I find television to be very educating. Every time somebody turns on the set, I go in the other room and read a book.

Groucho Marx

 
 
 
 
 
Tác giả: Anne Rice
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Dịch giả: Hải Âu
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
a cà rồng ngừng lời. Nhưng chàng trai vẫn tỏ ra căng thẳng y như trước, như thể anh phải cố lắm mới có thể tỏ ra kiên nhẫn. Nhưng ma cà rồng đã đan những ngón tay trắng dài lại như định tạo hình một cái tháp chuông nhà thờ, rồi hắn gập ngón tay lại, ép chặt hai lòng bàn tay vào nhau. Hắn dường như đã quên mất chàng trai. “Lẽ ra ta phải biết đó là một việc không thể tránh khỏi,” hắn nói, “và lẽ ra ta phải thấy những dấu hiệu của nó. Bởi vì ta rất hòa hợp với cô bé; ta yêu cô bé bằng cả tâm hồn, cô bé là bạn đồng hành duy nhất của ta trong những giờ thức tỉnh, người bạn duy nhất của ta ngoài cái chết. Lẽ ra ta phải hiểu được điều đó sớm hơn. Nhưng có một phần trong ta vẫn ý thức được sự tồn tại của một vực sâu thăm thẳm trong bóng tối, nằm rất gần nơi bọn ta đang đứng, như thể bọn ta luôn đi sát bên một vách đá dốc đứng mà chỉ cần một sơ sẩy nhỏ, một giây chìm đắm trong những suy tưởng của mình là bọn ta sẽ trượt chân xuống. Đôi khi ta cảm thấy ngoại trừ vực thẳm tăm tối đó ra, mọi thứ vật chất tồn tại xung quanh bọn ta đều không có thực. Như thể một rãnh nứt sắp sửa hiện ra trên bề mặt trái đất này, và ta có thể thấy vết nứt lớn đang lan ra trên phố Royale, rồi mọi tòa nhà đang ầm ầm sụp tan thành bụi. Nhưng điều tồi tệ nhất là, chúng trong suốt, mỏng như tơ, như những tấm màn sân khấu bằng lụa. Ôi... ta bị phân tâm mất rồi. Ta vừa nói gì nhỉ? Ta đã phớt mọi dấu hiệu cô bé, ta đã bấu víu một cách tuyệt vọng vào niềm hạnh phúc mà em đã mang lại. Và em vẫn mang lại cho ta; và phớt lờ mọi điều khác.
“Nhưng đây là những dấu hiệu. Cô bé trở nên lạnh lùng với Lestat. Em cứ nhìn hắn chằm chằm hàng giờ đồng hồ. Khi hắn nói chuyện, em thường không đáp lại, và rất khó để nói được thái độ đó là do khinh thường hay chỉ đơn giản là em không nghe thấy lời hắn nói. Và sự bình yên gia đình mong manh giữa ba người bọn ta bị cơn phẫn nộ của hắn phá tan. Hắn có thể không cần được yêu thương, nhưng không thể bị phớt lờ, có lần hắn đã xông đến trước mặt Claudia gào lên hắn sẽ đánh cô bé; và ta lại rơi vào cái thế khốn khổ là phải chống lại hắn như ta đã từng làm khi cô bé chưa xuất hiện. Cô bé không còn là trẻ con nữa, ta thì thầm với hắn. Tôi không biết chính xác cô bé đã biến thành gì. Có lẽ là một phụ nữ trưởng thành. Ta khẩn nài hắn đừng để bụng chuyện này, hắn giả bộ khinh khỉnh, rồi cũng dùng sự lạnh nhạt để đáp trả cô bé. Nhưng một đêm nọ, hắn tìm đến ta trong trạng thái hoang mang cực độ và kể rằng cô bé đã bám theo hắn, mặc dù đã từ chối không đi săn cùng hắn nữa, nhưng lại vẫn bám sát phía sau hắn. “Con bé bị làm sao vậy!” hắn nổi đóa với ta, như thể ta chính là người đã sinh ra Claudia và phải biết câu trả lời.
“Rồi một đêm nọ, người hầu của bọn ta biến mất. Đó là hai trong số những người hầu tốt nhất mà bọn ta có, một cặp mẹ con. Ta phái người đánh xe ngựa tới nhà họ nhưng rồi được báo là họ đã mất tích, và sau đó người chồng tìm đến nện thình thình lên cửa nhà ta. Anh ta đứng trên vỉa hè gạch nhìn ta với vẻ nghi hoặc, biểu cảm mà chẳng chóng thì chầy con người nào cũng có sau khi họ quen biết chúng ta một thời gian, điềm báo của chết chóc, giống như vẻ nhợt nhạt có thể là điềm báo của một cơn sốt nghiêm trọng vậy; và ta cố gắng giải thích cho anh ta hiểu rằng vợ con anh ta không hề đến đây, và bọn ta sẽ tổ chức ngay một cuộc tìm kiếm.
“Là con bé!” Lestat rít lên trong bóng tối ngay khi ta đóng cánh cửa lại. Nó đã làm gì đó với hai con hầu và đẩy tất cả chúng ta vào cảnh hiểm nguy. Tôi sẽ buộc nó phải khai ra! Và hắn giậm thình thình lên những bậc cầu thang xoắn ốc dẫn từ dưới sân lên. Ta biết cô bé đã trốn đi, lẻn ra bên ngoài trong lúc ta đang đứng trước cổng, và ta còn biết một điều khác: đó là mùi hôi thối thoang thoảng phát ra từ phía bên kia sân, sau cánh cửa căn bếp bỏ hoang, mùi hôi hòa lẫn một cách khiên cưỡng với hương cây kim ngân trong vườn - mùi đặc trưng của nghĩa địa. Ta nghe tiếng bước chân Lestat đi xuống trong khi ta tiến tới trước cánh cửa sổ đã bị biến dạng và gỉ sét trên bức tường gạch. Chưa từng có món ăn nào được chế biến trong căn bếp này, nên nó chỉ như một hầm gạch cũ nằm khuất dưới những dây hoa kim ngân chằng chịt. Các cánh cửa sổ đã trở nên lỏng lẻo, những cây đinh đã mòn gần hết, ta nghe thấy tiếng Lestat nấc lên khi hắn bước vào bóng đêm nồng nặc mùi hôi thối. Họ đang nằm trên sàn gạch, hai mẹ con cạnh nhau, cánh tay người mẹ đang giữ chặt lấy eo đứa con gái và đầu cô bé đang gục và ngực mẹ mình, cả hai đều bốc mùi hôi thối và dòi bọ bò lúc nhúc. Một đám mây muỗi ùa ra khi cánh cửa sổ rơi xuống và ta phải đưa tay xua chúng đi trong sự kinh tởm khủng khiếp. Kiến bu đầy trên mi mắt và miệng của hai cái xác và dưới ánh trăng, ta có thể thấy những vết nhớt bàng bạc dài như vô tận của lũ sên trên thân thể họ. “Quỷ tha ma bắt con bé đi!” Lestat gầm lên, và ta túm lấy tay hắn, dùng hết sức lực của mình để ghì hắn lại. “Anh định làm gì cô bé?” ta hỏi. “Anh có thể làm được gì? Cô bé không còn là một đứa trẻ biết vâng lời chúng ta nữa. Chúng ta phải dạy cô bé.”
“Nó biết!” Hắn giật tay ta ra và phủi sạch áo khoác của mình. “Nó biết! Từ nhiều năm trước nó đã biết phải làm gì. Việc gì sẽ mang lại nguy hiểm cho chúng ta và việc gì thì không. Tôi sẽ không để nó tự tung tự tác nữa. Tôi sẽ không dung thứ cho nó.”
“Vậy anh là ông chủ của hai chúng tôi? Anh không hề dạy cô bé như thế. Lẽ nào cô bé phải tự hiểu được điều đó thông qua thái độ khúm núm lặng lẽ của tôi? Tôi không nghĩ vậy. Bây giờ cô bé đã tự thấy bản thân ngang bằng với chúng ta và cho rằng chúng ta bình đẳng với nhau. Chúng ta phải dạy dỗ cô bé, dạy cô bé kính trọng quyền năng của chúng ta. Và tất cả chúng ta cũng nên tôn trọng quyền năng đó.”
Lestat vênh mặt bỏ đi, rõ ràng hắn đang suy nghĩ rất lung về những điều ta vừa nói nhưng chắc chắn sẽ không chịu thừa nhận. Và hắn trút cơn giận xuống thành phố. Tuy nhiên khi hắn trở về nhà, kiệt sức và no bứ, cô bé vẫn chưa quay về. Hắn ngồi lên tay vịn của chiếc ghế bành phủ nhung và duỗi dài chân trên ghế. “Anh đã chôn xác chúng chưa?” hắn hỏi ta.
“Phi tang rồi, ta nói. Ta không muốn thốt lên lời, dù với chính mình, rằng ta đã đốt xác họ trong cái bếp lò cũ. Nhưng chúng ta sẽ phải tìm cách đối phó với người chồng và người anh trai nữa, ta nói với hắn. Ta sợ cơn thịnh nộ của hắn. Ta muốn vạch ra một kế hoạch để giải quyết toàn bộ chuyện này sao cho nhanh gọn nhất. Nhưng hắn điềm nhiên thông báo với ta rằng người chồng và anh trai đã không còn trên đời nữa. Tử thần đã tìm đến ăn tối trong ngôi nhà nhỏ gần tường thành và còn nán lại để cầu kinh khi tất cả đã ăn xong. Rượu, hắn thì thầm, đưa ngón tay chạm vào môi. Bọn họ đã uống quá nhiều rượu. Và tôi không kiềm chế được mà dùng gậy gõ vài nhịp vui tai lên hàng rào gỗ nhà họ, hắn cười lớn. Nhưng tôi không thích cảm giác chóng mặt khi uống rượu. Anh thì sao? Và khi hắn nhìn ta, ta cũng phải bật cười vì nhận ra hắn đang ngà ngà say và rất thư giãn; trong lúc khuôn mặt hắn có vẻ ấm áp bình thản, ta cúi xuống nói. Tôi đã nghe thấy tiếng bước chân của Claudia trên cầu thang. Hãy nhẹ nhàng với cô bé. Chuyện đã qua rồi.”
“Đúng lúc đó cô bé bước vào phòng với chiếc mũ không thắt quai và đôi bốt dính đầy bùn. Ta căng thẳng quan sát thái độ của hai bên. Lestat mỉm cười mỉa mai, còn cô bé coi hắn như người vô hình. Cô bé đang ôm một bó hoa cúc trắng lớn đến mức khiến em dường như càng nhỏ bé hơn. Chiếc mũ trên đầu em tuột xuống vai và rồi rơi xuống sàn nhà. Trên mái tóc vàng của em vương đầy cánh hoa cúc. Mai là ngày Lễ Các Thánh, cô bé nói. Anh có biết không?”
“Có, ta trả lời cô bé. Đó là ngày mọi tín đồ Thiên Chúa giáo ở New Orleans đều sẽ tới nghĩa trang viếng mộ người thân. Họ sẽ quét vôi mới lên các bức tường nhà mồ, lau chùi sạch sẽ tấm bia mộ bằng đá cẩm thạch. Và cuối cùng, họ sẽ phủ kín hoa tươi lên các ngôi mộ. Trong nghĩa trang St. Louis, rất gần nhà bọn ta, nơi có nhiều gia tộc lớn của vùng Louisiana được chôn cất, nơi chính em trai ta cũng yên nghỉ, bên cạnh mộ còn được bố trí vài chiếc ghế sắt để các gia đình có thể ngồi nghỉ và đón tiếp người của nhà khác cũng tới tảo mộ. Đó là một lễ hội lớn ở New Orleans; trong mắt những vị khách du lịch không hiểu phong tục nơi đây, ngày lễ đó giống như ngày kỷ niệm cái chết, nhưng thực ra đó là ngày kỷ niệm sự hồi sinh. Em mua bó hoa này của một người bán hàng rong, Claudia nói. Giọng em rất nhẹ nhàng và bí hiểm. Đôi mắt em mờ đục, vô cảm.”
“Cho hai con hầu mày vứt trong nhà bếp phải không!” Lestat gầm lên. Cô bé quay sang nhìn hắn lần đầu kể từ khi bước vào phòng, nhưng em vẫn không nói gì. Em chỉ đứng đó ngó hắn trân trối như thể em chưa nhìn thấy hắn bao giờ. Và sau đó, em tiến lên vài bước và nhìn thẳng vào mặt hắn, vẫn như thể em đang muốn nghiên cứu hắn. Ta bước tới trước. Ta có thể cảm nhận được cơn giận dữ của hắn. Sự lạnh lùng của cô bé. Sau đó cô bé quay sang nhìn ta. Rồi hết nhìn hắn lại nhìn ta, em hỏi:
“Ai trong hai người đã làm? Ai trong hai người đã biến tôi thành ra thế này?”
“Chưa có điều gì cô bé nói và làm khiến ta kinh ngạc hơn. Thế nhưng việc tất yếu là sự im lặng kéo dài bao lâu nay của em sẽ bị phá vỡ bằng câu nói ấy. Dầu vậy, cô bé không thực sự quan tâm đến ta. Ánh mắt em dán chặt vào Lestat. Ông luôn nói chuyện như thể chúng ta đã là ma cà rồng từ thuở lọt lòng, cô bé nói, giọng nhẹ nhàng, thận trọng, âm thanh phát ra từ miệng một đứa trẻ nhưng lại mang vẻ nghiêm trang của một phụ nữ trưởng thành. Ông nói những kẻ ngoài phố là con người, còn chúng ta là ma cà rồng. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Louis có một cô em gái con người, tôi vẫn nhớ mặt cô ấy. Và có một bức chân dung của cô em gái trong rương của anh ấy. Tôi đã từng thấy anh ấy ngồi ngắm bức tranh! Anh ấy đã từng là con người giống như em gái mình; và tôi cũng vậy. Nếu không thì tại sao tôi lại có vóc dáng này, hình dạng này? Cô bé dang rộng cánh tay và để bó hoa cúc rơi xuống sàn nhà. Ta thì thầm gọi tên em. Ta muốn khiến em phân tâm. Nhưng vô hiệu. Thủy triều đã dâng lên rồi. Đôi mắt Lestat rực cháy với nỗi hiếu kỳ sâu sắc và niềm vui quái ác.”
“Chính ông đã biến chúng tôi thành như thế này, đúng không?” cô bé buộc tội hắn.
“Hắn nhướng mày lên vờ kinh ngạc. Như thế này ư?” hắn hỏi. “Thế mày muốn trở thành cái gì khác ư!” Hắn co đầu gối lên và nghiêng hẳn người về phía trước, mắt nheo lại. “Mày có biết mày đã làm ma cà rồng bao lâu rồi không? Mày có tưởng tượng được nếu không phải ma cà rồng thì bây giờ trông mày như thế nào không? Hay ta phải bắt một mụ già nhăn nheo đến trước mắt để mày biết kết cục của mày sẽ ra sao nếu không có ta?”
“Cô bé quay lưng lại với hắn, đứng lặng một lúc như thể em không biết phải làm gì, rồi em đi tới chiếc ghế bên cạnh lò sưởi và và leo lên đó, cuộn tròn lại như một đứa trẻ yếu ớt vô cùng. Em ôm chặt lấy đầu gối, chiếc áo khoác nhung của em đã bung nút, chiếc váy lụa dài bó lấy đầu gối em, và em cứ ngồi đó nhìn chằm chằm vào đống tro tàn trong lò. Nhưng không có chút yếu ớt nào trong ánh mắt cô bé. Đôi mắt em có một sức sống độc lập, tựa hồ cơ thể em đã bị kẻ khác nhập hồn.”
“Nếu còn là con người, có thể bây giờ mày đã xuống mồ rồi!” Lestat tuyên bố với cô bé, cáu kỉnh vì sự im lặng của em. Hắn thả chân xuống sàn nhà. Mày có nghe ta nói không hả? Tại sao bây giờ mày lại hỏi ta điều đó? Sao mày phải loạn lên như thế? Chẳng phải bao nhiêu năm qua mày đã biết mình là ma cà rồng rồi sao. Và hắn cứ thế tiếp tục xổ ra một tràng, nói đúng những điều mà hắn đã lặp đi lặp lại với ta cả ngàn lần: hãy chấp nhận bản năng của mình, đi săn, sống đúng với chính mình. Nhưng tất cả những điều đó đều lạc đề đến lạ lùng. Vì Claudia chưa bao giờ ngần ngại giết chóc. Cô bé ngồi ngay ngắn lại và từ từ quay đầu để đưa mắt nhìn hắn, kẻ đang ngồi đối diện mình. Em lại đang nghiên cứu hắn, như thể hắn là một con rối trên dây. “Ông đã biến tôi thành ma cà rồng phải không? Bằng cách nào?” em hỏi, mắt nheo lại. “Ông đã làm cách nào?”
“Tại sao ta lại phải nói cho mày biết? Đó là quyền năng của riêng ta.”
“Tại sao chỉ mình ông mới có?” cô bé tiếp tục hỏi, giọng lạnh lùng, ánh mắt hoàn toàn vô cảm. “Ông đã làm như thế nào?” em đột nhiên hét lên đầy giận dữ.
“Như một tia sét vừa giáng xuống. Hắn đứng bật dậy khỏi chiếc ghế bành và ta vội vàng lao tới, chắn ngay trước mặt hắn. Dừng lại ngay, hắn nói với ta. Hai bàn tay hắn siết chặt lại. Hãy làm gì đó để con bé câm miệng lại! Tôi không thể chịu được nó! Và hắn dợm bước ra cửa, nhưng được vài bước thì quay lại, tiến tới gần, sát gần đến nỗi bóng hắn bao phủ lấy Claudia. Cô bé trừng mắt nhìn Lestat không hề sợ hãi, ánh mắt em quét qua mặt hắn với vẻ thờ ơ tột độ. Ta có thể thu hồi lại những gì ta đã làm. Với cả mày lẫn hắn, hắn nói, ngón tay hắn chỉ vào ta đang đứng phía bên kia phòng. Hãy tỏ ra biết ơn vì ta đã biến mày thành thế này, hắn cười khinh bỉ. Nếu không ta sẽ xé mày thành ngàn mảnh!”
“Kể từ hôm ấy, sự bình yên trong ngôi nhà đã bị phá hủy hoàn toàn, dù tất cả đã trở nên tĩnh lặng. Ngày tháng trôi qua mà cô bé không hề thốt ra một lời nào, chỉ mải mê đắm chìm trong thế giới của những cuốn sách huyền bí về phù thủy, pháp thuật và ma cà rồng. Anh phải hiểu, hầu hết những cuốn sách đó đều là chuyện hoang đường. Nào là thần thoại, cổ tích và đôi khi chỉ là những truyện kinh dị tình cảm lãng mạn. Nhưng Claudia vẫn say sưa đọc tất cả. Đọc đến tận bình minh, đến nỗi ta thường phải tới bế em đi ngủ.”
“Trong thời gian đó, Lestat đã thuê một quản gia và một người hầu mới, đồng thời thuê một nhóm thợ đến làm một đài phun nước cỡ lớn trong sân có hình một nữ thủy thần bằng đá đang liên tục đổ nước xuống từ một vỏ sò rộng miệng. Hắn mua cá vàng và hoa súng thả vào trong đài phun nước, để những bông hoa nở xòe trên mặt nước và rung rinh trên dòng nước luân chuyển không ngừng.”
“Một phụ nữ đã nhìn thấy Lestat giết người trên đường Nyades, con đường dẫn tới thành phố Carrolton, và câu chuyện được đăng trên khắp các mặt báo, gắn Lestat với những ngôi nhà bị ma ám trên đường Nyades và Melpomene, khiến hắn hết sức thích thú. Trong một thời gian ngắn, hắn đã đóng vai bóng ma trên đường Nyades, nhưng rồi tin tức đó không còn hút khách nữa; thế là hắn lại thực hiện một vụ giết người rùng rợn khác tại nơi công cộng để làm náo động New Orleans. Nhưng tất cả những hành động đó mang một nỗi sợ âm thầm nào đó. Hắn trở nên trầm ngâm, ngờ vực, thường xuyên tìm ta để hỏi Claudia đang ở đâu, cô bé đã đi đâu, và đang làm gì.”
“Cô bé sẽ ổn thôi, ta bảo đảm với hắn, dù chính ta cũng đang bị cô bé làm ngơ và điều đó khiến ta đau đớn, như thể em là cô dâu của ta vậy. Bây giờ cô bé cũng dửng dưng với ta y như với Lestat, và đôi khi cô bé còn bỏ đi khi ta đang trò chuyện với em.”
“Tốt nhất là nó nên ngoan ngoãn trở lại!” hắn giận dữ nói.
“Anh sẽ làm gì nếu cô bé không như vậy?” ta hỏi, cảm thấy lo sợ nhiều hơn là muốn buộc tội hắn.
“Hắn nhìn ta bằng đôi mắt xám băng giá. Anh phải dạy dỗ lại nó, Louis. Anh cần nói chuyện phải trái với nó?” hắn bảo ta. “Mọi chuyện đã từng rất mỹ mãn, và giờ thì thành ra thế này đây. Không cần phải như thế này.”
“Nhưng ta đã quyết định để cô bé tự đến mở lòng với ta, và cô bé đã đến thật. Đó là một đêm trời vừa tối khi ta tỉnh dậy. Cả nhà còn tối om. Ta thấy cô bé đang đứng bên khung cửa sổ kiểu Pháp; em mặc một chiếc váy tay phồng kết hợp với một chiếc thắt lưng màu hồng và đang trầm mặc ngắm nhìn dòng người đi chơi đêm trên phố Royale. Ta có thể nghe thấy tiếng Lestat trong phòng hắn và tiếng nước đổ ra bình rửa mặt của hắn. Mùi nước hoa của hắn phảng phất trong không khí như tiếng nhạc vọng lên từ quán cà phê dưới phố. Hắn chẳng tiết lộ điều gì với em cả, cô bé khẽ lên tiếng. Ta cứ tưởng em vẫn chưa biết ta đã thức giấc. Ta tiến tới quỳ gối xuống bên cạnh cô bé. Anh sẽ nói cho em biết phải không? Việc đó đã xảy ra như thế nào?”
