Hoài nghi là một tên phản bội, bởi nó khiến bạn sợ hãi không dám liều mình, vì thế bạn đánh mất cơ may thành công của mình.

William Shakespeare

 
 
 
 
 
Tác giả: Hoa Bằng
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2020-11-30 17:54:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Nhất: Quật Khởi
hời loạn
Thời cục nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII: một mớ tơ rối đương phủ xã hội mục nát; một bầu không khí nặng nề đương vây bọc nhân dân nghẹt ngòi!
Nguyên từ năm Quang Hưng thứ 16 (1593), nhờ sức vùa giúp của Bình An vương Trịnh Tùng (1570-1623), vua Lê Thế Tông (1573-1599) tuy khôi phục được Thăng Long, nhưng ngọn đèn “trung hưng” của Lê từ đó ngày một hắt hiu lèo lẹt! Đến đời Hiển Tông (1740-1786), dầu gần cạn, bấc hầu tàn. Dân chúng bấy giờ âm thầm sống trong cơn lờ mờ, hồi hộp!
Ngoài Bắc Hà, từ hồi tháng ba năm Kỷ Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 (1769), việc chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm (1767-1782) bắt giam Hoàng thái tử Lê Duy Vỹ1 đã làm xao xuyến tâm thần nhân dân, hạng người bấy lâu vẫn ngấm ngầm ghi nhớ công ơn bình Ngô của vua Lê Thái Tổ (1428 -1433). Qua hai năm sau, cái chết của Duy Vỹ lại lấy được bao giọt nước mắt của mọi người ở phố phường, chợ búa!2
Vả, sau cuộc “đảo chính” (tháng mười, năm Nhâm Dần, 1782) của quân Tam phủ (Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia)3, cái ngai chúa của nhà Trịnh từ đó càng thêm lung lay!
Gia dĩ4, từ khi Đoan Nam vương Trịnh Khải (1782-1786) giết hại con em quận Huy Hoàng Đình Bảo, một tay quyền thần đã từng dan díu với Đặng Thị Huệ, mẹ Trịnh Cán, mầm loạn đã ngầm ẩn trong tòa vương phủ lộng lẫy nguy nga.5
Phải, thực lực bên Trịnh bấy giờ rỗng tuếch: tướng tá lười biếng, sợ trận mạc. Quân lính, từ hồi lộng quyền phế lập đến nay, ngày một kiêu căng rông rỡ, lồng lộn như ngựa bất kham, không chịu cương khớp.
Dân chúng, sống dưới chế độ phiền hà, chính sự nhũng nhiễu, đã “dám” phê bình các nhà cầm quyền bằng giọng hài hước nhưng kín đáo giấu giếm trong lời đồng dao:
“Trăm quan có mắt như mờ!...”
Để chứng thực cái trạng thái mục nát của xã hội Bắc Hà thời ấy, xin mời các bạn hãy đọc thêm đoạn này của ông Tùng Niên, trong Tang thương ngẫu lục, truyện Bùi công Huy Bích:
Năm Nhâm Dần (1782), đời Cảnh Hưng (1740-1786). Điện Đô vương (Trịnh Cán) lên cầm quyền trong tuổi thơ ấu; gần xa đều nao nao… Ngày 25 tháng mười (Nhâm Dần, 1782), binh Tam phủ làm loạn, ủng lập Trịnh Tông (tức Khải), con cả của cố vương (Trịnh Sâm): ấy là Đoan Nam vương…
… Bấy giờ kẻ dưới thì lăng loàn, người trên thì suy đốn, rường mối triều đình ngày một sa sụt hư hỏng. Ông Bùi Huy Bích lo âu về nỗi ấy, thường thường than thở trong khi đứng ở triều đình. Ông từng làm bài văn khóc ông Hồ Sĩ Đống chức quyền phủ, có câu rằng: “Trên chốn triều đình, việc chính trị không ra sao, lại thêm nỗi: nào nước lạt, nào hoàng trùng!...” (Tang thương ngẫu lục, tập dưới, tờ 46).
Xem đó đủ biết cục diện bên Trịnh bấy giờ đã dần dần đi đến bên hố diệt vong.
Trong Nam Hà, một danh từ hồi đó đối với Bắc Hà mà nói, vùng Thuận Quảng sống dưới trị quyền chúa Nguyễn từ năm 1588, bấy giờ cũng khặc khừ kêu rên trên giường bệnh!
Chúa Định vương (1765-1778), mới 12 tuổi, đeo cái “bung xung” lên ngôi “làm vì”. Chính quyền nắm cả trong tay Trương Phúc Loan!
Phúc Loan, một con dân, khoác áo “quốc phó” làm giàu bằng nghề bán quan buôn ngục. Xây biệt thự Phấn Dương trên đống mồ hôi, nước mắt và máu thịt của nhân dân, Loan dùng nó làm nơi chứa của. Sau trận nước lụt, Loan sợ của “mục”, phải sai phơi vàng dưới ánh nắng tưng bừng trên sân biệt thự. Vàng đỏ, lấp lánh dờn ánh dương, làm quáng cả mắt thèm thuồng những tôi tớ hắn. Ấy là chưa kể các động sản khác như trâu, ngựa, châu ngọc, gấm vóc và các bất động sản như nhà cửa, ruộng, vườn…
Dân đã khổ lại khổ thêm, khó cầm hơi nổi trước cơn mất mùa đói kém! Bức tranh “cơ cận” treo khắp dân gian. Những thân hình đói rạc kheo khư do nét bút thần “Hung niên” đã phác vẽ, trưng bầy trên cái biệt thự huy hoàng lộng lẫy ở làng Phấn Dương, thật là một cảnh mâu thuẫn mai mỉa!
Phần khổ vì chính sự bất lương, phần cơ cực vì ma đói ám ảnh, dân chúng ngắc ngoải dưới bàn tay sắt của Trương Phúc Loan, biết tìm đâu lấy chút sinh thú!
Sống không hi vọng, lòng họ lạnh như băng, tan nát như cám, ngấm ngầm ôm mối “tư loạn”.
Nói tóm lại, ngoài Bắc, trong Nam vào khoảng mấy năm cuối đời Lê Hiển Tông (1740-1786) đương lụng bụng đau đắng như mắc cái ung độc, tất phải chích ra cho vỡ mới mong lành mạnh được.
Thần Chiến tranh đứng rình trước thời cục nghiêm trọng. Thùng thuốc súng chỉ chực tàn lửa rớt xuống tức thì nổ bung.
Chàng áo vải
Dưới mái một nhà bình dân trại Tây Sơn6 thành Quy Nhơn (nay là Bình Định), năm Quý Dậu (1752), cậu bé Nguyễn Huệ ra đời rồi lớn lên trong cảnh khổ sở nheo nhóc như trăm nghìn dân quê khác. Thật không ai biết trước bằng cậu bé ấy sẽ có những thủ đoạn phi thường, tương lai oanh liệt sẽ làm một trang anh hùng dân tộc, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn Thanh, thống nhất cả Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ XVIII.
Trước cửa nhà Nguyễn Huệ, róc rách một con suối ấm đêm ngày kêu. Tiếng kêu có lúc ai oán như giọng hậm hực bất bình của lũ dân đen bấy giờ đương bị nghẹn ngào đè nén nhưng có lúc hùng tráng hăng hái như tiếng kèn của toán nhạc binh thúc giục người ta phải tranh lấy quyền sống còn.
Là con Nguyễn Phi Phúc7 và Nguyễn Thị Đồng. Nguyễn Huệ, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, cặp mắt hùng thư mà sáng như chớp, có thể thấy rõ mọi vật trong đêm tối.
Về gốc tích nhà Tây Sơn, có nhiều thuyết khác nhau:
Theo Lê kỷ là một cuốn dã sử, thì anh em nhà Tây Sơn bấy giờ đương ở trong hàng ngũ quân dân dưới triều Nguyễn Định vương, thấy Trương Phúc Loan hại nước tàn dân, bèn lui về nơi thảo dã khởi nghĩa, mưu việc đánh đổ Phúc Loan, tên quốc tặc.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (quyển 30, tờ 1a-b), thì tổ tiên Nguyễn Huệ vốn người huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An. Khoảng niên hiệu Thịnh Đức (1653-1657), nhà Lê chung số phận với đám dân chiến bại ở bảy huyện xứ Nghệ, sau một trận Nguyễn, Trịnh giao tranh, tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bên chúa Nguyễn bắt đi, an sáp ở Tây Sơn Nhất8, huyện Quy Ninh9 thuộc Quy Nhơn để khai khẩn đất hoang, ruộng cỏ.
Khi ông tổ bốn đời ấy mới bị đi vào ở Quy Nhơn thì ở tại ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, đến đời cha là Nguyễn Phi Phúc mới dời đến ở ấp Kiên Thành10 thuộc huyện Tuy Viễn11.
Theo Tây Sơn liệt truyện (sách viết của trường Bác Cổ) thì tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn khoảng năm 1653-1657 đem vào phía nam. Tây Sơn lược thuật (sách viết của trường Bác Cổ) cũng chép: tổ tiên Nguyễn Huệ là người huyện Nghi Xuân (Nghệ An). Năm 1672-1673, chúa Nguyễn lấy được bảy huyện Nghệ An, di dân vào Nam; tổ của Huệ cũng ở trong số di dân ấy.
Trong gia đình đó, Nguyễn Huệ thường gọi là chú Thơm. Em thứ 3 dưới Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ.
Thụ nghiệp Giáo Hiến12, anh em Nguyễn Huệ, từ trẻ, dắt nhau cùng đi học, được Giáo Hiến ngó bằng cặp mắt riêng.
Giáo Hiến? Một môn khách nhà Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới triều Định vương (1765-1778). Vì sợ vạ lây sau khi Hạnh bị Phúc Loan giết chết, Hiến phải trốn vào Quy Nhơn, mở trường ở ấp Yên Thái, dạy cả văn võ.
Thấy Nguyễn Huệ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm, mắt như chớp sáng, tiếng như chuông vang, Hiến biết ngay là một thanh niên lỗi lạc có cái tương lai phi thường!
Hằng ngày, chắc Huệ cũng được nghe những lời Giáo Hiến thúc giục Nguyễn Nhạc bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Rồi Hiến lại nói sát sạt: “Anh là người Tây Sơn, cứ cố đi!”
Không hay những lời Giáo Hiến kích thích Nguyễn Nhạc đó có làm rung động trái tim Nguyễn Huệ? Nhưng một cớ hiển nhiên khiến Huệ từ trại Tây Sơn phất cờ cách mạng chính là tiếng gọi của thời thế: Thời thế tạo anh hùng! Phải, ta thấy cái động cơ này đã đẩy Nguyễn Huệ lên vũ đài chính trị:
Vả bây giờ thần nịnh, chúa hôn, gương bình trị lòng trên ắt muốn.
Lại gặp hội binh kiêu, dân oán, sửa kỷ cương tài cả phải ra13.
Cái hoài bão muốn cứu sinh linh ấy lại tỏ rõ trong bức thư sính La Sơn Phu Tử đề ngày mồng 10 tháng tám năm Thái Đức thứ 10 (1787), khi Nguyễn Huệ làm Đại nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương… “Thiên hạ loạn thế này, nhân dân lầm than thế này! Vậy mà nhà thầy cứ nằm cao không vùng dậy, thì đối với thiên hạ nhân dân ra sao?”14
Đứng bên anh
Đối với xã hội hồi đó, việc võ trang bạo động của bọn Nguyễn Huệ, về cận nhân, chính làm đại biểu cho cuộc phản kháng ngấm ngầm cái chế độ bất lương đang sôi nổi trong đáy lòng dân chúng. Về viễn nhân, nó lại làm đại biểu cho cái khuynh hướng phản đối cuộc nội tranh kéo dài từ năm 1627 đến năm 1672 và mãi về sau còn rớt lại những khí âm ỉ gườm ghè, hằn học, cuốn bao máu thịt vào vòng khói lửa để làm vững cái “ngai” chúa cho hai nhà: Trịnh và Nguyễn!
