn ra phía sau anh mà thôi.
“Ổn, ổn,” tôi đáp. “Anh thì sao?”
“Sau cùng cũng đã vớt được cho thằng chó đực đó.” Anh ta lắc đầu vẻ thán phục. Một gã đàn ông lúc nào cũng sửng sốt trước khả năng của chính bản thân mình.
“Tôi không biết anh làm cả mấy vụ gian dâm nữa cơ đấy, Paulie.”
Anh ta không cười. Paulie chỉ thực sự cười vào cuối tuần. “Không,” anh ta nói. “Cái tay mà tôi đã bảo anh đấy. Dùng xẻng làm vườn đánh thằng cháu nó tới chết. Đã gỡ được cho hắn rồi.”
“Nhưng anh nói là chính hắn đã làm mà.”
“Đúng vậy.”
“Thế sao mà anh gỡ được?”
“Tôi nói dối như cuội mà lị,” anh ta nói. “Thế anh có gì mới không?”
Trong khi chờ món xúp, chúng tôi cứ trao đổi về công việc như thế, mỗi một thành công của Paulie đều làm tôi chán nản và mỗi thất bại của tôi đều khiến anh ta vui sướng. Anh ta hỏi xem tình hình tiền bạc của tôi có ổn không, mặc dù cả hai đều biết anh ta sẽ chẳng mảy may đếm xỉa gì nếu như tôi không ổn. Và tôi hỏi về các ngày nghỉ của anh ta, về quá khứ và tương lai. Paulie trông đợi rất nhiều vào các ngày lễ.
“Nhóm chúng tôi đang thuê một chiếc thuyền đi Địa Trung Hải lặn biển, lướt ván, những thứ khác nữa, kiểu vậy. Đầu bếp xịn, học Cordon Bleu, nói chung đủ cả.”
“Thuyền buồm hay động cơ?”
“Thuyền buồm.” Anh ta cau mặt một thoáng, rồi đột nhiên nhìn già đi hai chục tuổi. “Dù vậy, giờ ngẫm lại thì, có lẽ nó cũng có động cơ. Nhưng có một thủy thủ đoàn lo tất cả những thứ đó rồi. Anh có định đi nghỉ không?”
“Chưa nghĩ tới chuyện đó,” tôi nói.
“À, mà lúc nào anh chả nghỉ ngơi còn gì? Ngày nghỉ thì cũng chẳng hơn gì cả.”
“Nói hay đấy, Paulie.”
“Ờ, thế anh thì sao? Kể từ khi rời quân ngũ, anh làm gì?”
“Tư vấn.”
“Tư vấn cái con khỉ.”
“Đừng nghĩ là tôi đủ năng lực tài chính để làm điều đó nhé, Paulie.”
“Được thôi. Để hỏi tay tư vấn phục vụ của chúng ta xem cái đếch gì xảy ra với món xúp vậy.”
Trong khi chúng tôi nhìn quanh tìm bồi bàn, tôi phát hiện những kẻ bám đuôi mình.
Hai gã ngồi ở bàn cạnh cửa, đang uống nước khoáng và quay đi ngay khi tôi nhìn về phía họ. Gã già hơn trông như được thiết kế bởi cùng một tay kiến trúc sư đã tạo ra Solomon, và gã trẻ hơn đang cố để trở nên như thế. Cả hai đều có vẻ rắn chắc, và tạm thời tôi đang đủ vui để giữ họ ở quanh mình.
Sau khi món xúp được bưng ra, Paulie nếm thử rồi phán rằng cũng chỉ tạm được, tôi dịch ghế quanh bàn và nghiêng người về phía anh ta. Thực ra tôi không định thu hoạch não anh ta, bởi vì thành thật mà nói nó chưa được chín lắm. Nhưng tôi không thấy mình mất mát gì trong chuyện này.
“Cái tên Woolf có gợi cho anh điều gì không, Paulie?”
“Tên người hay tên công ty?”
“Tên người,” tôi nói. “Người Mỹ, tôi nghĩ thế. Thương gia.”
“Ông ta đã làm gì? Say rượu lái xe? Giờ tôi không làm những thứ kiểu như thế nữa đâu. Và nếu tôi làm thì phải có một bao tải tiền.”
“Như tôi được biết, ông ta chưa làm cái gì cả,” tôi nói. “Chỉ băn khoăn liệu anh đã từng nghe tên ông ta bao giờ chưa. Gaine Parker là tên công ty.”