“Em thực sự muốn thế ư?” ta hỏi, cố tìm kiếm câu trả lời trên khuôn mặt cô bé. Hay là em muốn biết tại sao em lại được chọn... và trước khi biến thành ma cà rồng thì em như thế nào? Ta không hiểu câu “như thế nào” của em, vì nếu em muốn biết mình đã biến thành ma cà rồng bằng cách nào để có thể sử dụng quyền năng đó...”
“Em còn không biết điều anh đang nói em thực sự muốn biết ấy là gì, cô bé nói bằng giọng lạnh lùng. Rồi cô bé quay hẳn người lại và chạm tay lên mặt ta. Hãy đi săn với em đêm nay, em thầm thì vào tai ta như một người tình. Và nói với em mọi điều anh đã biết. Chúng ta là cái gì? Tại sao chúng ta lại khác với con người? Em cúi xuống nhìn đường phố ngoài cửa sổ.”
“Ta không biết câu trả lời cho câu hỏi của em, ta nói với cô bé. Khuôn mặt em bỗng dưng nhăn nhúm lại, như thể em đang cố căng tai nghe ta giữa một âm thanh chói tai. Rồi em lắc đầu. Nhưng ta vẫn tiếp tục nói. Ta cũng tự hỏi mình những điều em vừa hỏi, từ rất lâu rồi. Ta không biết. Về chuyện ta đã biến thành ma cà rồng bằng cách nào, ta chỉ nói được duy nhất một điều... chính Lestat đã làm việc đó. Nhưng hắn làm như thế nào thì ta hoàn toàn không biết? Nét mặt cô bé vẫn cực kỳ căng thẳng. Ta đã nhìn thấy trong đó những dấu hiệu đầu tiên của nỗi sợ, hoặc một điều gì khác thậm chí còn tồi tệ và sâu sắc hơn cả nỗi sợ. “Claudia,” ta gọi tên và nắm lấy tay cô bé, ép chặt bàn tay nhỏ bé đó vào lòng bàn tay mình. Lestat đã nói với em một điều rất khôn ngoan: đừng thắc mắc về vấn đề này nữa. Em đã luôn kề vai sát cánh cùng ta trong suốt bao nhiêu năm ta đau đáu với những câu hỏi về nhân sinh, về sự sống và cái chết. Nhưng em không cần phải tiếp tục đồng hành cùng ta trong nỗi trăn trở này. Hắn không thể cho chúng ta câu trả lời. Và ta cũng không có câu trả lời.”
“Ta có thể thấy cô bé sẽ không chấp nhận được điều đó, nhưng ta thực sự bị sốc khi cô bé giận dữ quay đi và trong một khoảnh khắc kích động đã đưa tay lên giật tóc, rồi dừng lại khi nhận ra mình đang làm một việc ngốc nghếch và vô nghĩa. Ta sợ hãi nhìn em. Cô bé ngước nhìn bầu trời. Đêm ấy trời mờ sương và vắng sao, những đám mây ùn ùn kéo tới từ phía bờ sông. Đôi môi em run lên dữ dội như thể em vừa cắn phải môi, rồi em quay sang ta, và vẫn bằng giọng thì thầm, em nói, “Thế có nghĩa là hắn đã biến em thành ma cà rồng... chính hắn đã làm... chứ không phải anh.” Trong biểu cảm của cô bé có cái gì đó rất đáng sợ, khiến ta phải chạy vội ra khỏi phòng. Ta đến trước lò sưởi, thắp một ngọn nến và đặt nó trước tấm gương dài. Đột nhiên ta giật nảy mình vì nhìn thấy cái gì đó ẩn hiện trong bóng đêm mờ ảo, mới đầu tưởng như một chiếc mặt nạ gớm ghiếc, nhưng rồi dần dần, vật thể đó hiện nguyên hình là một cái đầu lâu cũ kỹ. Ta nhìn nó chằm chằm. Cái đầu lâu vẫn còn phảng phất mùi đất dù đã được lau chùi sạch sẽ. “Tại sao anh không trả lời em?” cô bé hỏi. Ta nghe tiếng cửa phòng Lestat mở ra. Hắn sẽ đi giết người ngay lập tức, ít nhất là cũng đi tìm người để giết. Ta thì không.”
“Ta thường để những giờ đầu tiên của đêm trôi qua trong tĩnh lặng, chờ cho cơn đói trong ta bị dồn nén, cho đến khi khao khát giết chóc dâng lên đến mức không thể ghìm lại được nữa, để ta có thể lao mình vào cuộc săn một cách hoàn toàn bản năng và điên dại. Câu hỏi của cô bé một lần nữa lại vang lên rành mạch bên tai ta, như thể nó đã lơ lửng trong không khí như tiếng vọng của một hồi chuông... và tim ta đập thình thịch. Hắn đã biến em thành ma cà rồng, tất nhiên! Hắn đã tự mình thừa nhận. Nhưng anh vẫn giấu giếm em chuyện gì đó. Một chuyện hắn đã bóng gió nhắc tới khi em hỏi. Hắn nói nếu không có anh thì em cũng không thể biến thành ma cà rồng được!”
“Ta cứ nhìn chằm chằm cái đầu lâu, nhưng vẫn nghe rõ em nói như thể những lời ấy đang quất vào ta, quất vào ta để ta buộc phải quay lại đối mặt với trận đòn. Một ý nghĩ hiện ra, giống một cơn ớn lạnh hơn là một ý nghĩ rằng ngoại trừ một cái đầu lâu như thế này thì không còn thứ gì chứng minh cho sự tồn tại của ta nữa. Ta quay đầu lại và nhìn thấy đôi mắt cô bé trong ánh đèn đường, rực lên như hai ngọn lửa đen trên khuôn mặt trắng bệch. Đó là đôi mắt của một con búp bê đã bị ai đó tàn nhẫn móc ra và thay thế bằng lửa địa ngục. Ta chầm chậm tiến tới gần cô bé, thì thầm tên em, một vài ý nghĩ đã thành hình trên đôi môi ta rồi lại chết lặng, ta bước tới gần rồi lại lùi ra xa, lúng túng đi tìm áo khoác và mũ để đưa cho em. Ta trông thấy một chiếc găng tay nhỏ treo trên cửa đang phát sáng trong bóng tối và trong một thoáng, ta tưởng như đó là một bàn tay tí hon đã bị cắt lìa.”
“Anh làm sao vậy...? Cô bé tiến tới gần, ngước lên nhìn ta. Anh cứ luôn làm sao vậy? Tại sao anh cứ nhìn chằm chằm vào cái đầu lâu và đôi găng tay như vậy? Cô bé vẫn hỏi ta bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng... không thật sự nhẹ nhàng.”
“Có một sự dè chừng nhất định trong giọng em một sự xa cách không thể với tới được.”
“Ta cần em, ta buộc phải nói dù không muốn. Ta không thể mất em. Em là bạn đồng hành duy nhất của ta trong cuộc sống bất tử này.”
“Nhưng chắc chắn phải còn những ma cà rồng khác! Chắc chắn trên trái đất này không phải chỉ có chúng ta là ma cà rồng. Ta nghe em nói những lời như ta từng nói, nghe những lời của chính ta giờ đang quay trở lại với ta theo con sóng triều tự nhận thức và tìm tòi của cô bé. Nhưng đột nhiên ta nhận ra giọng điệu của em không hề hàm chứa nỗi đau. Chỉ có sự khẩn nài, khẩn nài một cách lạnh lùng. Ta cúi xuống nhìn em. Chẳng phải anh cũng y như em sao? Em nhìn thẳng vào mắt ta. Anh đã dạy em tất cả những gì em biết!”
“Lestat đã dạy em giết chóc. Ta với chiếc găng tay. Nào, đi thôi ra ngoài nào. Ta muốn ra khỏi đây... Ta lắp bắp, cố gắng đeo găng tay cho em. Ta nâng mái tóc xoăn của em lên và nhẹ nhàng thả nó bên trên chiếc áo khoác. “Nhưng anh đã dạy em cách nhìn!” cô bé nói. “Anh đã dạy em những từ đôi mắt ma cà rồng,” em nói. Anh đã dạy em uống trọn thế giới này, dạy em khao khát nhiều hơn là...”
“Khi dạy em về đôi mắt ma cà rồng, ta không hề có ý đó, ta nói với cô bé. “Khi em thốt ra mấy từ đó, chúng có một ý nghĩa khác,” Em đang kéo áo ta, ép ta nhìn thẳng vào em. Đi thôi, ta nói với cô bé, ta có một thứ muốn cho em thấy... Rồi vội vàng, ta dắt em ra hành lang, bước lên chiếc cầu thang xoắn ốc thông xuống mảnh sân tăm tối. Nhưng ta cũng chẳng biết mình nên cho em thấy gì, cũng như chẳng biết mình phải đi đâu. Chỉ biết là ta phải tiến về phía đó theo một bản năng mạnh mẽ, không thể cưỡng lại.”
“Bọn ta vội vã bước ra phố khi màn đêm đang dần buông xuống, nền trời đã chuyển sang màu tím nhạt, những áng mây biến mất, triệu vì tinh tú tỏa ra ánh sáng yếu ớt, không khí bao quanh vẫn còn ngột ngạt và đậm đặc hương cây cỏ dù bọn ta đã đi xa khỏi vườn nhà, tiến về những con phố tồi tàn chật hẹp, nơi hoa dại nhú lên giữa những kẽ đá, vô số những bông trúc đào trắng và hồng đua nhau nở rộ trên tán cây khổng lồ, chẳng khác nào thứ cỏ dại quái dị đang chen nhau mọc trên ô đất hoang. Ta nghe thấy nhịp chân đứt quãng của Claudia khi em vội vã sóng bước cùng ta, không một lần yêu cầu ta bước chậm lại; và cuối cùng, cô bé đứng lại, nhìn ta với vẻ vô cùng nhẫn nại, trên một con đường hẹp với một vài ngôi nhà cổ dốc mái kiểu Pháp còn sót lại giữa những ngôi nhà kiểu Tây Ban Nha, những ngôi nhà nhỏ cũ nát, tường gạch đổ nát và lớp vôi bong tróc. Giờ ta đã tìm thấy ngôi nhà bằng một nỗ lực mù quáng, ý thức rõ rằng mình luôn biết nó ở đâu, ta luôn tìm cách tránh đi qua nó, luôn rẽ đi trước khi bước đến góc phố tối tăm này, không muốn đi qua khung cửa sổ thấp ta lần đầu tiên nghe Claudia khóc. Ngôi nhà vẫn đứng vững. Tuy hơi trũng xuống so với trước, với vô số dây phơi quần áo trĩu xuống chăng chằng chịt trên lối vào, cỏ dại mọc đầy trên nền gạch thấp, hai cửa sổ áp mái đã bị vỡ và được đậy điệm tạm bợ bằng vải. Ta chạm tay vào cánh cửa sổ. Đây là nơi ta gặp em lần đầu tiên, ta nói với em, chỉ muốn giải thích cho cô bé hiểu, nhưng vẫn không khỏi rùng mình vì cái nhìn chòng chọc lạnh lùng và xa cách của em. Ta đã nghe thấy tiếng em khóc. Em đang ngồi trong phòng cùng mẹ. Và mẹ em đã chết. Bà đã chết từ vài ngày trước nhưng em không hề biết. Em vẫn cố bám lấy mẹ, rên rỉ khóc than thảm thiết, cả người nhợt nhạt, bị sốt cao và đói khát. Em cứ cố đánh thức mẹ mình từ cõi chết, em ôm lấy xác bà để tìm kiếm hơi ấm, vì em đang hoảng sợ. Lúc đó trời đã sắp sáng và... Ta đưa tay lên thái dương. Ta đã mở cánh cửa sổ này ra... bước vào trong phòng. Ta cảm thấy xót thương cho em. Xót thương. Nhưng... còn một cảm xúc khác nữa.”
“Ta thấy môi cô bé trễ xuống, mắt em trợn tròn. “Anh... anh đã hút máu tôi?” cô bé thì thào. Tôi là nạn nhân cửa anh!”
“Đúng!” ta đáp. “Ta đã làm thế.”
“Khoảng lặng sau đó dường như kéo dài vĩnh viễn và đau đớn đến mức ta không thể chịu đựng được. Cô bé đứng im như tượng trong bóng đêm, đôi mắt to thu lấy những tia sáng, một làn hơi nóng bỗng lùa tới khuấy động bầu không khí. Và cô bé quay người. Ta nghe tiếng đế giày em gõ trên mặt đất theo từng bước chạy. Em cứ chạy, chạy mãi. Ta đứng như bị đóng băng, nghe tiếng giày em vang lên mỗi lúc một nhỏ dần; và rồi ta quay lại, nỗi sợ trong ta dâng tràn, phình to lên đến mức không thể kìm lại được nữa, và ta chạy theo cô bé. Ta không thể tưởng tượng nổi là mình sẽ không đuổi kịp cô bé, không thể ôm chặt lấy em và nói với em rằng ta yêu em, cần có em và nhất định phải giữ được em, và mỗi giây ta lao theo cô bé trên đường đêm là mỗi giây ta thấy em trượt xa thêm khỏi vòng tay mình; tim ta đập dữ dội, đói khát, đập thình thịch chống chọi lại sự căng thẳng tột cùng. Rồi ta khựng lại. Cô bé đang đứng dưới một cột đèn, nhìn ta chằm chằm trong yên lặng, như thể em không quen biết ta. Ta vội ôm lấy em bằng cả hai tay và nâng em lên dưới ánh đèn. Em vẫn nhìn ta không chớp mắt, khuôn mặt em nhăn nhúm lại, đầu quay đi như không chịu được việc phải nhìn thẳng vào mặt ta, như thể em đang phải cố kìm nén một nỗi ghê tởm rất khủng khiếp. Anh đã giết tôi, cô bé thì thào. Anh đã cướp đi sinh mạng của tôi!”
“Đúng, ta nói và ôm chặt lấy cô bé, để cảm nhận được nhịp đập trái tim em. Đúng hơn, ta đã cố cướp mạng em. Cố hút kiệt máu của em. Nhưng em có một trái tim khác hẳn mọi nạn nhân khác của ta, một trái tim vẫn kiên cường đập không ngừng nghỉ cho đến lúc ta buộc phải buông em ra, nếu không, em sẽ làm nhịp tim ta đập nhanh theo cho đến chết. Và chính Lestat đã bắt quả tang ta; hắn đã chứng kiến cảnh quý ngài Louis đa cảm, kẻ khờ Louis này đang hút máu một cô bé tóc vàng, một cô bé vô cùng trong sáng và thánh thiện. Người ta đã mang em vào bệnh viện và hắn đã mang em ra khỏi đó, và ta cứ tưởng hắn làm thế chỉ vì muốn dạy ta về bản chất ma cà rồng. Hắn đã bảo ta rằng, “Hút máu con bé và giết nó đi.” Và một lần nữa, ta lại thấy khao khát em. Ôi, ta biết giờ ta đã mất em mãi mãi. Ta có thể nhìn thấy điều đó trong ánh mắt em! Em đang nhìn xuống ta như em vẫn nhìn những con người trần tục, từ trên cao, từ một tầm cao của lòng kiêu hãnh lạnh lùng mà ta không thể với tới. Nhưng ta không thể phủ nhận điều ta đã làm. Ta đã khao khát hút máu em một lần nữa, lại cảm thấy nỗi thèm muốn đê hèn không thể cưỡng lại nổi đối với trái tim kiên cường này, bầu má này, làn da này. Em hãy còn hồng hào và thơm tho như mọi đứa trẻ loài người khác. Ta đã ôm lấy em và hút máu em một lần nữa. Và khi trái tim mạnh mẽ của em suýt nữa đã giết chết ta mà ta vẫn không quan tâm, hắn đã kéo ta rời khỏi em, rồi tự cắt cổ tay và cho em uống máu của hắn. Và em đã uống dòng máu đó. Uống điên cuồng cho đến khi em gần hút kiệt máu hắn và làm hắn xây xẩm mặt mày. Và sau đó em đã biến thành ma cà rồng. Từ đêm ấy cho đến bây giờ, em sống bằng cách hút máu người.”
“Vẻ mặt cô bé không hề thay đổi. Da thịt em như sáp nến, chỉ có đôi mắt là còn dấu hiệu của sự sống. Ta chẳng còn gì để nói với cô bé nữa. Ta thả em xuống. Ta đã giết em, ta nói. Còn hắn đã hồi sinh em.”
“Ra là vậy, em hổn hển nói. Tôi căm ghét cả hai người!”
Ma cà rồng ngừng lời.
“Nhưng tại sao anh lại kể hết với cô bé?” chàng trai hỏi sau một khoảng im lặng cho phải phép.
“Làm sao ta có thể giấu cô bé được? Ma cà rồng ngước nhìn vẻ thoáng ngạc nhiên. Cô bé phải được biết chuyện đó. Em phải cân nhắc so sánh giữa hai chuyện. Ta đã biến thành ma cà rồng hoàn toàn và do một mình Lestat, nhưng cô bé thì không; ta đã hút máu em. Nếu không em có thể đã chết rồi! Em không thể sống tiếp làm người nữa. Nhưng điều khác biệt là gì? Đối với con người chết chẳng qua chỉ là vấn đề thời gian. Và điều mà cô bé đã nhận thấy một cách hết sức rõ rệt vào lúc đó là điều mà ai cũng biết: chết là điều không thể tránh khỏi, trừ phi ta lựa chọn... sự sống này! Hắn mở rộng hai bàn tay trắng bệch của mình ra và nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay.”
“Vậy anh có mất cô bé không? Cô bé có bỏ đi không?”
“Bỏ đi ư! Cô bé có thể đi đâu? Cô bé chỉ là một đứa trẻ và vĩnh viễn vẫn là một đứa trẻ. Ai sẽ che chở cho em? Phải chăng em sẽ sống như một ma cà rồng trong truyện cổ, đi tìm một hầm mộ rồi nằm trong đó với sâu bọ và kiến vào ban ngày, đến đêm lại thức dậy để đóng vai bóng ma nghĩa địa? Nhưng đó không phải là lý do khiến cô bé không bỏ đi. Có một điều trong em rất giống với ta. Và điều đó cũng giống với Lestat. Bọn ta không thể chịu nổi cảnh sống một mình? Bọn ta cần cộng đồng bé nhỏ của mình! Một bầy người bao quanh chúng ta, dò dẫm, mù quáng, bất an, cùng những cô dâu chú rể của Tử thần.”
“Chúng ta đã bị ràng buộc với nhau trong hận thù, sau đó cô bé điềm tĩnh nói với ta. Ta tìm thấy cô bé đang ngồi bên lò sưởi trống trơn, ngắt những bông hoa nhỏ từ một cành oải hương. Thấy em, ta nhẹ nhõm đến mức sẵn sàng nói và làm bất cứ điều gì. Và khi cô bé hạ giọng hỏi ta có sẵn lòng cho em biết tất cả hay không, ta đã gật đầu một cách nhiệt thành. Bởi vì chẳng còn gì khủng khiếp hơn bí mật xưa cũ kia nữa. Ta kể cho em nghe về mình y như ta đã kể với anh, về việc Lestat đã đến với ta ra sao và chuyện gì đã xảy ra trong cái đêm hắn mang cô bé về từ bệnh viện. Cô bé không nói một lời mà chỉ thảng hoặc rời mắt khỏi bó hoa để ngước lên nhìn ta. Và khi câu chuyện kết thúc ta vẫn ngồi nguyên tại chỗ, nhìn chằm chằm cái đầu lâu ghê tởm kia, đang lắng tai nghe tiếng những cánh hoa rơi xuống váy cô bé và cảm nhận cơn đau âm ỉ đang lan tỏa khắp cơ thể, tâm trí mình, thì cô bé chợt nói, “Em không coi thường anh!” Ta bừng tỉnh. Cô bé trượt khỏi tấm nệm cao, tròn bọc vải hoa và tiến đến trước mặt ta, người thơm ngát hương hoa, những cánh hoa nắm chặt trong tay. “Đây có phải mùi hương của một đứa trẻ loài người không?” em thì thầm. “Louis. Tình yêu của em.” Ta đã ôm lấy cô bé, dụi đầu vào khuôn ngực bé nhỏ, bóp chặt đôi bờ vai mỏng manh của em, trong khi em lùa bàn tay nhỏ vào tóc ta, vuốt ve ta, ôm lấy ta. Trước khi gặp anh, em là con người, cô bé nói, và khi ngước lên nhìn em, ta thấy em đang mỉm cười, nhưng vẻ dịu dàng trên môi em nhanh chóng biến mất và em đưa mắt nhìn xa xăm như đang lắng tai nghe một giai điệu mơ hồ nhưng vô cùng cao quý. “Anh đã trao tặng em nụ hôn bất tử,” em nói, không phải với ta, mà với chính mình. Anh đã yêu em với bản chất của một ma cà rồng.”
“Những bây giờ ta yêu em với bản chất của một con người, nếu như ta đã từng có nó, ta nói với cô bé.”
“À phải rồi...” cô bé đáp, vẫn đầy vẻ trầm tư. Đúng, đó là nhược điểm của anh, là nguyên nhân của nỗi đau khổ trên mặt anh khi em nói “em ghét anh” như con người vẫn nói, và là lời giải thích cho cách anh đang nhìn em. Bản chất con người. Em không có bản chất con người. Câu chuyện về xác chết của người mẹ và những điều kinh dị đã xảy ra với đứa trẻ trong phòng khách sạn đều chẳng thể cho em nhân tính. Em không có nhân tính. Mắt anh đã lạnh đi vì sợ khi nghe điều em vừa nói. Nhưng em có khả năng ăn nói của anh. Khao khát đi tìm sự thật của anh. Và cả mong muốn chĩa mũi nhọn tư duy vào cốt lõi của mọi sự, giống như mỏ một con chim ruồi đang bay nhanh đến mức con người tưởng nó không có chân và sẽ không bao giờ dừng lại, bay hết từ bông hoa này sang bông hoa khác, luôn nhắm vào cốt lõi của chúng. Phần bản chất ma cà rồng của anh trong em còn nhiều hơn trong chính bản thân anh. Và giờ đây, giấc ngủ dài sáu mươi lăm năm đã kết thúc.”