Khi dân chúng cần nhà Tây Sơn để thực hành cho họ cái tinh thần mạnh mẽ, cái nguyện vọng thiết tha (nguyện vọng của họ bấy giờ là tìm lấy đời sống tốt đẹp hơn, sung sướng hơn), thì họ ủng hộ ngay lúc bọn ông nhẩy lên nắm quyền chính, đem binh ra Bắc Hà. Nhưng, về sau, thấy Quang Toản (1793-1802) tỏ ra bất lực, không làm cho đời họ được thay đổi sáng sủa hơn, họ liền lìa bỏ, nên triều đại Tây Sơn (1788-1802) phải sụp đổ!
Vậy có thể nói Quang Trung (1788-1792) chỉ là con đẻ của thời đại. Cuộc quật khởi của nhà Tây Sơn chỉ là đại biểu cho khuynh hướng của phái nông dân bấy giờ.
Năm Tân Mão (1771), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông, tức năm thứ 6 đời chúa Nguyễn Duệ Tông (Định vương), một năm tối quan trọng, ghi bằng chữ máu trên trang sử Nam Bắc phân tranh!
Từ một anh tuần biện lại ở Vân Đồn, Nguyễn Nhạc, được hai em Huệ và Lữ đứng bên nâng đỡ trong 7 năm trường, nhẩy một bước lên chiếc ngai Thái Đức Hoàng Đế (1778): một cái “phi thường” trong “sổ” các nha lại xưa nay!
Làm tuần biện lại, Nhạc đóng vai thu thuế trong một đồn để sung vào công khố. Nhưng vụ thuế năm Tân Mão (1771) đó thu được bao nhiêu, Nhạc nướng vào cuộc đỏ đen hết sạch!
Dưới quyền Đốc trưng Đằng, Nhạc trước còn bị thằng thúc15 “đổ” thuế, sau bị truy tố và lùng bắt riết.
Túng phải tính, Nhạc xoay qua chiến lược: chẳng những không phải đền, không phải tội, mà lại “phất to” là khác.
Thế rồi, trên nóc trại ở Thượng Đạo16 ấp Tây Sơn bỗng phấp phới bay lá cờ cách mệnh.
Thì ra Nguyễn Nhạc, quăng lại đằng sau cái chức “lại quèn”, ngầm kéo hai anh em, vào núi, dựng trại, lập đồn, xưng hùng với oai rừng thẳm!
Thế là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đặt được viên đá đầu tiên để dần dần xây thành lâu đài triều đại Tây Sơn từ đó.
Núp dưới bóng cờ Tây Sơn, bọn vong mạng có, tụi mường mán cũng có. Thủ hạ Tây Sơn bấy giờ đã lên đến con số đáng kể: Vài nghìn người.
Sẵn quân gia, khí giới, Tây Sơn cứ việc tung hoành.
Các nhà giầu, hồi đó, trong những đêm trường rùng rợn, sống trước cảnh hồi hộp âm thầm!...
Mỗi lần có tiếng trống ngũ liên, là một lần nhà giầu mất cướp! Nhưng trong số mất cướp đó toàn là những nhà giầu cay nghiệt, ăn kết quả của nước mắt bồ hôi kẻ khó, xây cơ nghiệp trên nền “bất nhân”.
Sau bất cứ một đám cướp nào ở vùng đó, người ta cũng thì thầm: “Lại quân gia Tây Sơn.”
Quả thế, cứ mỗi lần “làm tiền” anh em Tây Sơn lại được những tiếng ca tụng ra từ miệng dân nghèo sống dưới phạm vi thế lực của họ:
Người ta khen vì được phân phát cho tiền của.
Người ta cảm phục vì thấy đó là một động tác có tính cách nghĩa hiệp.
Tài chính là vấn đề cần nhất trong việc chiến tranh: “Làm tiền” bằng cách cướp bóc tuy có cận hiệu, nhưng trong trại Tây Sơn bấy giờ vẫn không đánh thăng bằng được số chi thu. Thành thử họ lại phải gõ mạnh vào những cửa lòng khinh tài, trọng nghĩa.
Huyền Khê, một tay giầu lớn ở hạt Quy Nhơn bấy giờ đáp ngay tiếng gọi của Tây Sơn, ngấm ngầm giúp họ về mặt tài chính.
Nhờ có bầu sữa của Huyền Khê, Tây Sơn cứ hăng hái xông pha trên đường tiến thủ: mộ lính, sắm khí giới, nhằm theo cái đích lật đổ Trương Phúc Loan.
Đồ đảng ngày thêm nhiều, lại được thổ hào Nguyễn Thung17 giúp sức, thanh thế Tây Sơn càng lâu càng mạnh mẽ; kéo đánh các ấp xung quanh, đến đâu được đó.
Như ngọn lửa càng bốc to càng cháy dữ, lại gặp luồng gió thuận tiện thổi thêm, Tây Sơn mặc sức bén ngang, lém dọc, không còn sợ tắt dưới tay dập tưới của quan địa phương.
Anh em Tây Sơn thấy gian thần Trương Phúc Loan đương đóng vai Tần Cối trên sân khấu chính trị, biết rằng cơ hội đến rồi, quyết gãi ngay vào chỗ ngứa của dân chúng: một mặt kể tội Phúc Loan: nào buôn tước bán quan, thay đen đổi trắng trong việc hình ngục, nào hút dầu mỡ dân để nuôi béo nhà… Một mặt định đón lập Hoàng tôn Dương để gây cảm tình với lê thứ18.
Làm theo phương lược đã định, Tây Sơn truyền hịch đi khắp nơi, tuyên bố cái cớ phải đánh đổ Trương Phúc Loan và tỏ việc đón lập chúa mới: Hoàng tôn Dương! Thế là giang sơn chúa Nguyễn bấy giờ bỗng chia hai phe: Phe Quốc phó Trương Phúc Loan đội cái “bung xung” bằng chúa Định vương; phe Tây Sơn đeo cái chiêu bài bằng Hoàng tôn Dương, khiến nhân dân không còn biết phe nào là triều, phe nào là giặc nữa. Người ta phải dùng mấy tiếng sau này để phân biệt của hai phe đó: một là “quân Quốc phó”; một là “quân Hoàng tôn” (Tây Sơn). Cho nên tục ngữ bấy giờ có câu: “Quân Triều, quân Quốc phó; quân Ó19, quân Hoàng tôn.”
Tấn công
Gió heo may dào dạt lướt qua những đợt cỏ tranh tiêu điều. Một vài chiếc lá chảu đã lốm đốm vàng úa. Cảnh vật năm Quý Tỵ (1773) bấy giờ đã đượm màu thu.
Sẵn cái đà bước đầu thắng lợi, Tây Sơn đem quân tiến đánh, chiếm lấy ấp Kiên Thành20.
Phạm vi thống trị đã hơi mở rộng, họ tính ngay đến việc sắp đặt các cơ quan hành chính.
Nguyễn Nhạc làm chúa trại Nhất, quản trị hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn.
Nguyễn Thung chúa trại Nhì, coi quản huyện Tuy Viễn21.
Huyền Khê đóng vai chúa trại Ba, cung cấp lương thực.
Họ cũng không quên gây lấy vây cánh bên trong và liên lạc lực lượng với nước ngoài: chiêu dụ những tay lục lâm như Nhưng Huy và Tứ Linh22 ở An Tượng Nguyên (thuộc huyện Tuy Viễn).
Họ lại bí mật ước hẹn với nữ chúa Chiêm Thành đem quân ập sang, đóng trại ở Thạch Thành, làm thế ỷ dốc.
Thế là Tây Sơn xây vững được địa vị và thế lực từ đó.
Cách hành động của họ như thế rất có phương pháp. Song công việc sắp đặt và mưu mô bày vẽ trong lúc này là do óc ai nghĩ ra? Nguyễn Nhạc! Nhạc là tay cơ trí, mà lại đóng vai chủ động trong bước khởi đầu, nên chi những việc đó đều ra từ cơ mưu của chú “tuần biện lại”. Còn Nguyễn Huệ, hồi đó, hãy còn là phụ động, chắc phải ở dưới quyền sai phái của anh. Nhưng con người trí dũng có thừa kia tất phải là một cánh tay mặt của Nhạc.
Hạ thành Quy Nhơn
Tây Sơn bấy giờ đã có một lực lượng mạnh mẽ. Trông về tương lai, họ có vẻ lạc quan vô cùng.
Lại được Nguyễn Huệ là tay thiện chiến, Nguyễn Nhạc là người cơ mưu, nên họ có thể làm được sự nghiệp lớn lao bằng hai bàn tay trắng.
Với cái tướng tài và cơ trí đó, Tây Sơn hạ phủ lỵ Quy Nhơn chỉ nội một đêm.
Tại sao họ làm được nhanh chóng đến thế?
Nguyên bấy giờ phủ lỵ Quy Nhơn đương thuộc dưới quyền quản trị của Nguyễn Khắc Tuyên, Tuần phủ bên Nguyễn. Chắc Tuyên là người vô tài, kém trí, nên bị Tây Sơn đạp đổ cái ghế Tuần phủ dễ dàng như trở bàn tay.
Bữa đó, sau một cuộc mật bàn cử sự, Nguyễn Nhạc cất đặt mọi việc cho quân gia với một mệnh lệnh nghiêm minh. Rồi tự vào ngồi trong cũi, Nhạc sai thủ hạ, mặc bộ đồ lù khù nhưng trong ngầm giấu mỗi người một thanh đoản đao, lễ mễ khiêng “ông tướng trá hàng” lên phủ lỵ. Những tiếng luân báo truyền từ miệng người nọ đến người kia rồi lọt đến cửa tai Tuần phủ họ Nguyễn: “Bắt sống được Biện Nhạc rồi! Đem nộp quan Tuần để lĩnh thưởng!”
Cửa thành mở. Trước bộ dạng bệ vệ và dưới cặp mắt khinh khỉnh của Khắc Tuyên, Nguyễn Nhạc, bấy giờ như con cọp lâu năm bị nhốt trong chuồng sắt, đã làm cho người ta có thể đọc lầm những nét “ngoan ngoãn hiền lành” phủ trên khuôn mặt giả dối tâm ngẩm.
Thế là không phải khó nhọc, Nhạc đã vào lọt trong thành với mấy tên đồ đảng.
Màn tối từ từ buông phủ. Cảnh vật thành Quy Nhơn dần dần chìm đắm trong cơn khuya khoắt
rợn rùng.
Dịp may đã đến! Phá phăng cũi, Nhạc nhẩy phứt ra, mở toang cửa thành, đón cái tương lai rần rần rộ rộ đến…
Nghe rõ tiếng pháo hiệu do Nhạc từ trong thành báo ra, một cánh quân Tây Sơn do Nguyễn Thung cầm đầu ở ngoài ập vào, đốt dinh trại, giết tướng sĩ, làm cho cả thành tan vỡ vì một trận đánh không ngờ!
Trong cơn hoảng sợ, Khắc Tuyên không kịp đóng ngựa, vội vã nheo nhóc chạy trốn, bỏ lại đằng sau cho Tây Sơn một thành trì mà mình có nghĩa vụ phải sống chết với nó.
Nhân dịp đắc thắng đó, Nhạc kéo quân đánh dốc đến Càn Dương và Đạm Thủy, hai nơi này đều thuộc thành Quy Nhơn. Đốc trưng Đằng và Khâm sai Lượng theo gót Khắc Tuyên cũng chạy ráo!
Một mặt tịch thu hết kho tàng thóc lúa ở Càn Dương và Đạm Thủy, một mặt Nhạc đuổi theo giết chết cả Lượng lẫn Đằng. Vì thù viên Đốc trưng Đằng này đã làm khó dễ với mình trong cơn thiếu thuế độ nọ, Nhạc chu di cả họ Đằng.
Lá cờ Tây Sơn, từ đó, đường hoàng phấp phới trên thành Quy Nhơn. Năm đồn Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, dưới tay chỉ huy của Nhạc, đằng giăng nghiêm mật đóng từ thành ấy đến tận địa phận Quảng Nam (1773).
