Books support us in our solitude and keep us from being a burden to ourselves.

Jeremy Collier

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Little Rain
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4643 / 191
Cập nhật: 2014-12-04 16:00:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Gã Độc Tài Đồng Trinh
Tôi từ chức. Các vị đã đi ngược lại ước nguyện của các đảng viên bằng cách đặt sinh mệnh của Đảng Công nhân Quốc gia-Xã hội vào tay một người có quan điểm không phù hợp. Tôi không thể đứng trong một phong trào như vậy lâu hơn nữa. Việc tôi ra đi là không thể thay đổi được.
Adolf Hitler.”
Các ủy viên Ban chấp hành nhìn nhau chán nản.
- Lại thế rồi, ngôi sao lại lên cơn tiếp.
- Minh tinh Hitler làm chúng ta kiệt sức.
- Mà ông ta đã từ chức bao nhiêu lần rồi nhỉ?
- Mà thôi, mặc kệ, ông ta cứ đi đi! Đảng đã tồn tại khi không có ông ta thì cũng sẽ tồn tại sau khi ông ta đi.
Một sự im lặng đầy nghi ngờ bao trùm lên cử tọa sau câu nói ấy. Mỗi người cố gắng tự thuyết phục rằng điều đó có thể là hiện thực. Nhưng họ có nhà hùng biện nào khác trong tay đây? Ai có khả năng biến một cuộc hội họp dù nhỏ nhất thành một chương trình xiếc đầy hào hứng? Ai có thể khơi dậy những tràng pháo tay không dứt? Ai có thể làm cho nhiều người đột nhiên đăng ký gia nhập Đảng? Ai làm được việc huy động tài chính cho Đảng? Ai là người được trưng ra để nhử mồi công chúng?
- Tôi biết các vị nghĩ gì nhưng xin đừng thổi phồng tầm quan trọng của ông ta. Hitler chỉ là một cái trống.
- Đúng, nhưng là một cái trống rất vang! Chúng ta không có cái nào vang hơn thế.
- Dù gì chúng ta cũng sẽ không trao quyền lãnh đạo Đảng cho một cái trống.
- Tôi xin nhắc quý vị là chúng ta đã từng làm điều đó. Chúng ta đã đề nghị ông ta hai lần.
- Và lần nào, ông ta cũng từ chối.
- Tại sao?
- Tại sao cái gì? Tại sao chúng ta lại đề nghị với ông ta điều đó? Hay tại sao ông ta đã từ chối?
Một lần nữa, cử tọa lại im lặng. Hitler đã từ chối hai lần chức lãnh đạo Đảng với lý do mình không có chút tài năng nào về mặt tổ chức. Ban chấp hành Đảng đánh giá đó là một thái độ trung thực. Giờ đây, các ủy viên tự hỏi liệu có phải Hitler hành động như vậy để được nhiều hơn.
- Ông ta bị điên. Ông ta có hiểu rằng mình sẽ phải đối đầu với những gì nếu chúng ta chấp nhận đơn từ chức không?
- Nhưng chúng ta chấp nhận thực mà.
- Các ông câm đi! Trong trường hợp ấy, ông ta sẽ đơn độc và buộc phải thành lập một đảng mới.
- Thế thì sao? Đó là chuyện của ông ta.
- Như thường lệ, ông ta chơi bài được ăn cả ngã về không. Không có thỏa hiệp đâu.
- Chúng ta cũng vậy, sẽ không có thỏa hiệp. Ông ta đi thì cứ đi. Rảnh nợ. Vĩnh biệt.
- Chắc rồi, nhưng hãy tưởng tượng khi ông ta thành lập phong trào của riêng mình mà xem. Ông ta sẽ thành công. Phần lớn các đảng viên của chúng ta sẽ theo ông ta. Nhất là khi ông ta chơi bài tử vì đạo, cái màn ông ta diễn rất xuất sắc...
- Vậy thì sao! Ông đề nghị gì đây? Dù gì chúng ta cũng không tới quỳ mọp dưới chân ông ta chứ!
Vài ngày sau, ngày 29 tháng Bảy năm 1921, Hitler trở thành lãnh tụ duy nhất của đảng Quốc gia-Xã hội.
Hitler đứng nhìn đám đông đang hoan hô mình, hắn thả mình trọn vẹn theo tiếng hò reo, sự cuồng nhiệt, sự vuốt ve của đám đông. Hắn nghĩ tới con đường đã trải qua trong ba năm, từ vị trí tuyên truyền viên trong quân đội đến các diễn đàn chính trị, từ một nhóm chính trị tí hon tập họp trong những căn phòng tồi tàn phía sau các quán cà phê, không thẻ đảng viên, không con dấu, không tài liệu in, không áp phích, cái nhúm người hoạt động theo cơ chế dân chủ mà vào thời điểm ấy có bao nhiêu đảng viên thì có bấy nhiêu ủy viên Ban chấp hành, cho đến đám đông này, những người đã bầu hắn với số phiếu áp đảo tuyệt đối, thừa nhận vị thế lãnh đạo của hắn, được một đội tự vệ mạnh ngang quân đội giữ trậttự và đang giương cao những cây cờ hiệu của mình. Hitler đặc biệt tự hào về biểu tượng quốc xã, cố gắng nghệ thuật cuối cùng của hắn: một chữ thập ngoặc đen nổi bật giữa một vòng tròn trắng, đặt trên nền đỏ để thu hút những người cánh tả.
- Heil Hitler! Hoan hô lãnh tụ của chúng ta!
Hắn biết tất cả những lời mà đám chính trị gia và cánh nhà báo bôi xấu hắn: một kẻ sách động quần chúng, một cái đầu bốc cháy, một ngôi sao tỉnh lẻ ngắn ngày, một hạ sĩ thô tục không hề có dáng vẻ của một nguyên thủ quốc gia. Ban đầu, hắn, kẻ lúc nào cũng chực lăng mạ các vị thủ hiến và bộ trưởng, kẻ mà cái lưỡi rắn độc đã giết chết nhiều nhân vật có vai vế trong chính quyền bằng các bài diễn thuyết của mình, cảm thấy khó chịu khi bị xếp vào cùng hạng với những nhân vật đó. Những lời chỉ trích đã gây thương tích cho phần da thịt trong cái Tôi của hắn, tuy mới được sinh ra nhưng đã to lớn quá khổ. Hắn thấy việc những “người quan trọng” không cúi đầu quỳ gối trước hắn như đám đông là không phải phép, những lời giễu cợt tỷ lệ thuận với thành công của hắn là một sự bất công. Sau đó, hắn đãrút ra được điều có lợi cho mình khi bị đả kích như vậy: do không nhìn ra việc hắn đang nổi lên người ta sẽ không đủ cảnh giác với hắn. Những người cánh trung và cánh hữu kiểu cũ tưởng rằng đã vứt bỏ được ta khi coi ta là kẻ cực đoan; nhưng ta không cực đoan; ngược lại, họ nghĩ vậy càng tốt cho ta. Cán bộ trong phong trào của ta cho rằng ta mềm yếu và đôi khi không quyết đoán; đây chính là cái cho phép ta khích bọn chúng đấu đá nhau mà không biết. Tất cả bọn không chính kiến này tin vào tầm quan trọng của mình đến mức chúng không nghi ngờ một giây nào rằng ta đang điều khiển chúng như những con rối. Ta hiểu sự đam mê thấp hèn nào làm tất cả bọn chúng đều rực cả lên. Chơi bẩn lại là hay.