“Giấc ngủ dài sáu mươi lăm năm đã kết thúc! Ta nghe cô bé thốt ra câu này mà không dám tin, không muốn tin rằng em hiểu chính xác mình đang nói gì và hoàn toàn nghiêm túc khi nói ra điều đó. Bởi vì cũng đúng vào thời điểm này sáu mươi lăm năm về trước, ta đã định rời bỏ Lestat nhưng đành thất bại, và rồi vì tình yêu với em, đã quên biến tâm trí quay cuồng của ta, quên hết mọi thắc mắc ta từng có. Giờ đây, em lại thốt lên đúng những câu hỏi đó và nhất định phải tìm được câu trả lời. Em bước chậm rãi tới giữa phòng và rải cánh hoa oải hương xung quanh mình. Em bẻ một nhánh hoa và chạm nó lên môi. Rồi sau khi đã xâu chuỗi toàn bộ câu chuyện, em nói. Hắn đã biến em thành ma cà rồng để... bầu bạn với anh. Không sợi xích nào có thể trói buộc được anh trong lúc anh cô đơn và hắn không thể đem lại cho anh bất cứ thứ gì. Hắn cũng không mang lại bất cứ gì cho em cả... Em từng thấy hắn dễ thương. Em từng thích cách hắn bước đi, cái lối hắn gõ gậy chống lên những phiến đá lát đường và nâng bổng em trên tay. Và cả sự vô tình khi giết chóc của hắn nữa, giống như cảm giác của em. Nhưng giờ đây, hắn không còn như thế trong mắt em. Và anh thì chưa bao giờ cảm thấy thế cả. Chúng ta rốt cuộc chỉ là những con rối trong tay hắn, cả anh lẫn em; anh phải đóng vai bạn đồng hành của hắn, còn em thì là bạn đồng hành của anh. Giờ đã đến lúc chấm dứt chuyện đó rồi Louis ạ. Đã đến lúc rời bỏ hắn.”
“Đã đến lúc rời bỏ hắn.”
“Từ rất lâu rồi, ta không còn nghĩ, còn mong mỏi điều đó nữa; ta đã quen với Lestat, như thể hắn là một phần hiển nhiên trong cuộc sống. Lúc bấy giờ, ta nghe thấy những âm thanh lạch cạch vang lên từ xa, có nghĩa là hắn đã về đến đường dành cho xe ngựa và sẽ sớm tiến lên cầu thang sau nhà. Và ta nghĩ về cảm giác của mình mỗi lần nghe tiếng hắn trở về, một nỗi bất an mơ hồ, một nhu cầu mơ hồ. Rồi ý tưởng được giải phóng hoàn toàn khỏi hắn vỗ vào ta như một làn sóng mà ta đã lãng quên từ lâu, từng đợt sóng mát lạnh dồn tới. Ta đứng bật dậy, thì thầm với cô bé rằng hắn sắp xuất hiện.”
“Em biết, cô bé mỉm cười. Khi hắn rẽ vào cuối phố em đã nghe thấy rồi.”
“Nhưng hắn sẽ không bao giờ để chúng ta đi, ta thì thầm dù đã hiểu được ngụ ý trong lời nói của cô bé; giác quan ma cà rồng của em rất nhạy bén. Em vươn người thủ thế. Nếu em nghĩ hắn sẽ cho chúng ta đi thì chứng tỏ em không hiểu gì về hắn cả, ta nói, sợ hãi trước vẻ tự tin của em. Hắn sẽ không để chúng ta đi đâu.”
“Và cô bé, vẫn mỉm cười, nói: Ồ... vậy sao?”
“Sau đó, bọn ta thống nhất sẽ cùng nhau lên kế hoạch. Ngay lập tức. Đêm hôm sau, người đại diện kinh doanh của ta đến với những câu than thở quen thuộc về nỗi khổ khi phải làm việc với độc một ngọn nến tù mù, và rồi ta lệnh cho ông ta chuẩn bị cho một chuyến vượt biển. Ta và Claudia sẽ lên đường sang châu Âu trên chuyến tàu thủy sớm nhất, không cần biết nó sẽ cập bến ở cảng nào. Và việc quan trọng nhất là một chiếc rương rất quan trong phải được chuyển cùng với chúng ta, chiếc rương cần được cẩn thận đem đi từ nhà chúng ta rồi đưa lên tàu, đặt trong ca bin của bọn ta chứ không phải dưới hầm chứa hàng hóa. Tiếp đó là kế hoạch dành cho Lestat. Ta quyết định sẽ để lại cho hắn tiền thuê từ mấy cửa hàng, mấy căn nhà và một công ty xây dựng nhỏ tại Faubourg Marigny. Ta đã ký hết các giấy tờ liên quan. Ta muốn mua lấy tự do: muốn thuyết phục Lestat rằng ta và Claudia chỉ muốn đi cùng nhau một chuyến và sự vắng mặt của bọn ta sẽ không tác động gì tới lối sống xa hoa mà hắn đã quen; hắn sẽ có tiền riêng và sẽ không cần tới ta nữa. Bởi vì suốt bao nhiêu năm qua, hắn vẫn phụ thuộc vào ta. Tất nhiên, hắn cũng đòi từ ta một số vốn riêng như thể ta là ngân hàng của hắn vậy, và khi nhận tiền, hắn sẽ cảm ơn ta bằng giọng cực kỳ chua cay và kẻ cả; nhưng chính hắn cũng ghét lối sống phụ thuộc của mình. Ta hy vọng có thể đánh lạc hướng sự nghi ngờ của hắn bằng cách tấn công vào lòng tham của hắn. Và vì tin chắc rằng hắn sẽ đọc được bất kỳ cảm xúc nào trên mặt ta, ta thấy vô cùng sợ hãi. Ta không thực lòng tin rằng chúng ta có thể thoát khỏi hắn. Anh hiểu ý ta không? Ta hành động như thể ta tin, nhưng sâu trong long ta không hề tin.”
“Trong lúc đó, Claudia tỏ ra vô cùng bình thản trước thảm họa sắp nổ ra, cô bé khiến ta choáng váng khi vẫn có thể thư thái đọc sách về ma cà rồng và liên tục đặt các câu hỏi với Lestat. Em dửng dưng với những lời quát tháo cay độc của hắn, đôi khi em hỏi những câu lặp đi lặp lại theo những cách khác nhau và cẩn thận phân tích xem hắn có vô tình để lộ ra điều gì không. “Ai đã biến ông thành ma cà rồng vậy?” em hỏi trong khi vẫn không rời mắt khỏi cuốn sách và cụp mi xuống đón chịu cơn thịnh nộ của hắn. Tại sao không bao giờ ông nhắc tới người đó, em vẫn tiếp tục hỏi, như thể cơn giận của hắn chỉ là làn gió thoảng. Cô bé dường như miễn dịch với thái độ hung dữ của hắn.”
“Mày quá tham lam, cả hai đứa mày!” đêm sau đó hắn hét lên như vậy trong khi đi tới đi lui trong khoảng tối giữa phòng, ánh mắt đầy thù hận chĩa về phía Claudia, đang ngồi im lìm trong góc phòng của mình, dưới ánh sáng của ngọn nến, bên cạnh một đống sách.”
“Sự bất tử không thỏa mãn mày! Không hề, mày đang được voi đòi tiên! Ta có thể ban sự bất tử cho một thằng ất nào đó ngoài đường, bảo đảm hắn sẽ nhảy cẫng lên vì sung sướng...”
“Thế lúc trước ông có nhảy cẫng lên vì sung sướng không?” cô bé nhẹ nhàng hỏi, đôi môi em gần như không hề mấp máy.
“... nhưng mày, mày lại còn đòi biết nguyên do của sự bất tử. Phải chăng mày muốn kết thúc nó? Ta có thể cho mày cái chết nhanh hơn là cho mày sự sống đấy!” Hắn quay sang nhìn ta, ngọn nến yếu ớt của em chiếu vào hắn và đổ bóng hắn đến tận chỗ ta. Ánh nến tạo nên một vầng hào quang trên mái tóc vàng của hắn và để lại một khoảng tối trên mặt hắn, chỉ có hai gò má hắn là vẫn sáng. “Mày muốn chết không.”
“Hiểu biết không phải là chết,” cô bé thì thầm.
“Trả lời ta mau! Mày có muốn chết hay không!”
“Vậy ra ông là người đã tạo nên tất cả những thứ này. Sự sung và cái chết đều từ ông mà có,” cô bé thì thầm, chế nhạo hắn.”
“Đúng, hắn nói. Chính là ta đấy.”
“Ông chẳng biết gì suất, cô bé nghiêm trang nói với hắn, giọng nhỏ nhẹ đến nỗi tiếng ồn ngoài đường phố vọng vào làm đứt đoạn và cuốn trôi câu nói của em, khiến ta phải căng tai lên để nghe cho rõ từng từ trong khi đang nằm tựa đầu vào ghế. Giả như ma cà rồng tạo ra ông không biết gì cả, và ma cà rồng đã tạo ra ma cà rồng đó cũng không biết gì cả, và ma cà rồng trước đó nữa cũng không biết gì cả, và cứ như thế mọi thứ sẽ rơi vào một vòng tròn bất tận, trước đó không có gì mà sau đó cũng không có gì, cho đến khi không còn gì hết! Và chúng ta sẽ phải sống với nhận thức là chẳng có nhận thức nào hết.”
“Đúng!” hắn đột ngột gào lớn, hai tay hắn vung lên, giọng hắn nhuốm một cảm xúc nào đó khác, không chỉ có tức giận.”
“Và rồi hắn im lặng. Cô bé cũng im lặng. Hắn chầm chậm quay đầu lại, như thể ta vừa có động thái gì đó khiến hắn phải cảnh giác, như thể ta đang đứng lên phía sau hắn. Cử chỉ đó khiến ta nhớ đến vẻ bồn chồn của con người khi họ cảm nhận được hơi thở của ta phà vào cổ và đột nhiên nhận ra đó là khoảnh khắc mà họ tưởng họ chỉ có một mình... là khoảnh khắc hoang mang khủng khiếp trước khi họ thấy rõ được khuôn mặt ta và buột ra một tiếng kêu. Hắn đang trân trối nhìn ta, và ta hầu như không thấy được đôi môi hắn mấp máy. Rồi ta cảm nhận được. Hắn đang sợ. Lestat đang sợ.”
“Và cô bé cũng đang nhìn hắn chằm chằm, không biểu lộ bất cứ một cảm xúc hay suy nghĩ nào.”
“Anh đã tiêm suy nghĩ này vào đầu con bé...” hắn thì thào.
“Hắn quẹt một que diêm thắp sáng những ngọn nến trên lò sưởi, rồi nhấc những cái thông phong ám khói đen của mấy ngọn đèn và đi quanh phòng thắp sáng từng cây đèn, cho đến khi ngọn lửa nhỏ của Claudia cháy đều đặn hơn, rồi hắn quay lưng lại phía bệ lò sưởi lát đá cẩm thạch và nhìn từng ngọn đèn trong phòng như thể ánh sáng từ chúng giúp lòng hắn dịu lại. Ta phải ra ngoài, hắn nói.”
“Ngay khi hắn xuống tới đường, cô bé liền rời khỏi ghế rồi đột ngột đứng khựng lại giữa phòng và vươn vai, gồng mạnh tấm lưng nhỏ bé, tay vung lên thành hai nắm đấm, đôi mắt nhắm nghiền trong khoảnh khắc rồi mở to ra như thể vừa tỉnh dậy sau một cơn mơ. Trong hành động của em có gì đó rất thô tục; căn phòng dường như sáng lờ mờ nỗi sợ của Lestat, vang vọng câu nói cuối cùng của hắn. Nó đòi cô bé chú ý. Có lẽ ta đã quay đi khỏi em một cách vô thức, vì cô bé đã tiến tới chỗ ta ngồi và ấn mạnh bàn tay xuống cuốn sách ta đang cầm, cuốn sách mà suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua, ta thực ra không đọc được chữ nào. Ra ngoài với em.”
“Em nói đúng. Hắn chẳng biết gì suất. Hắn không có gì để dạy chúng ta cả,” ta nói với cô bé.
“Anh tưởng hắn có thể dạy được anh thật sao?” cô bé hỏi ta vẫn bằng giọng nhỏ nhẹ như vậy. Chúng ta sẽ tìm thấy những ma cà rồng khác, em nói. Chúng ta sẽ tìm thấy họ ở trung tâm châu Âu. Tất cả các câu chuyện, cả trong tiểu thuyết lẫn sự thật, đều cho thấy có một số lượng lớn ma cà rồng đang sống ở đó. Nếu ma cà rồng thực sự có một quê hương, em tin chính là nơi đó. Chúng ta đã mắc kẹt với hắn quá lâu rồi. Đi thôi. Hãy để xác thịt dẫn lối cho tâm trí chúng ta.”
“Ta nghĩ ta đã cảm nhận được một thoáng rùng mình thích thú khi Claudia nói những từ ấy, “Hãy để xác thịt dẫn lối cho tâm trí.” Bỏ sách sang một bên và đi săn thôi, em thì thầm với ta. Ta đi theo cô bé xuống cầu thang, băng qua khoảng sân và một con ngõ hẹp để tiến ra đường lớn. Rồi cô bé quay lại với đôi tay dang rộng, đòi ta bế em lên dù kỳ thực em không hề mệt mỏi; em chỉ muốn áp sát tai ta và ôm chặt lấy cổ ta. Ta vẫn chưa nói với hắn về kế hoạch ra đi của chúng ta và việc tiền nong, ta nói với cô bé, ý thức được có gì đó trong em mà ta không nắm bắt được trong khi em bám theo từng nhịp chân đều đặn của ta và nhẹ như không khí trong vòng tay ta.”
“Hắn đã giết tên ma cà rồng kia,” em nói.
“Không đâu, sao em lại nói vậy?” ta hỏi cô bé. Nhưng câu nói đó không phải là thứ khiến ta bối rối và bị khuấy động như một mặt hồ đang chỉ muốn được tĩnh lặng. Ta có cảm giác cô bé đang điều khiển ta hướng về một thứ gì đó, như thể em chính là người lèo lái bước đi chậm rãi của chúng ta lướt trên con đường đêm. Bởi vì em biết hắn đã làm, cô bé nói bằng giọng uy nghiêm. Tên ma cà rồng kia đã biến hắn thành nô lệ, và hắn không chịu làm nô lệ, y như em cũng không chịu làm nô lệ, thế nên hắn đã giết kẻ đó. Giết kẻ đó trước khi hắn đủ hiểu biết, và trong lúc hoảng hốt hắn đã vội biến anh thành nô lệ. Và anh đã làm nô lệ cho hắn từ bấy đến nay.”
“Không hẳn...” ta thì thầm với cô bé. Ta cảm nhận được bầu má em đang tì vào thái đương mình. Em rất lạnh và cần phải uống máu ngay. Không hẳn là một nô lệ. Có lẽ là một kẻ đồng lõa vô tri thì đúng hơn, ta thừa nhận với cô bé, thừa nhận với chính mình. Ta có thể cảm thấy cơn khát máu trào lên khiến dạ dày ta thắt lại vì đói, hai bên thái dương giật mạnh như thể toàn bộ mạch máu đang co lại và thân thể ta sẽ biến thành một tấm bản đồ chằng chịt những vết rạn.
“Không, là nô lệ, cô bé khẳng định với giọng trang nghiêm đều đều, như thể suy nghĩ trong em đang tự phát ra tiếng và những lời em nói chính là mặc khải, là miếng ghép của một bức tranh lớn. Và em sẽ giải thoát cả hai ta.”
“Ta dừng lại. Nhưng bàn tay em ép xuống vai ta, thúc giục ta đi tiếp. Bọn ta bước xuống một con ngõ rộng rãi bên cạnh nhà thờ lớn hướng về phía những ngọn đèn của quảng trường Jackson, dòng nước chảy xiết trong rãnh nước dài giữa lòng đường, ánh lên màu bàng bạc dưới ánh trăng. Cô bé nói: Em sẽ giết hắn.”
“Ta đứng lặng cuối con ngõ. Ta cảm thấy cô bé cựa mình trong vòng tay ta rồi tụt xuống tựa hồ em có thể đạt được tự do mà không cần sự trợ giúp từ đôi tay vụng về của ta. Ta đặt em lên vỉa hè lát đá. Ta bảo em không được, ta lắc đầu. Ta lại đang có cảm giác mà ta đã từng mô tả trước kia, đó là toàn bộ những tòa nhà xung quanh ta - tòa thị chính Cabildo, nhà thờ, các căn hộ dọc theo quảng trường - tất cả đều chỉ là ảo ảnh, là một dải lụa mỏng sẽ bị giật tung đi trong một trận cuồng phong, và thực thể duy nhất còn lại là một vực thẳm lộ ra trên mặt đất này. Claudia, ta thở hổn hển, quay mặt đi khỏi em.”
“Tại sao lại không giết quách hắn đi!” em nói, giọng ngân cao lên lanh lảnh và cuối cùng trở thành tiếng hét chói tai. Em không cần hắn! Em chẳng học được gì từ hắn cả! Và hắn còn khiến em đau khổ, em không thể tha thứ cho hắn!”
“Cứ như thể hắn cần chúng ta không bằng!” ta nói với em. Nhưng sự giận dữ đó chỉ là giả tạo. Vô vọng. Cô bé đã chạy ra xa khỏi ta, đôi vai nhỏ của em vươn thẳng đầy quyết tâm, đôi chân em đang rảo bước, như một cô bé đang đi chơi cùng bố mẹ vào ngày Chủ nhật, luôn muốn chạy lên trước và giả vờ như chỉ đi một mình. “Claudia!” ta gọi với theo và chỉ bằng một bước chân đã bắt kịp cô bé. Ta vươn tay ôm lấy vòng eo bé nhỏ và cảm thấy em cứng người lại như đã biến thành một thanh sắt. “Claudia, em không thể giết hắn được!” ta thì thầm. Em lùi lại, nhảy lên lớp đá lát đường và chạy về phía xa lộ. Một chiếc xe ngựa chạy vụt qua mang theo mớ âm thanh hỗn độn của tiếng cười nói, tiếng móng ngựa gõ vào đá và tiếng bánh xe gỗ. Rồi đường phố bỗng trở nên vắng lặng. Ta lao qua quảng trường rộng mênh mông tìm cô bé và thấy em đang đứng ở cổng vào Quảng trường Jackson, tay nắm chặt những song sắt. Ta cúi xuống gần em. Ta không quan tâm em cảm thấy gì hay nói gì, em không thể giết hắn, ta nói với cô bé.”
“Tại sao không? Anh nghĩ hắn quá mạnh à!” cô bé nói, ngước mắt nhìn bức tượng trong quảng trường, đôi mắt như hai mặt hồ ngập tràn ánh sáng.”
“Hắn mạnh hơn em tưởng đấy! Ngay cả nằm mơ em cũng không thấy hết được sức mạnh của hắn! Sao em dám nghĩ đến việc giết hắn? Em không thể lường hết được quyền năng của hắn. Em không biết đâu!” Ta nài xin em, nhưng ta có thể thấy em hoàn toàn thản nhiên, như một đứa trẻ đang say mê nhìn qua tấm kính của cửa hàng đồ chơi. Đột nhiên em thè lưỡi ra giữa hai hàm răng rồi liếm nhanh môi dưới với vẻ ma quái khiến ta rùng mình. Ta nếm thấy vị máu. Ta cảm thấy một cái gì đó hiển hiện rõ ràng và bất lực trong tay mình. Ta muốn giết. Ta có thể ngửi và nghe thấy con người đang di chuyển trên mọi nẻo đường bao quanh quảng trường, đi quanh chợ, dọc theo bờ đê. Ta định bế cô bé lên, buộc em phải nhìn thẳng vào ta, lắc mạnh em nếu cần, bắt em nghe lời ta nói, nhưng đột nhiên em quay sang ta với đôi mắt sáng long lanh. Em yêu anh, Louis, em nói.”
“Vậy thì hãy nghe lời ta, Claudia, ta cầu xin em, ta thì thầm và ôm lấy em, bị kích động bởi tiếng nói chuyện rì rầm vọng tới, âm thanh trầm bổng, sắc nét của họ hòa trộn với bản đồng ca của đêm. Hắn sẽ hủy hoại em nếu biết em muốn giết hắn. Em không thể nắm chắc phần thắng khi thực hiện một việc như vậy. Em không biết làm cách nào. Và khi chống lại hắn, em sẽ mất tất cả. Claudia, ta không thể chịu được điều đó.”
“Trên môi cô bé phảng phất một nụ cười gần như không thấy được. Không, Louis, em thì thầm. Em có thể giết hắn. Và bây giờ em sẽ tiết lộ với anh một bí mật, một bí mật chỉ hai ta được biết.”
“Ta lắc đầu nhưng em vẫn cúi xuống thật sát mặt ta, mí mắt em hạ xuống thấp đến mức đôi hàng mi dày đã sắp chạm lên bầu má. Bí mật đó là, Louis, em rất muốn giết hắn. Em sẽ rất thích thú được làm việc đó!”
“Ta quỳ xuống bên cạnh em, không nói nên lời, đôi mắt em lại đang chăm chú quan sát ta như em đã làm vô số lần trước kia; và rồi em nói, “Em giết người mỗi đêm. Em quyến rũ họ, kéo họ lại gần mình trong cơn đói tột độ, một công cuộc vô tận tìm kiếm một cái gì đó... một cái gì đó... em không biết chính xác là cái gì...” Cô bé đưa ngón tay lên và ấn môi mình xuống, miệng em hé mở và ta có thể thấy được ánh sáng từ hàm răng trắng bóng của em. Với những con người kia, nếu không gặp họ trên đường thì em chẳng màng đến họ, không cần biết họ từ đâu đến và họ sẽ đi về đâu. Nhưng em căm ghét hắn! Em muốn hắn phải chết và em sẽ giết hắn. Em sẽ tận hưởng điều đó.”
“Nhưng Claudia, hắn không phải con người. Hắn bất tử. Không bệnh tật nào có thể giết hắn. Tuổi tác cũng không hề hấn gì với hắn. Em đang muốn uy hiếp một kẻ có thể sống đến ngày tận thế!”
“Ồ, vâng, đúng thế, chính thế đấy!” cô bé nói với vẻ e dè tôn kính. Đó là một cuộc đời có thể kéo dài hàng thế kỷ. Dòng máu đó, quyền năng đó. Anh có nghĩ nếu giết hắn em sẽ chiếm được quyền năng của hắn để làm mạnh thêm quyền năng của mình không?