Thành Quy Nhơn thất thủ! Một tin sét đánh đã đến tai Trương Phúc Loan! Nhưng Loan vẫn mơ màng những chuyện làm giàu bằng cách bán quan, buôn ngục!
Trận thắng ở Thạch Tân
Quân Tây Sơn có cái khẩu hiệu riêng: hễ kéo đến đâu cũng hò reo la ó đến đó. Kẻ hú, người thưa, rầm rộ, ầm ĩ, làm cho thanh thế mạnh mẽ hăng hái như sóng vỗ bờ đê, gió khua hang núi. Vì vậy nhân dân hồi đó dùng hai tiếng “quân Ó” để chỉ về quân gia Tây Sơn.
Sau khi hạ được Quy Nhơn, Tây Sơn đang hát khúc khải ca, thì có một tin báo bên Nguyễn sai hai Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách, Tổng nhung Tống Sùng và Tán lý Đỗ Văn Hoảng kéo quân đến Bản Tân (giáp ranh huyện Bình Sơn thuộc Quảng Ngãi và huyện Hà Đông thuộc Quảng Nam) để quyết một phen “ăn thua” trên mặt trận.
Sắp đặt phương lược đối phó, Nguyễn Nhạc, dặn sẵn quân gia cứ làm theo mưu kế mình định, một khi đụng nhằm quân Nguyễn.
Kịp khi quân Nguyễn kéo đến bên trại, từ ngoài đánh vào, quân Tây Sơn phải lùi chạy sau một trận dựa đồn lũy chống cự lại.
Lui giữ Thạch Tân, Tây Sơn nhử cho quân Nguyễn quen mui đắc thắng kéo dài đến. Chẳng dè quân phục đổ ra, hăng hái đánh riết, kết liễu tính mệnh Sùng và Hoảng ở ngay mặt trận và làm cho bọn Nguyễn Cửu Thống phải đại bại dưới bóng cờ quân Ó!
Từ đó, thế lực Tây Sơn ngày một bồng bột như mầm cây tơ dưới ánh dương xuân, tưng bừng rực rỡ như mặt trời mới mọc buổi sớm!
Họ lại lợi dụng bọn giặc khách là Tập Đình gọi là Trung nghĩa quân và Lý Tài gọi là Hòa nghĩa quân làm vây cánh.
Để mập mờ đánh lận với toán giặc khách kia, Tây Sơn lại lựa thêm những người Nam ta cao lớn lực lưỡng, cũng cho mặc quần áo xanh, cũng cho gióc23 tóc kết bím, lập thành một toán quân Tàu “giả hiệu”. Mỗi khi ra trận, chúng uống rượu thật say, cởi trần trùng trục, đầu quấn khăn đỏ, cổ đeo tầu vàng lá bạc, tay cầm cái khiên và thanh đại đao. Chúng đánh khỏe và liều chết24.
Dùng đội cảm tử đó làm quân tiền xung, xông pha trước trận, Tây Sơn quả nhiên hái được bông trái tốt tươi: quân Nguyễn không sao địch nổi với lưỡi đại đao của chúng.
Gió bắc dào dạt thổi. Cây cỏ ngủ yên trong giấc mùa đông li bì. Một cái thủ cấp hãy còn đẫm máu bỗng làm ngạc nhiên trước mắt quân Tây Sơn!
Té ra đó là đầu lâu viên Tiết chế bên Nguyễn: Tôn Thất Hương!
Nguyên tháng Chạp năm Quý Tỵ (1773) đó, Hương đem nội quân và các toán thân binh đi tiễu, khi đến núi Bích Kê thuộc huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định, bị phục binh của bọn Tập Đình và Lý Tài xông ra giết chết. Còn quân sót lại của Hương thì tan vỡ hết! Đó là trận thắng lợi đầu tiên do Tây Sơn lợi dụng bọn người Thanh.
Lấy Quảng Ngãi, Bình Thuận
Sau một trận giao chiến với Tôn Thất Bân, cai cơ bên Nguyễn, Tây Sơn chiếm được Quảng Ngãi. Rồi nhân cái đà thắng trận này, Nhạc lại thúc quân đánh luôn lấy hai phủ Diên Khánh và Bình Khang. Thế là Tây Sơn cứ việc kéo buồm trước cơn gió thuận, nghiễm nhiên làm chủ nhân ông từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận! Sau lại tiến đánh Quảng Nam, họ thường được thắng lợi, trừ ra một trận bị cai đội Nguyễn Cửu Dật, bên Nguyễn đánh úp nên thua.
Trương Phúc Loan bấy giờ vẫn cứ mơ màng ôm chân nấp bóng nhà Thanh, mong nhờ thế lực ngoại quốc để chống họ Trịnh ngoài Bắc. Loan sai sứ đi đường tắt, sang Thanh dâng biểu xin làm “thần tử” phiên thuộc và hiến đồ cống.
Rồi từ đó, Loan đặt triều nghi, đổi phục sắc, thay pháp độ, lập thành khuôn khổ một nước riêng, không chịu “lép vế” với chúa Trịnh nữa (1774). Nhưng cơn thất bại vẫn rình ở sau lưng, vì Loan chỉ lo “trả miếng” với Trịnh ở ngoài Bắc, chứ quên lửng Tây Sơn đương tung hoành ở trong!
Tây Sơn bấy giờ tuy có vẻ “đáng sợ” dưới con mắt Tôn Thất Thăng đến nỗi Thăng phải bỏ quân, luôn ban đêm chạy trốn về, mặc dầu chưa hề giao phong lấy một trận; nhưng sau khi bị thua bởi tay Nguyễn Cửu Dật từ năm ngoái (1773), Tây Sơn đã phải lui giữ thế thủ ở Thiên Lộc (thuộc phía nam chợ Củi mà chữ nho dịch là Sài thị). Qua mùa hè năm nay (1774), lại bị thua luôn dưới bóng cờ của tướng sĩ năm dinh là các đạo quân ứng nghĩa do Tống Phúc Hiệp và Nguyễn Khoa Thuyên cầm đầu. Thành thử ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang kế tiếp mất cả! Rồi Phú Yên cũng lọt vào tay quân Nguyễn nốt! Song, những trận thất bại đó mới chỉ là cái bất lực của từng cánh quân một chứ đại doanh của Nguyễn Nhạc đóng ở Quảng Nam vẫn vững, không núng.
Dịp may cho họ Trịnh
Tình hình nội biến trong Nam do một người “Đường Trong”25 cáo tỏ với viên Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt. Viên này bèn viết thư cho chạy ngựa trạm về Thăng Long nói với Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (1767-1782) cái tình hình có thể lấy Thuận Hóa được.
Quyền thần Phúc Loan làm mưa làm gió ở trong: một cái ung độc của triều Nguyễn!
Lá cờ Tây Sơn phấp phới ở ngoài: lại một cái gai mắt của triều Nguyễn!
Nhưng bao nhiêu những cái không may, không lợi của họ Nguyễn lại chính là dịp tốt để “thả câu” của nhà Trịnh ở Bắc Hà.
Quả thế, khi hay tin trong Nam đương “đục nước” như vậy, Trịnh Sâm mừng quýnh: “Với Trịnh, Nguyễn vốn là thế thù. Sở dĩ bấy nay Trịnh phải làm thinh, chẳng qua chỉ cốt đợi thời. Bây giờ dịp may đã đến, Trịnh sao lại chịu bó tay ngồi nhìn để cho họ Nguyễn ngang nhiên tranh hùng mãi!”
Phải trị!
Rồi Hoàng Ngũ Phúc26 và Nguyễn Nghiễm lại tán thành thêm vào.
Sau một mệnh lệnh từ vương phủ, quận Việp Hoàng Ngũ Phúc (do hoạn quan xuất thân) cầm ấn thượng tướng, kéo ba vạn quân, thẳng trảy vào Đường Trong.
Khi Ngũ Phúc đã đi, Trịnh Sâm lại sai đưa cho bức thư chính tay mình viết: “Ông đến Nghệ An, nên tùy cơ mà liệu định, trước hãy đưa thư cho biên tướng bên Nguyễn, nói giả tảng rằng chuyến đi này chỉ cốt đề phòng quân Tây Sơn tràn xổng để dò xem tình ý đã. Nếu Tây Sơn đã yên thì lại đưa thư cho Nguyễn bày tỏ ý ấy rồi kéo quân về, chứ đừng để họ sinh nghi, lại gây ra sự hiềm khích ở nơi biên giới…”27
Ban bố 40 điều quân lịnh, Phúc tỏ ra một tay lão tướng cầm quân có kỷ luật nghiêm minh.
Bấy giờ Thuận Hóa luôn mấy năm mất mùa đói kém, không còn rờ vào đâu mà làm quân lương được. Bên Trịnh phải trù tính cách vận lương và chia lập ba chỗ lương trường:
1) Lương trường Sơn Nam lập ở Mỹ Lộc: chi tiền cho bốn trấn đong thóc trong bản hạt, xay giã làm gạo, chứa vào kho, rồi do đường thủy tải vào Nghệ An.
2) Lương trường Nghệ An lập ở Hà Trung: đong thóc gạo của nhà giầu trong vùng, rồi hợp với lương ở trường Sơn Nam kia, tùy tiện đi đường thủy hay đường bộ mà vận tải vào Quảng Bình.
3) Lương trường Quảng Bình lập ở Động Hải: phải liệu tính cho điều độ để cấp phát lương thực cho quân gia.28
Xem bên Trịnh khó khăn về việc quân lương như vậy, đủ biết Đàng Trong hồi đó đói kém đến đâu! Dân chúng bấy giờ nheo nhóc điêu đứng đến đâu!
Tướng Trịnh lót miệng bằng những tiếng “đạo đức sáo”: nào Trịnh với Nguyễn vốn có họ ngoại, nay đem quân vào giúp “bà con” trong cơn nguy biến; nào cốt trừ tên gian thần Trương Phúc Loan, cứu nhân dân khỏi vòng nước sôi, lửa nóng; nào không có tâm địa gì nhân dịp người ta có tai nguy mà mình kiếm lợi… Thế rồi Phúc kéo quân vào châu Bố Chính (coi bản đồ) hồi tháng chín năm Giáp Ngọ (1774).
Qua tháng mười năm đó, Phúc vượt sông Gianh (Linh Giang), chiếm được Lũy Thầy (tên chữ Hán là Sài Lũy, do Đào Duy Từ xây đắp), tóm lấy chìa khóa cửa ngõ của bên Nguyễn, đường hoàng vào đóng quân ở Quảng Bình.
Trong có nội loạn, ngoài có ngoại xâm, triều Nguyễn bấy giờ bị cuốn vào vòng sóng gió đầy ghê khiếp!
Muốn êm chuyện, chúa Nguyễn sai trói Trương Phúc Loan29 đem nộp cho Hoàng Ngũ Phúc; làm vậy tưởng có thể đẹp lòng chúa Trịnh, dập được ngọn lửa binh tranh. Ngờ đâu tướng Trịnh dầu tóm được con mọt dân Phúc Loan, dầu nhận “vi thiềng”30 của tên quốc tặc này hàng nghìn vàng rồi, vẫn cứ một mực hăng hái tiến binh, không còn nghĩ gì đến tình “họ ngoại” như lời thanh minh khi mới kéo quân vào Nam nữa!
Phúc lại đưa thư cho triều Nguyễn, xin đem binh đến họp ở Phú Xuân (nay là Huế) để giúp sức đánh dẹp Tây Sơn cho yên bờ cõi. Đó chỉ là một cách bên Trịnh mượn cớ để thực hành cái kế hoạch xâm lược giang sơn của “người bà con họ ngoại” thôi!
Van lơn không xong, bên Nguyễn phải cương quyết động binh để đối phó với tình thế: Tôn Thất Nghiễm, nội hữu chưởng doanh, bấy giờ đang cầm đại binh ở Quảng Nam, đương đầu với Tây Sơn, được triệu về để chống quân Trịnh.