Hitler cũng hiểu được một điều mà hắn không bao giờ tiết lộ với ai: hắn chỉ đánh trúng những tình cảm tiêu cực của đám đông. Hắn khơi dậy sự giận dữ, căm thù, hằn học, thất vọng, nhục nhã của họ. Thật dễ dàng, vì hắn tìm thấy tất cả những tình cảm ấy trước hết là trong bản thân hắn. Người ta thần tượng hắn là vì hắn nói bằng trái tim, nhưng họ không nhận ra rằng đó chỉ là mặt tối của trái tim.
Bí mật này, Hitler đã phát hiện ra gần như trong những hoàn cảnh bất lợi cho mình.
Lần đầu, đó là lễ thành hôn của hai bạn trẻ đang sung sướng. Hitler không chuẩn bị gì cả, như thường lệ, tin tưởng vào tài năng ứng khẩu của mình; bên bàn cưới, hắn nâng cốc chúc mừng và lúng búng vài câu. Biết khoa ăn nói của mình cần có thời gian để hâm nóng, hắn không thấy lo lắng. Nhưng sau vài phút, không có gì diễn ra cả ngoại trừ việc không khí trở nên nặng nề, khó chịu đi đôi với cảm giác bị lừa. Hắn rút lui bằng cách bắt nhịp một bài hát của thành Viên mà khó nhọc lắm hắn mới làm cử tọa đang thất vọng tiếp lời. Hắn ngồi xuống, ê chề. Hắn đã mất khả năng trời phú rồi ư? Ngày hôm sau, trong cuộc họp ban lãnh đạo, lo lắng, hắn bám lấy một cái cớ không đâu vào đâu để phát biểu và lao vào đả kích một hồi lâu. Phù, tất cả đã quay lại. Chuyện hôm nọ chỉ là một trục trặc nhất thời.
Sự việc thứ hai làm hắn hiểu điều gì đã xảy ra. Người ta mời hắn đọc một bài điếu văn đầy những lời lẽ ca ngợi; kẻ quá cố là một người dũng cảm mà người ta chỉ có thể nói tốt mà thôi, điều này làm Hitler một lần nữa không nói lên lời; hắn giả vờ bị mệt để trốn tránh nhiệm vụ. Như vậy, tài ăn nói của hắn chỉ được phát huy khi có những tình cảm hung bạo.
Dù là người hay nổi nóng, Hitler đã tự quan sát mình một cách lạnh lùng. Qua kinh nghiệm riêng, hắn biết cách làm thế nào để phát huy hấp lực của mình: gãi vào những hận thù, gỡ lớp da non, chọc vào các vết sẹo, làm nó chảy máu thật nhiều để sau đó đưa ra những giải pháp hết sức sơ đẳng, tính chất đơn giản của giải pháp cần phải tỷ lệ với sự đau đớn đã gây ra. Không cần hoa mỹ. Cần phải chỉ ra. Chỉ tay vào những kẻ bung xung: người Do Thái, nước Pháp, nước Anh, nền cộng hòa, chủ nghĩa Bôn sê vich. Đôi khi, có thể hòa hai kẻ bung xung làm một để có hiệu ứng lớn hơn: chẳng hạn việc trộn lẫn hai khái niệm người Do Thái với người Bôn sê vich, thành Do Thái-Bôn sê vich, đảm bảo rằng đám đông sẽ tung hô diễn giả sau buổi mít tinh, cực điểm của việc này sẽ là bộ ba hỗn hợp Do Thái-Bôn sê vich-cộng hòa. Tất nhiên, vào phút cuối, cần phải thay vào chỗ những hận thù này một giá trị rực rỡ để những người tham gia bị hớp hồn và lan tỏa một cách nghĩ lạc quan; khi đó, Hitler quay lại với nước Đức, chủ đề mà hắn đã dùng để bắt đầu và cũng là chủ đề để kết thúc bài diễn thuyết, làm như thế, hắn đã tạo ra cảm giác là mình chưa bao giờ nói về một chủ đề nào khác cả.
Heil Hitler! Hoan hô! Hắn rời bục diễn thuyết trước khi tiếng vỗ tay giảm dần, khoác áo măng tô, nhận lời chúcmừng của những người dưới quyền, vội vã đi ra bằng cửa dành cho nghệ sĩ và chui nhanh vào ô tô, ra hiệu cho tài xế nổ máy.
Vẻ lơ đãng, hắn nhìn Munich và tự hỏi không biết tiếng vỗ tay có còn vang lên trong phòng diễn thuyết hy vọng hắn trở lại sân khấu không. Hắn thở dài, u hoài. Bao giờ cũng nên biến mất trong lúc cử tọa vẫn thòm thèm, đó chính là nguyên lý của sự quyến rũ. Việc xuất hiện muộn rồi về sớm vừa củng cố cho những huyền thoại quanh con người hắn vừa tăng sức mạnh cho các bài diễn văn của hắn.
- Paul, đi đến nhà bà Hofmann.
Hắn có quyền nghỉ ngơi đôi chút sau những biến động trong những ngày qua. Lại một lần nữa, hắn có bằng chứng về việc Định mệnh che chở cho mình. Các sự kiện đều diễn ra theo hướng có lợi cho hắn; những cơn giận dữ, dằn dỗi và sự từ chức của hắn đã cho hắn chức vị chủ tịch Đảng với mọi quyền lực trong tay. Đành rằng hắn đã mong nhưng không hề trù liệu điều đó; đúng ra, hắn đã làm điều đó vì thất vọng, theo kiểu được ăn cả ngã về không. Kẻ thù của hắn tin rằng hắn là một nhà chiến lược đại tài. Từ nay, hắn biết rằng trong bất cứ trường hợp nào hắn cũng cần phải làm theo bản năng, kể cả khi nó dẫn đến những tình huống nguy hiểm. Có cái gì đó trên trời đền đáp cho hắn và khẳng định vị thế là đứa con được Định mệnh yêu quý nhất.
Bánh xe lạo xạo trên con đường rải sỏi. Hitler bấm chuông ngôi nhà tư sản rộng mênh mông với những ô cửa sổ trên đó những chậu hoa được bày như kiểu nhà binh.
- Dolfi! Tôi không dám tin nữa!
Hitler cúi xuống hôn tay Carola Hofmann, một nhiệm vụ nguy hiểm vì cần phải khéo léo nhắm vào chỗ da duy nhất không có những chiếc nhẫn sắc nhọn tua tủa hay những chiếc vòng đeo tay quá rộng mà lại quá nặng.
- Tôi đã chuẩn bị bánh rồi đấy.
Carola Hofmann ríu rít và rạng rỡ khi nhìn thấy người mình che chở. Từ khi bước vào làm chính trị, Hitler có nhiều “bà mẹ”, những người đàn bà lớn tuổi ngưỡng mộ và giúp đỡ hắn về mặt tài chính, xúc động vì sự tương phản giữa một diễn giả đầy uy lực và một người nhút nhát, vụng về khi không đứng trước công chúng, một cung cách lịch sự thiếu tự nhiên, quá kiểu cách theo lối thành Viên. Bà nào cũng nghĩ là mình làm anh ta bối rối và coi con người trẻ tuổi và đầy triển vọng này như một người tình trong trắng lý tưởng, thèm khát có phụ nữ ở bên. Không ai ngờ rằng cái hắn tìm kiếm ở mình là hìnhảnh một người mẹ nhiều hơn hình ảnh người tình. Trong số tất cả những người bao bọc Hitler, Carola Hofmann, vợ góa của một ông hiệu trưởng, là người hắn quý nhất. Bà ta cho Đảng mượn nhà để họp, và đặc biệt, trong những lúc riêng tư, bà ta làm bánh strudel(18) táo-nho-mận nhiều hương va ni nhất và phủ nhiều caramel nhất xứ Bavaria.