Paulie nhún vai và xé cái bánh mì thành từng mẩu nhỏ. “Tôi có thể tìm ra cho anh. Để làm gì vậy?”
“Công việc ấy mà,” tôi nói. “Tôi đã từ chối rồi, nhưng chỉ là tò mò thôi.”
Anh ta gật đầu và nhét mấy miếng bánh mì vào miệng. “Tôi đã tiến cử anh cho một công việc khoảng vài tháng trước đây.”
Đang đưa thìa xúp nửa chừng từ bát lên miệng thì tôi phải dừng lại. Chuyện này trái với con người Paulie, người anh ta chẳng bao giờ thèm quan tâm đến cuộc sống của tôi, chứ đừng nói là giúp đỡ.
“Công việc kiểu gì thế?”
“Một tay người Canada. Tìm người để làm một việc cơ bắp. Vệ sĩ, đại loại kiểu thế.”
“Tên ông ta là gì?”
“Không nhớ được. Bắt đầu bằng chữ J, tôi nghĩ thế.”
“McCluskey?”
“McCluskey không bắt đầu bằng chữ J, phải không nào? Không, nó là Joseph, Jacob, hay kiểu kiểu như thế.” Anh ta nhanh chóng đầu hàng không cố nhớ nữa. “Ông ta có liên lạc với anh không?”
“Không.”
“Tiếc thế. Thế mà tôi cứ nghĩ tôi đã thuyết phục được ông ta.”
“Và anh đã cho ông ta biết tên của tôi?”
“Không, tôi cho ông ta cỡ giày chết tiệt của anh. Tất nhiên là tôi cho ông ta tên anh chứ. Mà cũng không phải ngay từ đầu. Tôi giới thiệu với ông ta vài tay thám tử mà chúng tôi đã từng dùng qua. Mấy tay đó có vài gã bự chảng làm vệ sĩ, nhưng ông ta không lấy. Thích loại cao cấp hơn. Lính giải ngũ, ông ta nói thế. Anh là người duy nhất mà tôi nghĩ ra được. Ngoại trừ Andy Hick, tay bi-a lừng danh ấy mà, nhưng gã đó kiếm mỗi năm hai trăm ngàn trong một ngân hàng thương mại rồi.”
“Tôi cảm động đấy, Paulie.”
“Không có gì.”
“Thế sao anh gặp lại ông ta?”
“Hắn tới để gặp Kẹo Bơ, tôi chỉ dây dưa thôi.”
“Kẹo Bơ đấy là một người à?”
“Spencer. Nghị viên. Tự gọi mình là Kẹo Bơ. Chả biết tại sao. Có gì đó liên quan tới chơi gôn. Đánh phát bóng, có thể thế.”
Tôi ngẫm nghĩ một lúc.
“Anh không biết ông ta gặp Spencer làm gì à?”
“Ai nói là tôi không biết?”
“Thế anh biết à?”
“Không.”
Paulie đang dán mắt vào nơi nào đó sau gáy tôi, tôi bèn quay lại để xem anh ta dòm cái gì. Hai gã ở cửa giờ đang đứng. Gã già hơn nói điều gì đó với người quản lý, người này trỏ một anh bồi tới hướng bàn chúng tôi. Một vài thực khách khác dõi theo.
“Ông là ông Lang?”
“Tôi Lang đây.”
“Ông có điện thoại, thưa ông.”
Tôi nhún vai với Paulie, anh ta đang liếm ngón tay và nhặt những mẩu vụn trên khăn trải bàn.
Tới lúc tôi đến chỗ cửa thì gã trẻ tuổi hơn trong hai kẻ theo dõi đã biến mất. Tôi tìm cách nhìn vào mắt tên già hơn, nhưng gã đang bận nhìn một bức tranh vô danh trên tường. Tôi cầm lấy ống nghe.
“Ông chủ,” Solomon nói, “mọi chuyện ở Đan Mạch không được tốt lắm.”
“Ồ, tệ quá,” tôi nói. “Trước đấy mọi thứ tốt lắm cơ mà.”
Solomon định trả lời nhưng có một tiếng cạch và một tiếng giật mạnh, sau đó là giọng the thé của O’Neal trên điện thoại.
“Lang, ông đấy à?”
“Đúng,” tôi nói.