Tây Sơn khởi thế công
Từ khi quân Trịnh Nam xâm, Tây Sơn lại đứng vào tình thế mới.
Phải cầm cự với Nguyễn Cửu Dật, một tay tướng tài bên Nguyễn vừa đến thay chân Tôn Thất Nghiễm, Tây Sơn thua luôn vài mươi trận, phải rút lui giữ Bản Tân để đợi dịp sau.
Mùa đông năm Giáp Ngọ (1774), thấy quân Trịnh tiến đến Phú Xuân, Nguyễn Duệ Tông (1765-1778) phải chạy đi Quảng Nam, Tây Sơn khấp khởi mừng, nhấp nhẩy lại muốn đoạt động.
Con thuyền Tây Sơn đương mắc cạn, cơ hội bỗng đâu đem đến cho họ dòng nước xuôi, cơn gió thuận để họ cứ việc ung dung mở lái, giương buồm…
Trịnh cứ thắng!
Nguyễn thua hoài!
Nguyễn Duệ Tông phải chạy đi Giá Tân!
Nguyễn Cửu Dật phải triệu về hành tại để nghị sự.
Đó là những dịp tốt thúc giục Tây Sơn nhẩy múa trên trường quân sự, nảy những hi vọng mơn mởn như đóa hoa hồng dưới bóng xuân non.
Tây Sơn chia việc: bọn Lý Tài đem quân thủy lén ra cửa biển Đại Áp; Nhạc cầm bộ binh, đi men núi, sấn đến phía đông Thu Bồn. Hai đường thủy bộ cùng nhằm một đích: ập đánh quân Cửu Dật!
Quả nhiên, Tây Sơn đại thắng, Cửu Dật phải chạy bạt về Trà Sơn (1775).
Trước đây, Hoàng tôn Dương thừa cơ trốn thoát khỏi tay lợi dụng của Tây Sơn, về với chúa Duệ Tông, được lập làm Đông cung (xuân Ất Mùi, 1775), rồi phải lui giữ Câu Đê (thuộc huyện Hòa Vinh) sau khi Duệ Tông chạy đi Gia Định. Bấy giờ Đông cung Dương lại thành một cái đích để cho Tây Sơn ngắm kỹ mà chộp lấy, mà hành động… Cuộc chia cắt quân gia sau đây chỉ là một bước tấn tới để họ làm đạt mục đích ấy.
Thống suất Diện và Tiên phong Tường đem hai nghìn người đóng ở Thúy Loan và Bồ Bản làm quân Thượng đạo.
Tập Định và Lý Tài đốc suất hai nghìn người đóng ở Ba Độ làm quân Trung đạo.
Đốc chiến Phong và Hổ tướng Hãn dẫn hai nghìn quân đóng ở Hà Thân làm quân Hạ đạo.
Một giải “đánh cuộc” treo giữa ba cánh quân đó: hễ ai bắt được Đông cung Dương nấy chiếm công
to nhất.
Bọn Diện và Tường giựt được kỷ lục trước nhất. Nhưng vì nghe lời Đông cung, họ định theo vào Nam, nên dọc đường bị bọn Lý Tài giựt lại. Rồi Dương bị ép phải về Hội An (thuộc huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam).
Chạm trán quân Trịnh
Tháng tư năm Ất Mùi (1775), quận Việp Hoàng Ngũ Phúc kéo quân qua Hải Vân sơn (thuộc địa phận hai huyện Phú Lộc và Hòa Vinh), tiến vào Quảng Nam, chỗ đất Tây Sơn đang tranh hùng với họ Nguyễn.
Cờ bí nước! Mặt trước có quân Trịnh, phía sau có quân Nguyễn: Tây Sơn bị kẹp bằng hai lưỡi kìm, nhưng cứ đánh…
Nhạc cất Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, còn mình tự làm hậu đội, đón đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa (thuộc huyện Hòa Vinh).
Toán quân Tập Đình xông đánh rất hăng, làm cho đội tiền xung của Ngũ Phúc không sao địch nổi và một viên nha hiệu bên Trịnh phải chết trận!
Bên Trịnh thấy quân Tập Đình đánh rát như vậy, hai Tạo sĩ31 Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ bấy giờ làm tướng tiền xung, vội thúc đội phi kỵ xông vào đánh giết toán quân Tập Đình một trận rất kịch liệt. Rồi Ngũ Phúc lại hô quân tiến lên, xô xát một chặp nữa. Toán quân người Tàu bên Tây Sơn này, phần bị chém chết, phần bị giày đạp, chết và bị thương đến quá nửa.
Trước tình thế bất lợi đó, Nguyễn Nhạc không chống đánh nữa, nhưng kéo bọn Lý Tài rút lui, giữ lấy Bản Tân, rồi đem Đông cung Dương về thành Quy Nhơn (1775).
Sau trận đắc thắng này, Hoàng Ngũ Phúc bên Trịnh kéo quân vào đóng ở Quảng Nam. Còn bên Nguyễn thì tướng Tống Phúc Hiệp đóng giữ ở Phú Yên.
Tình hình trong Nam bấy giờ hơi giống “cuộc cờ” Tam quốc: Nguyễn giống Ngụy, Phúc giống Ngô, Tây Sơn hãy còn là Lưu Bị lẹt đẹt.
Tạm hàng Trịnh
Để chống “Tào Tháo” phía bắc, Tây Sơn tất phải đông hòa “Tôn Quyền”.
Kế đã định. Anh em Nguyễn Nhạc dọn sạch vàng bạc, của báu đem về chứa ở Tây Sơn thượng; thiên Đông cung Dương về Hà Liêu và An Thái để làm “món hàng buôn bán” sau này.
Trời tháng sáu. Một dải Hoành Sơn đã hun người bằng thứ nóng như rang, lại nhả ra cái khí nặng nề độc địa kết hợp bằng lam chướng rừng núi và hơi hướng người chết trong khi nạn binh đao đương khắp nơi xung xích!
Thần Ôn dịch tha hồ hoành hành! Quân lính sống sót nơi sa trường nay một số lớn lại phải làm mồi cho vị hung thần đó (1775).
Sợ oai dịch lệ hơn sợ chiến tranh, Hoàng Ngũ Phúc không dám tiến, phải triệt binh về nghỉ.
Tây Sơn dùng chước hoãn binh, sai bọn Phan Văn Tuế đi mua lòng Hoàng Ngũ Phúc bằng vàng bạc, của báu. Lại đưa thư đến tướng Trịnh, xin hàng phục, xin triều cống, xin làm chân tiểu tướng coi giữ ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên, xin tình nguyện làm tên tiền khu32 theo Trịnh đi đánh chúa Nguyễn đương long đong ở Gia Định.
Phần muốn cho quân yên nghỉ sau trận tàn sát của thần Dịch lệ, phần muốn lợi dụng Tây Sơn làm mũi tên độc để bắn lại nhà Nguyễn là kẻ thế thù của họ Trịnh, Phúc dằn lòng ưng thuận, quyền phong Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu trưởng, Tráng tiết Tướng quân. Rồi sai gia khách, chưởng thư ký Nguyễn Hữu Chỉnh, tức Cống Chỉnh, đem ban cho Tướng quân “trá hàng” này: gươm, cờ, ấn, sắc luôn với áo, mão và ngựa. Chẳng dè chuyến Cống Chỉnh đi này lại mở cho Tây Sơn một đường tương lai rất mới mẻ, rất rộng rãi và rất may mắn!
Cất nhắc cho Tây Sơn đã êm, Phúc chia quân đóng các phiên trấn, giữ từ Hải Vân sơn đến Thuận Hóa.
Ở Thuận Hóa hai năm, Phúc tỏ ra một tay khéo chinh phục “thuộc địa”: sửa đồn lũy, khai hào trì, đặt quan lại, chia định sưu thuế, đổi lại phong tục cho “đồng hóa” với bên Trịnh ngoài Bắc.
Nói tóm, Phúc cải cách hết mọi mặt để xóa nhòa hẳn cái dấu vết một “triều đình” nó đã biệt lập một cách rõ rệt từ ngày Đào Duy Từ xây đắp Lũy Thầy đến giờ.
Sau đó, Trịnh Tĩnh Đô vương triệu Phúc về Bắc cử các viên này lên thay giữ Thuận Hóa:
Hoàng Phùng Cơ33, Phạm Ngô Cầu làm Đại tướng.
Hiệp giúp ba viên ngạch võ đó, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Đang34 đóng vai đốc thị…
Thế là cuộc cờ Thuận Quảng bấy giờ lại xoay nước mới. Nước đi mới này rất lợi cho Tây Sơn tấn công, vì bọn Ngô Cầu vô tài, kém xa lão tướng Hoàng Ngũ Phúc và không phải địch thủ của Nguyễn Huệ, nên một khi Huệ kéo quân đánh thành, họ phải đắng cay dốc chén “thất bại”.
Lại trá hàng Nguyễn
Chẳng những trước đã hàng Trịnh, bây giờ lại sai người đến xin hàng tại nơi quân thứ Phúc Hiệp bên Nguyễn, Tây Sơn tỏ ra “biết điều” và “ngoan ngoãn” quá. Nhưng “binh bất yếm trá”, chiến thuật khôn khéo này đã đem lại cho Tây Sơn một cái lập trường vững chắc để làm đạt tới mục đích tranh bá, đồ vương.
Nhạc lại đem Đông cung Dương về Bồng Giang, ghép duyên với con gái mình là Thọ Hương. Rồi ép Dương phải lên ngôi vua mặc dầu chúa Duệ Tông bấy giờ hãy còn sờ sờ. Nhưng, Dương không chịu để cho Tây Sơn lợi dụng, cứ bai bải từ chối cái chức “vua hờ” đó.
Nhân sứ giả của Phúc Hiệp sắp tới, Nhạc lại được dịp thi hành cái kế hoạch đã định ấy.
“Bày” Đông cung Dương ngồi chững chạc trên sập kê ở gian giữa, ngảnh mặt về hướng nam, bọn Nhạc đứng bên tả, cho Tôn Thất Chất đứng bên hữu.
Đó là cuộc trần thiết để đón tiếp sứ giả bên Nguyễn.
Đó cũng là một lễ sắp đặt để Nhạc “phong” Dương làm vua.
Rồi Nhạc dõng dạc cất giọng nghiêm nghị:
– Năm dinh tướng sĩ thật đã hết lòng trung nghĩa trong việc cần vương. Chừ (bây giờ) đã trị được tên gian thần (chỉ Trương Phúc Loan), đã cứu được nạn nước, chính là lúc chúng ta nên lập Hoàng tôn lên ngôi cho yên nghiệp lớn. Cái công muôn đời bất hủ này ta quyết không nên bỏ qua. Chư tướng tính sao?
Sứ giả bên Nguyễn dè dặt:
– Minh công có lòng dực đới như vậy, nghĩa thanh lừng lẫy, ai chẳng nghe theo? Song le, chừ (giờ) tướng sĩ năm dinh kéo đến, ngài truyền cho đóng ở mô?
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Nhạc bảo Đông cung Dương:
– Việc đó xin để điện hạ khuôn xếp, chi chi chúng tôi cũng vâng.
Dương đáp:
– Tùy các ông, liệu mà làm.
Im lặng…
Sau khi hạ màn tấn kịch “thiết trào” này, Nhạc viết các điều kiện giảng hòa giao cho sứ giả đem về đưa Phúc Hiệp.
Tiền phong Tướng quân
Đối với Nguyễn Huệ, một người em đã từng dày công giúp mình, nhất là nay lại đánh được Phú Yên, Nhạc muốn tỏ ý đền bồi cái công ra tử vào sinh ấy.
Khi Hoàng Ngũ Phúc chưa ra Bắc, Nhạc đã đem cái chiến công hạ được Phú Yên của Huệ nói với tướng Trịnh, để nhờ cất nhắc cho em.
Trước khi đi, Phúc không quên làm một ơn huệ không tốn kém gì: quyền phong Huệ làm Tây Sơn hiệu Tiền phong Tướng quân.