“Thế là ta nổi giận. Ta đứng bật dậy và quay lưng đi. Ta có thể nghe được tiếng rì rầm của những con người đang ở gần đâu đây. Họ đang thầm thì với nhau về một cặp cha con, rằng họ đang được chứng kiến một cảnh tượng xúc động về tình phụ tử. Ta chợt nhận ra họ đang nói về mình và Claudia.”
“Việc đó không cần thiết, ta nói với cô bé. Nó vượt quá mọi nhu cầu và mọi lý lẽ, mọi...”
“Cái gì! Lòng nhân đạo sao? Hắn là một kẻ sát nhân!” em rít lên. Một kẻ săn mồi đơn độc. Cô bé lặp lại chính lời hắn nói để mỉa mai hắn. Đừng ngáng trở em hay cố tìm ra thời điểm em sẽ xuống tay, đừng cố xen vào giữa em và hắn.”
“Cô bé giơ một tay lên ra hiệu cho ta yên lặng và nắm chặt lấy tay ta trong bàn tay thép, những móng tay nhỏ bé của em cắm sâu vào da thịt ta nhức nhối. nếu anh làm thế, anh sẽ gián tiếp hủy hoại em. Đừng cố thuyết phục em bỏ cuộc.”
“Rồi em chạy đi, dải ruy băng của chiếc mũ nhỏ bay bay trong gió, đôi giày gõ nhịp trên mặt đường. Ta quay đi mà không biết mình đang đi đâu, chỉ ước gì thành phố sẽ nuốt chửng mình, cảm thấy cơn đói khủng khiếp trỗi dậy, áp đảo lý trí. Ta gần như không muốn xoa dịu cơn đói. Ta cần phải để cơn khát máu, sự phấn khích phủ lấp mọi ý thức của mình, và ta hướng suy nghĩ vào việc giết chóc, giết nhiều nữa, nhiều nữa, trong lúc ta chầm chậm đi chuyển hết từ đường này sang đường khác, mặc cho cơn khát máu dẫn lối, miệng lẩm bẩm, “Đó là một sợi dây đang dẫn ta qua mê cung. Ta không điều khiển được sợi dây đó. Sợi dây đó đang điều khiển ta...” Và rồi ta đứng lại trên phố Conti vì nghe thấy một tiếng rền trầm đục vang lên, một âm thanh rất quen thuộc. Đó là âm thanh của những tay đấu kiếm trên lầu của một phòng tập, tiếng bước chân họ tiến tới, lùi lại, lao lên trên tấm sàn gỗ và tiếng lanh canh của những thanh kiếm bịt đầu va vào nhau. Ta đứng tựa lưng vào tường, quan sát họ qua khung cửa sổ dài không che rèm, những chàng trai trẻ sẽ đấu kiếm tới tận khuya, tay trái giơ lên như những vũ công, duyên dáng sẵn sàng nghênh đón cái chết, duyên dáng đâm thẳng vào ngực đối phương, hình ảnh chàng trai nhà Freniere chợt hiện ra trước mắt ta, lúc thì vung lưỡi kiếm bạc, lúc lại bị chính lưỡi kiếm đó kéo xuống địa ngục. Có một người bước xuống cầu thang gỗ hẹp dẫn ra phố - một cậu trai trẻ, rất trẻ, đến mức hai bầu má cậu vẫn còn mịn màng và đầy đặn như một đứa bé; khuôn mặt đỏ ửng lên sau trận đấu kiếm, bên dưới chiếc áo sơ mi xếp nếp và chiếc áo khoác xám thanh lịch của cậu là mùi ngọt ngào của nước hoa hòa lẫn với mồ hôi. Ta có thể cảm nhận được sức nóng của cậu khi cậu hiện ra dưới ánh đèn mờ nơi chân cầu thang. Cậu đang mỉm cười và thầm thì một mình, mái tóc nâu rủ xuống đôi mắt theo mỗi bước chân, cậu lắc đầu tiếng lầm rầm vang to hơn, rồi lại nhỏ xuống. Rồi chàng trai đứng khựng lại, mắt dán vào ta. Cậu nhìn ta chằm chằm trong giây lát rồi chớp mắt và bật cười vẻ căng thăng. “Xin lỗi!” chàng trai nói bằng tiếng Pháp, “Ngài làm tôi giật mình đấy!” Và khi chuẩn bị cúi chào và có lẽ định đi vòng quanh ta, cậu đột nhiên đứng sững lại, vẻ kinh hoàng nhanh chóng bao trùm khuôn mặt hồng hào của cậu. Ta có thể nhìn thấy mạch đập dữ dội dưới bầu má đó và ngửi thấy mùi mồ hôi đang vã ra trên cơ thể săn chắc, trẻ trung.”
“Cậu đã thấy mặt ta dưới ánh đèn,” ta nói. “Và khuôn mặt ta giống như mặt nạ của Tử thần.”
“Môi chàng trai hé mở, hai hàm răng lập cập va vào nhau, và cậu vô thức gật đầu, đôi mắt đờ ra.”
“Đi đi!” ta nói. “Nhanh!”
Ma cà rồng ngừng lời, rồi khẽ cựa mình như thể hắn sắp tiếp tục câu chuyện.
Nhưng hắn chỉ duỗi thẳng đôi chân dưới gầm bàn và tựa lưng vào ghế, đưa hai tay lên day mạnh thái dương.
Còn chàng trai, vốn đang ngồi cúi đầu, tay khoanh lại, liền từ từ duỗi người ra. Anh liếc nhìn chiếc máy ghi âm rồi lại nhìn ma cà rồng. “Nhưng đêm đó anh đã giết người,” anh nói.
“Đêm nào ta cũng giết,” ma cà rồng đáp.
“Vậy tại sao anh lại thả cậu ta?” chàng trai thắc mắc.
“Ta không biết,” ma cà rồng nói, nhưng giọng hắn không ngụ ý không biết, mà đúng hơn là ngụ ý đừng hỏi nữa. “Anh có vẻ mệt,” ma cà rồng nói. “Anh có vẻ lạnh.”
“Không hề gì,” chàng trai vội đáp. “Phòng hơi lạnh nhưng tôi không lấy đó làm phiền. Còn anh thì không hề thấy lạnh, phải không?”
“Không.” Ma cà rồng nhếch môi và đôi vai hắn rung lên vì một tràng cười không thành tiếng.
Một khoảng lặng trôi qua, trong lúc ma cà rồng dường như đang chìm sâu vào suy tưởng của mình còn chàng trai thì chăm chú quan sát hắn. Rồi ma cà rồng nhìn xuống đồng hồ của chàng trai.
“Cô bé không thành công, phải không?” chàng trai e dè hỏi.
“Thật sự thì anh nghĩ sao?” ma cà rồng hỏi. Hắn đã ngồi ngay ngắn lại trên ghế. Hắn chăm chú nhìn chàng trai.
“Tôi nghĩ là, cô bé... giống như anh đã nói, đã bị hủy hoại,” chàng trai nói; và dường như anh cảm nhận được sức nặng lời nói của mình, nên anh đã nuốt nước bọt khi thốt ra từ hủy hoại.
“Phải vậy không?” anh hỏi.
“Anh không nghĩ là cô bé có thể giết được hắn ư?” ma cà rồng hỏi.
“Nhưng hắn quá mạnh. Anh đã từng nói rằng anh không biết hắn mạnh tới mức nào và còn đang nắm giữ những bí mật gì. Làm sao cô bé lại dám chắc là có thể giết hắn? Cô bé đã làm thế nào?”
Ma cà rồng nhìn chàng trai một lúc lâu, biểu cảm của hắn không thể dò thấu, khiến anh vội nhìn ra chỗ khác, như thể ánh mắt ma cà rồng là hai ngọn đèn đang thiêu đốt. “Tại sao anh không uống một ít rượu từ cái chai anh cất trong túi áo?” ma cà rồng cất tiếng hỏi. “Nó sẽ giúp anh thấy ấm hơn.”
“À, cái đó...” chàng trai nói. “Tôi cũng định uống. Nhưng mà...”
Ma cà rồng cười lớn. “Nhưng mà anh nghĩ như thế là bất lịch sự!” hắn nói và đột nhiên vỗ đùi.
“Đúng vậy,” chàng trai nhún vai và mỉm cười; rồi anh rút chai rượu nhỏ trong túi áo, vặn mở chiếc nắp màu vàng và nhấp một ngụm. Vẫn cầm chai rượu trên tay, anh nhìn ma cà rồng.
“Không,” ma cà rồng mỉm cười và phẩy tay từ chối lời mời.
Rồi vẻ mặt hắn nghiêm túc trở lại và, tựa lưng vào ghế, hắn tiếp tục câu chuyện.
“Lestat có một cậu bạn nhạc sĩ trẻ ở phố Dumaine. Bọn ta đã trông thấy cậu ta trong một buổi biểu diễn tại nhà phu nhân LeClair, cũng ở đường đó, vốn nổi tiếng là con phố xa hoa tráng lệ thời bấy giờ, và chính phu nhân LeClair này, người thường bị Lestat đem ra làm trò cười, đã tìm cho chàng nhạc sĩ nọ một căn phòng trong biệt thự gần đó, Lestat rất hay lui tới thăm cậu ta. Ta đã từng kể anh nghe rằng Lestat thích đùa với nạn nhân của mình, làm thân với họ, quyến rũ họ, gây dựng lòng tin nơi họ và khiến họ thích hắn, thậm chí là yêu hắn trước khi kết liễu mạng sống của họ. Rõ ràng hắn cũng đang làm điều tương tự với chàng nhạc sĩ trẻ này, dù rằng nó đã kéo dài hơn tất cả những tình bạn ta từng thấy hắn có trước đây. Chàng nhạc sĩ này viết nhạc rất hay, và Lestat thường mang các bản nhạc cậu ta mới soạn về nhà để chơi trên cây đàn piano lớn trong phòng khách. Chàng nhạc sĩ trẻ rõ ràng có tài năng âm nhạc tuyệt vời, nhưng có thể thấy ngay tác phẩm của cậu ta khó mà bán được vì chúng quá ghê rợn. Lestat cho cậu ta tiền và ghé thăm cậu ta hằng đêm, thường đưa cậu ta đi ăn những nhà hàng mà cậu ta không bao giờ đủ tiền để bước vào, và mua cho cậu ta rất nhiều giấy bút phục vụ cho việc sáng tác nhạc.”
“Như ta đã nói, tình bạn này kéo dài hơn mọi mối quan hệ khác mà Lestat từng có. Và ta không biết hắn thực sự thích chàng nhạc sĩ trẻ này ngay cả khi bản thân không muốn hay chỉ đang chậm rãi tiến tới một sự phản bội khủng khiếp và ác độc. Hắn đã nhiều lần ngầm ám chỉ với ta và Claudia rằng hắn sẽ giết chàng nhạc sĩ, nhưng hắn không làm. Và tất nhiên, ta không bao giờ hỏi về cảm xúc của hắn vì chẳng việc gì ta phải chịu cơn thịnh nộ mà câu hỏi đó sẽ gây ra. Lestat bị một con người mê hoặc ư! Hắn có thể sẽ nổi điên lên và phá hết đồ đạc trong phòng khách.”
“Vào cái đêm sau đêm ta vừa kể, hắn đã khiến ta cực kỳ khó chịu vì đòi ta phải đến thăm chàng nhạc sĩ cùng hắn. Hắn đã tỏ ra rất thân thiện, như mỗi khi muốn ta làm bạn đồng hành. Việc thưởng thức nghệ thuật thường khiến hắn như vậy. Muốn đi xem một vở kịch hay, một vở opera, ba lê. Hắn luôn muốn ta đi cùng. Có lẽ ta đã xem vở Macbeth với hắn dễ đến mười lăm lần. Bọn ta có mặt ở mọi buổi biểu diễn, kể cả tiết mục của các diễn viên nghiệp dư, và trên đường về nhà, Lestat sẽ không ngừng nhắc lại từng đoạn thoại bên tai ta, thậm chí còn chỉ thẳng vào mặt người qua đường mà hét toáng lên, “Ngày mai và ngày mai và ngày mai!” cho đến lúc họ phải đi vòng qua vì tưởng hắn đang say rượu. Nhưng trạng thái phấn khích đó của hắn có thể lên tới mức điên rồ và thường kết thúc chỉ trong chớp mắt; chỉ cần ta nói đôi ba câu dễ nghe, ám chỉ rằng ta rất vinh dự được đi cùng hắn thì sự phấn khích của hắn sẽ hoàn toàn tan biến trong hàng tháng. Thậm chí hàng năm. Nhưng bấy giờ Lestat lại tìm đến ta trong trạng thái đó và đòi ta đến thăm cậu bạn nhạc sĩ cùng hắn. Hắn không ngại nắm lấy cánh tay thúc giục ta. Và ta, mệt mỏi, đờ đẫn, đã viện ra một cái cớ thảm hại nào đó để từ chối hắn, vì ta chỉ đang nghĩ về Claudia, về chuyến vượt biển và thảm họa sắp xảy ra. Ta có thể cảm thấy nó và lấy làm băn khoăn không biết hắn có cảm thấy không. Cuối cùng, hắn nhặt một cuốn sách trên sàn nhà, ném thẳng vào ta và hét lớn, “Vậy thì ngồi đọc mấy bài thơ chết tiệt của anh đi! Nhảm nhí!” Rồi hắn lao thẳng ra cửa.”
“Thái độ của Lestat làm ta cực kỳ lo ngại. Ta không biết dùng từ ngữ gì để tả cho anh hiểu mức độ lo sợ của mình. Ta ước gì Lestat cứ lạnh lùng, dửng dưng mà bước ra khỏi nhà. Ta quyết định khẩn nài Claudia từ bỏ ý định của cô bé. Ta cảm thấy bất lực, và mệt mỏi đến vô vọng. Nhưng cánh cửa phòng cô bé luôn khóa chặt cho đến khi em phải ra ngoài đi săn, và ta chỉ thoáng thấy bóng em khi đang nói chuyện với Lestat, thoáng thấy đài đăng ten và dáng vẻ đáng yêu của em khi em khoác áo choàng; tay áo phồng và dải ruy băng tím trên ngực, đôi tất ren trắng hiện ra dưới gấu váy và đôi giày trắng tinh không tì vết. Em ném cho ta một ánh mắt lạnh lùng khi rời khỏi nhà.”
“Khi đã no nê trở về nhà, ta trở nên lờ đờ đến mức cả những suy nghĩ của chính mình cũng không làm ta bận tâm, và dần dần ta mới nhận ra đêm nay sẽ có chuyện. Cô bé sẽ thực hiện kế hoạch của mình vào đêm nay.”
“Ta không thể nói với anh là ta đã phát hiện ra điều đó bằng cách nào. Không khí trong ngôi nhà khiến ta thấy lo ngại và đề phòng. Claudia đi lại trong phòng khách phía trong sau những cánh cửa khép kín. Và ta tưởng như mơ hồ nghe thấy một âm thanh khác, một tiếng thì thầm. Claudia chưa bao giờ đưa người lạ vào ngôi nhà này; chỉ có Lestat thường dụ những cô ả trên phố về đây mà thôi. Nhưng ta biết là có một người khác đang ở trong nhà, dù ta không cảm nhận được mùi hương hay tiếng động rõ ràng nào. Và rồi có mùi đồ ăn và rượu lan tỏa trong không khí. Và những bông cúc trắng cắm trong chiếc bình bạc, đặt trên cây đàn piano - những bông hoa mà trong mắt Claudia đồng nghĩa với cái chết.”
“Rồi Lestat về đến nhà, vừa đi vừa khẽ ngân nga gì đó, cây gậy chống của hắn gõ cốp cốp cốp trên lan can cầu thang xoắn ốc. Hắn bước xuống hành lang dài, mặt vẫn còn đỏ lửng sau cuộc săn, đôi môi ửng hồng; và hắn xếp bản nhạc mới đem về lên cây đàn piano. Tôi đã giết cậu ta hay tôi vẫn chưa giết cậu ta! Hắn trỏ ngón tay vào mặt ta hỏi, anh đoán xem chứa, ta đờ đẫn đáp lời hắn. Bởi vì lúc nãy anh đã bảo tôi đi cùng anh và anh sẽ không bao giờ chia sẻ với tôi bữa ăn đó.”
“Ồ, thế lỡ như tôi đã giết cậu ta chỉ vì tức giận trước lời từ chối của anh thì sao!” hắn nói và mở nắp hộp đàn ra. Ta nhận thấy hắn sẽ còn lải nhải câu chuyện này tới tận bình minh. Hắn đang phấn khích: Ta quan sát hắn lướt tay trên phím đàn, và lo nghĩ, hắn có thể chết không? Hắn có thể chết thật không? Và cô bé có thực sự muốn giết hắn không? Đã có những lúc ta muốn bật dậy đi tìm cô bé và bảo em là chúng ta phải từ bỏ tất cả mọi thứ, thậm chí cả dự định vượt biển và quay lại cuộc sống như trước kia. Nhưng ta cảm thấy đã không còn đường lùi nữa rồi. Kể từ ngày cô bé bắt đầu tra hỏi hắn, việc này - cho dù nó là cái gì đi chăng nữa - đã là điều không thể tránh khỏi được nữa. Và ta cảm thấy đang bị một sức nặng đè lên người, ép ta phải ngồi yên trên ghế.”
“Hắn nhấn hai hợp âm bằng hai tay. Hắn sải tay rất rộng và thậm chí có thể là một nghệ sĩ dương cầm xuất sắc trong thế giới loài người. Nhưng hắn luôn chơi đàn một cách vô cảm; tâm hồn hắn không đặt vào bản nhạc và giai điệu vang lên từ cây piano cứ như chỉ được điều khiển bằng ma thuật, bằng giác quan và khả năng kiểm soát điệu nghệ của ma cà rồng, chứ không thực sự đi qua hắn, không thực sự được hắn cảm nhận. “Thế tôi đã giết cậu nhạc sĩ ấy chưa nhỉ?” hắn nhắc lại câu hỏi với ta.”
“Chưa, anh chưa giết cậu ta, ta giữ nguyên câu trả lời cũ, dù nói điều ngược lại cũng chẳng khó gì. Ta đang tập trung vào việc giữ cho mặt mình vô cảm như một cái mặt nạ.”
“Đúng. Tôi vẫn chưa giết cậu ta, hắn nói. Tôi thích cảm giác ở gần cậu ta và nghĩ rằng tôi có thể giết cậu ta bất cứ lúc nào, nhưng chưa phải bây giờ. Và tôi sẽ bỏ cậu ta và tìm một kẻ nào đó trông giống cậu ta nhất để thay thế. Nếu cậu ta mà có anh em... chà, tôi sẽ lần lượt giết từng người một. Cả gia đình cậu ta sẽ lay lắt cố chống lại một cơn sốt bí ẩn đã rút kiệt máu từng người trong nhà!” hắn nói, nhại tiếng người rao báo. Claudia rất thích giết các gia đình. Nói tới gia đình, ta đoán anh đã nghe nói. Đồn điền Freniere bị ma ám; không tên đốc công nào chịu ở lại và lũ nô lệ đã bỏ trốn hết.”
“Đây là chuyện mà ta đặc biệt không muốn nhắc đến. Babette đã bị mất trí và chết trẻ, sau khi bị cấm đi lang thang tới đống đổ nát của Pointe du Lac và khăng khăng là nàng đã nhìn thấy ác quỷ ở đó và cần phải tìm ra hắn, những tin đồn đã lan tới tai ta. Và cuối cùng, ta đọc được thông báo về tang lễ của nàng. Đôi khi, ta đã định tìm nàng, tìm cách nào đó để bù đắp những tổn thương ta đã gây ra; đôi khi, ta lại nghĩ rằng nàng sẽ tự vượt qua được; và kể từ khi cuộc đi săn hằng đêm bắt đầu, tình cảm ta dành cho Babette cũng như cho em gái hay bất kỳ người thường nào khác đã dần trở nên mờ nhạt. Cuối cùng, ta quan sát cuộc đời Babette biến thành bi kịch chỉ như một cử tọa đang ngồi trên ban công rạp hát, thỉnh thoảng cựa mình, nhưng không bao giờ đủ độ để nhảy xuống sân khấu tham gia cùng các diễn viên.”
“Đừng nhắc đến cô ấy,” ta nói với hắn.
“Tốt thôi. Tôi muốn nói chuyện về đồn điền. Không phải cô ta. Cô ta! Người tình của anh, giấc mộng son của anh!” Hắn cười vào mặt ta. “Anh thấy đấy, cuối cùng thì việc gì cũng diễn ra thuận theo ý tôi cả, không phải sao? Nhưng mà tôi đang nói tới cậu bạn trẻ của tôi và cách mà...”
“Tôi chỉ muốn anh chơi đàn tiếp, ta nói nhẹ nhàng nhã nhặn, nhưng cố tỏ vẻ thuyết phục hết mức có thể. Đôi khi cách nói đó có tác dụng với Lestat. Nếu ta biết cách nói cho đúng mực, hắn sẽ làm theo những gì ta muốn. Và bấy giờ hắn làm thế thật: với một tiếng gầm gừ khe khẽ trong cổ họng, như thể muốn nói, “Đồ đần,” hắn bắt đầu chơi đàn. Ta nghe tiếng cánh cửa phòng khách mở ra và tiếng bước chân Claudia trên hành lang. Đừng tới đây, Claudia, ta thầm nghĩ, thầm cảm giác; hãy đi khỏi đây trước khi tất cả chúng ta đều bị hủy hoại. Nhưng cô bé vẫn tiến từng bước nhịp nhàng cho đến khi em đến trước chiếc gương ngoài hành lang. Ta nghe tiếng em mở ngăn kéo chiếc bàn nhỏ và tiếng em chải tóc. Cô bé đã xịt một chút nước hoa. Ta chầm chậm quay đầu lại và thấy em xuất hiện trên ngưỡng cửa, vẫn mặc đồ trắng từ đầu đến chân, rồi em lặng lẽ lướt trên tấm thảm trải sàn, tiến lại gần cây đàn piano. Cô bé đứng phía cuối phím đàn, khoanh hai tay trên mặt gỗ và tựa cằm lên đó, nhìn Lestat chằm chằm.”