- Thế nào, anh đã trị được họ cả rồi chứ, cái đám thanh niên hư đốn ấy? Carola hỏi với cái giọng ân cần của một giáo viên mà bà giữ được của người chồng.
- Toàn bộ quyền lực, Hitler nhồm nhoàm nói.
Carola tán thành như thể Hitler vừa đưa cho bà ta xem một cuốn sổ điểm xuất sắc. Cái cổ già nua của bà ta oằn xuống một cách nguy hiểm bởi sức nặng của cái đầu và nhất là bởi cái búi tóc to như bình tiểu đêm, bồng lên, vuốt keo, chải bóng, như một cái mũ cứng thường trực trên đầu làm người ta khiếp sợ mà kiêng nể.
- Thế còn giai đoạn tiếp theo sẽ là thế nào? Được, được, anh cứ ăn tiếp đi, tôi làm riêng cho anh mà, Dolfi thân mến. Vậy giai đoạn sau sẽ là gì?
- Biến Ban thể thao thành Ban đột kích. Chúng ta cần phải có một tổ chức bán vũ trang.
- Rất tốt. Vậy là cần phải dùng tới tay Rôhm xấu xa này rồi.
Carola Hofmann chỉ gọi đại úy Rôhm là “Rôhm xấu xa” vì bộ mặt bị mảnh pháo làm cho biến dạng của anh ta. Như thường lệ, tới chỗ này, Hitler lên tiếng phản đối:
- Carola, anh ta đã bị thương trên chiến trường khi đang phục vụ nước Đức!
- Đúng, tôi biết, nhưng tôi không thể nào ngăn mình nghĩ là hắn ta vẫn sẽ xấu ngay cả khi không có những vết thương trên mặt.
- Đó là một người yêu nước quả cảm.
- Đúng, đúng... nhưng có cái gì đó mà tôi không ưa được ở tay này...
Hitler tấn công miếng bánh thứ ba, nghĩ rằng mình bảo vệ Rôhm thế là đủ. Hắn hoàn toàn hiểu rằng cái làm Carola không thích ở Rôhm, đó là việc anh ta dị ứng với đàn bà. Trong nỗi hoài niệm về chiến trường, sự tôn thờ chủ nghĩa anh hùng, tình yêu lớn lao với cộng đồng nam giới, Rôhm đã tìm ra phương cách thể hiện ham muốn lệch lạc của mình với đàn ông. Từ khi phát hiện ra điều này, Hitler đã quyết định sử dụng không ngượng ngùng gã to mồm này, người đang sở hữu nhiều vũ khí dự trữ và biết chỉ huy các nhóm vũ trang bởi từ khi biết bí mật của Rôhm, Hitler tin rằng mình đã nắm được thóp của gã.
- Anh định bao giờ làm cú putsch đấy?
“Putsch” - đảo chính - đã trở thành cụm từ yêu thích của Carola bất chấp việc phát âm gây ra những khó khăn hết sức nan giải với bộ răng giả của bà ta bởi mỗi khi nói từ này, bộ răng giả của Carola chỉ chực tuột ra; nhưng hình như sự nguy hiểm lại hấp dẫn bà già gan góc này vì bà ta nhiều lần tìm cách sử dụng cụm từ với những phụ âm nổ này.
- Càng sớm càng tốt, Carola ạ. Tôi đang sốt ruột. Sốt ruột cho nước Đức.
- Chàng trai ngoan lắm, chàng trai ngoan lắm, bà ta gừ gừ trong cổ họng.
Trong cùng thời gian này, các đảng viên đảng Quốc xã vừa tản ra khắp Munich, chớm hồi tỉnh sau bài diễn văn nảy lửa của thủ lĩnh, vừa tự hỏi ông ta đang ôm cái tài năng kiệt xuất của mình về nghỉ ngơi ở đâu.
Nhà hùng biện tấn công miếng bánh strudel thứ năm trước mặt bà Carola Hofmann đang cảm động đến trào nước mắt.
- Thêm một chút kem nữa nhé?
o O o
- Xin chào. Em tên là Mười-một-giờ-rưỡi.
Cô gái ngồi ngược, tì hai tay lên lưng ghế, mở to cặp mắt tròn nhìn đăm đăm vào hai người đàn ông. Cô cong môi thổi lọn tóc đen phá đám xõa xuống che mất mắt phải, che mất tầm nhìn của cô. Lọn tóc bay lên, nhẹ bẫng, thoáng tỏa ra thành những sợi tóc nhỏ rồi lại rơi xuống đúng chỗ cũ. Mười-một-giờ-rưỡi khẽ bĩu môi như muốn nói “các anh thấy đấy, em đã cố xử lý nó rồi đấy nhé” rồi mỉm cười để lộ hàm răng chắc khỏe và trắng như ngọc.
- Em đã quan sát các anh một năm rồi và em muốn nói chuyện với các anh.
- Thế à?
Adolf H. và Neumann ngạc nhiên vì đã không để ý tới cô gái sớm hơn. Cô gái trông quen quen mà họ không biết gì về cô cả.
- Em thường xuyên đến quán Rotonde hả?
- Giá mà được thế! Từ mười lăm tháng nay em làm việc ở nhà bếp. Hôm qua, em xin thôi và đã bỏ chỗ làm rồi. Em sẽ không bao giờ đi làm con hầu nữa.
- Mười lăm tháng hả? Neumann lịch sự hỏi.
- Vâng, mười lăm tháng. Người ta muốn em chạy bàn nhưng em trốn biệt ở dưới nhà bếp và tự nhủ rằng có thể mình sẽ lớn lên.
Adolf và Neumann nhận thấy rõ ràng cô gái quả là tí hon. Xinh xắn, tròn trĩnh, cân đối nhưng tí hon.
- Vâng, cô gái tiếp tục, cho đến hôm qua em vẫn hy vọng mình sẽ lớn vổng lên vì em chán ngấy việc cứ phải nhìn vào lỗ mũi người ta rồi.
Cô gái thổi lọn tóc bay lên nhưng ngay lập tức nó lại rơi về chỗ cũ.
- Bó tay thôi. Em muốn làm một con ngựa cái nhưng rốt cuộc sẽ chỉ là một con chim cút nhỏ.
- Đáng yêu lắm mà, Adolf cười và nói một cách chân thành.
- Vâng, đáng yêu lắm... Em xinh xắn, ngon lành, đâu ra đấy và chỗ nào cũng ổn, hết chê, nhưng vấn đề là những cái đó không hợp với tính em! Đúng vậy, em cứ muốn mình cao lớn để làm một cô gái lạnh lùng, kiêu sa, tự phụ, kiểu con gái làm bọn đàn ông đần cả ra mà chẳng cần phải nói một câu nào. Nhìn dáng em thế này, em cần phải quyết tâm tỏ ra vui vẻ, hồn nhiên, rạng rỡ, kiểu một con bé nhà lành! Làm như thế đỡ mệt hơn làm một con điếm. Có điều, cũng phải có một cơ thể tương xứng.
Hai người đàn ông phá lên cười.