Đó chẳng qua là một thuật anh em Tây Sơn dùng để phỉnh gạt tướng Trịnh, chứ hoài bão của họ nào có phải chỉ nhằm cái chức Hiệu trưởng hay Tướng quân quèn ấy đâu!
Tây Sơn hạ được Phú Yên vào lúc nào mà nhanh thế?
Nguyên, sau cuộc tiếp đón sứ giả của Nguyễn Phúc Hiệp ở Bông Giang, Nhạc không bỏ lỡ cơ hội: sai ngay Tôn Thất Chất vào Phú Yên, dụ Hiệp giúp lập Hoàng tôn Dương cho yên xã tắc.
Rồi nhân lúc bên Hiệp không phòng bị, Nguyễn Huệ, vâng mệnh anh, đem binh đánh úp Phú Yên; giết ngay cai đội Nguyễn Văn Hiền ở mặt trận và bắt sống cai cơ Nguyễn Khoa Kiên. Thế là, nhanh như chớp, Phú Yên đã lọt vào tay Nguyễn Huệ.
Sau, Khoa Kiên bị giết vì không chịu hàng; Nguyễn Huệ được phong làm Tiền phong Tướng quân như trên đã nói.
Từ đó, công cuộc chinh chiến của chúa Trịnh cũng chết theo Hoàng Ngũ Phúc ở dọc đường, nhường chỗ cho sức phát triển bồng bột của Tây Sơn.
Mùa đông năm Ất Mùi (1775). Tây Sơn đứng trước một tình thế đáng lo ngại:
Sau khi hạ được Phú Yên, họ cắt Lý Tài đóng quân chống giữ, chẳng ngờ Lý Tài bỗng trở mặt, xuống hàng Phúc Hiệp vì một chuyện bất bình với Tây Sơn!
Nay hai phủ Thăng, Điện ở Quảng Nam lại mất vào tay nghĩa binh bên Nguyễn là bọn Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân.
Theo nạn binh đao, ma đói ác nghiệt cứ rần vật hành hạ dạ dầy thằng dân hoài!
Dân Quảng Nam đã khổ vì nội chiến, lại khổ vì đói kém trong cơn mất mùa!
Dưới ảnh hưởng cơ cận này, quan Tôn Thất Quyền sút hẳn tinh thần hăng hái vì thiếu lương thực.
Một dịp tốt cho Tây Sơn. Nhạc hết sức thúc quân đánh phá, quét sạch toán quân Tôn Thất Quyền. Giao lại Quảng Nam cho Nguyễn Văn Duệ đóng giữ, Nhạc kéo quân về Quy Nhơn.
Để lật đổ Nguyễn, Tây Sơn gọi hết nhân dân ra lính. Số binh đã tăng nhiều (1776), họ theo đuổi chương trình tấn công đến triệt để.
Không chống nổi đội thủy quân của Tiết chế Nguyễn Lữ, chúa Duệ Tông bên Nguyễn phải bỏ Gia Định, chạy đi Trấn Biên (nay là Biên Hòa). Thành Sài Gòn từ đó nằm nép dưới bóng cờ Tây Sơn. Sau nó lại trở về chủ cũ vì có Đỗ Thanh Nhân dấy binh giúp Nguyễn. Nhưng nó chỉ còn cái vỏ xơ xác, chứ bao nhiêu thóc lúa trong kho là ruột và mạch máu của nó đều bị Nguyễn Lữ rút về Quy Nhơn hết rồi (Bính Thân, 1776).
Bước lên chiếc ghế phụ chính
“Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”
Câu đó của thi sĩ Nguyễn Du dường vì anh em Tây Sơn mà đặt ra vậy.
Từ khi được Trịnh phong cho cái “chức suông”, Tây Sơn tự làm lấy về mặt thực tế: Theo chỗ đất cũ của Chiêm Thành, họ đắp thành Đồ Bàn cho cao và to gấp bội. Thành này phía tây có Kim Sơn đứng trấn, phía đông có tháp Cảnh Tiên hộ vệ, phía nam có Tam tháp triều củng, phía bắc có Thập tháp đỡ che. Gia dĩ, núi Phong Sơn ở bên hữu làm lũy, bể Thi Nại ở bên tả làm hào, phía trong có long bàn là núi Cù Mông, phía ngoài có hổ cứ là đèo Bến Đá: Thật là một cảnh thiên nhiên hiểm trở35.
Bấy giờ Tây Sơn tu tạo lại: giữa nơi thành lũy kiên cố đó nổi lên những tòa cung điện đồ sộ xây bằng đá ong.
Tháng hai năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng.
Tổ chức thành cái triều đình mới, Nhạc phong Huệ làm phụ chính, Lữ làm thiếu phó và tùy công ban thưởng cho các đồ đảng theo mình.
Từ đó chúa Tây Sơn trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, dung nạp và thu dụng những tên dân vong mạng và các tay hào kiệt bất đắc chí. Chính vì cửa thành Đồ Bàn rộng mở như thế, nên sau này Cống Chỉnh đem đến cho Tây Sơn cái đề nghị đánh Thuận Hóa và cái phương sách diệt Trịnh, phò Lê.
Bấy giờ Lý Tài lại phản nhà Nguyễn, chiếm giữ Chiêu Thái Sơn. Nghe tin Đông cung Dương từ Tháp Mười vượt biển trốn vào Gia Định (tức Sài Gòn), Lý Tài bèn đem quân hạ Sài Gòn, lập Dương làm Tân Chính vương và tôn Duệ Tông làm Thái Thượng vương.
Muốn dựa sức Trịnh để vật lại Nguyễn, Nhạc sai Đỗ Phú Tuấn ra Bắc, xin Trịnh cho mình coi quản toàn xứ Quảng Nam (1777).
Chúa Trịnh bấy giờ đã chán chối việc binh vì gặp nhiều cơn thất bại trong cuộc Nam xâm, nên muốn cho xong chuyện, phong ngay Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam Trấn thủ tuyên úy đại sứ Cung Quốc công.
Triều Nguyễn vẫn là cái đối tượng để Tây Sơn tấn công, sau khi Nhạc đã yên tâm, tạm gác việc đối phó với Trịnh.
Hai đường thủy bộ của quân Tây Sơn, do Huệ và Lữ cầm đầu, rần rộ cùng tiến vào Gia Định.
Bị đánh, quân Lý Tài thua vỡ, Dương phải chạy về Trà Tân (thuộc Định Tường).
Thừa thắng, anh em Nguyễn Huệ cứ tiến, hạ được Ba Vạc (thuộc Vĩnh Long); luôn dịp lại đuổi Dương và Duệ Tông đến Long Xuyên (thuộc Hà Tiên), rồi ám hại cả hai ở đó (1777). Vết thương này đâm suốt trái tim nhà Nguyễn, nên mối thù oán giữa Nguyễn và Tây Sơn càng ngày càng sâu, càng buộc càng chặt!
Hát bài khải ca, anh em Nguyễn Huệ kéo về Quy Nhơn, để lại bọn Tổng đốc Chu, Hổ tướng Hãn và Tư khấu Oai đóng giữ Gia Định.
Giúp anh nhảy lên ngai vàng
Năm Mậu Tuất (1778), cái năm đáng ghi bằng những nét tối quan trọng trên trang sử Tây Sơn, cũng là cái năm rắc rối trên tờ niên biểu của bộ Việt sử.
Lê còn chính sóc.
Trịnh còn quyền hành.
Nguyễn chưa mất hẳn ngôi chúa
Nguyễn Nhạc nay lại nhẩy lên chiếc ngai Thái Đức Hoàng đế.
Trên mảnh đất chữ S này thật chưa bao giờ có nhiều vua, lắm chúa đến thế!
Người ta tranh nhau cái ngai vàng, nhưng người ta quên lửng đám dân đen là cái đệm, cái kê của chiếc ngai kia, nên họ không ngần ngại đem chúng làm mồi cho súng đạn, cho dịch lệ, cho đói kém!
“Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”
Dẫu vậy, con muỗi của nhà ngụ ngôn La Fontaine có lúc còn làm cho sư tử phải nguy khốn thay, huống chi là trâu với bò!
Thấy chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc đặt niên hiệu là Thái Đức, có người háo sự đoán chiết tự rằng: “Ba người tranh một nước (tam nhân tranh nhất thủy: chiết tự chữ “Thái” 泰), mười bốn năm nữa sẽ mất!” (Thập tứ niên vong: chiết tự chữ “Đức” 德). Song đó là loài sấm vĩ, nay hãy gác ra một bên.
Kể từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc khởi binh đến năm Mậu Tuất (1778) nhảy lên chiếc ngôi Hoàng đế này: tám năm thấm thoắt qua!
Thế là tôi đã dẫn các bạn đi khúc đường lịch sử khá dài rồi.
Trước đây tám năm, anh em Tây Sơn chỉ có hai bàn tay trắng, thế mà một bước nhẩy lên vương, hai bước nhẩy lên đế, quát thét một dải Hoành Sơn!
Các bạn nên nhận biết: trong khoảng tám năm ấy, trên con đường sáng nghiệp của Tây Sơn, tuy có Nguyễn Huệ – Long Nhương Tướng quân (1778), giúp sức khai phá, nhưng nó hãy còn chật hẹp, nhỏ nhen và phần nhiều chỉ quan hệ quanh cái ngai vàng
“Thái Đức”.
Nay về sau, xin mời các bạn cùng tôi đi thăm một con đường khác. Con đường này của riêng Nguyễn Huệ, tay mai, tay cuốc, mở rộng từ Trung ra Bắc, rồi lại từ Bắc chực mở sang Quảng Đông, Quảng Tây. Nó rộng rãi, thênh thang, in lại nhiều vết oanh liệt…
Khi dọn đường này, chính vai chủ động – Nguyễn Huệ – lắm phen đã phải phấn đấu với thú dữ, rắn độc, phấn đấu với mưa, nắng, chông gai. Nhưng kết cục, vì can đảm, vì nghị lực, vì thiên tài, người khai phá đó đã cao giọng hát bài đắc thắng!
Vật ngã Xiêm
Trước khi thuật võ công của Nguyễn Huệ, tôi xin mượn lời Gia Luân Tướng quân mà tặng ông: “Người có thiên tài về quân sự.”
Phải, Nguyễn Huệ quả có thiên tài, quả có thể gọi là Nã-phá-luân Đại Việt!
Binh cơ? Rất thần tốc!
Hiệu lịnh? Rất nghiêm minh!
Ra trận? Bao giờ Huệ cũng đi đầu các tướng sĩ!
Đối với quân lính? Ông sẵn lòng chia ngọt, đắng, sẻ vui, buồn.
Ông là Ngô Khởi: “Ăn chung mặc chạ với hạng lính hèn mọn nhất, hút mủ cho tên quân đau nhọt đáng thương.”
Ông là “chú cai con” Nã-Phá-Luân: “Cho mọi người tự do đến gần mình, phân lao với kẻ khó nhọc, khuya sớm thăm nom sĩ tốt ở bên lều, san sẻ với họ từ một thìa súp.”
Phủ khắp bộ thuộc một bầu không khí êm ái…, Nguyễn Huệ chiếm được trái tim của quân nhân!
Dầu vậy, ông không nhãng bỏ chữ “oai”. Chính cái ân oai nhằm đường đó đã tặng ông đóa hoa chiến thắng và dẫn ông đến bước thành công:
Bốn lần vào đánh Gia Định, quân Nguyễn thảy đều kinh sợ khi thấy bóng ông tướng “tóc quăn, da sần, cặp mắt hùng thư” mà sáng như chớp đó!
Năm Nhâm Dần (1782), ông đem mấy trăm chiếc thuyền vào cửa biển Cần Giờ, đánh với quân Nguyễn ở Ngã Bảy (chữ nho dịch là Thất Kỳ giang): Quân Nguyễn phải đại bại dưới bóng cờ ông tướng “thiện chiến” ấy.