Ta có thể thấy một bên mặt Lestat và khuôn mặt bé nhỏ của cô bé đang ngước lên nhìn hắn. “Lại gì nữa đây!” hắn nói, lật một trang bản nhạc và thả tay lên đùi. “Mày đang làm ta khó chịu đấy! Chỉ sự hiện diện của mày cũng đã làm ta khó chịu rồi!” Hắn đưa mắt nhìn lướt bản nhạc.
“Vậy sao?” cô bé thốt lên bằng giọng ngọt ngào nhất.
“Đúng thế. Và ta muốn cho mày biết một điều nữa. Ta đã tìm thấy một người sẽ làm ma cà rồng tốt hơn mày nhiều.”
“Câu nói này khiến ta choáng váng. Nhưng ta không cần phải thúc giục hắn nói rõ hơn. “Mày có hiểu ta đang nói gì không?” hắn hỏi cô bé.”
“Cha đang muốn dọa con đấy ư?” cô bé hỏi.
“Mày nhõng nhẽo vì mày là con một, hắn nói. Mày cần phải có anh trai. Nói đúng hơn là, ta cần một đứa em trai. Ta đã quá mệt mỏi vì cả hai đứa mày rồi. Hai con ma cà rồng tham lam, ủ ê, ám ảnh cuộc sống của cả bọn. Ta không thích thế.”
“Con nghĩ rằng chúng ta có thể biến cả thế giới loài người thành thế giới ma cà rồng, chỉ cần ba chúng ta thôi,” cô bé nói.
“Mày nghĩ thế hả!” hắn mỉm cười nói, giọng hắn thoáng một chút đắc thắng. “Mày nghĩ mày có thể làm được sao? Ta đoán Louis đã cho mày biết làm thế nào để biến kẻ khác thành ma cà rồng hoặc chí ít là hắn nghĩ làm như thế nào. Mày không có quyền năng đó. Cả hai đứa mày đều không có,” hắn nói.
“Câu nói này dường như khiến Claudia khó chịu. Đó là diễn biến nằm ngoài dự tính của cô bé. Cô bé quan sát hắn. Ta có thể nhận ra là cô bé không thực sự tin hắn.”
“Vậy ai đã ban cho cha quyền năng đó vậy?” cô bé hỏi nhẹ nhàng nhưng vẫn có chút mỉa mai.
“Đó là một trong những điều mày không bao giờ biết, bé yêu ạ. Bởi vì ngay cả trong luyện ngục mà chúng ta đang sống cũng có giai cấp quý tộc.”
“Cha nói dối, cô bé nói với một tiếng cười ngắn. Và thấy hắn lại đặt tay lên phím đàn, em tiếp lời, “Nhưng cha đã phá vỡ kế hoạch của con rồi.”
“Kế hoạch nào?” hắn hỏi.
“Con đến để làm lành với cha, cho dù cha có là kẻ nói dối. Cha vẫn là cha của con, cô bé nói. Con muốn làm lành với cha, con muốn cha con ta lại hòa thuận như xưa.”
“Bây giờ chính hắn lại tỏ ra nghi hoặc. Hắn liếc nhìn ta rồi lại nhìn cô bé. Cũng được thôi. Chỉ cần đừng hỏi ta những điều vô nghĩa nữa. Đừng có bám theo ta nữa. Đừng có chạy khắp các ngõ ngách để tìm kiếm những ma cà rồng khác nữa. Không còn ma cà rồng nào đâu! Đây là nơi con sống và sẽ là nơi con ở lại vĩnh viễn. Hắn thoáng bối rối, như thể bối rối vì đã hét lên như vậy. Ta sẽ chăm sóc con. Con không cần phải làm gì cả.”
“Và cha không biết gì cả, bởi vậy cha mới căm ghét những câu hỏi của con. Giờ chuyện đó đã quá rõ rồi. Vậy nên chúng ta hãy làm lành với nhau đi, vì chúng ta không còn gì khác nữa. Con có một món quà cho cha đấy.”
“Ta mong đó sẽ là một phụ nữ xinh đẹp với những tài sản mà con không bao giờ có, hắn nói và nhìn cô bé từ đầu xuống chân. Vẻ mặt cô bé thay đổi khi hắn làm thế. Dường như em suýt chút nữa đã mất đi sự kiểm soát mà ta chưa bao giờ thấy em để mất. Nhưng rồi em chỉ lắc đầu và vươn cánh tay nhỏ bé, tròn trịa của mình ra nắm ống tay áo hắn.”
“Con hoàn toàn thật lòng. Con mệt mỏi vì cứ phải cãi nhau với cha. Địa ngục chính là lòng thù hận, là con người sống trong thù hận đời đời kiếp kiếp. Nhưng chúng ta không sống ở địa ngục. Cha có thể nhận quà hoặc không, con không lấy đó làm phiền. Đó không phải điều quan trọng. Chỉ cần chúng ta đừng tiếp tục cãi vã nữa. Trước khi Louis rời bỏ cả hai ta vì quá kinh tởm. Cô bé thúc giục hắn đứng lên, đóng nắp hộp đàn xuống, xoay người hắn lại cho đến khi hắn phải nhìn theo cô bé ra phía cửa.”
“Con nói thật đấy à. Quà? Ý con là gì?”
“Cha vẫn chưa uống đủ no, con có thể thấy điều đó qua sắc da và đôi mắt cha. Cha không bao giờ ăn no vào giờ này. Con sẽ dành tặng cha một khoảnh khắc hiếm hoi. Hãy đón nhận những đứa trẻ đã đến với ta, cô bé thì thầm và rời khỏi phòng. Hắn nhìn ta. Ta không nói gì. Ta chẳng khác nào một kẻ đã bị đánh thuốc mê. Ta thấy được vẻ tò mò trên mặt hắn, vẻ nghi hoặc. Hắn đi theo cô bé tới cuối hành lang. Và rồi ta nghe hắn cố ý rên lên một tiếng dài, một âm thanh pha trộn giữa cơn đói và sự thèm khát.”
“Khi đến gần cửa phòng, và ta đã mất một lúc mới tới nơi, hắn đang cúi xuống ghế sofa. Có hai cậu bé đang nằm trên đó, giữa những chiếc gối nhung mềm mại và đang say ngủ, đôi môi hồng của chúng đang hé mở, khuôn mặt bầu bĩnh của chúng tròn hết sức mịn màng. Làn da chúng ẩm ướt, căng bóng, những lọn tóc xoăn của thằng bé da sẫm màu hơn đẫm mồ hôi dính bết vào trán. Nhìn qua hai bộ quần áo tồi tàn và giống hệt nhau, ta đoán ngay rằng chúng là trẻ mồ côi. Và chúng đã được chén một bữa no nê bày trên chén bát đẹp nhất của nhà ta. Tấm khăn trải bàn đã bị nhuộm đỏ màu rượu vang, chai rượu chỉ mới vơi đi một nửa đang đặt giữa đĩa và dao dĩa vẫn còn vết dầu mỡ. Nhưng trong phòng phảng phất một mùi hương khiến ta khó chịu. Ta tiến lại gần hơn để có thể nhìn rõ hai đứa trẻ đang ngủ, và ta có thể thấy cần cổ chúng để trần nhưng không hề có vết cắn. Lestat đang ngồi xuống cạnh đứa trẻ có nước da sẫm màu hơn, nó đẹp hơn hẳn đứa kia. Có thể đưa cậu bé lên mái vòm có vẽ hình của nhà thờ cũng được. Cậu bé chỉ tầm bảy tuổi và có một vẻ đẹp hoàn hảo phi giới tính, hệt như một thiên thần. Lestat đưa tay xuống chạm vào cần cổ như nhạt rồi lướt lên đôi môi mềm như lụa của cậu bé. Hắn lại buông một tiếng thở dài chứa đầy sự thèm khát, sự mong ngóng ngọt ngào và khổ sở ấy. “Ôi Claudia...” hắn rên lên, con thật xuất sắc. Con tìm ra chúng ở đâu vậy?”
“Cô bé không nói gì. Cô bé đã lùi lại ngồi lên chiếc ghế bành màu đen, dựa lưng vào hai chiếc gối lớn, chân em duỗi thẳng trên tấm nệm tròn, mắt cá chân kéo căng ra nên không thấy được đế đôi giày trắng, mà chỉ thấy được mu bàn chân em hiện lên cong cong và đôi quai giày nhỏ nhắn buộc chặt. Cô bé đang nhìn chằm chằm Lestat. Hai đứa nó đã say mềm vì rượu rồi, em nói. Mới hớp một ngụm thôi đấy? Và chỉ tay lên bàn. Vừa thấy chúng nó là con đã nghĩ đến cha rồi... Con nghĩ nếu con mang chúng về làm quà, ngay cả cha cũng sẽ phải tha thứ cho con.”
“Hắn đã bị những lời tâng bốc của cô bé làm mờ mắt. Hắn nhìn cô bé rồi với tay nắm lấy cổ chân bên trong lớp ren trắng của em. “Ôi bé cưng!” hắn thầm thì với em và cười lớn, nhưng rồi hắn im bặt như thể không muốn đánh thức hai đứa trẻ bất hạnh. Hắn ra hiệu cho cô bé một cách thân mật và quyến rũ, “Hãy đến đây ngồi bên đứa trẻ này đi. Con sẽ hút máu nó và ta sẽ hút máu đứa kia. Đến đây nào.” Hắn ôm lấy cô bé khi em bước tới và ngồi xuống bên cạnh một trong hai đứa trẻ. Hắn vuốt ve mái tóc ẩm ướt của cậu bé, lướt ngón tay trên mí mắt tròn đầy và dọc theo hàng lông mi. Rồi hắn đặt cả bàn tay đã mềm nhũn của mình lên mặt đứa trẻ và sờ mó từ thái dương, gò má đến vùng xương quai hàm, nhẹ nhàng xoa bóp da thịt thanh khiết của cậu bé. Hắn đã hoàn toàn quên mất sự tồi tại của ta và cô bé, nhưng rồi hắn rút tay lại, ngồi lặng một lúc như thể đang bị choáng váng với chính nỗi khao khát của mình. Hắn ngước lên nhìn trần nhà và rồi lại cúi xuống bữa tiệc hoàn hảo trước mắt. Hắn từ từ quay đầu đứa trẻ vào lưng ghế, lông mày cậu bé nhướng lên trong giây lát và một tiếng rên thoát ra khỏi đôi môi nhỏ của nó.”
“Claudia nhìn Lestat không chớp mắt, dù cô bé đang vươn tay trái lên để cởi nút áo của đứa trẻ nằm bên cạnh, và luồn tay vào trong lớp áo sờn rách để cảm nhận da thịt trần trụi của cậu bé. Lestat cũng làm theo, nhưng đột nhiên hắn lùa cả cánh tay vào trong áo đứa trẻ và ôm siết lấy khuôn ngực nhỏ của cậu bé như thể đã mất quyền kiểm soát với chính tay của mình; rồi hắn trượt khỏi ghế sofa và quỳ hẳn xuống sàn nhà, cánh tay hắn vẫn ghì chặt cơ thể đứa trẻ. Hắn kéo cậu bé lại gần để có thể vùi mặt vào cần cổ nó. Đôi môi hắn lướt từ cổ xuống khuôn ngực đứa trẻ, qua núm vú bé nhỏ, rồi, sau khi lùa cánh tay còn lại vào trong chiếc áo rách để cậu bé không thoát đi đâu được, hắn kéo cậu bé lại thật gần và cắm ngập răng vào cổ họng nó. Đầu cậu bé ngất ra sau, những lọn tóc xoăn rủ xuống khi nó bị nâng lên, và nó lại phát ra tiếng rên nho nhỏ, mi mặt rung rung nhưng không thể mở ra được. Và Lestat quỳ, ôm chặt đứa trẻ vào lòng, say sưa hút máu, lưng hắn gồng lên căng cứng, cả cơ thể hắn mang theo cậu bé đung đưa đung đưa, những tiếng rên dài của hắn lên bổng xuống trầm theo từng nhịp chuyển động, cho tới khi đột nhiên cơ thể hắn như bị đông cứng lại và bàn tay hắn co duỗi dữ dội như đang cố tìm cách đẩy đứa trẻ ra, như thể cậu bé trong giấc ngủ bất lực đang gắng sức bám lấy Lestat; và cuối cùng, hắn ôm đứa trẻ vào lòng một lần nữa và chầm chậm bế cậu bé lên, thả nó xuống những chiếc gối nhung, tiếng hút máu trở nên nhỏ hơn, đến mức gần như không nghe được nữa.”
“Hắn buông đứa trẻ ra. Hắn ấn cậu bé xuống ghế. Hắn quỳ ở đó, đầu ngửa ra sau, những lọn tóc xoăn vàng xõa ra bù xù. Rồi hắn từ từ khuỵu xuống sàn nhà và xoay người lại, lưng hắn tựa vào chân ghế bành. “Ôi... Chúa ơi...” hắn rên rỉ và rụt đầu lại, mí mắt hắn sụp xuống. Ta có thể thấy màu đỏ máu chạy qua gò má hắn, lan xuống hai bàn tay. Một tay hắn đang buông thõng xuống đầu gối, giật lên từng đợt rồi bất động.”
“Claudia vẫn không di chuyển. Cô bé nằm yên như một thiên thần trong tranh Botticelli, bên cạnh đứa trẻ vẫn chưa hề hấn gì. Đứa trẻ kia đã khô quắt lại, cần cổ cậu bé trông như một cành cây gãy, đầu ngoẹo thành một góc kỳ dị, góc của Tử thần, vùi sâu trong chiếc gối nhung.”
“Nhưng có điều gì đó không ổn. Lestat đang nhìn chằm chằm lên trần nhà. Ta có thể thấy lưỡi hắn giữa hai hàm răng. Hắn nằm im lìm quá, và lưỡi hắn dường như đang cố thè ra để liếm môi. Hắn như đang run lên, vai hắn co giật... rồi nặng nề rũ ra; thế nhưng hắn vẫn hoàn toàn bất động. Một tấm màn mờ đục đã phủ lên đôi mắt xám trong trẻo của hắn. Đôi mắt đó vẫn dán chặt lên trần nhà. Và rồi hắn rên lên khe khẽ. Ta dợm bước định ra khỏi bóng tối của hành lang nhưng Claudia giật giọng rít lên, quay lại mau!”
“Louis...” Hắn đang nói gì đó. Ta có thể nghe thấy tiếng hắn... “Louis... Louis...”
“Cha không thích món quà của con sao, Lestat?” em hỏi hắn.
“Nó bị làm sao ấy, hắn thở hổn hển, mắt hắn trợn tròn lên như thể đã phải gắng hết sức mới thốt lên được thành lời. Hắn không thể cử động được. Ta thấy rõ điều đó. Hắn không cử động được. “Claudia!” Hắn thở gấp gáp hơn và ánh mắt hắn đảo lại phía cô bé.
“Cha không thích vị máu trẻ con sao...?” cô bé nhẹ nhàng hỏi.
“Louis...” hắn thì thầm và cố gượng đầu lên trong giây lát. Rồi đầu hắn lại đổ gục xuống mặt ghế. “Louis, đó là... ngải đắng. Quá nhiều ngải đắng!” Hắn thở hổn hển. “Con bé đã đầu độc hai đứa trẻ. Con bé đã đầu độc tôi. Louis...” Hắn cố gắng vươn tay lên. Ta tiến lại gần hắn, chiếc bàn nằm chắn giữa bọn ta.
“Lùi lại!” cô bé lại quát. Rồi em trượt khỏi ghế và lại gần hắn, nhìn chằm chằm vào mặt hắn y như cách hắn đã nhìn cậu bé nạn nhân. “Đúng là ngải đắng đấy cha ạ,” em nói, “và cả cồn thuốc phiện nữa!”
“Con quỷ cái!” hắn thét lên. “Louis... hãy đưa tôi vào quan tài của tôi.” Hắn gắng gượng ngồi dậy. “Đưa tôi vào quan tài!” Giọng hắn đã khàn đặc và rất khó nghe rõ. Bàn tay hắn run lên bần bật, nâng lên rồi rơi xuống.
“Con sẽ đưa cha vào quan tài của cha, cha thân yêu,” cô bé nói, như thể đang muốn xoa dịu hắn. “Con sẽ để cha được ngủ trong đó vĩnh viễn.” Và rồi, từ dưới những chiếc gối nhung, cô bé rút lên một con dao phay.
“Claudia! Đừng làm thế!” ta hét lên. Nhưng cô bé liếc nhìn ta bằng ánh mắt cực kỳ hiểm độc mà ta chưa từng thấy nơi em, và khi ta đứng đó như bị tê liệt toàn thân, cô bé cứa cổ hắn, và hắn nấc lên một tiếng sắc nghẹn. “Chúa ơi!” hắn hét lớn. “Chúa ơi!”
Máu chảy ra xối xả từ cổ họng hắn, đổ xuống áo sơ mi và áo khoác. Không một con người nào có thể chảy máu tới mức ấy, đó là toàn bộ số máu mà hắn đã hút vào mình từ cậu bé kia và từ trước cả nó nữa; và hắn cứ liên tục quay đầu, vặn xoắn cổ khiến vết thương ứa máu há hoác ra. Cô bé tiếp tục đâm con dao xuống ngực hắn và hắn lao lên phía trước, há hốc miệng, răng nanh của hắn chìa ra, hai bàn tay điên cuồng vươn tới chỗ con dao, run rẩy quanh cán dao, rồi trượt xuống. Hắn ngước lên nhìn ta, tóc xõa rũ rượi xuống mắt. “Louis, Louis!” Hắn trút ra một hơi thở nặng nhọc rồi ngã nghiêng ra trên sàn nhà. Cô bé đứng đó nhìn xuống hắn. Máu chảy lênh láng trên sàn nhà như nước. Hắn đang rên rỉ, cố gượng dậy một lần nữa, một tay đè dưới ngực, tay còn lại chống xuống sàn nhà. Và cô bé đột nhiên lao thẳng vào hắn, dùng hai tay kẹp lấy cổ hắn và cắn ngập răng vào đó trong khi hắn quẫy đạp dữ dội. “Louis, Louis!” hắn hổn hển gọi đi gọi lại, chống cự và cố gắng một cách tuyệt vọng để đẩy cô bé ra; nhưng cô bé đã cưỡi lên hắn, cả người nhấp nhô trên vai hắn, nhấp nhô cho đến khi em buông tay ra; rồi, nhanh chóng hạ chân xuống sàn nhà, em lùi ra xa khỏi hắn, sờ tay lên môi, đôi mắt em mờ đục trong chốc lát rồi sáng rõ trở lại. Ta quay mặt đi, cả người run rẩy vì cảnh tượng vừa rồi, không thể nhìn thêm được nữa. “Louis?” em gọi; nhưng ta chỉ lắc đầu. Trong khoảnh khắc, dường như cả ngôi nhà đang chao đảo. Nhưng cô bé nói, “Nhìn xem chuyện gì đang xảy ra với hắn kìa!”
“Lestat đã thôi nhúc nhích. Hắn nằm ngửa lên trời. Và toàn bộ cơ thể hắn đang co rúm lại, khô héo, da trở nên sần sùi, nhăn nheo và trắng bệch đến mức các mạch máu bên dưới nổi lên rõ rệt. Ta thở hổn hển, nhưng vẫn không thể rời mắt khỏi hắn, kể cả khi đường nét của khung xương hắn bắt đầu hiện ra, môi hắn teo lại dính sát vào răng và mũi hắn khô đét lại chỉ còn là hai cái lỗ đen trống rỗng. Nhưng đôi mắt hắn vẫn không biến đổi nhìn chằm chằm đầy hoang dại lên trần nhà, tròng mắt vẫn liên tục đảo từ bên này sang bên kia, dù cho da thịt hắn dính vào xương, chỉ còn như một lớp giấy da bọc lấy bộ xương, và bộ quần áo trở nên rộng thùng thình, rũ xuống bộ xương đó. Cuối cùng, tròng mắt hắn đảo ngược lên trên và lòng trắng dần mờ đục. Cái thứ đó nằm bất động. Một mớ tóc vàng bồng bềnh, một chiếc áo khoác, một đôi giày lấp lánh; và thứ kinh dị từng là Lestat này, ta chằm chằm nhìn nó, bất lực.”
“Suốt một lúc lâu, Claudia cũng chỉ đứng đó nhìn. Máu đã ngấm hết vào tấm thảm trải sàn, nhuộm tối màu những vòng hoa dệt trên đó. Nó ánh lên nhớp dính và đen sì trên ván sàn. Máu dây cả vào chiếc váy trắng, đôi giày trắng và gò má cô bé. Em lau sạch máu trên mặt bằng một chiếc khăn tay nhàu nát, chùi qua loa những vết máu không thể lau đi được trên váy, rồi em nói, “Louis, anh phải giúp em đưa hắn ra khỏi nhà!”
Ta trả lời, “Không” và quay lưng lại với cô bé, với cái xác khô cong dưới chân em.
“Anh điên rồi à, Louis? Chúng ta không thể để cái xác trong nhà được! Claudia nói. Còn hai đứa bé nữa. Đứa kia đã chết vì ngộ độc ngải đắng rồi. Louis!”
“Ta biết điều đó là đúng và cần thiết, nhưng ta không thể nhúc nhích được.”
“Cô bé đã phải thúc ta bước đi, gần như dẫn đường cho ta từng bước một. Chúng ta thấy bếp lò của căn bếp bỏ hoang vẫn còn chất đầy xương của hai mẹ con người giúp việc mà cô bé đã giết - một sai lầm nguy hiểm, một quyết định ngu ngốc. Giờ cô bé gom nhặt xương vào một cái bao rồi kéo qua sân để chất lên xe ngựa. Ta tự tay buộc ngựa, suỵt bảo tay đánh ngựa đang ngái ngủ phải im lặng và lái chiếc xe tang rời khỏi thành phố, chạy như bay trên đường Bayou St. Jean, tiến tới vùng đầm lầy u tối kéo dài đến tận hồ Pontchartrain. Cô bé lặng lẽ ngồi bên cạnh ta trong khi cỗ xe không ngừng lăn bánh cho tới khi bọn ta băng qua những ngọn đèn khí đến ngoài cổng mấy ngôi nhà vùng ngoại ô, và con đường hẹp lại, bắt đầu xuất hiện những vết lún, đầm lầy vươn lên hai bên đường, một bức tường lớn dường như bất khả xâm phạm được tạo nên bởi những cây bách và dây leo. Ta có thể ngửi thấy mùi hôi của bùn và tiếng sột soạt của lũ thú hoang.”