- Thật đấy, cái cô Greta Garbo chẳng hạn, Mười-một-giờ-rưỡi tiếp tục, giọng nóng nảy, có thể cô ta ngu như bò, có thể cô ta ngủ mà mắt vẫn mở trừng trừng khi các anh nghĩ là cô ta đang nhìn các anh, có thể cô ta ngáp nhiều hơn cười, nhưng chẳng ai quan tâm đến điều đó! Không. Người ta tin cô ta vì cô ta cao lớn. Em là đứa lười, nếu em là một cô gái khổng lồ thì mọi chuyện đã tốt hơn. Vì thế hôm qua em mới tự nhủ “cô gái ơi, không phải đến lúc hai mươi tuổi thì cô sẽ cao thêm năm mươi xăng ti mét đâu. Nếu cô tiếp tục ngồi bên mấy cái bếp nấu mà hy vọng điều đó thì không những cô vẫn cứ sẽ bé như vậy mà còn trở thành con ngốc nữa. Cô cần phải nói chuyện với hai anh Boche.”
Adolf và Neumann nhìn nhau, nửa tò mò, nửa buồn cười. Họ không tưởng tượng được vai trò mình sẽ đóng trong cái đầu của...
- À mà cô tên gì ấy nhỉ?
- Mười-một-giờ-rưỡi. À em hiểu rồi: các anh khó chịu vì em đã gọi các anh là Boche phải không? Tuy nhiên, từ miệng em thì từ đó không có gì là xấu đâu. Chỉ vì từ trước đến nay em toàn nói thế. “Bô-sơ”, nói vậy cho nhanh, như tên một con chó, có thể rất trìu mến, không cần phải ngoác mồm ra để nói “A-lơ-măng”(19). Thực tình là em nghĩ thế đấy.
Rõ ràng, chỉ có điều đó là quan trọng đối với cô gái. Cô gái coi như hai người kia đã bỏ qua cho mình và giơ tay lên.
- Bồi!
Người hầu bàn của quán Rotonde tiến lại gần, vẻ nghi ngại.
- Bồi, cho một ly chambéry-fraisette.
Anh này lẩm bẩm cái gì đó không rõ và biến mất. Mười-một-giờ-rưỡi phì cười.
- Hắn ta điên lên vì em ra lệnh cho hắn, hắn là người đã quát tháo em trong suốt mấy tháng liền. À mà các anh đãi em cốc chambéry-fraisette nhé? Bởi vì em không mang tiền theo.
Adolf chớp mắt đồng ý. Hắn bị sự vô tư vui vẻ của cô gái hấp dẫn và hắn khó có thể rời mắt khỏi ngực nàng vì nếu như cái gì ở Mười-một-giờ-rưỡi cũng bé bỏng thì ngực nàng lại không. Hai bầu vú tuyệt đẹp, cao, căng tròn, trông sẽ đặc biệt khêu gợi nếu chúng không tròn đến thế, dường như đang vươn về phía tay Adolf. Mười-một-giờ-rưỡi nhận ra Adolf đang nhìn mê đắm và khẽ nháy mắt để hắn hiểu là nàng thích cái nhìn ấy.
- Cô là ai? Neumann hỏi.
- Anh gọi em là “cô” à? Như một tay cớm hả?
Nàng bật dậy, tự ái. Xưng hô “cô” “tôi” là một lời sỉ nhục với nàng; nó có nghĩa là gạt bỏ nàng hoặc bảo nàng xấu xí.
- Thế em là ai? Neumann nói lại, giọng nhẹ nhàng.
- Em là bạn gái mới của bọn anh.
- Anh không biết là bọn anh có bạn gái mới.
- Chính vì thế em mới nói với bọn anh.
Hai người đàn ông phá lên cười. Mười-một-giờ-rưỡi áp đặt sự hiện diện của mình theo cách không gì cưỡng lại được.
- Đồng ý, Adolf nói.
- Đồng ý, Neumann nói.
- Đấy, các anh thấy chưa! Nào, chúng ta cụng ly!
Họ chạm cốc và uống một hơi dài.
- Em là bạn mới của bọn anh và là gì khác nữa? Adolf hỏi Mười-một-giờ-rưỡi trong lúc cố không nhìn vào ngực nàng.
- Em còn là người đàn bà của đời anh nữa.
Một sự sững sờ ngọt ngào làm Adolf đờ người ra. Cô gái nói ra điều hệ trọng ấy với một sự hiển nhiên lớn đến mức hắn cảm thấy nàng nói đúng. Đường đột và bất thường, câu nói ấy đầy uy lực, một ánh sáng được thắp lên trong phòng tối; nó hé lộ một sự gần gũi vừa trong quá khứ vừa trong tương lai, một cái gì đó chỉ cần được nói ra là sẽ hiện hữu, và từ nay nó là một sự hiện hữu mang tính tàn phá, một cái đà.
Adolf phản đối lấy lệ:
- Nhưng... nhưng... chúng ta không biết nhau.
- Còn hơn thế nữa: chúng ta nhận ra nhau.
Lời nói quá đúng lại làm Adolf rùng mình, cơn rùng mình từ vai chạy lên gáy.
Hắn nhìn Mười-một-giờ-rưỡi. Nàng cũng nhìn hắn. Trời hôm ấy trong và xanh, mặt trời phun nắng tung tóe lên vỉa hè nơi những người qua đường đang bước vội để tránh nắng, không khí dường như đứng im, bất động, như một thứ thạch anh khô, người ta hít thở thoải mái.
Adolf và Mười-một-giờ-rưỡi không rời mắt khỏi nhau nữa. Lần đầu tiên trong đời, Adolf có cảm giác đang ở trung tâm vũ trụ. Đất đai, con người, mây, xe điện, những ngôi sao, tất cả những thứ đó đang quay quanh hắn.
- Thật khó tin phải không, Mười-một-giờ-rưỡi nói.
- Gì cơ? Adolf hỏi, đột nhiên cảm thấy lo lắng.
- Cảm nhận cái mà anh và em vừa cảm nhận ấy. Phải vậy không?
- Đúng vậy.
Như vậy là hắn không điên. Nàng cảm nhận thấy cái mà hắn cảm nhận. Hay cả hai người bọn họ đều bị một sự điên cuồng xâm chiếm. Trong trường hợp ấy, sự điên cuồng này trở thành quy tắc và việc những người khác nghĩ gì không mấy quan trọng!
Hắn ngửa hai bàn tay rồi đặt lên trên bàn. Hai bàn tay bé nhỏ đậu lên trên ấy một cách thật tự nhiên. Thật vừa vặn. Những ngón tay của hắn nắm lấy nàng đến tận cái cổ tay mũm mĩm. Linh tính mách bảo hắn họ sẽ hợp với nhau như thế nào trên giường...
Nàng mở hé đôi môi và chính lúc ấy hắn cũng vậy, như thể họ hôn nhau. Nàng rùng mình.
Trong khóe mắt hắn nhận ra vẻ mặt mỉa mai của Neumann. Ngại ngùng, hắn ép mình rơi xuống lãnh thổnặng nề của sự tầm thường.
- Xem nào... xem nào... chắc chắn chúng ta sẽ làm cái gì đó cùng nhau nhưng đừng vội.
Mím chặt môi, hắn giận mình đã nói câu ấy. Hắn sắp làm hỏng mọi chuyện. Bình thường hóa tức là phá hỏng. Tại sao hắn không thể ngăn mình làm điều ấy?
Mười-một-giờ-rưỡi quay sang Neumann.
- Anh có phải bạn em không?
- Có.
- Vậy nếu anh là bạn em anh có sẵn lòng để em một mình với anh Adolf một chút không?
- Nhưng...
- Anh không thấy những gì đang xảy ra vượt quá mọi tưởng tượng của anh ấy ư? Anh không thấy anh ấy đang phải giữ kẽ vì anh ở đây à? Anh không thấy bị coi thường hay sao khi là người bạn thân nhất của em và của Aldolf mà lại phải ngồi trơ như phỗng ở đây? Anh không đáng phải chịu điều đó.