Có lần ông kéo quân đến Lữ phụ, bày trận ngảnh lưng xuống nước, công kích rất hăng (tháng tư năm Nhâm Dần, 1782), làm cho chúa Nguyễn Ánh, tức vua Gia Long tương lai, phải chạy ra đảo Phú Quốc.
Qua năm Quý Mão (1783), ông và anh là Lữ lại vào Cần Giờ, ngược dòng, lên đánh tan quân Chu Văn Tiếp bên Nguyễn vì toán quân này, hồi tháng tám năm ngoái (1782), từ Phú Yên vào cứu Gia Định để đón chúa Nguyễn Ánh do đảo Phú Quốc quay về nội địa.
Trận đó, quân Tây Sơn bắt được Nguyễn Hoàng Đức, tướng đi chận hậu cho chúa Nguyễn, và làm cho Nguyễn vương phải chạy đi Côn Lôn. Phò mã Tây Sơn Trương Văn Đa, đuổi theo, suýt bắt được chúa Nguyễn Ánh. Nhưng vì bấy giờ trời mưa như trút, cơn dông tố ầm ầm nổi lên, mặt nước mờ tối, lôi thuyền Tây Sơn xuống nơi thủy phủ rất nhiều, nên chúa Nguyễn Ánh lại chạy ra Phú Quốc được.
Lại để Văn Đa đóng giữ Gia Định, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn với vòng hoa thắng trận.
Trong cuộc nội chiến giữa Nguyễn và Tây Sơn này có một việc tối quan trọng đã xảy ra năm Giáp Thìn (1784):
Đó là việc chúa Nguyễn rước Xiêm sang cứu giúp.
Đó là keo Việt – Xiêm đọ sức trên chiến trường.
Nước Xiêm tức Tiêm La, kêu theo chữ Hán, ngày nay đang đứng ngang hàng với liệt cường thế giới. Nhưng, trước đây ngót một trăm sáu mươi năm, Xiêm sánh với Đại Việt ra sao? Các bạn đọc qua mấy hàng sử ký sau đây khắc biết.
Năm Giáp Thìn (1784), Chiêu Tăng, Chiêu Xương, hai tướng Xiêm, kéo hai vạn thủy binh và 300 chiến thuyền sang Đại Việt!
Trảy đi đến đâu, quân Xiêm nhũng nhiễu đến đó: dân gian phải uống những “hớp” khổ sở, đắng cay!
Quân Xiêm tuy đánh bại được Văn Đa (tướng Tây Sơn), tiến đóng tận Long Hồ, nhưng không phải là tay đối địch của Nguyễn Huệ.
Quả thế, Nguyễn Huệ, khi hay tin quân Xiêm kéo đến, Văn Đa đã thua, lập tức đem quân vào Gia Định, quyết vật một keo với ngoại binh.
Thoạt giao chiến, quân Tây Sơn lùi... và cứ lùi… nhử quân Xiêm đến Mỹ Tho. Một ám hiệu nổi dậy, toán kính binh (quân cứng mạnh) mà Huệ đã sai phục ở Xoài Mút (thuộc Định Tường) bên Rạch Gầm, thình lình xông ra đánh giết. Quân Xiêm đang khốn đốn vì gặp phục binh của Tây Sơn, lại bị hai mặt quân thủy, lục do Huệ thúc đến công kích rất dữ, đành phải ở nơi đất khách làm bao con quỉ cụt đầu! Sau trận đại bại này, bên Xiêm chỉ còn vài nghìn tàn binh nheo nhóc điêu linh vừa chạy về vừa thom thóp sợ oai Nguyễn Huệ.
Ấy đó, ngay đời Nguyễn Huệ, địa vị Tiêm La hãy còn thấp kém, sức lực Tiêm La hãy còn bé mọn, binh bị Tiêm La hãy còn không địch nổi Tây Sơn, thế mà bây giờ:
“Trần ai, ai đã biết ai?”
“Tôi già rồi! Ai địch nổi!”
Nhắc lại: năm Ất Mùi (1775), Hoàng Ngũ Phúc, tướng Trịnh, khi còn đóng quân ở Châu Ổ (thuộc Quảng Ngãi) có nói với tướng tá ở bộ thuộc mình, lúc Phúc mới bắt đầu vướng phải bàn tay ác nghiệt của thần Dịch lệ: “Tây Sơn bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh! Tôi già mất rồi! Còn các tướng, tôi e, không phải là tay đối địch với họ được!” Lời “biết người, biết mình” của viên lão tướng đó dường vì sau đây mấy năm, cảnh cáo Phạm Ngô Cầu.
Bị chúa Trịnh triệu về, Ngũ Phúc để Bùi Thế Đạt đóng giữ Thuận Hóa, đem binh trảy ra Bắc, nhưng mất ở dọc đường.
Xưa, người mình mê tín địa lý, hễ thấy ai quật cường nổi lên, thì cho ngay là “đất phát nghịch”, nhà nào xây lâu đài lộng lẫy trên nền “hàn vi” thì cho là “hòn đất đã dậy!” Rất đỗi đối với quân quốc trọng sự, người ta cũng dùng đến cái “chiến thuật” đào mả hoặc đoạn tuyệt long mạch để chực “triệt” nhau. Cái cử động vô ý thức đó thường diễn trên sân khấu tranh vương đồ bá của người mình.
Trình độ đời Lê bấy giờ cũng không vượt khỏi cái nấc “mê tín” ấy.
Tây Sơn vùng dậy với tiếng hùng cường, chẳng những là cái sợ riêng cho triều Nguyễn trong Nam, mà lại là cái lo lớn cho Chính phủ36 Bắc Hà nữa.
Chả thế, có nhà đương đạo bên Trịnh phải xét đến mả nhà Tây Sơn mà nói với triều đình Bắc Hà rằng:
– Cứ theo kiểu đất Tây Sơn, thì thập nhị niên cường, kỳ cường mạc ngữ! (mạnh 12 năm, cái mạnh ấy không ai chống nổi!) Vậy xin triều đình phải sớm dẹp đi, ngõ hầu sau mới khỏi lo…
Nhưng mạt vận đương tràn ngập vua Lê, chúa Trịnh! Ai người đi dẹp Tây Sơn? Chẳng những không dẹp nổi, mà hai phủ Thăng (Thăng Bình), Điện (Điện Bàn) thuộc Quảng Nam bấy giờ lại bị Tây Sơn chiếm cứ37, nên Trịnh Sâm cũng phải nới tay: phong nước cắt đất cho họ để mong êm chuyện (1777).
Sau khi lật đổ họ Nguyễn, chúa Trịnh giựt lấy miếng đất Thuận Hóa, phái 3.000 đồn binh, 30.000 thú binh đóng giữ38. Cầm nắm cơ quan chính trị và quân sự ở đó, một đại tướng, một phó tướng và hai viên chánh, phó đốc thị.
Ngồi ghế trọng trấn Thuận Hóa, sau Hoàng Ngũ Phúc là Bùi Thế Đạt39, sau Đạt là Phạm Ngô Cầu.
Ngô Cầu? Con người vô tài, vô năng, tham lam, nhút nhát, mà lại đa nghi. Cầu, tay cầm cái ấn Đại tướng ở biên cương, chỉ cốt kiếm lợi bằng cách vơ vét đục khoét, chứ không có một chủ trương gì tỏ ra là người xứng đáng cả.
Đối với phó tướng Hoàng Đình Thể, một người có tư cách hơn Cầu, Cầu vẫn nhìn bằng con mắt
ghen ghét.
Cái chân tướng bất xứng chức đó của Cầu đã bị lột trần dưới mắt “củ soát” của quyền Phủ xứ Hồ Sĩ Đống. Nhưng cái đề nghị xin cử người khác thay Cầu chưa được triều đình Bắc Hà làm theo, thì Đống đã chết, nên Cầu vẫn cứ ngồi vững trên ghế trọng trấn miền Nam: làm anh bù nhìn giữ “dưa” cho chúa Trịnh và làm cái “bàn đạp” cho Nguyễn Huệ nhảy lên để phóng ra Bắc Hà…
Đế vương trong tay chúng tôi!
Lê chưa “vong”, Trịnh đã đến lúc sắp “bại”!
Tướng đóng ngoài biên: Phạm Ngô Cầu, một người đớn kém như trên đã nói.
Quân ở trong? Một tụi lính tráng kiêu căng, rông rỡ, ngang ngạnh! Họ “úp sọt” cả vua lẫn chúa, ngang nhiên rờ mó đến cái thần khí xưa nay vẫn coi là thiêng liêng.
Cây “Trịnh”, bấy giờ, rễ đã lũa, ruột đã sâu, quyết không sao khỏi đổ khi gặp một trận gió “Tây” lay giựt!
Đầu thiên “lịch sử ký sự” này, tôi đã nói sơ đến thói kiêu hoạnh của chư quận bên Trịnh, nay cần thuật thêm cho rõ nguyên ủy:
Nguyên từ hồi trung hưng (từ năm 1533 trở đi), nhà Lê chỉ lấy binh đinh ở ba phủ Thanh Hoa và mười hai huyện ở Nghệ An. Vì nhà Lê dấy lên từ Thanh Hoa, binh lính ở hai nơi Thanh Nghệ đã từng chia sẻ với quốc gia những nỗi gian lao vất vả, nên được triều đình coi hạng lính ở đất căn bản ấy như móng vuốt, ruột rà, đối đãi một cách ưu hậu40. Vì vậy, bấy giờ họ được mang cái danh hiệu rất đẹp đẽ là “quân Tam phủ” hoặc
“Ưu binh”.
Được làm “con cưng” của vua chúa, họ dần dần được đằng chân lân đằng đầu.
Năm Lê Gia Tông Dương Đức thứ 2 (1673), quân Tam phủ, vì thấy việc thuyên thụ (thuyên bổ và cho phẩm trật) có hơi kém, bèn nổi dậy làm loạn, giết Bồi tụng Nguyễn Quốc Hòe, đốt nhà quốc lão Nguyễn Công Trứ rồi cướp của cải41.
Qua năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740), họ ức vì việc Tham tụng Nguyễn Quý Kính (có âm nữa là Cảnh) hơi đè nén một cách trái lệ, liền hò nhau đến phá nhà Quý Kính, cướp hết của cải và đồ vật42.
Năm Nhâm Dần (1782).
Tháng chín, Trịnh Tĩnh Đô vương, trước khi nhắm mắt, giao phó việc giúp lập con là Trịnh Cán vào tay bảy người tâm phúc là bọn Hoàng Đình Bảo.43
Nhưng vì Đình Bảo chuyên quyền và Trịnh Cán không được lòng người, gây thành một cuộc phế lập “tháng mười” do quân Tam phủ đứng làm chủ động.
Nay Ưu binh, sẵn võ khí trong tay, tự do làm việc họ muốn:
Lập Trịnh Tông (tức Khải) làm Đoan Nam vương (1782-1786).
Phế Trịnh Cán làm Cung Quốc công.
Giết Đình Bảo.
Lung tung cướp phá nhà Đình Bảo và các nhà thân thuộc của Đặng Thị Huệ (mẹ Trịnh Cán) luôn với các nhà phe đảng Đình Bảo!...
Chư quân còn thanh ngôn muốn giết cả vương cữu nữa. Thái phi nhà Trịnh phải ra kêu khóc xin tha, họ mới thôi.
Luôn mấy ngày, kinh thành sống trong cơn khủng bố rối loạn!
Đình thần im tiếng.
Sau việc “đảo chính” này vài ngày, chư quân lại kéo đến nơi ngục thất, trả lại tự do cho các con của cố Thái tử Lê Duy Vỹ là Duy Lưu và Duy Chi44.
Còn Duy Kỳ45 cũng con của cố Thái tử nhà Lê, được họ thả ra từ hôm phế lập.
Lần thứ nhất họ đã được vua Lê Hiển Tông trọng thưởng tiền bạc và “chức tước” như biện lại hoặc cai quản,…
Lần sau họ lại đến “vòi” Lê đế về việc buông tha được hai Hoàng tôn ra khỏi nhà tù.