“Cô gái đó, ông Lang ạ. Người phụ nữ trẻ, tôi nên nói thế. Ông có biết bây giờ cô ta có thể ở đâu không?”
Tôi cười lớn.
“Ông đang hỏi tôi là cô ấy ở đâu à?”
“Đúng thế đấy. Chúng tôi đang gặp rắc rối vì phải tìm xem cô ta ở đâu đây.” Tôi liếc nhìn kẻ theo dõi, y vẫn đang dán mắt vào bức tranh.
“Rất tiếc, thưa ông O’Neal, tôi không giúp được ông đâu,” tôi nói. “Ông biết đấy, tôi không có đội ngũ nhân viên chín nghìn người và ngân sách hai mươi triệu bảng để dành cho việc tìm người và theo dõi họ. Dù sao cũng nói với ông, ông nên thử dùng nhân viên an ninh của Bộ Quốc phòng. Họ được cho là rất thạo những công việc kiểu thế này.”
Nhưng ông ta đã gác máy nửa chừng khi tôi nhắc đến chữ“Quốc phòng”.
Tôi để Paulie thanh toán tiền, và nhảy lên một chiếc xe buýt tới công viên Holland. Tôi muốn xem O’Neal đã xáo trộn căn hộ của tôi thế nào, và cũng để xem liệu mình có được tiếp xúc thêm với những tay buôn súng người Canada tên Joseph và Jacob như trong kinh Cựu ước không.
Những đệ tử của Solomon cùng lên xe buýt với tôi, họ dòm ra ngoài cửa sổ như thể đây là lần đầu tiên tới thăm Luân Đôn. Khi tới Notting Hill, tôi nghiêng người về phía họ.
“Các anh có khi cứ xuống cùng với tôi nhỉ,” tôi nói. “Thế đỡ mất công các anh phải xuống bến kế tiếp rồi chạy ngược lại.” Gã già hơn nhìn ra chỗ khác, nhưng gã trẻ hơn thì cười nhăn nhở. Cuối cùng, chúng tôi xuống cả cùng một lúc, và bọn họ lởn vởn ở bên kia đường trong khi tôi trở vào trong căn hộ.
Lẽ ra tôi nên biết rằng căn hộ sẽ bị khám xét mà không được báo trước. Không hẳn là mong chờ họ thay hộ cái ga giường hay hút bụi cả căn phòng, nhưng tôi nghĩ họ nên để nó ở tình trạng tốt hơn thế này. Chẳng có thứ đồ đạc nào ở đúng vị trí, một vài bức tranh của tôi đã bị chọc thủng, những cuốn sách trên giá lộn xộn đến thảm hại. Họ thậm chí còn bỏ một đĩa CD khác vào đầu stereo. Hay họ cảm thấy nhạc của Professor Longhair là thích hợp nhất với việc khám nhà chăng?
Tôi chẳng thiết di chuyển đồ đạc về vị trí cũ. Thay vào đó, tôi đi vào bếp, gõ lên cái ấm và nói lớn, “Trà hay cà phê?”
Có một tiếng sột soạt nhỏ từ phía phòng ngủ. “Hay là ông thích Coca?”
Vẫn quay lưng về phía cánh cửa khi ấm nước reo gần sôi, nhưng tôi nghe thấy tiếng cô đang đi theo lối cửa bếp. Tôi dốc một ít hạt cà phê vào trong cốc rồi quay lại.
Thay vì bộ váy lụa dài, Sarah Woolf đang mặc quần jean bạc màu và áo sơ mi vải bông cổ chui màu xám đậm. Tóc cô được vuốt lên, buộc lỏng ở phía sau theo kiểu mà đối với nhiều phụ nữ chỉ tốn năm giây, trong khi với những người khác thì tốn tới năm ngày. Và như để làm phụ kiện hợp màu cho cái áo, cô cầm một khẩu Walther TPH.22 tự động ở tay phải.
TPH là loại khá nhỏ. Nó có cơ cấu nạp đạn tự động, băng sáu viên và nòng dài hơn năm phân. Nó cũng được xem là mộtloại vũ khí hoàn toàn vô dụng, bởi vì trừ khi anh chắc chắn hoặc sẽ bắn trúng tim hoặc trúng óc ngay phát đầu tiên, không thì anh chỉ trêu tức người bị bắn. Đối với hầu hết mọi người, một con cá thu còn tươi có khi lại là lựa chọn tốt hơn thế để làm vũ khí.