Bẽ bàng, bối rối, bị thao túng, cảm thấy thân thể và sự có mặt của mình chướng quá, Neumann lùi bước về phía cuối quán cà phê, trả tiền rồi ra về.
Mười-một-giờ-rưỡi quay lại phía Adolf, thổi lọn tóc của mình bay lên để rồi nó lại rơi về chỗ cũ, nhún vai rồicười.
- Anh có hiểu được em phải cố đến thế nào để làm việc này không? Cả em nữa, em cũng sợ sự lố bịch. Em đã mất một năm mới quyết định đi qua suốt quán cà phê này để nói với anh điều mà em biết.
- Cái mà em biết?
- Rằng anh với em sẽ là một cặp ra trò.
Theo phản xạ Adolf muốn phản đối tiếp nhưng một lần nữa hắn lại thôi trước sự hiển nhiên của câu nói ấy.
Hắn có cảm giác mình đã biết Mười-một-giờ-rưỡi từ nhiều năm rồi, rằng hắn đã làm tình với nàng, rằng họ có với nhau cả trăm kỷ niệm rồi.
- Lạ thật, hắn nói, anh nhìn em bây giờ với cái nhìn mà anh sẽ có về em trong mười năm nữa. Em là ký ức của tương lai anh.
- Thật không thể tin nổi, phải không? Với em cũng vậy. Chó chết, em đã làm vỡ không biết bao nhiêu bát đĩa sau cánh cửa, đằng kia kìa, khi nghĩ đến anh.
Adolf nhìn nàng và cố định hình nàng, lấy một cái nhìn khách quan, nhốt nàng vào trong khung của một bức tranh: hắn không tài nào làm được việc ấy. Nàng vuột khỏi cố gắng của hắn.
- Mình đi chứ? nàng hỏi.
- Đi đâu?
- Em không biết.
- Đồng ý.
Họ đứng dậy. Bàn tay Adolf vừa in bờ vai Mười-một-giờ-rưỡi, ngay lập tức đặt ở độ cao hợp lý, không căng thẳng cũng chẳng gượng ép; một sự tiền định.
- Anh không biết mình đi đâu, hắn thì thầm, nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ đi.
Nàng rùng mình và họ lao nhanh ra phố như người ta lao mình xuống nước.
Mặt tiền bằng thạch cao của các ngôi nhà trên đại lộ Montparnasse và cây bên đường đứng nghiêm, ưỡnngực trước đôi tình nhân như hai hàng quân danh dự. Phấn hoa tung bay trên đầu đoàn rước như những chiếc chuông đứt dây, Paris đang chơi ngẫu hứng một bản nhạc hội và những đứa trẻ nhảy múa tung tăng bên những chiếc ghế băng.
- Sẽ tốt hơn nếu chúng ta không ngủ với nhau ngay lập tức, Mười-một-giờ-rưỡi nói, như thế chúng ta có thể nhớ rằng đã có một khoảng thời gian “trước khi...”.
- Ừ, như thế sẽ tốt đấy.
- Chúng ta có thể đợi một hay hai tiếng chứ?
- Ừ, tất nhiên rồi, Adolf tán thành nhưng đột nhiên, một hoặc hai giờ bỗng trở nên một khoảng thời gian dài vô tận với hắn.
Mười-một-giờ-rưỡi khẽ thở phào, gần như là trẻ con, một hành động hoàn toàn đáng ngạc nhiên ở một cô gái có vẻ từng trải đến thế. Adolf kết luận rằng chắc nàng muốn chuyện tình của nàng với hắn không giống những mối tình khác.
- Em người ở đâu? Ở Paris?
- Gần như thế. Em ở Lisieux.
Adolf mỉm cười khi nghĩ rằng Mười-một-giờ-rưỡi, tóc cắt khum khum, đầu trần, mặc váy mềm để lộ cặp chân, trông như dân Paris chính cống chính bởi vì nàng không phải là dân Paris; nàng khoác trên mình bộ đồng phục của dân Paris.
- Lisieux là ở đâu?
- Một ngôi làng ở Normandie. Ở đấy người ta làm bơ, pho mát và các cô gái già nữa. Nói như vậy để thấy là em chẳng có gì để làm ở đó cả. Em lên Paris năm mười bốn tuổi.
Hắn trìu mến nhìn nàng: người ta có thể tin là nàng mới mười bốn tuổi vì làn da của nàng tươi trẻ như mới được tạo sinh đêm qua và chỉ mới được căng lên vào đúng sáng nay.
- Em làm nhiều việc linh tinh. Công việc lâu nhất là làm người cứu rỗi linh hồn.
- Người cứu rỗi linh hồn?
Adolf dừng lại. Hắn không thể tưởng tượng Mười-một-giờ-rưỡi trong dáng vẻ một bà xơ, đang tất bật cứu rỗi các linh hồn.
- Anh không hiểu. Em có dáng vẻ của một người làm vãi linh hồn hơn là cứu rỗi linh hồn.
Mười-một-giờ-rưỡi ngửa cổ ra sau cười ha hả, mồm ngoác to, như thể nàng vừa nuốt một thanh kiếm vừavặn vẹo người. Adolf nhìn nàng, phân vân giữa ham muốn được cắn nàng vì nàng đang chế nhạo hắn, vừamuốn làm tình với nàng vì điệu cười vô duyên ấy làm nàng càng gợi tình hơn.
Nàng dựa người vào hắn để lấy lại hơi.
- Cứu rỗi linh hồn, đó là nghề làm giày, anh chàng Boche lớn xác của em ạ. Linh hồn là từ để chỉ phần đế giày người ta có thể tận dụng để làm đế cho một đôi giày khác.
Nàng nhìn hắn từ dưới lên trên.
- Đúng là cần phải vừa là người nghèo vừa là người Pháp mới có thể biết được điều ấy.
- Đúng vậy, Adolf đáp, còn anh là một tay người Đức nghèo.
- Không sao, không sao. Dù gì thì em cũng không phải là tỷ phú Rothschild. Có điều, em đã tìm thấy một thứ sẽ làm em trở nên giàu có.
- Thế à? Cái... cái gì vậy?
- Anh không định tin là em cứ thế tiết lộ hết bí mật của em đấy chứ? Anh sẽ được biết nếu anh xứng đáng.
- Thế còn các chàng trai thì sao?
- Các chàng trai làm sao?
- Em đã yêu nhiều chưa từ hồi lên Paris?
- Từ bao nhiêu người trở xuống thì anh sẽ chấp nhận em?
- Dù thế nào anh cũng sẽ chấp nhận em.
Nàng kề sát mặt hắn và đặt lên đó một cái hôn.
- Hai? Ba? Mười? Hai mươi? Hắn nài hỏi.
- Em không phải là người giỏi tính nhẩm.
- Thế em có yêu thường xuyên không?
- Ôi không, cái đó thì quá lắm! Không bao giờ!
Nàng phẫn nộ, bị xúc phạm khi bị coi là người dễ dãi trong chuyện đó. Adolf không thể ngăn mình ngạc nhiên vì đức hạnh khác thường này, một thứ được xác định bằng trái tim chứ không phải là tình dục.
- Em nóng lòng được xem tranh của anh, nàng nói. Từ một năm nay, em có nghe một số khách hàng nói về tranh của anh.
- Người ta nói nhiều hơn người ta mua em ạ.
- Không quan trọng, bắt đầu là thế. Mười năm nữa, tranh của anh sẽ đắt gấp hai mươi lần.