Không thiết 2.000 lạng bạc của ông vua nghèo, họ trả lại bạc nhưng đòi xin “danh phận” lần nữa.
Sẵn “cây nhà lá vườn” vua Lê lại sai làm sắc phong cho họ: trong đám chư quân, kẻ nào đã được phẩm trật lần trước rồi, nay không muốn nhận nữa, thì họ lại nhường cho bà con hoặc người quen thuộc họ.
Cũng chiều theo ý họ, triều đình bèn “chế tạo” ra một thứ sắc gọi là “Dực đới tương nhượng sắc” để ban cho kẻ nào mà chư quân muốn nhường.
Bởi chư quân, Trịnh Tông đang bị truất bỗng được lên ngôi vương.
Cũng bởi chư quân, các cháu vua Hiển Tông nhà Lê đang bị xiềng xích bỗng được thở hút không khí tự do.
Trách nào họ chẳng tự phụ: “Các ngôi đế vương đều tự trong tay chúng tôi mà ra cả!”
Thế là, từ đó, họ như đàn ngựa không cương khớp: Họ cất! Họ đá! Triều đình là một “sân quần” của họ. Họ, động một tí, đánh mõ inh ỏi, tụ họp lại, kéo thành đàn hàng chục hàng trăm: nhông nhông giong lượn, kêu gọi la ó ầm ĩ…
Họ yêu cầu Nhà nước cho họ hưởng các lợi quyền ở nơi quan ải, bến đò, đầm, hồ, bãi sông, chợ búa (1783).
Ấy là không kể vụ tháng mười năm Nhâm Dần (1782), nhiều nhà giầu trong thành đã bị vạ lây vì họ cướp bóc phá phách, sau lúc đánh đổ phe đảng Hoàng Đình Bảo.
Mà từ đó trở đi, họ càng “vòi” được các mối lợi của Nhà nước bao nhiêu, thì dân gian lại càng bị họ khuấy nhiễu bấy nhiêu. Vì mối lợi họ được có đụng chạm đến dân gian: một khi chợ búa, bãi sông… đã lọt vào tay họ, thì dân quê lẽ tất nhiên bị họ bóc lột tàn nhẫn!
Vì thế, mối căm hờn ngày một ăn sâu vào xương tủy dân gian. Giữa dân và lính đào sâu một hố cừu thù.
Ngay những cố lão ở hồi Thành Thái (1889-1907) gần đây hãy còn hay dùng câu này để chỉ những cử động nhũng nhiễu của kẻ không giữ kỷ luật: “Làm gì như quân Tam phủ ấy thế!” Đủ biết cái nạn Ưu binh ở đương thời ghê gớm là chừng nào!
Nội tình bên Trịnh bấy giờ là thế (1782-1783).
Con diều biển!
Trước khi thuật việc Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân, ta không thể không nói đến một nhân vật đã đóng vai tối qua trọng trên sân khấu chính trị bấy giờ.
Người ấy là một vai “công kênh” để Nguyễn Huệ “trèo” vào thành Phú Xuân.
Người ấy là một dịp cầu bắc để Nguyễn Huệ từ Phú Xuân nhảy một bước ra Bắc Hà.
Người ấy là anh “dàn cảnh” để vua Lê Hiển Tông sống lại một ngày oanh liệt.
Người ấy là anh chàng “đánh hôi”: đạp đổ cái ngai chúa Trịnh Kiểm (1545-1570) đến Trịnh Khải (1782-1786).
Người ấy lại là một bác “mai dong”46 khiến Ngọc Hân Công chúa nhà Lê được đẹp duyên với anh hùng Nguyễn Huệ.
Nói tóm, người ấy là một tay núp sau Nguyễn Huệ, xoay trở thời cục hồi cuối Lê một cách ngửa nghiêng điên đảo…
Người ấy là ai?
Nguyễn Hữu Chỉnh, tức Cống Chỉnh!
Chỉnh, người Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, vốn thông mẫn và có tài năng từ thuở bé. Mới ít tuổi đã đỗ Hương cống. Sau tập võ nghệ, Chỉnh lên kinh sư, thi Tạo sĩ, nhưng không đỗ.
Tức mình, xoay phá ngang, Chỉnh vào yết kiến quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, kiếm một con đường tiến thân ngoài lề lối thường.
Thấy Chỉnh là người kỳ kiệt. Phúc dùng làm môn khách: giắt nghiên cài bút theo đi tòng quân.
Năm Giáp Ngọ (1774), nhân có việc Ngũ Phúc quyền phong Nguyễn Nhạc làm Tráng tiết Tướng quân, Chỉnh được sai đem đến cho Tây Sơn sắc, ấn, cờ, kiếm: Lần thứ nhất Chỉnh chạm trán với anh em Tây Sơn. Khi về, Chỉnh có nói với Ngũ Phúc: “Anh em Tây Sơn là tay ngấp nghé khác thường, chắc không chịu ở lâu dưới ai đâu.”
Nhưng trong khi đang mải miết tìm một lập trường trên mảnh đất chính trị ấy, Chỉnh có biết đâu rằng dân chúng ở tầng lớp dưới đương chết đói vì hạn hán, mất mùa. Nguyên, bấy giờ thóc đang kém, gạo đang cao, nhân dân đang thiếu đói; thế mà đến tháng Bảy mùa thu năm Bính Thân (1776) lại gặp cơn đại hạn, đồng ruộng cháy khô, nhà nông không sao làm được công việc. Những người nghèo khó hết qua cửa quyền nọ lại đến nhà sang kia cũng không sao kiếm được một chân làm thuê, làm mướn. Vì vậy, trộm cướp nổi lên như rươi, khuấy nhiễu chốn dân dã, làm cho người ta không sống yên được47.
Sau khi Ngũ Phúc qua đời, Chỉnh nương tựa nơi con nuôi Phúc là quận Huy Hoàng Đình Bảo48.
Hồi Đình Bảo đóng ở Nghệ An, Chỉnh được sung chức võ, làm hữu tham quân. Giữ việc điều khiển các thủy thủ chống giữ mặt biển, Chỉnh tỏ ra là một tay nhanh nhẹn giỏi giang về nghề thủy chiến.
“Con Diều biển” (Hải diêu)! đó là cái tước hiệu người ta kêu Chỉnh để khen tặng Chỉnh trong hồi bấy giờ49.
Chẳng bao lâu “Con Diều biển” đó được quản Tiền Ninh cơ ở Nghệ An và được phong làm Bằng Lĩnh hầu.
Cuối đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm phế con trưởng là Trịnh Tông, lập con nhỏ là Trịnh Cán. Và, để giữ vững địa vị cho con nhỏ này, Trịnh Sâm giao quyền bính và việc gửi gắm vào tay Hoàng Đình Bảo.
Nhưng, như trước đã nói, sau khi Sâm mất, chư quân nổi cuộc đảo chính (tháng mười, năm Nhâm Dần (1782): Phế Trịnh Cán! Lập Trịnh Tông! Giết hại phe đảng Đình Bảo!
Tin biến động đó do biền sinh Hoàng Viết Tuyển, thủ hạ Chỉnh, từ kinh báo đến Nghệ An: Cống Chỉnh sợ!
Đứng trước thời cục gay go đó, giải quyết thế nào đây?
Có hai cách: Một là kéo cờ độc lập, thoát ly hẳn triều đình, Hai là… trốn!
Một ý nghĩ vụt nảy trong óc, Chỉnh vội sang bàn với trấn thủ Vũ Tá Giao:
– Nguy đến nơi rồi! Chi bằng ta kết hạp với phó tướng ở Thuận Hóa là Hoàng Đình Thể và đồn thủ ở Động Hải là Khôi Xuân, xui họ giết đại tướng (chỉ Phạm Ngô Cầu), chiếm giữ lấy thành, đứng làm một tay cứu viện. Còn ông (chỉ Vũ Tá Giao), ông cứ giữ lấy trấn Nghệ An này, gây thế “thần xỉ” (môi và răng) với các tướng Thuận Hóa, rồi chẹn đường Hoàng Mai, đóng trọng binh ở Quỳnh Lưu. Như vậy có thể giữ vững được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển thì chính Chỉnh này xin cáng đáng hết. Ông tính sao?
Tá Giao lắc đầu:
– Việc ấy tôi không làm nổi.
Kế thứ nhất đó không thành. Chỉnh phải tính đến chước thứ hai: chạy!
Chạy vào Quy Nhơn (1782), sau khi Chỉnh từ giã Tá Giao về nhà.
Chạy vào Quy Nhơn, Chỉnh được anh em Tây Sơn hoan nghênh nhiệt liệt!
Nguyên vì từ ngày vâng mệnh Hoàng Ngũ Phúc đem sắc, ấn, cờ, kiếm vào cho Tây Sơn Hiệu trưởng, Chỉnh đã được anh em Tây Sơn biết là con người thế nào rồi. Nay Chỉnh túng bước, cùng đường, phải dắt gia quyến và Hoàng Viết Tuyển vượt biển vào đây chính là dịp tốt cho Tây Sơn lợi dụng.
“Cô gái làm đỏm vì người yêu.” Chỉnh, có thể nói, trổ tài vì tri kỷ.
Sau khi về với Tây Sơn, Chỉnh hết lòng làm việc: nào bày mưu, vạch kế, nào diễn đồ pháp để luyện binh lính. Nào lập phép thi để lựa chọn nhân tài… Một việc này làm cho Tây Sơn càng thêm thân tín: Chỉnh thẳng tay giết luôn người em rể (lấy em gái Chỉnh) khi người này vâng lịnh chúa Trịnh vào Quy Nhơn chực dụ Chỉnh về.
Năm Bính Ngọ (1786), Phạm Ngô Cầu50 tướng Trịnh, đóng ở Thuận Hóa, muốn dòm nội tình hư thực của Tây Sơn, có sai bọn Nguyễn Phu Như và Võ Vĩnh Thành đi “thuyết” anh em Nguyễn Nhạc. Nhưng ngờ đâu Phu Như lại là cố nhân của Chỉnh, trở thành một chiếc tên độc bắn lại Ngô Cầu! Bao nhiêu tình hình Thuận Hóa, Phu Như mách bảo Cống Chỉnh hết cả, và không quên kết luận một câu: “Thực trạng Thuận Hóa như nay, có thể lấy được lắm.”
Ngoại tình bên Trịnh bấy giờ đã nguy ngập là thế, nội tình lại càng nhiều nỗi gay go: Từ tháng ba năm Bính Ngọ (1786), giá gạo cao lên vùn vụt, trong kinh kỳ và bốn trấn Đàng Ngoài bị nạn cơ cận giày vò: dân đói, chết như ngả rạ. Bấy giờ chỉ có bát gạo là đáng quý, chứ chẳng ai – dù là người giầu – thiết đến chức tước gì cả. Một chứng cớ: Chúa Trịnh Khải ra lệnh cho dân hễ ai quyên tiền thì được ban chức, nhưng không ai đáp theo tiếng gọi của triều đình, đến nỗi chúa Trịnh phải đem sắc lệnh ép gán cho nhà giầu để lấy tiền mà phát chẩn.
Hạ thành Thuận Hóa
Thuận Hóa vẫn là miếng mồi ngon trước mắt thèm thuồng của Tây Sơn.
Nội tình bên Trịnh đã đem lại cho Tây Sơn cái dịp có thể giựt được miếng mồi ấy.
Lời Chỉnh khuyên lấy Thuận Hóa lại càng làm cho Tây Sơn quả quyết và mau chóng thực thành ý định ấy.
Trước hết Tây Sơn sai một tay thuật sĩ đến Thuận Hóa, đem chuyện họa phúc hăm dọa Ngô Cầu.
Sợ lời “truật” đó của tay sai bên Tây Sơn, Cầu ra lệnh cho tướng sĩ lập đàn làm chay: chực chờ giọt nước cành dương rảy mát tâm hồn “hèn nhát”.
Chuông trống nổi...