“Claudia đã bọc xác Lestat vào một tấm chăn trước khi ta kịp chạm vào nó, và sau đó, trong nỗi kinh hãi của ta, cô bé đã rắc những cánh hoa cúc trắng lên cái xác. Vì thế cái xác tỏa ra một mùi ngọt ngào, tang tóc khi ta nhấc nó ra khỏi xe sau khi chuyển những cái xác kia. Cái xác dường như không còn trọng lượng và mềm oặt như được tết bằng dây, trong khi ta vác nó trên vai và tiến xuống dòng nước đen, nước dâng lên ngập đôi giày của ta, bàn chân ta cố lần tìm một lối đi bên dưới lớp bùn, cách xa khỏi nơi ta để xác hai đứa trẻ. Ta lội xuống mỗi lúc một sâu hơn với tấm thân tàn của Lestat trên vai, nhưng không biết tại sao mình lại làm thế. Và cuối cùng, khi ta bắt đầu nhìn thấy con đường mờ mờ sáng và bình minh đe dọa sắp xuất hiện trên nền trời, ta để xác hắn tuột khỏi tay và trôi tuột xuống dòng nước. Ta run run đứng đó, quan sát hình đang méo mó của chiếc chăn trắng bên dưới mặt nước nhầy nhụa. Sự tê liệt đã nâng đỡ tinh thần ta suốt chặng đường từ Royale Rue tới đây sắp sửa tan biến, để lại ta đột ngột trần trụi đứng nhìn và nghĩ: đây là Lestat. Đây là toàn bộ sự hóa thân và bí ẩn, đã chết và đi vào bóng đêm vĩnh hằng. Bất chợt ta cảm thấy như mình đang bị kéo mạnh xuống, như thể có một lực đang thúc giục ta trầm mình xuống dòng nước đen ngòm cùng hắn và không bao giờ quay trở lại nữa. Lực này rõ ràng và mãnh liệt đến mức so với nó, giọng nói con người chỉ còn như tiếng xào xạc. Hoàn toàn phi ngôn ngữ, nó nói với ta, “Anh biết phải làm gì mà. Hãy trầm mình vào đêm đen đi. Hãy buông bỏ tất cả.”
“Nhưng ngay khoảnh khắc đó, ta nghe thấy giọng Claudia. Em đang gọi tên ta. Ta quay đầu lại, và qua những dây leo chằng chịt, ta thấy bóng cô bé hiện lên xa xa và nhỏ bé, như một ngọn lửa màu trắng trên con đường mòn mờ sáng.”
“Sáng hôm ấy, em vòng tay ôm lấy ta, dụi đầu vào ngực ta trong chiếc quan tài đóng kín và thì thầm rằng em yêu ta, rằng từ nay bọn ta đã mãi mãi được giải thoát khỏi Lestat. “Em yêu anh, Louis,” cô bé nói đi nói lại cho đến khi bóng tối tìm đến cùng với nắp quan tài sập xuống và khoan dung xóa nhòa đi mọi ý thức.”
“Khi ta tỉnh giấc, cô bé đang lục lọi đồ đạc của hắn. Đó là một cuộc tấn công lặng lẽ, kiềm chế, nhưng lại tràn đầy một cơn tức giận dữ dội. Cô bé lấy hết đồ đạc ra khỏi tủ, đổ các ngăn kéo lên thảm, kéo từng chiếc áo khoác ra khỏi tủ quần áo của hắn và lộn các túi áo ra, vứt tiền xu, vé xem kịch và những mẩu giấy lộn lung tung khắp nơi. Ta đứng ở cửa phòng, kinh ngạc quan sát cô bé. Quan tài của hắn nằm đó, khăn choàng và thảm thêu chất đống bên trên. Ta bị thôi thúc bởi mong muốn mở nó ra. Ta đã thầm mong sẽ thấy hắn đang nằm trong đó. “Chẳng có gì cả!” cuối cùng cô bé tức tối thốt lên. Cô bé nhồi đống quần áo vào trong lò sưởi. Không có lấy một thông tin nào về nơi hắn sinh ra hay về người đã biến hắn thành ma cà rồng, em nói. Không có dù chỉ là một mảnh vụn. Cô bé nhìn ta như để tìm kiếm sự đồng cảm. Ta quay lưng lại với em. Ta không thể nhìn em. Ta đi về phòng ngủ của mình, căn phòng xếp đầy những cuốn sách ta yêu thích và kỷ vật về mẹ và em gái mà ta còn giữ được, và ta ngồi lên giường. Ta nghe tiếng cô bé ở cửa, nhưng ta không chịu nhìn em. “Hắn đáng phải chết!” cô bé nói với ta.”
“Vậy thì chúng ta cũng đáng phải chết. Theo cùng một cách. Trong mỗi đêm còn lại của cuộc đời chúng ta,” ta đáp trả.
“Hãy tránh xa khỏi ta.” Ta thốt lên câu đó mà ngỡ như suy nghĩ của mình vừa tự lên tiếng, còn tâm trí ta chỉ là một cơn hỗn loạn không rõ hình thù. “Ta vẫn sẽ chăm sóc cho em vì em không thể tự chăm sóc mình. Nhưng ta không muốn em đến gần ta. Em hãy ngủ trong chiếc quan tài em mua cho riêng mình. Đừng lại gần ta.”
“Em đã nói với anh là em sẽ làm việc đó. Em đã nói với anh rồi mà, cô bé nói. Giọng em chưa bao giờ yếu ớt như vậy, giống một chiếc chuông bạc nhỏ xíu đến vậy. Ta ngước lên nhìn em, sững sờ nhưng không bị thuyết phục. Khuôn mặt em dường như không còn là của em nữa. Khuôn mặt của một con búp bê không bao giờ có thể kích động đến nhường ấy. Louis, em đã cho anh biết trước cơ mà, em nói, đôi môi run rẩy. Em đã làm việc đó vì cả hai ta. Để chúng ta được tự do. Ta không thể chịu được sự hiện diện của cô bé. Ta không thể cưỡng lại vẻ đẹp, khuôn mặt dường như ngây thơ vô tội, và cơn kích động khủng khiếp của em. Ta bước ngang qua cô bé, hình như đã đẩy em ra, ta không rõ. Và khi đã đến gần lan can cầu thang, đột nhiên ta nghe thấy một âm thanh lạ.”
“Trong suốt mấy chục năm sống cùng em, ta chưa bao giờ nghe thấy âm thanh này. Chưa bao giờ kể từ sau cái đêm ta tìm thấy em, một đứa trẻ con người, đang bám víu lấy mẹ mình. Cô bé đang khóc!”
“Tiếng khóc của em đã kéo bước chân ta quay lại, trái với ý muốn của ta. Thế nhưng âm thanh ấy vang lên một cách vô thức, rất tuyệt vọng, như thể em không muốn ai có thể nghe được hoặc cả thế giới có nghe được cũng chẳng sao. Ta thấy em đang nằm trên giường ta, đúng chỗ ta thường ngồi đọc sách, đầu gối co lại, cả người em run lên theo từng tiếng khóc nức nở. Tiếng khóc thật thảm thiết. Nó thành thật và đau đớn hơn nhiều so với tiếng khóc của em lúc còn là con người. Ta từ từ, nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh em, đặt tay lên vai em. Cô bé giật mình ngẩng đầu lên, đôi mắt em mở tròn, miệng em run rẩy. Khuôn mặt em nhòe nhoẹt nước mắt, nước mắt hòa lẫn với máu. Đôi mắt em ậng nước và những giọt lệ nhuốm đỏ bàn tay bé nhỏ của em. Cô bé dường như không hề để ý thấy điều này, không nhìn thấy. Em đưa tay vén những lọn tóc đang dính trên trán. Cơ thể em run lên trong tiếng nức nở cầu xin.”
“Louis... Nếu em mất anh, em không còn gì cả, cô bé thì thào. Em sẵn sàng thay đổi tất cả để anh quay lại. Nhưng em không thể thay đổi những gì em đã làm được. Em vòng tay ôm lấy ta, trèo vào lòng ta, nức nở khóc nơi trái tim ta. Tay ta không muốn chạm vào người em; và rồi chúng cử động như thể ta không còn kiểm soát được chúng nữa, để ôm lấy em, bao bọc em, và vuốt ve mái tóc em. Em không thể sống thiếu anh được em thì thầm. Em thà chết còn hơn sống thiếu anh. Em sẽ chết như hắn đã chết. Em không thể chịu được ánh mắt như vừa rồi của anh. Em không thể chịu được ý nghĩ rằng anh không còn yêu em nữa. Tiếng nức nở của cô bé trở nên thảm thiết hơn, cay đắng hơn, cho đến khi cuối cùng ta cúi xuống hôn lên cổ và bầu má mềm mại của em. Như những quả mận mùa đông. Những quả mận được hái từ một cánh rừng thần kỳ, nơi chúng không bao giờ rụng xuống khỏi cành cây. Nơi những bông hoa không bao giờ héo tàn và chết đi. Ổn rồi, ổn rồi em thân yêu của ta. Ta nói với cô bé. “Ổn rồi, em thân yêu...” và ta nhẹ nhàng đong đưa cô bé trong vòng tay cho đến khi em gà gật ngủ, rì rầm điều gì đó về hạnh phúc vĩnh cửu của bọn ta, rằng bọn ta đã được giải thoát khỏi Lestat vĩnh viễn và từ nay chuyến phiêu lưu vĩ đại của cuộc đời bọn ta sẽ bắt đầu.”
“Chuyến phiêu lưu vĩ đại của cuộc đời bọn ta. Cái chết có nghĩa lý gì khi bọn ta có thể sống đến ngày tận thế? Và ngày tận thế có là gì ngoài một cụm từ, bởi vì nào có ai biết được thật ra thế giới này là cái gì? Bây giờ ta đã sống được hai thế kỷ, chứng kiến vô số ảo tưởng của kẻ này bị kẻ khác đập tan, ta vĩnh viễn trẻ trung và vĩnh viễn già nua, sống không ảo tưởng, cứ thế đi từ phút giây này sang phút giây khác như một chiếc đồng hồ bạc giữa hư vô, mặt đồng hồ được vẽ, những chiếc kim được chạm khắc tinh tế nhưng chẳng có ai ngắm nhìn và cũng chẳng nhìn ai, được chiếu rọi bởi thứ ánh sáng vốn không phải ánh sáng, như thứ ánh sáng mà Chúa đã dùng để tạo ra thế giới này, trước khi Người tạo ra ánh sáng thực sự. Tích tắc, tích tắc, tích tắc... chiếc đồng hồ cực kỳ chuẩn xác, được đặt trong một căn phòng mênh mông như vũ trụ.”
“Ta lại đi xuống phố một lần nữa, Claudia đã đi săn một hướng khác, mùi thơm từ tóc và váy của cô bé vẫn còn vương lại trên ngón tay, áo khoác ta, mắt ta dõi nhìn thật xa phía trước như tia sáng mờ nhạt trong chiếc đèn lồng. Ta thấy mình đang đứng trước một nhà thờ. Cái chết có nghĩa lý gì nếu ta có thể sống đến ngày tận thế. Ta hồi tưởng về cái chết của em trai ta, về mùi hương trầm và chuỗi tràng hạt. Bỗng nhiên ta muốn được đứng trong phòng tang lễ ấy, lắng nghe giọng phụ nữ lên bổng xuống trầm đọc kinh Kính Đức Mẹ, tiếng tràng hạt lách cách và mùi sáp nến. Ta nhớ được tiếng khóc than. Ký ức đó rất rõ ràng, như mới chỉ xảy ra ngày hôm qua và đang nấp ngay sau một cánh cửa mà thôi. Ta rảo bước xuống hành lang nhà thờ và khẽ đẩy mở cánh cửa chính.”
Mặt tiền rộng lớn của nhà thờ vươn cao lên thành một khối đen đối diện với quảng trường, nhưng cánh cửa đang để mở, và ta có thể thấy một ánh sáng dịu nhẹ, bập bùng bên trong. Đang là chập tối thứ Bảy và người ta đang xưng tội cho lễ Misa và lễ ban Thánh thể vào Chủ nhật. Những ngọn nến trên giá cắm tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Xa xa phía cuối của gian giữa giáo đường bàn thờ Chúa hiện ra giữa bóng tối, chất đầy những bông hoa trắng. Cũng tại nhà thờ này, người ta đã đưa em trai ta đến để tiến hành những nghi lễ cuối cùng trước khi ra nghĩa trang. Và đột nhiên ta nhận ra mình chưa từng quay lại nơi này kể từ ngày đó, chưa từng bước lên những bậc đá, băng qua cổng vòm và tiến vào trong những cánh cửa đang mở rộng kia.
“Ta không sợ hãi. Ngược lại, có lẽ ta thậm chí còn ao ước một chuyện gì đó sẽ xảy ra, ao ước những bậc thềm đá sẽ rung lắc khi ta bước vào gian sảnh mờ tối và nhìn thấy tủ đựng bánh thánh trên bàn thờ Chúa. Ta nhớ rằng mình đã từng bước qua nơi này một lần, khi những ô cửa sổ sáng bừng và tiếng thánh ca vang vọng khắp quảng trường Jackson. Ta bắt đầu do dự, băn khoăn không biết có bí mật nào đó mà Lestat chưa bao giờ nói với ta không, một thứ gì đó sẽ giết chết ta nếu ta đặt chân vào. Ta cảm thấy mong muốn bước vào bên trong đang thúc ép mình, nhưng ta cố đẩy ham muốn đó ra khỏi đầu, cố thoát khỏi sự mê đắm với những cánh cửa đang mở rộng và đám đông con người đang lầm rầm đồng thanh cầu nguyện. Ta có một thứ cho Claudia, một con búp bê ta đang định đem về cho em, một con búp bê cô dâu ta đã lấy từ một ô cửa sổ tối tăm của cửa hàng đồ chơi và đặt vào một chiếc hộp bọc giấy lụa, thắt ruy băng. Một con búp bê dành tặng Claudia. Ta cầm chiếc hộp rảo bước đi, lắng tai nghe tiếng organ vang dội sau lưng, mắt nheo lại vì ánh nến chói lọi.”
“Giờ đây ta đang hồi tưởng đến khoảnh khắc đó; đến nỗi sợ của ta khi đứng trước bàn thờ Chúa và nghe bài thánh ca Pange Lingua. Và ta lại nhớ, một cách dai dẳng, những ký ức về em trai. Ta có thể thấy chiếc quan tài đang từ từ được đưa vào lối đi giữa và đoàn người đưa tang phía sau. Như ta đã nói, lúc ấy nếu ta có cảm xúc gì thì đó chính là nỗi mong ngóng được sợ hãi, mong ngóng được có lý do để hoảng sợ trong khi rảo bước dọc theo những bức tường đá tối tăm. Mặc dù đang là mùa hè nhưng không khí vẫn lạnh lẽo và ẩm ướt. Và rồi ta chợt nhớ đến con búp bê của Claudia. Con búp bê đó đâu rồi nhỉ? Claudia đã chơi với con búp bê đó suốt bao năm. Đột nhiên, ta nhận ra mình đang tìm kiếm con búp bê đó, hệt như một kẻ đang điên cuồng và bất lực quờ quạng tay chân giữa cơn ác mộng, cố bước qua những cánh cửa không bao giờ mở hoặc cố đẩy những ngăn kéo không bao giờ đóng, vật lộn với những thứ vô nghĩa như vậy hết lần này đến lần khác, không thể hiểu được vì sao nỗ lực của mình dường như chỉ là tuyệt vọng, không thể hiểu được vì sao hình ảnh chiếc ghế với một mảnh khăn vắt qua lại khiến ta kinh hãi đến vậy.”
“Ta vào trong nhà thờ. Một người phụ nữ vừa bước ra khỏi phòng xưng tội và lướt qua hàng dài những người đang chờ tới lượt. Một người đàn ông lẽ ra phải bước lên nhưng lại không hề nhúc nhích; và đôi mắt ta, vẫn tinh tường cho dù ta đang lúc yếu ớt, đã chú ý điều này, ta quay lại nhìn ông ta. Ông ta đang nhìn ta chằm chằm. Ta vội quay lưng đi. Ta nghe tiếng ông ta bước vào phòng xưng tội và đóng cửa lại. Ta liền bước xuống lối đi của nhà thờ và ngồi vào một chiếc ghế trống, vì kiệt sức chứ không phải vì cảm thấy có đức tin. Suýt chút nữa ta còn định quỳ xuống theo thói quen cũ.”
“Tâm trí ta dường như cũng lộn xộn và bị giày vò như bất kỳ cơn người nào đang ở đây. Ta nhắm mắt lại một lúc và cố gắng gạt mọi suy nghĩ khỏi đầu. Hãy lắng nghe và quan sát, ta tự nhủ. Và bằng ý chí quyết tâm này, giác quan ma cà rồng của ta bắt đầu trỗi dậy từ nỗi thống khổ. Khắp xung quanh trong bóng tối, ta nghe thấy tiếng lầm rầm cầu nguyện, tiếng lách cách của những chuỗi tràng hạt, tiếng thanh nhẹ của một người đàn bà đang quỳ trước Chặng thứ Mười hai. Mùi chuột lan tới từ giữa một biển những chiếc ghế dài bằng gỗ. Một con chuột đang chạy ở đâu đó gần bàn thờ chính, một con khác đang ở dưới bàn thờ gỗ chạm khắc của Đức Mẹ Mary. Những giá nến vàng tỏa sáng lung linh trên bàn thờ một bông cúc trắng rực rỡ bị gãy cuống, những giọt sương lấp lánh trên những cánh hoa, mùi chua bốc ra từ những chiếc lọ cắm, từ các bàn thờ và các bàn thờ bên hông, từ tượng Đức Mẹ, tượng Chúa Jesus và tượng các thánh. Ta nhìn chằm chằm vào các bức tượng; đột nhiên, ta hoàn toàn bị ám ảnh bởi những hình bóng vô hồn, những đôi mắt trơ trơ, những bàn tay trống rỗng và những nếp vải gấp cứng đờ đó. Rồi cơ thể ta co giật dữ dội đến mức ta xô người về phía trước, tay phải bấu chặt vào băng ghế bên trên. Nhà thờ này là một nghĩa trang của những vật thể chết, của những hình nộm tang lễ và thiên thần bằng đá. Ta ngước nhìn và thấy mình trong một ảo ảnh rõ rành rành, đang tiến xuống những bậc thềm dẫn lên bệ thờ, mở tủ đựng bánh thánh bất khả xâm phạm, thò hai bàn tay quái thai vươn tới chén đựng nước thánh, cầm một chiếc bánh thánh lên và bóp cho vụn bánh rơi xuống thảm trải sàn; rồi giẫm lên chỗ vụn bánh thiêng liêng đó, bước tới bước lui trước bàn thờ chúa, ban Tiệc Thánh cho cát bụi. Ta đứng bật dậy và nhìn trân trối ảo ảnh đang diễn ra trước mắt. Ta biết rất rõ ý nghĩa của nó.”
“Chúa không sống trong nhà thờ này; những bức tượng thánh kia hoàn toàn vô giá trị. Ta là sinh vật siêu nhiên duy nhất ở đây. Ta là sinh vật siêu nhiên duy nhất có ý thức đang đứng trong nhà thờ này! Nỗi cô độc. Cô độc đến mức ta muốn phát điên. Toàn bộ nhà thờ sụp đổ trong ảo giác của ta; những bức tượng thánh ngả nghiêng và rơi xuống đất. Bầy chuột đang lúc nhúc ăn bánh thánh và làm tổ trên bục cửa. Một con chuột đuôi dài đang kéo gặm chiếc khăn trải bàn thờ đã cũ sờn, cho đến khi những ngọn nến đổ ụp xuống và lăn lóc khắp nơi trên sàn đá phủ đầy rêu nhóp nháp. Còn ta vẫn đứng trơ ra đó. Không cảm xúc. Không chết - đột nhiên chìa bàn tay ra nắm lấy bàn tay thạch cao của Đức Mẹ Mary và thấy bàn tay Người gãy ra trong tay ta, để rồi ta cầm bàn tay vỡ vụn trong lòng bàn tay mình, và áp lực từ ngón tay cái ta đã biến nó thành một nắm bột.”
“Và đột nhiên, xuyên qua đống tàn tích, xuyên qua những cánh cửa mở rộng, nơi ta có thể thấy bốn phương tám hướng đều đã biến thành đồng hoang, thậm chí cả dòng sông cũng đã đóng băng và chật cứng những xác tàu bè vỡ nát, giữa khung cảnh hoang tàn ấy, bỗng hiện ra một đoàn đưa tang, một nhóm đàn ông phụ nữ áo trắng, nhợt nhạt, hệt như những con quái vật với đôi mắt long lanh đang vận đồ đen, chiếc quan tài rầm rầm tiến tới trên những bánh xe gỗ, bầy chuột đang cuống cuồng chạy trên đống đá cẩm thạch đổ nát. Đoàn đưa tang cứ tiến lên, để ta trông thấy Claudia trong đó, mắt nhìn trừng trừng xuyên qua tấm mạng đen mỏng, một bàn tay đeo găng ôm chặt một cuốn kinh màu đen, bàn tay còn lại đặt trên chiếc quan tài đang chầm chậm di chuyển bên cạnh. Và nằm trong quan tài, bên dưới lớp kính, ta kinh hoàng nhận ra đó chính là bộ xương của Lestat, làn da nhăn nhúm giờ đây đã dính sát vào khung xương, đôi mắt chỉ còn là hai cái hốc đen ngòm, mái tóc vàng xõa ra trên tấm vải xa tanh trắng.”
“Đoàn đưa tang dừng lại. Từng người trong đoàn tiến vào, lẳng lặng ngồi xuống những dãy ghế bụi bặm, và Claudia cầm cuốn sách quay lại, mở nó ra và nâng mạng che mặt lên, vừa nhìn ta chằm chằm vừa chạm ngón tay lên trang sách. Từ giờ ngươi sẽ bị đất mẹ nguyền rủa, em thì thầm tiếng thì thầm của em vang dội giữa đống đổ nát. Bây giờ, người sẽ bị đất rủa sả, đất đã chịu hút máu của em ngươi, máu chính tay ngươi làm đổ ra. Khi ngươi trồng tỉa, đất chẳng sinh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ lưu lạc và trốn tránh trên mặt đất... và bất cứ ai giết ngươi thì sẽ bị báo thù bảy lần.”