Adolf muốn nói “làm sao em biết được mà nói thế?” nhưng lại thôi, vì hiển nhiên là nàng biết điều ấy. Khi đó, hắn nghi ngờ là nàng đã làm việc với các họa sĩ.
- Em đã bao giờ ngồi mẫu chưa?
- Em ấy à? Không. Tại sao?
- Em xinh và lại làm việc ở Montparnasse nữa. Tất cả các họa sĩ đều đến quán Rotonde.
- Đúng, nhưng từ đó cho đến chỗ họ để ý tới em thì... trước đây anh có bao giờ chú ý đến em không, anh ấy? Anh có hỏi em làm mẫu cho anh vẽ không?
Adolf cúi đầu, hắn giận mình sao không nhìn ra Mười-một-giờ-rưỡi sớm hơn.
- Dù gì, nàng vui vẻ thêm vào, em không hề muốn người ta vẽ em tí xíu, em muốn người ta vẽ em cao lớn cơ, như một cô khổng lồ. Như vậy, vì phần lớn các họa sĩ vẽ em như họ nhìn thấy em ngoài đời mà không phải là em như em nghĩ, nên chẳng cần vẽ em làm gì.
- Nghe em nói, anh có cảm giác như em biết ít nhiều về giới nghệ thuật đấy nhỉ.
- Đương nhiên! Em có học mà. Em vẽ.
Adolf phá lên cười. Người ta không thể tưởng tượng cái mẩu phụ nữ bé tí xíu này đứng bên giá vẽ và đang làm cái thứ nghệ thuật bạc bẽo này.
Mười-một-giờ-rưỡi nhìn hắn kinh khiếp. Ngay khi nhận thấy bộ mặt thiểu não của nàng hắn câm bặt tiếng cười.
Nhợt nhạt, Mười-một-giờ-rưỡi nắm chặt tay lại để ngăn mình không đánh hắn.
- Đồ ngốc! Đồ thảm hại kiêu căng! Tôi nói cho anh biết tôi là họa sĩ và điều đó làm anh thấy nực cười. Khi thấy ngón tay anh đầy màu và tóc anh dính dầu tôi có cười nhạo không?
- Không, không, em bình tĩnh đi. Anh... anh... ý anh là... anh ngạc nhiên... anh có quen vài nữ họa sĩ nhưng không ai xinh bằng em.
- Đúng, đúng. Xinh có nghĩa là ngu. Thông minh có nghĩa là xấu.
- Anh xin lỗi. Ý anh không phải vậy. Anh tiếc là đã cười như vậy. Anh thật ngu ngốc khi đã làm thế.
- Cái đó, để làm kẻ ngu ngốc thì đúng là ngu ngốc rồi đấy. Dù gì, ai cũng biết tỏng đi là không cần phải rất thông minh mới trở thành họa sĩ.
Adolf cứng lưỡi. Chưa bao giờ một người đàn bà tỏ ra xấc xược với hắn đến thế và thay vì làm hắn bực tức, điều đó kích thích hắn... hắn không thấy buồn chán khi ở bên Mười-một-giờ-rưỡi.
- Tại sao em tên là Mười-một-giờ-rưỡi?
- Đúng là một câu hỏi ngớ ngẩn! Adolf, anh hạ thấp mình, không ngóc đầu lên được, anh bị thiểu năng trí tuệ rồi! Hít thở đi, lấy lại độ cao đi, anh chàng ơi. Em có hỏi anh tại sao anh tên là Adolf không? Không.
- Anh tên là Adolf vì mẹ anh đặt thế.
- Còn em, em tự đặt tên cho mình là Mười-một-giờ-rưỡi. Em là mẹ của tên em.
- Thế trước đó?
- Tên đầu tiên của em ấy à? Nếu em muốn người ta biết đến cái tên ấy thì em đã giữ nó lại.
- Tại sao lại là Mười-một-giờ-rưỡi?
- Sau này anh sẽ biết tại sao.
Nàng rùng mình.
- Em xin anh. Chúng ta đã nói là sẽ dành cho nhau một, hai giờ. Hai giờ mà Adolf và Mười-một-giờ-rưỡi yêu nhau nhưng vẫn còn chưa làm tình với nhau.
- Đi xem tranh của anh đi.
Hắn cầm tay nàng và kéo về phía xưởng mình. Chợt Adolf dừng lại.
- Hay chúng ta đi xem các tác phẩm của em đi.
- Các tác phẩm của em hả? Mười-một-giờ-rưỡi ấp úng.
- Ừ. Cho anh xem đi.
Mười-một-giờ-rưỡi rút tay khỏi tay Adolf và dằn dỗi.
- Quá đáng quá đấy! Cách đây một phút ai đó còn không tin người ta là họa sĩ thế mà bây giờ lại muốn xem tác phẩm của người ta! Anh trở mặt quá nhanh anh chàng ạ, em đâu phải là đứa dễ dãi. Em còn chưa có thời gian để quên sự xúc phạm ban nãy.
Sau đó nàng nói, giọng lí nhí:
- Thực ra em mới tập vẽ, em có ý tưởng nhưng hiện em gần như chưa có gì cho anh xem.
Adolf hôn lên hai má nàng. Nàng lẩm bẩm cho chính mình:
- Đúng quá rồi còn gì, em mới hai mươi tuổi mà.
Nàng ngẩng đầu hào hứng hỏi Adolf:
- À mà anh bao nhiêu tuổi rồi? Đã nhiều tháng nay em tự hỏi mình điều ấy.
- Ba mươi mốt tuổi.
Mười-một-giờ-rưỡi huýt sáo khâm phục.
- Ba mươi mốt tuổi. Thật là tuyệt phải không! Vậy thì nếu em xoay xở tốt thì em còn có anh trong vòng tay em đến khi anh bốn mươi tuổi, phải không?
- Hiện tại, anh vẫn chưa ở trong vòng tay em.
- Thong thả nào! Vậy là em cũng sẽ có anh đến năm bốn mươi tuổi. Không, điều đó hết sức quan trọng, anh có hiểu không, bởi vì với em bốn mươi tuổi là lúc một người đàn ông đẹp nhất.
- Em biết gì về chuyện đó?
- Em biết, thế thôi, nàng cắt ngang, giọng khô khốc. Và anh đừng kêu ca vì những ý nghĩ ngông nghênh của em vì, anh biết không, em có những cô bạn gái cùng tuổi thấy anh hơi quá già đối với bọn họ. Già và nẫu rồi.
- Nẫu?
- Tức là hỏng rồi. Như quả chín quá rơi xuống gốc cây. Thậm chí nhặt về cũng chẳng để làm gì.
Nàng tư lự, thổi lọn tóc tung lên rồi nó lại ngay lập tức rơi xuống che mất mắt.
- Tại sao em không cắt lọn tóc đó đi?
- Có chuyện gì à? Anh không thích nó sao?
- Có chứ, có chứ. Anh... thích em như em hiện nay. Nhưng cái lọn tóc này có vẻ như làm em không nhìn được về bên phải.
- Ai bảo anh vậy? Và tại sao anh lại nghĩ là em muốn nhìn về bên phải?
- Chẳng có gì cả. Nhưng lúc nào em cũng phải thổi nó đi.
- Thế tại sao em không được thích thổi như thế hơn là phải nhìn? Anh thực sự là một tay người Đức kỳ quặc.
Nàng chăm chú nhìn hắn.
- Lỗ mũi anh đẹp quá. Mình đi xem tranh của anh bây giờ nhé?
Khi đi lên cầu thang về xưởng, Adolf hy vọng là Neumann biết ý để xưởng lại cho họ để đi ngủ ở chỗ khác.