“Ồ, ông Fincham,” cô nói, “sao ông biết tôi ở đây?” Giọng cô nghe thật hợp với bộ dạng.
“Nước hoa Fleur de Fleurs,” tôi nói. “Giáng sinh vừa rồi tôi cho bà dọn dẹp một lọ, nhưng tôi biết là bà ấy không dùng. Nên chắc chắn là cô.”
Cô nhướng mày nghi hoặc nhìn khắp căn phòng.
“Ông có người dọn dẹp sao?”
“Vâng, tôi biết,” tôi nói. “Chúa ban phước cho bà ấy. Bà ấy hơi vất vả một chút. Bệnh thấp khớp. Bà ấy không dọn được những thứ dưới đầu gối hay cao hơn bả vai. Tôi cố gắng để những thứ bẩn ở tầm cao ngang hông, nhưng đôi khi...” Tôi mỉm cười. Cô không cười lại. “Nếu đã thế này rồi, làm thế nào cô vào được đây vậy?”
“Cửa không khóa,” cô nói.
Tôi lắc đầu phẫn nộ.
“Cái bọn giẻ rách này. Tôi phải viết cho tay nghị sĩ của tôi mới được.”
“Gì cơ?”
“Cái chỗ này,” tôi nói, “sáng nay đã bị Lực lượng An ninh Công vụ Anh quốc lục soát. Đó là những tay chuyên nghiệp, được huấn luyện nhờ tiền thuế của dân, thế mà họ thậm chí chả buồn khóa cửa lại sau khi xong việc. Công vụ kiểu thế thì cô gọi là gì? Tôi chỉ có Coca không đường thôi. Được chứ?”
Khẩu súng vẫn chĩa về hướng tôi, nhưng nó không theo tôi tới tủ lạnh.
“Họ tìm thứ gì thế?” Giờ cô đang nhòm ra ngoài cửa sổ. Thực tình trông cô như đã trải qua một buổi sáng vô cùng tồi tệ.
“Tôi chịu,” tôi nói. “Tôi có một cái áo làm vải bọc bơ ở dưới đáy tủ bát. Có lẽ đó là một sự bôi bác chế độ cũng nên.”
“Họ có tìm thấy khẩu súng không?” Cô vẫn không nhìn tôi. Cái ấm cạch một cái, tôi liền rót nước sôi vào trong cốc. “Có, họ tìm thấy rồi.”
“Khẩu súng mà ông định dùng để giết bố tôi ấy à.”
Tôi không ngoảnh lại. Vẫn tiếp tục pha cà phê. “Không có khẩu súng nào như thế,” tôi nói.
“Khẩu súng họ tìm thấy ở đây đã được ai đó bỏ vào để làm cho giống như là tôi sắp sử dụng nó để giết bố cô.”
“Chà, thế thì có tác dụng đấy.” Giờ đây thì cô nhìn thẳng vào tôi. Và khẩu TPH.22 cũng thế. Nhưng tôi luôn tự hào về tính hài hước của mình, bởi thế tôi vẫn rót sữa vào cà phê và châm một điếu thuốc. Điều đó làm cho cô điên tiết.
“Ông là đồ con hoang khốn kiếp đấy à?”
“Đừng nói tôi thế. Mẹ tôi yêu tôi lắm.”
“Thế à? Đấy là lý do để tôi không bắn ông sao?”
Tôi đã mong rằng cô đừng nói gì đến súng, hay bắn, bởi biết đâu Bộ Quốc phòng chả đặt rệp điện tử đâu đó trong phòng, nhưng bởi vì cô đã khơi ra nên tôi khó lòng làm ngơ được.
“Tôi có thể nói gì đấy trước khi cô bắn cái đó chứ?”
“Nói đi.”
“Nếu chủ định dùng một khẩu súng để giết bố cô, sao tôi không mang nó theo đêm qua, khi tôi tới nhà cô ấy?”
“Có thể là ông đã mang.”
Tôi dừng lại để nhấp một ngụm cà phê.
“Trả lời rất hay,” tôi nói. “Được thôi, nếu tôi mang nó theo ngày hôm qua, tại sao tôi không dùng nó để bắn Rayner khi ông ta vặn tay tôi?”
“Có thể ông đã cố. Có thể đó chính là lý do ông ấy vặn tay ông.”