“Ta hét lên với cô bé, ta gào lên, tiếng gào vọng ra từ sâu thẳm trong ta như một sức mạnh hắc ám cuộn trào từ đôi môi, khiến cơ thể ta quay cuồng. Một tiếng thở dài khủng khiếp vọng lại từ phía đoàn người đưa tang, một bản hợp xướng đang vang lên ngày càng to hơn, và khi quay lại nhìn, ta thấy họ đang đồng loạt tiến về phía ta, dồn ta về lối đi giữa nhà thờ, áp sát chiếc quan tài, khiến ta phải chống cả hai tay lên quan tài để giữ thăng bằng. Và ta đứng đó nhìn trân trối xuống cái xác trong quan tài, không còn là Lestat nữa mà đã biến thành em trai ta. Một bầu không khí tĩnh lặng bao trùm, như thể một tấm màn đã phủ xuống tất cả và khiến hình dạng của mọi vật thể tan biến trong nếp gấp tĩnh lặng của nó. Em trai ta nằm kia, mái tóc vẫn vàng óng, khuôn mặt vẫn trẻ trung và ngọt ngào như khi còn sống, chân thực và ấm áp trước mắt ta như bao nhiêu năm về trước, lâu đến mức ta không còn nhớ nổi nữa, được tái sinh một cách hoàn hảo, hoàn hảo đến từng chi tiết. Mái tóc vàng của nó được chải gọn ra phía sau, mắt nó nhắm nghiền như đang ngủ, những ngón tay mềm mại đang nắm lấy cây thánh giá trước ngực, đôi môi hồng và căng mọng đến mức ta không chịu nổi khi phải nhìn mà không được chạm lên đó. Và khi ta đưa tay ra định chạm lên làn da mịn màng của em trai, ảo ảnh biến mất.”
“Ta vẫn đang ngồi trong nhà thờ vào một tối thứ Bảy, mùi sáp nến nồng hơn trong bầu không khí đặc quánh, người phụ nữ quỳ phía trước đã rời đi và giờ đây, bóng tối tụ lại sau lưng ta, đối diện với ta, tràn lên trước mặt ta. Một cậu bé mặc áo thầy tu màu đen xuất hiện, tay cầm một chiếc chụp nến có cán dài mạ vàng, úp miệng phễu nhỏ đó xuống từng ngọn nến. Ta vẫn cứ đờ đẫn ngồi. Cậu bé liếc nhìn ta rồi bước đi, có lẽ không muốn quấy rầy người đàn ông đang đắm mình trong những lời cầu nguyện. Và khi cậu bé bước đến chùm nến kế bên, ta cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình.”
“Việc có hai con người đã tiến đến gần mà ta hoàn toàn không nghe, không thấy, không hề quan tâm, có lẽ đã cảnh báo rằng ta đang gặp nguy hiểm, nhưng ta mặc kệ. Ta ngẩng đầu lên và nhìn thấy một vị linh mục tóc xám. “Con có muốn xưng tội không?” ông ta hỏi. “Ta sắp phải khóa cửa nhà thờ rồi.” Vị linh mục nheo mắt phía sau tròng kính dày cộp. Giờ đây ánh sáng duy nhất trong phòng là từ những ngọn nến đựng trong ly thủy tinh đỏ đặt trước các tượng thánh, và bóng tối nhảy múa trên những bức tường chót vót. Con đang gặp rắc rối phải không? Ta có thể giúp gì cho con?”
“Không, đã quá muộn, quá muộn rồi, ta thì thầm với vị linh mục và dợm đứng lên để ra ngoài. Vị linh mục lùi xa khỏi ta, dường như vẫn không nhận thấy bất cứ dấu hiệu đáng báo động nào từ diện mạo của ta, rồi ông ta dịu dàng nói để trấn an ta: Không, vẫn còn sớm. Con có muốn vào phòng xưng tội không?”
“Trong thoáng chốc, ta cứ nhìn chằm chằm vào ông ta. Ta những muốn bật cười. Rồi ta chợt nghĩ mình cứ làm theo. Nhưng ngay cả khi theo sau ông ta bước xuống lối đi giữa nhà thờ tiến ra bóng tối của tiền sảnh, ta vẫn biết việc mình đang làm là vô nghĩa và điên rồ. Dầu vậy, ta vẫn quỳ xuống trong gian phòng gỗ nhỏ, chắp tay lên bàn cầu nguyện trong khi vị linh mục ngồi trong gian phòng kế bên và kéo mở ô cửa sổ để ta có thể thấy hình bóng lờ mờ của ông ta. Ta nhìn ông ta chằm chằm hồi lâu. Sau đó, ta đưa tay làm dấu thánh và nói, “Xin Cha hãy tha thứ cho những tội lỗi của con, những tội lỗi rất thường xuyên và đã kéo dài từ lâu mà con không biết cách nào thay đổi, cũng không biết phải xưng tội trước Chúa như thế nào.”
“Con trai ta, Chúa trời có khả năng tha thứ vô hạn,” linh mục thì thầm. “Hãy thú nhận với Ngài bằng cách tốt nhất con có thể và thật thành tâm.”
“Là tội giết người, thưa Cha, giết hết người này đến người khác. Cô gái trên quảng trường Jackson cách đây hai đêm, chính con đã giết cô ta, và hàng ngàn người trước đó nữa, đêm nào con cũng giết từ hai đến ba người, suốt bảy mươi năm qua. Con đã bước đi trên đường phố New Orleans như Tử thần và giết người để sinh tồn. Con không phải người thường, thưa Cha, con là một kẻ bất tử và bị nguyền rủa, như một thiên thần đã bị Chúa đày xuống địa ngục. Con là ma cà rồng.”
“Vị linh mục quay đầu lại. Cái gì thế này, một trò tiêu khiển của anh chăng? Anh đang đùa tôi đấy à? Anh muốn trêu ghẹo một ông già phải không!” ông ta nói. Rồi ông ta kéo sập ô cửa sổ lại. Ta vội mở cửa phòng và bước ra ngoài thì thấy ông ta đang đứng ngay đó. “Chàng trai trẻ, cậu có kính sợ Chúa trời chút nào không? Cậu có hiểu thế nào là tội báng bổ thánh thần không?” ông ta trừng mắt lên nhìn ta. Bấy giờ, ta chầm chậm, chầm chậm tiến lại gần ông ta hơn, và ban đầu, vị linh mục chỉ trừng mắt nhìn ta đầy giận dữ. Rồi ông ta bối rối lùi lại một bước. Nhà thờ lúc ấy đã vắng hoe, im lặng và tối om, người giữ đồ thờ đã rời đi và chỉ còn những ngọn nến leo lét trên bàn thờ tít đằng xa. Chúng tạo thành một vòng tơ vàng mềm mại bao quanh mái tóc và khuôn mặt xám ngoét của vị linh mục. “Vậy là không có sự tha thứ nào hết!” ta nói và đột ngột nắm lấy vai vị linh mục, giữ lấy ông ta bằng sức lực siêu nhiên để ông ta không cách nào động cựa được và ta kéo ông ta lại gần mặt mình. Miệng ông ta há hốc ra kinh hoảng. Ông đã thấy ta là cái gì chưa! Nếu Chúa có tồn tại, tại sao ông ta lại cho phép ta tồn tại, ta nói với ông ta. “Ông còn dám nói đến chuyện báng bổ ư!” Vị linh mục bấm móng tay vào tay ta, tìm cách thoát ra, sách lễ của ông ta rơi xuống sàn, chuỗi tràng hạt kêu lách cách bên trong nếp gấp của chiếc áo thầy tu. Chẳng khác nào ông ta đang vật lộn với các bức tượng thánh vừa sống dậy. Ta nhếch môi lên cho ông ta thấy hai chiếc răng nanh khủng khiếp. “Tại sao Chúa cho phép ta tồn tại?” ta nói. Vẻ mặt vị linh mục làm ta điên tiết, nỗi sợ của ông ta, sự khinh miệt của ông ta, cơn giận dữ của ông ta. Ta nhìn thấy trong đó mọi hận thù mà ta từng thấy ở Babette, và ông ra rít lên với ta, “Thả ta ra! Ác quỷ!” trong cơn hoảng loạn rất con người.
“Ta thả ông ta ra và đứng đó quan sát với một niềm say mê độc ác cảnh ông ta loạng choạng chạy ra giữa lối đi giữa nhà thờ như thể đang cày trên tuyết. Và ta đuổi theo vị linh mục, nhanh đến nỗi chỉ trong chớp mắt ta đã dang rộng đôi tay bao vây ông ta, áo choàng của ta quật ông ta vào trong bóng tối, trong khi đôi chân ông ta vẫn cố lết đi. Vị linh mục nguyền rủa ta, gọi tên Chúa trước bàn thờ. Và rồi ta nắm lấy ông ta ngay trước hàng rào chấn song trước cung thánh, kéo ông ta lại nhìn thẳng vào mặt mình, rồi cắm răng vào cổ họng ông ta.” Ma cà rồng ngừng lời.
Trước đó, chàng trai đã định châm điếu thuốc lá. Và bây giờ anh ngồi đó, một tay cầm que diêm, một tay cầm điếu thuốc chưa được châm, vẻ mặt vẫn đờ đẫn như một hình nộm trong cửa hiệu, nhìn chằm chằm vào ma cà rồng. Ma cà rồng lúc này đang nhìn xuống sàn nhà. Rồi đột nhiên hắn quay lại, với lấy bao diêm trong tay chàng trai, quẹt một que và chìa nó ra. Chàng trai đưa điếu thuốc của mình tới nhận lửa. Anh hít vào một hơi rồi nhanh chóng nhả khói ra. Anh vặn nắp chai rượu và uống một ngụm lớn trong khi mắt vẫn không rời khỏi ma cà rồng.
Chàng trai lại một lần nữa kiên nhẫn chờ đợi ma cà rồng tiếp tục câu chuyện.
“Ta không còn nhớ châu Âu thời thơ ấu của ta. Thậm chí cả hành trình đến nước Mỹ cũng không - thực vậy. Việc ta được sinh ra ở nơi đó chỉ còn là một ý niệm trừu tượng. Vậy mà nó vẫn luôn nắm giữ một phần tâm hồn ta, mạnh mẽ không kém gì quyền kiểm soát của nước Pháp trên một thuộc địa. Ta nói được tiếng Pháp, đọc được tiếng Pháp, vẫn nhớ rằng mình từng chờ đợi tin tức về cuộc Cách mạng Pháp và đã đọc được trên những tờ báo của Paris tin Napoleon thắng trận. Ta nhớ đã cực kỳ tức giận khi ông ta quyết định bán thuộc địa Louisiana cho Mỹ. Ta không rõ bản chất con người Pháp trong mình đã tồn tại bao lâu. Đến lúc ấy thì thực ra anh ta không còn nữa, nhưng ta vẫn vô cùng khao khát được nhìn thấy châu Âu và được khám phá vùng đất đó, khao khát đó không chỉ được nhen nhóm từ các cuốn sách văn học và triết học, mà còn vì cảm giác rằng nguồn gốc châu Âu trong ta mãnh liệt và sâu sắc hơn trong những người Mỹ khác rất nhiều. Ta là một người Pháp di cư muốn được thấy nơi khởi nguồn của mình.”
“Vậy là giờ đây, ta hướng tâm trí vào việc này. Ta dọn sạch tủ quần áo và vứt hết những thứ đồ không cần thiết. Thực ra, những món đồ thiết yếu đối với ta không nhiều. Phần lớn đồ đạc ta vẫn để lại trong những ngôi nhà ở New Orleans, nơi mà ta chắc chắn sớm muộn gì mình cũng sẽ quay lại, cho dù chỉ là để chuyển đồ đạc sang một ngôi nhà khác tương tự để bắt đầu cuộc sống mới ở New Orleans. Ta không thể tưởng tượng được việc rời khỏi nơi ấy mãi mãi. Nhưng trái tim và lý trí ta lúc ấy đều hướng về châu Âu.”
“Đó là lần đầu tiên ta thấm nhuần được ý thức rằng mình có thể khám phá cả thế giới này nếu muốn. Vì bây giờ ta, như Claudia nói, đã được tự do.”
“Trong thời gian đó, cô bé phác thảo kế hoạch. Cô bé có một ý định rất rõ ràng là bọn ta phải đến trung tâm châu Âu đầu tiên, dường như đó là nơi có nhiều ma cà rồng đang sinh sống nhất. Cô bé tin chắc rằng bọn ta sẽ tìm được gì đó có thể chỉ đường dẫn lối và cho bọn ta biết về nguồn gốc của mình. Nhưng còn một điều khiến cô bé bồn chồn hơn cả đáp án cho câu hỏi của bọn ta: cuộc gặp gỡ với đồng loại. Em không ngừng nhắc đi nhắc lại câu này, “Đồng loại của em,” và em thốt lên câu ấy với ngữ điệu khác hẳn ngữ điệu mà ta có thể sẽ dùng. Cô bé khiến ta cảm nhận được cái hố sâu đang chia cắt bọn ta. Trong những năm đầu sống cùng em, ta tưởng em cũng giống như Lestat, hấp thụ bản năng giết chóc của hắn, dù cho em chia sẻ với ta mọi sở thích khác. Nhưng giờ đây, ta nhận ra rằng em còn ít nhân tính hơn cả ta lẫn hắn, ít nhân tính hơn mức mà bọn ta có thể tưởng tượng được. Không còn chút ý niệm nào dù là mỏng manh nhất liên kết em với sự đồng cảm trong cuộc sống con người. Đó có lẽ là lý do tại sao em luôn cố bám lấy ta, bất chấp tất cả những điều ta đã làm hoặc không thể làm. Ta không phải đồng loại của em. Ta chỉ là thứ na ná điều đó nhất mà thôi.”
“Nhưng chẳng lẽ,” chàng trai đột ngột hỏi, “không thể dạy cô bé về nhân tính như anh đã từng dạy cô bé về những thứ khác?”
“Làm thế có ích gì?” ma cà rồng thẳng thừng nói. “Để cô bé có thể đau đớn giống ta ư? Ồ, ta thừa nhận là lẽ ra ta phải dạy cô bé một đạo lý nào đó để xóa bỏ khao khát giết Lestat trong em. Vì lợi ích của riêng ta, lẽ ra ta phải làm thế. Nhưng anh thấy đấy ta không tự tin vào bất cứ điều gì khác. Một khi đã sa ngã, ta không còn tự tin vào bất kỳ điều gì.”
Chàng trai gật đầu. “Tôi không có ý ngắt lời anh. Anh đang định nói gì đó,” anh nói.
“Ta chỉ định nói là ta có thể quên đi chuyện xảy ra với Lestat bằng cách hướng tâm trí sang chuyến đi tới châu Âu. Ý nghĩ về những ma cà rồng khác cũng khiến ta phấn chấn. Chưa một khoảnh khắc nào ta hồ nghi sự tồn tại của Chúa. Ta chỉ bị lạc lối. Một sinh vật siêu nhiên đang trôi dạt giữa thế giới tự nhiên này.”
“Nhưng bọn ta gặp phải một rắc rối trước khi lên đường sang châu Âu. Ồ, chính xác thì rất nhiều rắc rối đã phát sinh. Chuyện bắt đầu với chàng nhạc sĩ. Cậu ta đã tìm đến nhà ta vào buổi tối ta ngồi ở nhà thờ, và tối hôm sau lại đến một lần nữa. Ta đã đuổi người giúp việc nên phải đích thân đón tiếp cậu ta. Và diện mạo của cậu ta khiến ta sửng sốt.”
“Chàng nhạc sĩ đã gầy đi rất nhiều so với những gì ta còn nhớ và rất nhợt nhạt, mặt lấm tấm mồ hôi, có vẻ đang bị sốt. Và cậu ta hoàn toàn suy sụp. Khi ta nói rằng Lestat đã đi xa, ban đầu chàng trai không chịu tin và khẳng định là nếu thế Lestat sẽ để lại cho cậu ta lời nhắn hoặc thứ gì đó. Và rồi cậu ta đi lên phố Royale, vừa đi vừa lẩm bẩm một mình về chuyện đó, như thể chẳng để ý gì đến những người xung quanh. Ta bắt kịp chàng nhạc sĩ dưới một ngọn đèn khí. “Quả thực anh ta có để lại cho anh một thứ,” ta nói, vội lần tìm ví tiền của mình. Ta không biết hiện trong ví có bao nhiêu tiền, nhưng ta định sẽ đưa hết cho cậu ta. Có khoảng vài trăm đô. Ta dúi số tiền vào tay chàng nhạc sĩ. Tay cậu ta rất gầy, đến mức ta có thể nhìn thấy những tĩnh mạch màu xanh hằn lên bên dưới lớp da trong veo. Chàng trai lập tức trở nên hoan hỉ và ta nhận ra ngay rằng đây không chỉ là chuyện tiền bạc. “Vậy là anh ấy đã nhắc đến tôi, anh ấy nhờ anh đưa số tiền này cho tôi!” cậu ta nói và nắm chặt tiền trong tay như thể đó là thành tích. “Anh ấy nhất định còn phải nói điều gì khác nữa!” Chàng trai nhìn ta chằm chằm bằng ánh mắt đau khổ. Ta không trả lời ngay, vì trong khoảnh khắc đó, ta đã nhận thấy trên cổ cậu ta có hai lỗ thủng nhỏ. Đó là hai vết xước vẫn còn rướm máu, nằm ngay bên trên cổ áo cáu bẩn của cậu ta. Những tờ tiền bay phần phật trong tay chàng trai, cậu ta không chú ý gì đến âm thanh huyên náo của xe cộ trên đường hay những người đi đường chen chúc quanh chúng ta. Cất tiền đi ta thì thầm. Anh ta có nhắc đến cậu, có nói rằng cậu phải tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.”
Chàng nhạc sĩ vẫn nhìn ta chằm chằm như thể đang chờ đợi một điều gì khác. “Thế ư? Anh ấy còn nói gì nữa không?” cậu ta hỏi. Ta không biết phải nói gì với cậu ta nữa. Ta sẽ bịa ra bất cứ điều gì để cậu ta thấy yên lòng và rời khỏi đây ngay lập tức. Ta đau đớn khi phải nói về Lestat; những câu từ dường như tan biến trên môi ta. Và vết thương trên cổ chàng trai làm ta kinh ngạc. Ta không thể hiểu được điều này. Ta nói với chàng nhạc sĩ những điều vô nghĩa, rằng Lestat chúc cậu ta sống tốt, rằng hắn phải đến St. Louis bằng tàu hơi nước, nhưng rồi hắn sẽ trở lại, rằng chiến tranh sắp nổ ra đó và hắn có công chuyện... Chàng trai hớp lấy mỗi từ ta nói ra như thể cậu ta không thể nghe cho đủ và đang muốn thúc giục ta nói ra điều đó. Cậu ta run rẩy, mồ hôi lại tứa ra ướt trán trong khi cậu ta cứ gặng hỏi ta, rồi đột nhiên cậu ta cắn chặt môi và nói, “Nhưng tại sao anh ấy lại đi!” như thể những điều ta nói chẳng giải thích được gì.”
“Có chuyện gì vậy?” ta hỏi chàng nhạc sĩ. “Anh cần gì từ anh ta? Tôi chắc rằng anh ta cũng muốn tôi...”
“Anh ấy là bạn tôi!” Chàng trai đột nhiên quay phắt lưng lại, hạ thấp giọng xuống như đang muốn kìm nén cơn phẫn nộ.
“Anh đang không khỏe, ta nói với cậu ta. Anh nên nghỉ ngơi đi. Có cái gì đó...” ta chỉ tay vào vết thương, chú ý tới từng cử động của cậu ta, “... chỗ cổ họng anh.” Chàng nhạc sĩ thậm chí còn không hiểu ta đang muốn nói cái gì. Cậu ta đưa tay lên cổ tìm kiếm, sờ vào vết thương, chà xát nó.
“Có quan trọng gì không? Tôi không biết nữa. Chắc là do côn trùng cắn, bọn chúng ở khắp nơi, cậu ta nói và quay lưng đi. Anh ấy còn nói gì khác không?”
“Ta đứng đó một hồi lâu nhìn theo chàng trai đi lên phố Royale, một bóng dáng điên dại, gầy gò và cao lêu nghêu đang đi liêu xiêu trong bóng đêm, khiến cho mọi phương tiện giao thông trên đường đều phải dạt ra xa.”
“Ta lập tức kể với Claudia về vết thương chỗ cổ họng chàng nhạc sĩ.”
“Đó là đêm cuối cùng của bọn ta ở New Orleans. Trước nửa đêm bọn ta sẽ lên tàu để khởi hành vào sáng sớm. Bọn ta thống nhất là sẽ ra ngoài cùng nhau. Cô bé tỏ ra lo lắng, và một nỗi buồn sâu sắc in hằn trên khuôn mặt em, nỗi buồn không chịu biến mất từ sau trận khóc. “Hai vết thương đó có nghĩa là gì nhỉ?” em hỏi ta. “Nghĩa là hắn đã hút máu chàng nhạc sĩ đó khi anh ta đang ngủ, hay anh ta đã cho phép hắn làm vậy? Em không thể tưởng tượng được...” em nói.
“Phải, có lẽ vậy.” Nhưng ta cũng không dám chắc. Bỗng nhiên ta nhớ ra Lestat từng hăm dọa Claudia rằng hắn đã tìm được một chàng trai sẽ làm ma cà rồng tốt hơn cô bé. Phải chăng hắn đã lên kế hoạch cho việc đó thật? Lên kế hoạch bổ sung một thành viên cho nhóm bọn ta?
“Nhưng bây giờ chuyện đó không quan trọng nữa, Louis, em nhắc ta. Đêm nay bọn ta phải chia tay New Orleans. Bọn ta tách khỏi đám đông trên phố Royale. Các giác quan của ta vô cùng sắc bén với mọi thứ xung quanh, bám chặt chúng, không muốn chấp nhận rằng đêm nay là đêm cuối.”