Quả vậy, dưới đất, trước cửa ra vào, Neumann đã để lại mẩu giấy nhắn tối nay anh sẽ ở lại nhà Brigitte, bồ hiện nay của anh, người cách đây mấy ngày là bồ của Adolf vì, thường xuyên là như vậy, các cuộc chinh phục của Adolf đều kết thúc trong vòng tay của Neumann, người đẹp trai hơn Adolf nhiều nhưng lại không biết tán tỉnh.
Mười-một-giờ-rưỡi nhận ra ngay lập tức giữa đống tranh dựa ngổn ngang vào tường, bức nào là của Adolf. Nàng căng đôi mắt tròn nhỏ, chăm chú nhìn hồi lâu. Hắn thích sự im lặng của nàng. Với hắn, không gì chán bằng những lời khen ngay lập tức. Hắn có niềm tự kiêu là vẽ ra những tác phẩm mà cần phải có thời gian để nó tác động đến tâm lý người xem, hắn không nghĩ mình xứng với những câu đại loại như “Vui mắt quá! Thú vị quá! Đẹp làm sao!” những tính ngữ phiến diện này được những người trong giới thượng lưu ban phát khi bước sầm sập qua hành lang của một cuộc triển lãm chó.
Không những Mười-một-giờ-rưỡi không nói gì mà còn không thỏa mãn một cách nhanh chóng cái thú quan sát kỹ của mình. Sau một tiếng rưỡi ngồi xổm trước những vì sao, không nói năng gì, nàng quay lại phía Adolf và nói mỗi một câu:
- Em rất hạnh phúc vì đã được xem chúng.
Nàng tiến đến gần hắn và nhìn hắn với một sự ngưỡng mộ còn lớn hơn với các tác phẩm.
- Nếu bây giờ anh đưa em một cái ghế đẩu, em sẽ bảo mình hôn anh.
- Anh cũng có thể ngồi thấp xuống giống em chứ!
- Vâng, nếu điều đó không phải là đòi hỏi anh quá nhiều.
Quanh bờ môi nóng bỏng của nàng, hắn có cảm giác đang uống cả một dòng thác.
- Hạ ri đô xuống đi anh.
- Nhà không có ri đô.
- Vậy thì khép cửa chớp lại, Adolf, làm cái gì đó đi. Tối nay bọn mình học điêu khắc. Bọn mình dùng tay, không dùng mắt.
- Nhưng anh muốn nhìn thấy em.
- Anh thiếu kiên nhẫn quá đấy! Thế còn ngày mai? Ngày kia? Thế nào, điêu khắc chứ?
- Đồng ý. Điêu khắc.
Đêm trôi trong một sự ngây ngất vô tận. Có cái gì đó pha trộn giữa táo bạo và rụt rè ở Mười-một-giờ-rưỡi làm Adolf hết táo bạo lại đến rụt rè. Không giống những người đàn bà khác đã qua đêm trên cái giường này, Mười-một-giờ-rưỡi không rên lên. Khi cởi bỏ quần áo, nàng đã không sắm vai một nhân tình đã sẵn sàng để thỏa mãn. Khi những chuyển động lên xuống của Adolf làm nàng khó chịu hoặc thậm chí làm nàng đau, nàng không ngần ngại nói với Adolf và như thế, hắn, được sự thẳng thắn lạ đời dẫn dắt, biết nhiều lần tìm ra con đường để thỏa mãn cả hai.
Buổi sáng, Adolf nhìn nàng ngủ, co mình áp sát vào hắn, như một đứa trẻ trong bào thai; hắn thấy mềm lòng trước người thiếu nữ tươi trẻ ấy, giấc ngủ đã trả nàng lại về tuổi thơ mà nàng không hay: cặp má tròn, đôi môi hờn dỗi, mi mắt không một nếp nhăn.
Những tia nắng đầu tiên trong ngày đậu lên họ và hắn thấy rõ ràng làn da trắng muốt của nàng, trong cái tranh tối tranh sáng màu xanh như nước biển đêm, hiện lên trong mắt hắn như ngọc như ngà, sống động và ấm nóng.
Hắn không muốn ôm chặt lấy nàng để đánh thức nàng dậy mà lại muốn nhìn trọn vẹn thân hình nàng. Muốn sở hữu nàng bằng cái nhìn mà nàng không hay biết. Một sự cưỡng bức ngọt ngào và thuần khiết bằng thị giác. Sự cưỡng bức của một họa sĩ. Đó sẽ là phần thưởng bình minh dành cho hắn.
Hắn nhấc tấm chăn lên mà nàng không biết vì ngủ say quá. Cái mà hắn phát hiện dưới chăn làm hắn sững người.
Hắn đứng dậy, cảm thấy mình sắp hét lên, mắt nhòe đi.
Hắn chạy vào phòng vệ sinh bé xíu và ngồi xuống, đầu tiên là để kiềm chế cảm xúc sau là để tận hưởng nó.
Hắn chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy.
Trên tấm ga trải giường, máu loang lổ. Mười-một-giờ-rưỡi đã tặng trinh tiết của mình cho hắn.
o O o
Ngày cuối tuần đến gần và Hitler vẫn giữ nguyên ý kiến của mình từ ban đầu là phải làm đảo chính vào một ngày thứ Bảy, khi tất cả các cơ quan hành chính đóng cửa. Vài người khác đề nghị tiếp tục đợi. Hitler từ chối. Tiếp tục đợi đồng nghĩa với bỏ cuộc.
- Các anh là loại người vặn ngược kim đồng hồ lại mỗi khi đồng hồ chỉ đến mười hai giờ kém năm, thật không thể tha thứ được! Nước Đức không thể chờ đợi được nữa!
Từ vài tuần nay, hắn có thói quen thể hiện tình cảm của mình bằng cách giương cả quốc gia lên: câu “nước Đức đang mệt mỏi” có nghĩa là Hitler muốn đổi chủ đề; “nước Đức đang đói” cho thấy Hitler sắp ăn món tráng miệng. Nếu có người cảm thấy sự hoang tưởng tự đại này nực cười thì họ sẽ phải từ bỏ ý nghĩ ấy vì, từ bây giờ, thái độ sùng bái lãnh tụ vô điều kiện lớn đến mức kẻ báng bổ sẽ ngay lập tức bị đàn áp.
Hitler để mặc cho xu hướng sùng bái cá nhân mình tự do hình thành. Vì vừa chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt chế độ quân chủ, làm quen một cách không hào hứng với chế độ cộng hòa mờ nhạt, thời đại hắn đang sống cần một con người mạnh mẽ, một Cesar đến từ dân chúng. Mussolini, Công tước Ý, từ khi đội quân Sơ mi đen của ông ta diễu hành trên đường phố Roma và cướp lấy chính quyền, đã trở thành hình mẫu không giấu giếm của Hitler. Trong các bài diễn văn của mình, hắn chúc cho một người nhà trời vĩ đại giống như vậy, người sẽ cứu nước Đức xuất hiện. Đám đông tiếp nhận lời chúc ấy say sưa đến mức hắn tin rằng đó là một ý tưởng hay. Thế nào là một ý tưởng hay đối với Hitler? Đó là một ý tưởng gây hiệu ứng. Ý tưởng ấy lần nào cũng phải dấy lên một làn sóng hoan lạc. Thực ra, đó là chuyện bình thường. Đám đông - dù gồm toàn đàn ông - là một người đàn bà; lời hứa gả chồng sẽ có tác dụng làm hưng phấn tột độ. Trong lời khấn của mình, hắn cầu nguyện vĩ nhân mà hắn không nêu tên cụ thể này, hắndường như cũng mơ về người đó, hắn đóng vai người báo tin, nhà tiên tri, thánh Jean Tẩy Giả người đứng trong thung lũng Jourdain loan tin Đấng cứu thế sẽ đến và bền bỉ đợi Người.