Trời đất ạ, người đàn bà này làm tôi mệt mỏi quá.
“Một câu trả lời hay nữa. Được thôi, hãy nói tôi nghe. Ai bảo với cô rằng người ta tìm thấy súng ở đây?”
“Cảnh sát.”
“Không,” tôi nói. “Có thể họ đã nói họ là cảnh sát, nhưng không phải thế.”
Tôi đang định nhảy vồ lấy cô, có thể là ném cốc cà phê trước, nhưng giờ không có cơ hội nào rồi. Đằng sau cô, tôi trông thấy hai đệ tử của Solomon đang chầm chậm di chuyển qua phòng khách, gã già hơn cầm một khẩu ổ quay cỡ lớn đưa ra phía trước trong tư thế hai tay giữ báng súng, còn gã trẻ tuổi hơn chỉ cười. Tôi quyết định để cho bánh xe công lý cọt kẹt một tẹo.
“Ai nói với tôi không quan trọng,” Sarah nói.
“Ngược lại là khác, tôi nghĩ nó rất quan trọng. Nếu người bán hàng bảo cô cái máy giặt đó rất tốt, đó là một chuyện. Nhưng nếu Tổng giám mục ở Canterbury bảo cô rằng nó tốt lắm, rằng nó có thể giũ bụi kể cả ở nhiệt độ thấp thì lại là chuyện khác hẳn.”
“Ông đang...”
Cô nghe thấy bọn họ khi họ chỉ ở cách cô vài bước, và khi cô quay lại thì gã trẻ tuổi đã chộp lấy cổ tay cô, ấn xuống rồi vặn ra phía ngoài một cách cực kỳ thành thạo. Cô kêu lên một tiếng ngắn, và khẩu súng trượt khỏi tay.
Tôi nhặt nó lên và chuyển qua cho gã già hơn, báng súng đi trước. Tỏ vẻ cho họ thấy tôi thực là một anh chàng ngoan ngoãn, giá mà thế giới có thể hiểu được.
Khi O’Neal và Solomon tới thì Sarah và tôi đã bị ấn xuống an tọa trên ghế sofa, hai gã theo dõi đang an vị quanh cửa vào, và chẳng ai trong số chúng tôi gợi chuyện. Và khi O’Neal đang om sòm ở nơi này, đột nhiên tôi có cảm tưởng như có rất nhiều người đang ở trong căn hộ. Tôi đề nghị đi ra lấy bánh, nhưng O’Neal đã thể hiện vẻ mặt “trách nhiệm bảo vệ thế giới phương Tây đặt cả lên vai tôi” một cách dữ dội nhất, bởi vậy tất cả chúng tôi đều im lặng ngó xuống tay mình.
Sau vài lời thì thầm với những người theo dõi, những gã này sau đó rút lui lặng lẽ, O’Neal bước tới hết chỗ này chỗ khác, nhặt thứ này, thứ kia lên mà bĩu môi. Hẳn ông ta đang chờ đợi điều gì, nó chưa ở trong phòng hoặc sắp sửa vào qua cửa, bởi vậy tôi đứng dậy bước tới chỗ điện thoại. Tôi vừa chạm vào thì nó reo lên. Đôi khi đời là thế.
Tôi cầm lấy ống nghe.
“Nghiên cứu Sau Đại học,” một giọng Mỹ chói tai.
“Ai đấy?”
“O’Neal phải không?” Có một chút bực dọc trong giọng nói. Hẳn không phải là người để anh hỏi xin một cốc đường.
“Không, nhưng ông O’Neal đang ở đây,” tôi nói. “Ai đang gọi đấy?”
“Đưa cái ống nghe chết giẫm cho O’Neal đi,” người đó nói. Tôi quay lại thì thấy O’Neal đang sải bước về phía tôi, bàn tay với ra.
“Đi chỗ nào học xử sự cho tử tế tí đi nhé,” tôi nói và gác máy.
Yên lặng một chút, và rồi có rất nhiều thứ dường như xảy ra đồng thời. Solomon dẫn tôi lại ghế sofa, không quá thô bạo nhưng cũng không ân cần lắm, O’Neal hét gọi mấy tay theo dõi, những tay theo dõi hét gọi nhau, và chuông điện thoại lại reo.