Đàn chay linh đình…
Chẳng dè lẩn bên khói hương “cầu nguyện” kia quân sĩ Tây Sơn ầm ầm kéo đến!
Ngày 18, tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), dưới quyền cắt cử của Nguyễn Nhạc, Huệ làm Long Nhương Tướng quân, tiết chế các quân thủy bộ, Võ Văn Nhậm (người Quảng Nam, rể Nhạc) làm Tả quân Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân. Hai đạo thủy, lục bên Tây Sơn cùng tiến nhằm theo một đích: đánh thành Thuận Hóa.
Quân thủy đi đường biển. Quân bộ đi đường Hải Vân quan.
Ngày 24 tháng đó, quân bộ Tây Sơn qua Hải Vân quan, bốn mặt đánh thúc vào đồn An Nông: Thủ tướng bên Trịnh là Hoàng Nghĩa Hồ51 thế cô, sức kiệt, thuốc đạn hết, phải tự vẫn trên mình voi sau khi cố chết chống đánh một cách anh hùng.
Đàn chay của Phạm Ngô Cầu tưng bừng rộn rịp trong bẩy ngày đêm: lời cầu nguyện dường theo khói trầm, triện hương bay sang Thiên Trúc…
Thì tin quân khẩn báo làm choáng váng Cầu!
Lật đật từ trai đàn trở về, Cầu bàn tính việc đem quân chống giữ.
Nhưng, quân sĩ đóng ở Thuận Hóa bấy giờ chịu ảnh hưởng xấu của chư quân ở kinh đô, cũng kiêu rông, cũng khinh lờn kỷ luật, làm nhiều điều tàn ngược tai hại cho nhân dân, gieo vào lòng họ một mối căm hờn vô hạn! Vả, phần vì mỏi mệt vì binh đao đã lâu, phần vì đi xa nhớ nhà, quân lính chẳng còn bụng dạ nào thiết đánh chác nữa!
Một bức mật thư lạc vào vòng quân Ngô Cầu. Cầu nghĩ bụng: “Thể và Chỉnh, trước kia, đều là môn hạ Hoàng Ngũ Phúc, bây giờ, chúng bí mật thông nhau, chắc có chuyện bất lợi cho mình! Vả, quân Tây Sơn đương như nước lụt ầm ầm đổ đến, Đình Thể nếu lại đứng trong làm nội ứng thì ta hơi sức đâu chống nổi với họ? Chi bằng xoay theo chiều gió, ta kéo cờ hàng là hơn…”
Bức thư gì có sức mạnh hơn trăm cây súng, nghìn lưỡi gươm thế?
Bức thư “ly gián” theo chiến thuật của Nguyễn Huệ!52
Nguyễn Huệ biết Cầu, đối với Hoàng Đình Thể, bấy nay vẫn đem lòng ghen ghét hằn học; mà Thể bất bình trước cách đối đãi ấy của Cầu, nên Huệ quyết dùng chiến thuật “tháo tung bó đũa ra, rồi sẽ bẻ gãy từng chiếc một”; mật sai Chỉnh viết bức thư kín phong trong sáp, hẹn Đình Thể làm nội ứng, nhưng giả đò bắn lạc vào nơi Ngô Cầu.
Quả nhiên kế đó đem lại cho Tây Sơn cái kết quả đẹp.
Cầu chưa tính xong nước cờ bí; Nguyễn Huệ đã kéo hai mặt thủy bộ đến rồi!
Bất đắc dĩ Cầu phải làm việc “bổn phận”: sai Đình Thể đem quân ra ngoài thành nghinh chiến.
Sừng sững đứng ngay bờ sông, vách thành Thuận Hóa bấy nay vẫn ngạo nghễ với sương ghê, gió lạnh.
Chân thành cách mặt sông độ hơn 2 trượng. Một cái khó cho quân thủy Tây Sơn, vì không tiện ngửa lên bắn vào được.
Thình lình phát đại bác bên Trịnh bắn ra: một chiếc chiến thuyền Tây Sơn chìm lỉm!
Thủy binh Tây Sơn hơi lùi.
Sau, nước sông lên to53, nâng thuyền Tây Sơn lên cao ngang với mặt thành.
Súng Tây Sơn theo dịp may đó, cứ đùng đoành bắn vào thành, ngốn nuốt quân dân Thuận Hóa trong vòng khói đạn!
Các cửa thành bị quân bộ Tây Sơn rần rộ bổ vây và ầm ầm đánh phá.
Hết sức xông pha, chống chọi, Đình Thể và hai con54 cùng quân bản bộ đã thịt được vài trăm quân Tây Sơn. Nhưng bây giờ thuốc đạn đã hết.
Thuốc đạn hết? Tướng tài đến đau cũng đành phải bó tay!
Thuốc đạn hết? Mặc! Phạm Ngô Cầu cứ bịt tai giả điếc trước những tiếng Đình Thể gấp rút đòi xin tiếp tế đạn dược và cầu cứu thiết tha!
Không thể nhịn tức trước thái độ tàn nhẫn đó của Cầu, Thể định quay về thành, giết phăng Ngô Cầu trước đã, rồi lại ra quyết “ăn thua” với quân địch sau. Nhưng Thể thấy trên thành đã kéo cờ trắng: đầu hàng rồi!
Thể vừa căm giận, vừa tức bực, nhưng vẫn không quên làm phận sự đến phút cuối cùng:
Thể, tay cầm đoản đao, thúc quân cứ tiến, vùng sang tả, quật sang hữu, chém giết một hồi, làm rụng đến vài mươi chiếc đầu của quân địch.
Hai con của Thể đã chết vì bị trọng thương!
Tỳ tướng Vũ Tá Kiên55 lại chết ở vòng trận!
Thể cũng tự vẫn trên mình voi, chết vì nghĩa vụ sau khi sức lực đã kiệt và thuốc đạn đã hết nhẵn.
Bên Trịnh, đốc thị Nguyễn Trọng Đang56 và nhiều tướng khác hoặc bị dấp dáy trong vòng loạn quân, hoặc bị vùi dập nơi hào nước, sẽ theo những hồn cô trung âm thầm rên rỉ trên bãi sa trường trong những đêm gió mưa ảm đạm!
Nguyễn Huệ ung dung kéo binh vào thành giữa những tiếng hò reo thắng trận của ba quân.
Để xin hàng, Cầu sợ cuống, vội sai trói mình đem nộp57 trước gót chân nhà chiến thắng. Nhưng, van lạy người ta cũng không xong, Cầu phải làm một tên tù binh điệu về Quy Nhơn, rồi bị giết chết tại đó!
Trước khi xảy ra trận chiến này, Thuận Hóa đã kéo bao người Nghệ An đến để chực kiếm ăn vì Nghệ có nạn mất mùa đói kém. Ai ngờ chưa tránh khỏi thần Cơ cận, họ lại gặp ngay con quỷ Binh đao! Họ, một hạng dân quê vì đói phải tha hương cầu thực, bỗng bị chết oan vì khói lửa: thây xác lấp nghẽn cả sông! Không những họ chết, ngay những tướng sĩ và “kiều dân” Bắc Hà cũng chỉ còn được vài trăm người sống sót chạy về thôi.
Về số người chết vì trận này, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, có chép:
Nguyễn Huệ lùa quân vào thành, tha hồ giết gióc: Vài vạn quân Bắc ở trong thành đều bị thịt ráo! Còn những tên lính nào chạy trốn ra ngoài thành thì lại bị nhân dân tranh nhau giết chết! (Quyển 30, tờ 19).
Còn trong Khâm định Việt sử quyển 46, tờ 16a thì chép:
Tây Sơn “ồ ạt kéo binh vào thành, tha hồ giết gióc. Trong số hơn vài vạn tướng sĩ đóng đồn ở đấy chỉ còn vài trăm người qua sông về Bắc được thôi.
Nhưng trong Lê quý kỷ sự chép:
… Quân Bắc vài vạn người đóng ở trong thành, bị chết không biết bao nhiêu mà kể!
Sau khi hạ được Phú Xuân, Nguyễn Huệ sai thiên tướng (cũng như tì tướng) là Nguyễn Lữ đánh hãm hai đồn Cát Doanh58, Động Hải59. Tướng Trịnh đóng ở Động Hải là Ninh Tốn bỏ thành chạy. Các tướng ở đồn Cát Doanh cũng theo gót trốn hết. Thế là mảnh bản đồ mà Trịnh Sâm trước đây đã nhọc công tốn của giựt được khỏi tay triều Nguyễn, nay lại lọt vào trong “túi” Tây Sơn!
Tiếng ca đắc thắng vang dậy một bầu không khí Thuận Quảng. Nguyễn Huệ hội họp chư tướng, bàn định lại sai quân lính sửa sang trường lũy ở Động Hải, cứ giữ mốc cũ La Hà, lấy con sông đó làm giới hạn ngăn chia Nam, Bắc.
Nghe lời Chỉnh, Nguyễn Huệ ra lệnh tha về hết cả mọi người các nơi đến nơi cư trú ở Thuận Hóa đã sống sót sau trận chiến tranh này.
Cờ chiến thắng của Tây Sơn đã cao bay ở thành Thuận Hóa, bên Trịnh hãy còn lúng túng trầm trọng trong cơn tê liệt!
Phải, tê liệt cả mặt nội chính lẫn mặt quân sự. “Người ốm yếu” đó sao đứng vững nổi trước sức tiến công hăng hái của Tây Sơn?
Tình hình ngoài Bắc sau khi Phú Xuân thất thủ!
Giặc!
Bên Trịnh đương loay hoay dẹp giặc.
Nhưng Thiêm Liên60, với vài trăm chiếc thuyền, vẫn tung hoành ở hải phận Quảng Yên! Sử Thục vẫn vẫy vùng khuấy nước ở Kinh Bắc!
Hết quân nọ đi tiễu đến tướng kia đi càn, rút cục góc đông nam ngoài Bắc Hà vẫn ngụt ngạt mùi thuốc súng và nhân dân miền đó vẫn bị các tướng lục lâm giày vò!
Binh lực rỗng không.
Nước rỗng không.
Họ Trịnh đương dắt nhà Lê lảo đảo bên vực rỗng không!
Ngày 24, tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), quân Nguyễn Huệ đã vượt Hải Vân quan; biên thùy mới có tin báo đến triều đình.
Vấn đề “phòng thủ” được triều đình bệ vệ, khệnh khạng, rề rà bàn đi xét lại.
Quyến, một hoạn quan đắc sủng với Trịnh Đoan Nam vương, tiến cử người con nuôi tên là Mãn (có bản viết là Câu) làm Đô thống, chực cầm quân đương đầu với Long Nhương Tướng quân.
Nhưng bàn xét một lần, hai, ba lần: việc đó đình nghị vẫn chưa ngã ngũ!
Quân lính? Bấy giờ quen rông rỡ, sợ đi xa, không coi kỷ luật ra gì, họ chỉ có thể làm hạng quân nhân phế Trịnh Cán, giết Đình Bảo, chứ không thể xông pha mưa tên, rừng đạn, chống chọi với Tây Sơn!
Thuận Hóa đã ngoan ngoãn nép dưới bóng cờ của Long Nhương Tướng quân, triều đình ngoài Bắc, ngày mồng 3 tháng sáu, mới được dịch thư (thư chạy bằng ngựa trạm) do trấn Nghệ An mật báo đến!
Tin chẳng lành nhưng bí mật ấy, triều đình định bưng bít không cho dân biết.
Dẫu vậy, tiếng đồn đại mất Thuận Hóa, theo gió đông nam, cứ thổi thổi khắp dân gian!
Họ rùng rợn trước cuộc thế đổi thay! Họ cõng trẻ dắt già, nhốn nháo bỏ kinh thành, tìm nơi
lánh loạn!
Họ, khi gặp cơn chiến tranh, cảm thấy mình bị bỏ rơi: từ tính mệnh đến tài sản, không có gì gọi là được bảo đảm lấy một chút xíu!
Quang Trung Quang Trung - Hoa Bằng Quang Trung