“Phần lớn khu phố Pháp cũ đã bị thiêu rụi từ lâu, và kiến trúc đang chiếm ưu thế lúc bấy giờ, cũng như bây giờ, là của Tây Ban Nha, có nghĩa là, khi đang đi trên những con đường chật hẹp đến mức xe ngựa phải chạy nối đuôi nhau, bọn ta sẽ đi ngang qua những bức tường vôi trắng và những cánh cổng sắt lớn hé lộ những khoảng sân sáng đèn ở phía xa xa, hệt như sân nhà bọn ta, chỉ khác là mỗi khoảng sân dường như đều nắm giữ một lời hứa, một bí ẩn đầy mời gọi nào đó. Những cây chuối khổng lồ phủ lá xuống tận hành lang phía trong, hoa và dương xỉ mọc đầy trên lối đi. Cao cao phía trên, trong bóng tối, có những bóng người đang ngồi ở ban công. Họ tựa lưng vào những cánh cửa đang mở rộng, tiếng xì xầm trò chuyện của họ hòa vào tiếng những chiếc quạt phe phẩy gần như bị át đi bởi tiếng gió nhè nhẹ thổi từ bờ sông; và trên những bức tường, đậu tía và hoa lạc tiên mọc dày đặc, khiến bọn ta quệt phải chúng khi bước qua, và chốc chốc bọn ta lại dừng chân ở chỗ này chỗ kia để ngắt một đóa hồng rực rỡ hoặc một nhánh hoa kim ngân. Qua những cửa sổ cao, bọn ta có thể thấy những ánh nến chập chờn nhảy múa trên trần nhà chạm khắc hoa văn tinh tế và vòng ánh sáng rực rỡ từ những chùm đèn pha lê. Thỉnh thoảng một dáng người mặc dạ hội lại xuất hiện bên lan can, trên cổ lấp lánh đá quý, mùi nước hoa thoang thoảng hòa quyện vào hương hoa, lan tỏa trong không khí.”
“Có những con đường, những mảnh vườn, những góc phố bọn ta yêu thích nhất, nhưng chẳng mấy chốc chúng ta đã đến vùng ngoại ô của khu phố cổ và thấy đầm lầy vươn lên. Hết chuyến xe ngựa này đến chuyến xe ngựa khác chạy vượt qua bọn ta từ đường Bayou, hướng tới các sân khấu kịch và nhà hát opera. Nhưng giờ đây, những ngọn đèn của thành phố đã bị bỏ lại phía sau bọn ta, và những mùi hương pha trộn của nó đã bị nhấn chìm trong mùi nồng nặc của vùng đầm lấy mục nát. Nhìn đến những thân cây cao, oằn oẹo và phủ đầy rêu, ta lại thấy kinh tởm và nhớ đến Lestat. Ta đang nhớ đến thi thể hắn hệt như ta từng nhớ thi thể em trai lúc trước. Ta lại như nhìn thấy hắn chìm sâu xuống đám rễ của những cây bách và sồi, hình thù teo rúm gớm ghiếc đó trong tấm vải trắng. Ta tự hỏi không biết lũ sinh vật đêm có tránh xa khỏi cái xác đó không, chúng có dựa vào bản năng mà đoán được rằng cái vật khô khốc, nứt toác kia là một thứ kịch độc, hay chúng đã tụ tập lại trong làn nước hôi thối rỉa những mảng thịt khô đét trên người hắn.”
“Ta rời khỏi đầm lầy và quay lại trung tâm của thành phố cũ, cảm nhận sự an ủi từ bàn tay dịu dàng của Claudia trong tay ta. Cô bé đã gom được một bó hoa từ những bức tường bao quanh các khu vườn và đang ôm sát nó vào ngực chiếc váy vàng của mình, vùi mặt vào bó hoa để hít hà hương thơm của nó. Và em thì thầm nhỏ đến mức ta phải cúi sát đầu xuống để lắng nghe. “Louis, nó khiến anh bất an. Nhưng anh biết cách khắc phục mà. Hãy để xác thịt... hãy để xác thịt dẫn lối cho tâm trí...” Em buông bàn tay ta ra và ta nhìn em bước ra xa, rồi quay lại để nhắc lại mệnh lệnh ấy. Hãy quên hắn đi. Hãy để xác thịt dẫn lối cho tâm trí...”
“Ta chợt nhớ tới tập thơ từng cầm trên tay khi Claudia thốt lên câu nói đó lần đầu, ta đã lưu lại những dòng này trên trang sách:
Môi em đỏ,
Nét mặt em hoang dại,
Mái tóc em vàng,
Làn da em trắng như mắc bệnh phong,
Em chính là ác mộng,
Là Tử Thần giữa trần gian,
Kẻ khiến máu người đông cứng.
“Cô bé đang mỉm cười với ta từ một góc xa, tà váy lụa vàng thấp thoáng trong bóng tối của con đường hẹp, rồi biến mất. Bạn đồng hành của ta, bạn đồng hành vĩnh viễn.”
“Ta rẽ vào phố Dumaine, rảo bước qua những ô cửa sổ tối tăm. Một ngọn đèn đang chậm rãi lụi dần phía sau tấm rèm cửa lớn bằng đăng ten, bóng đen của lớp đăng ten đổ xuống nền gạch, lan rộng, mờ dần và tan biến trong bóng đêm. Ta vẫn không ngừng bước, tiến đến gần biệt thự của phu nhân LeClair, nghe thấy tiếng violin vọng tới mờ nhạt nhưng chói tai từ căn phòng trên lầu, sau đó là tràng cười khô sắc của những vị khách. Ta đứng đối diện với ngôi nhà trong bóng tối, quan sát vài người trong số họ di chuyển trong căn phòng sáng trưng; một vị khách lướt qua từng ô cửa sổ, tay cầm một ly rượu màu vàng chanh nhạt, ngước lên mặt trăng như thể đang cố tìm một vị trí thuận lợi hơn để ngắm nhìn thứ gì đó trên bầu trời đêm, và cuối cùng cũng tìm thấy nó ở ô cửa sổ cuối cùng, tay tựa lên tấm rèm cửa tối màu.”
“Ở phía đối diện ta, có một cánh cửa để ngỏ trên bức tường gạch, một tia sáng hắt xuống hành lang đầu xa. Ta băng qua con phố hẹp và ngửi thấy mùi đặc quánh của căn bếp, bao phủ không gian bên ngoài cánh cổng. Mùi thịt đang nấu khiến ta lợm giọng. Ta bước vào hành lang. Có ai đó vừa bước rất nhanh qua sân và đóng cánh cửa hậu lại. Nhưng rồi ta thấy một bóng người khác. Đó là một phụ nữ đang đứng bên bếp lửa, một phụ nữ da đen mảnh khảnh với vòng khăn rực rỡ trên đầu, đường nét khuôn mặt rõ rệt trong ánh lửa như một bức tượng sáp. Cô đang khuấy món ăn trong nồi. Ta nhận ra được mùi gia vị ngòn ngọt, mùi rau kinh giới xanh và nguyệt quế, rồi sau đó là làn hơi hôi thối của thịt đang nấu, máu và thịt đang phân rã trong chất lỏng sôi sùng sục. Ta đến gần, quan sát cô gái đặt chiếc muôi sắt dài xuống rồi chống hai tay lên cái hông nhọn nở nang, màu trắng toát của sợi dây tạp dề làm nổi lên cái eo thon nhỏ của cô. Nước thịt dâng lên thành một lớp bọt trên miệng nồi, sôi trào ra bếp than đang cháy rực bên dưới. Mùi hương nồng đượm của cô gái lan tới mũi ta, mùi hương đặc quánh của các loại gia vị, nồng hơn rất nhiều mùi của thứ hỗn hợp trong nồi, mùi hương trêu ngươi ta trong khi ta bước đến gần hơn rồi tựa lưng vào bức tường phủ dày dây leo. Tiếng đàn violin yếu ớt trên lầu đã bắt đầu một điệu valse và sàn nhà rung lên cọt kẹt vì bước nhảy của các cặp đôi. Những bông hoa nhài trên tường bao bọc quanh ta rồi nhanh chóng rút đi như sóng biển rút khỏi bờ cát; và ta lại cảm nhận được mùi muối trên cơ thể cô gái. Cô đã đi tới cửa bếp, cần cổ màu đen thon dài của cô uốn cong duyên dáng khi cô cúi người xuống chăm chú nhìn vào bóng tối bên dưới ô cửa sổ sáng đèn. “Thưa ngài!” cô nói và bước vào dưới ánh sáng vàng. Ánh sáng chảy xuống khuôn ngực tròn đầy, đôi cánh tay thuôn dài mịn màng và khuôn mặt trái xoan đẹp lạnh lùng của cô. “Ngài đến dự tiệc phải không?” cô hỏi ta. “Bữa tiệc ở lầu trên...”
“Không, cô gái thân mến, ta không đến để dự tiệc,” ta nói với cô, bước ra khỏi bóng tối. “Ta đến để tìm cô.”
“Mọi thứ đều đã sẵn sàng khi ta thức dậy vào tối hôm sau: rương quần áo và chiếc hòm đựng quan tài của ta đang được chở ra tàu; người giúp việc đã đi hết; nội thất trong nhà đều được phủ vải trắng. Vé tàu, một chồng giấy tín dụng và vài loại giấy tờ khác được nhét chung vào một chiếc ví phẳng màu đen khiến chuyến đi trở thành một sự thực rõ rệt hơn bao giờ hết. Nếu có thể, ta sẽ bỏ qua luôn việc đi săn, vì thế, ta đã đi săn từ rất sớm và chỉ hút máu qua loa, Claudia cũng vậy; và khi giờ khởi hành đã tới gần, ta ngồi một mình trong nhà, đợi cô bé quay về. Em đã đi quá lâu, lâu hơn mức lý trí vốn đang lo sợ của ta có thể chịu được. Ta lo cho an nguy của em - dù ta biết em có thể mê hoặc bất cứ ai và buộc họ phải giúp em nếu em nhận ra đã đi quá xa nhà, và đã nhiều lần thuyết phục người lạ dẫn em về tới trước cửa nhà, về với người cha sau đó rối rít cảm tạ họ vì đã trả lại cô con gái bị lạc của mình.”
“Rồi ta nhìn thấy cô bé đang vội vã chạy về nhà, và khi bỏ cuốn sách xuống, ta tưởng em đã quên mất giờ giấc. Chắc cô bé tưởng giờ đã muộn. Nhưng chiếc đồng hồ bỏ túi của ta cho thấy bọn ta vẫn còn một giờ. Tuy nhiên ngay khi cô bé bước qua cánh cửa, ta nhận ra mình đã nhầm. “Louis, các cánh cửa!” cô bé thở hổn hển, ngực phập phồng dữ dội, tay đặt lên ngực trái: Em vội vàng chạy xuống cầu thang, theo sau là ta, và vì em tuyệt vọng cố ra hiệu cho ta, ta đóng hết các cánh cửa ngoài hành lang “Có chuyện gì vậy?” ta hỏi. “Em bị sao vậy?” Nhưng cô bé đã chạy tới cửa sổ trước nhà - ô cửa sổ dài kiểu Pháp đang mở rộng, hướng thẳng xuống ban công hẹp phía trên con đường. Em nhấc chụp đèn lên và vội thổi tắt ngọn đèn. Căn phòng chìm vào bóng tối và từ từ sáng lên nhờ ánh sáng hắt vào từ ngoài đường. Cô bé đứng đó, thở hổn hển, bàn tay đặt trên ngực, rồi em với lấy tay ta kéo ta lại gần bên cạnh cửa sổ.”
“Có người đi theo em, cô bé thì thầm. Em nghe tiếng bước chân hắn bám theo phía sau qua từng dãy nhà. Ban đầu, em tưởng chẳng có gì to tát!” Cô bé ngừng lại để thở, khuôn mặt tái nhợt trong ánh sáng xanh hắt vào qua cửa sổ. “Louis, đó là tên nhạc sĩ,” em thì thầm.
“Nhưng thế thì có sao? Chắc cậu ta đã nhìn thấy em đi cùng Lestat.”
“Louis, hắn đang đứng dưới kia. Anh nhìn ra ngoài mà xem. Thử nhìn hắn đi.” Cô bé có vẻ rất bấn loạn, gần như hoảng sợ. Như thể em sẽ không chịu để lộ mình. Ta liền bước ra ban công, tay vẫn nắm chặt tay em trong lúc em đứng nấp sau tấm rèm cửa; và em nắm tay ta chặt đến mức ta có cảm giác em đang lo sợ cho ta. Lúc ấy là mười một giờ đêm và phố Royale đã trở nên tĩnh lặng: các cửa hàng đã đóng cửa, những chuyến xe chở người tới nhà hát vừa rời đi. Ở đâu đó bên góc phải ta bỗng có tiếng một cánh cửa đóng sầm lại, rồi ta thấy một cặp nam nữ xuất hiện và nhanh chóng đi về góc đường, khuôn mặt người phụ nữ bị che khuất dưới một chiếc mũ trắng khổng lồ. Tiếng bước chân của họ nhỏ dần rồi mất hẳn. Ta không nhìn thấy ai khác không cảm thấy ai khác. Âm thanh duy nhất mà ta đang nghe được là hơi thở khó nhọc của Claudia. Có cái gì đó lục đục trong nhà; ta giật mình, rồi nhận ra đó là tiếng leng keng và sột soạt của lũ chim. Bọn ta đã quên mất những con chim. Nhưng Claudia còn hoảng hốt hơn cả ta, và em nép chặt vào người ta. “Không có ai dưới đó cả, Claudia...” ta thì thầm với em.”
“Ngay lúc đó, ta nhìn thấy chàng nhạc sĩ.”
“Cậu ta đã đứng trước cửa hàng bán đồ nội thất, im phăng phắc đến mức ta hoàn toàn không nhận ra được và có vẻ đó chính là điều cậu ta muốn. Bây giờ cậu ta ngửa mặt về phía ta, gương mặt phát sáng trong bóng đêm như một ngọn đèn trắng. Vẻ sầu thảm và lo sợ đã được xóa đi sạch sẽ trên nét mặt cứng đờ, đôi mắt to đen ngòm của cậu ta nhìn chằm chằm vào ta trên làn da trắng bệch. Cậu ta đã biến thành một ma cà rồng.”
“Ta nhìn thấy hắn rồi, ta thì thầm với cô bé, cố giữ cho đôi môi mình không mấp máy, mắt nhìn thẳng vào mắt hắn. Ta cảm thấy cô bé đang nhích lại gần hơn, tay run lẩy bẩy, mạch máu trong lòng bàn tay co giật dữ dội. Em khẽ nấc lên khi nhìn thấy tên nhạc sĩ. Nhưng cùng lúc ấy, một điều khiến ta bỗng thấy lạnh sống lưng ngay cả khi ta nhìn cậu ta chăm chú còn cậu ta thì không hề nhúc nhích. Bởi vì ta nghe có tiếng bước chân vang lên từ hành lang phía dưới. Ta nghe thấy tiếng bản lề cửa kêu cọt kẹt. Và tiếng bước chân lại vang lên một lần nữa, khoan thai, rất to, dội vang dưới trần nhà mái vòm của đường xe ngựa, rất khoan thai, quen thuộc. Bây giờ bước chân đó đã tiến lên cầu thang hình xoắn ốc. Claudia khẽ hét lên một tiếng và vội vàng đưa tay lên bụm miệng. Tên ma cà rồng đang đứng ở cửa hàng nội thất vẫn không di chuyển. Và ta nhận ra tiếng bước chân trên cầu thang. Ta nhận ra tiếng bước chân trên hành lang. Đó là Lestat. Lestat đang cố kéo cánh cửa, rồi nện vào nó, rồi cào cấu lên nó như muốn giật nó ra khỏi bức tường. Claudia chạy vào góc phòng, gập người lại như thể vừa bị ai đó đánh một cú rất mạnh, mắt hoảng loạn đảo qua đảo lại giữa ta và tên ma cà rồng đang đứng trên phố. Tiếng đập cửa ngày một to hơn. Rồi ta nghe tiếng hắn. “Louis!” hắn gọi tên ta. “Louis!” hắn lại gầm lên sau cánh cửa. Và rồi có tiếng cửa sổ hậu phòng khách bị đập vỡ, và ta có thể nghe tiếng chốt cửa quay từ bên trong. Ta vội vã nắm lấy ngọn đèn, quẹt một que diêm mạnh đến mức nó gãy làm đôi trong cơn hoảng loạn của ta, rồi cũng châm được ngọn lửa và ta cầm chắc một can dầu hỏa trong tay. “Tránh xa cửa sổ ra. Đóng nó lại,” ta bảo cô bé. Em vâng lời ngay tức khắc, như thể mệnh lệnh của ta đã giải thoát em khỏi cơn kinh hoàng bộc phát. “Và thắp các ngọn đèn khác lên, làm ngay.” Ta nghe tiếng cô bé bật khóc khi em cố quẹt que diêm. Lestat đang di xuống hành lang.”
“Rồi hắn hiện ra ngay trước cánh cửa. Ta kêu lên một tiếng và vô thức lùi lại khi nhìn thấy hắn. Ta nghe thấy tiếng khóc của Claudia. Đó là Lestat, không cần bàn cãi gì nữa, hắn đã hồi sinh nguyên vẹn, đang đứng bên ngưỡng cửa, đầu rướn về phía trước mắt trợn ngược lên như thể đang say và phải bám vào khuôn cửa để khỏi lao thẳng vào phòng. Trên da hắn chằng chịt sẹo, một lớp vỏ gớm ghiếc đang che đi phần thịt bị thương bên dưới, giống như mỗi nếp nhăn của “cái chết” đều để lại dấu vết trên cơ thể hắn. Như thể hắn đã bị thiêu và bị đánh dấu vô tội vạ bằng một chiếc cời than nóng hổi, và đôi mắt xám trước kia vốn trong veo của hắn phủ đầy những vạch máu đỏ rực.”
“Lùi lại đi... vì Chúa...” ta thì thầm. “Nếu không tôi sẽ ném can dầu này vào anh. Tôi sẽ thiêu sống anh, ta nói với hắn. Đúng lúc đó, ta nghe thấy một âm thanh phát ra từ bên trái, là một tiếng kèn kẹt, tiếng cào vào bức tường phía mặt tiền ngôi nhà. Đó là tên ma cà rồng kia. Ta thấy tay hắn bám trên song chắn ban công. Claudia hét lên một tiếng xé phổi khi tên ma cà rồng quăng mình vào cửa sổ kính.”
“Ta không thể kể cho anh chính xác những gì đã xảy ra sau đó. Ta không thể nhớ chi tiết mình đã làm gì. Ta chỉ nhớ mình đã ném thẳng ngọn đèn dầu vào Lestat, chiếc đèn vỡ tan dưới chân hắn và ngọn lửa lập tức bùng lên từ thảm trải sàn. Và ta đã cầm một ngọn đuốc trong tay, đó là một mớ vải cuốn lộn xộn mà ta đã kéo ra từ chiếc ghế bành rối đốt cháy. Nhưng trước đó, ta đã đánh nhau với hắn, đã điên cuồng đấm đá và chống trả sức mạnh phi thường của hắn. Và đâu đó phía sau, Claudia đang hoảng loạn la hét. Ngọn đèn kia đã vỡ tan tành. Rèm cửa cháy phừng phừng. Ta nhớ quần áo hắn nồng nặc mùi dầu hỏa và có lúc hắn đã đập như điên lên ngọn lửa. Hắn đang lảo đảo, suy kiệt và không thể giữ được thăng bằng; nhưng khi hắn kẹp chặt lấy ta, ta thậm chí phải cắn toạc ngón tay hắn để thoát ra. Những tiếng ồn nổi lên trên đường phố, tiếng la hét, tiếng rung chuông. Căn phòng trong phút chốc đã biến thành hỏa ngục và trong một tia sáng bùng lên, ta thấy Claudia đang cố chống trả tên ma cà rồng trẻ. Hắn dường như không cách nào bắt được cô bé, giống như một con người vụng về đang cố bắt một con chim. Ta điên cuồng vật lộn với Lestat trong ngọn lửa, cảm nhận hơi nóng hừng hực và ngột ngạt bao trùm lấy mặt mình và thấy những ngọn lửa đang cháy trên lưng hắn khi ta lăn xuống dưới người hắn. Và sau đó Claudia lao tới giữa cảnh hỗn loạn, dùng que cời than đánh liên tiếp vào người hắn cho đến khi hắn phải nới lỏng vòng tay và ta vội vã giằng ra khỏi hắn. Ta thấy que cời vẫn không ngừng đánh xuống và ta có thể nghe tiếng gầm gừ của Claudia vang lên theo nhịp từng cú đánh. Lestat siết chặt hai bàn tay, mặt nhăn nhúm vì đau đớn. Và tên ma cà rồng còn lại nằm sõng soài trên tấm thảm cháy âm ỉ, máu chảy thành dòng từ đầu hắn.”
“Ta không rõ chuyện gì xảy ra tiếp theo. Ta nhớ rằng mình đã giật lấy que cời từ tay Claudia và phang một cú để đời vào đầu hắn. Ta nhớ rằng hắn dường như không thể bị ngăn cản, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cú đánh đó. Lúc này ngọn lửa đã đến quần áo ta cháy sém và bắt đầu lan sang chiếc áo dài mỏng của Claudia, nên ta vội vàng bế em lên chạy ra hành lang, cố gắng dùng người dập tắt lửa. Ta nhớ đã cởi áo khoác ra và đập chiếc áo lên ngọn lửa bên ngoài, và rất nhiều người đang chạy vượt qua ta lên phía cầu thang. Một đám đông đang tập trung trên lối đi dẫn vào sân và ai đó đang đứng trên mái nghiêng của căn bếp bằng gạch. Ta bế Claudia trong tay và vội vã chạy qua tất cả, phớt lờ mọi câu hỏi, dùng vai xô mạnh họ, khiến họ phải tách ra. Và rồi ta và cô bé cũng được tự do, ta nghe tiếng em thở hổn hển và khóc nức nở vang lên ngay bên tai, ta chạy như điên xuôi phố Royale, rẽ xuống những con phố hẹp đầu tiên, chạy và chạy cho đến khi không còn âm thanh nào khác vang lên ngoài tiếng chân ta. Và hơi thở của cô bé. Rồi bọn ta dừng lại, một người đàn ông và một đứa trẻ, bị cháy sém và thở hồng hộc giữa đêm khuya vắng lặng.”
Phỏng Vấn Ma Cà Rồng Phỏng Vấn Ma Cà Rồng - Anne Rice Phỏng Vấn Ma Cà Rồng