Chộp lấy điện thoại xong là O’Neal thấy khó chịu với cái dây ngay vì nó không hợp lắm với nỗ lực truyền tải sự điềm tĩnh bậc thầy như ông ta làm trước đây. Hiển nhiên là trong thế giới của O’Neal có nhiều kẻ tép riu hơn nhiều so với cái giọng Mỹ chói tai ở đầu dây bên kia.
Solomon đẩy tôi xuống gần chỗ Sarah, cô co người lại ghê tởm. Cũng khá đặc biệt khi có nhiều người ghét mình đến thế trong căn nhà của chính mình.
O’Neal gật đầu và vâng dạ khoảng một phút gì đó, rồi rất nhẹ nhàng đặt ống nghe xuống. Ông ta nhìn Sarah.
“Cô Woolf,” ông ta nói, ở mức lịch sự nhất có thể, “cô cần tới gặp ông Russell Barnes ở Đại sứ quán Mỹ càng nhanh càng tốt. Một trong các ông đây sẽ chở cô đi.” O’Neal nhìn đi chỗ khác, ý chừng mong chờ cô dựng dậy ngay lập tức và biến đi. Nhưng Sarah vẫn ngồi nguyên chỗ cũ.
“Lấy que chọc mẹ vào đít ông ấy,” cô nói.
Tôi phá lên cười.
Thực ra chỉ có mình tôi cười, và O’Neal bắn cái nhìn khét tiếng của ông ta về phía tôi. Song Sarah thì vẫn trân trân nhìn ông ta.
“Tôi muốn biết người ta sẽ làm gì với người này,” cô nói. Cô hất cằm về phía tôi, bởi vậy tôi nghĩ tốt nhất là thôi không cười nữa.
“Ông Lang cứ để chúng tôi lo, cô Woolf,” O’Neal nói. “Bản thân cô có bổn phận tới sứ quán nước cô, lúc...”
“Các ông không phải là cảnh sát, đúng không?” Cô nói.
O’Neal nhìn không được thoải mái.
“Không, chúng tôi không phải cảnh sát,” ông ta đáp một cách cẩn trọng.
“Tôi muốn cảnh sát đến đây, và tôi muốn gã này phải bị bắt vì có ý đồ giết người. Hắn ta đã cố giết bố tôi, và theo tất cả những gì tôi biết thì hắn ta sẽ lại làm điều đó.”
O’Neal nhìn cô, nhìn tôi, rồi nhìn Solomon. Ông ta dường như muốn nhận được giúp đỡ từ một trong số chúng tôi, nhưng tôi tin là ông ta sẽ chẳng được gì.
“Cô Woolf, tôi được ủy quyền để thông báo với cô...” Ông ta dừng lại, hồ như không thể nhớ ra rằng có thật mình được ủy quyền hay không, và nếu đúng thế thì cái người ủy quyền cho mình thực có ý đó không. Ông ta nhăn mũi một lúc, sau cùng mới quyết định tiếp tục.
“Tôi được ủy quyền thông báo với cô rằng bố của cô, ở thời điểm này, đang là đối tượng điều tra của cơ quan tình báo của chính phủ Mỹ, được hỗ trợ bởi phòng của tôi ở Bộ Quốc phòng.” Những lời đó rơi xuống sàn nhà kêu lanh lảnh, còn chúng tôi chỉ ngồi yên như thế. O’Neal chuyển cái nhìn sang tôi. “Chúng tôi có toàn quyền trong việc bắt ông Lang đây, hoặc trong bất kỳ hành động nào ảnh hưởng tới bố cô và các hoạt động của ông ấy.”
Tôi không phải là người giỏi đọc vị người khác, nhưng tôi có thể thấy tất cả chuyện này xảy đến như một cú sốc đối với Sarah. Khuôn mặt cô đã chuyển từ xám sang trắng.
“Những hoạt động gì?” Cô nói. “Bị điều tra cái gì?” Giọng cô căng thẳng. O’Neal trông không thoải mái, và tôi biết rằng ông ta đang sợ rằng cô sẽ khóc.
“Chúng tôi nghi ngờ bố cô,” cuối cùng ông ta lên tiếng, “đang nhập các chất cấm loại A vào châu Âu và Bắc Mỹ.”
Căn phòng trở nên thật yên lặng và mọi người đều nhìn Sarah. O’Neal hắng giọng.
“Bố cô buôn ma túy, cô Woolf.” Giờ lại tới lượt cô cười toáng lên.