Như hắn đã dự tính, một vài đảng viên trẻ đã đến thổ lộ riêng với hắn niềm tin của họ: Hitler chính là Vị cứu tinh mà hắn đã loan tin. Hắn không phải là thánh Jean Tẩy Giả mà chính là Jesus. Hắn đã cố giấu niềm vui của mình để phản bác. Điều đó không vỗ về được những người trẻ đang hưng phấn, những người muốn mình có lý bằng mọi giá. Khi đó, Hitler chọn những người tin mãnh liệt nhất vào điều đó nắm giữ những vị trí chủ chốt trong Đảng. Nhờ cách đó, hắn chọn được Rudolf Hess, một người tư sản, khẳng khiu, râu tóc rậm rạp, xuất thân từ một gia đình vừa phá sản, đang khó nhọc tìm một chỗ đứng trong xã hội sau chiến tranh; là thành viên của giáo phái bí mật Thulé, anh ta đã theo học môn địachính trị ở trường đại học và luôn khẳng định một cách hùng hồn rằng Hitler là nhà độc tài mà thời đại đang chờ đợi và gọi hắn là “Người” hay thậm chí là “Quốc trưởng”. Hitler giao cho Hermann Gôring, tay đại úy phi công điển trai, kiểu cách lịch lãm, với đôi mắt hớp hồn màu xanh lơ nhạt và đi tất lụa màu đỏ, phụ trách Ban đột kích, nhóm thể thao trước đây được chuyển thành nhóm vũ trang nhỏ, chuyên tấn công nhanh.
Từ nay, hắn tăng cường sử dụng cách nói như một Đấng cứu thế và biết rằng trong đám đông những thanh niên này sẽ lẩm nhẩm tên hắn.
- Mussolini của Đức tên là Adolf Hitler.
Hắn còn giả vờ phẫn nộ khi nhìn thấy những tấm biển mà hắn trông đợi biết bao xuất hiện, chúng khẳng định chiến thuật của hắn đã phát huy tác dụng.
Giờ đây hắn có thể tin tưởng dựa vào sự trung thành vô điều kiện của những người rất khác nhau mà hắn giao du một cách riêng biệt, cho phép hắn dùng người này để chống lại người kia trong những trường hợp cần thiết nhờ vào những mối liên hệ duy nhất với mỗi cá nhân ấy.
- Đừng đợi thêm nữa! Hành động! Nước Đức không thể nhuộm màu đỏ được.
Sáng hôm ấy Hitler run lên vì sung sướng. Cuộc đời hắn đã trở thành một vở opera, hắn bước đến ngày đăng quang của mình, hắn sẽ là một Siegfried(20) của thời hiện đại, cuộc đảo chính sẽ mang lại quyền lực cho hắn.
Ngày 8 tháng Mười một năm 1923 khoảng mười tám giờ, Hitler, Gôring và một nhúm người có vũ trang đột nhập vào quán bia Bürgerbru nơi chính quyền xứ Bavaria đang tổ chức một cuộc mít tinh.
Hitler trèo lên một chiếc ghế. Cử tọa gồm những người tư sản xì xào bực tức khi thấy một kẻ quấy rối dám ngắt lời Kahr(21).
Hitler rút súng và bắn một phát lên trần nhà.
Cử tọa im phăng phắc.
Hắn bước sang một chiếc bàn. Rồi từ bàn bước lên bục phát biểu. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Một vài người tưởng hắn là một tay bồi bàn kỳ quặc; một vài người khác, khi nhìn thấy huân chương Thập tự sắt trên chiếc áo vest đen của hắn, lại ngỡ đó là một cựu chiến binh đang sắp buộc họ phải chịu trận ngồi nghe câu chuyện của anh ta trong chiến tranh; vài người khác đã nhận ra tay quấy rối thuộc phe cực hữu.
Hitler đứng thẳng trước đám đông, kiêu hãnh nhìn họ, cố gắng giảm bớt nhịp đập loạn xạ của tim mình rồi nói như hét bằng cái giọng khàn khàn của mình, xúc động đến nỗi suýt bị hụt hơi:
- Cách mạng quốc gia đã bùng nổ.
Hắn đợi một phản ứng. Hắn nhận ra rằng cử tọa, đang sững sờ, không hiểu hắn đang nói đến cái gì. Điều đó làm hắn nổi đóa.
- Hiện nay, có sáu trăm tay súng đang phong tỏa chỗ này, không ai được phép ra ngoài.
Hắn nhìn thấy vẻ sợ hãi trên khuôn mặt một số người. Điều đó làm hắn vững tâm.
- Hãy nhìn xem! Khẩu liên thanh ở hành lang lầu một sẽ làm quý vị từ bỏ mọi hành động chống cự vô ích.
Hắn mỉm cười với Gôring, đứng giữa một toán SA, đang chĩa súng vào cử tọa. Một người đàn bà lăn rangất. Người ta bắt đầu xem những cái hắn nói là nghiêm túc.
- Tôi tuyên bố giải tán chính phủ xứ Bavaria. Và tôi tuyên bố giải tán Đế chế. Kể từ giờ phút này chúng tôi sẽ thành lập một chính phủ lâm thời. Tôi thông báo với các vị là hiện nay chúng tôi đã kiểm soát các đơn vị quân đội và cảnh sát, thành viên các đơn vị này đã tự phát đi theo lá cờ chữ thập ngoặc.
Hắn quay về phía các thành viên chính phủ.
- Bây giờ, xin mời các vị sang phòng bên để phân công nhiệm vụ. Cảm ơn.
Hắn để gã điển trai Gôring diễn thuyết với đám đông đang hoang mang.
Nhốt mình trong phòng với bộ ba lãnh đạo chính phủ, Hitler đề nghị họ chấp thuận những điểm sau: Kahr, người mà hắn đã cắt lời, được bổ nhiệm làm Nhiếp chính xứ Bavaria, hai người kia, Lossow và Seisser, sẽ có quyền lực ở cấp quốc gia, Lossow sẽ là bộ trưởng Quốc phòng và người kia, Seisser, sẽ là bộ trưởng Công an; điều kiện cho tất cả những cái đó là họ đề cử Hitler làm ứng cử viên chức Thủ tướng Đức.
- Cần phải vượt sông Rubicon(22),_ thưa các ngài. Tôi biết bước đi này không dễ với những người làm chính trị hơi quá tính toán và không đủ quyết tâm hành động như các ngài. Nhưng chúng tôi sẽ giúp các ngài vượt sông. Chúng tôi thậm chí có thể đẩy các ngài nếu các ngài dùng dằng không nhảy xuống.
- Nếu tôi hiểu đúng, ông yêu cầu chúng tôi đồng lõa với cuộc đảo chính của ông? Kahr nói.
- Chính xác. Hoặc là đồng lõa hoặc là nạn nhân của tôi. Các ngài không thấy đó là một sự chọn lựa thực sự hay sao?
- Thế ai sẽ lãnh đạo quân đội Bavaria?
- Ludendorff(23).
- Ông ấy... đứng về phía ông sao?
- Ông ấy sẽ làm thế. Chúng tôi đã đi tìm ông ấy.
- Nếu Ludendorff đồng ý, chúng tôi sẽ đồng ý.
Khi đó, người ta dẫn vị tướng già đến, anh hùng trong chiến tranh, được dân chúng yêu quý, người cánh hữu, ông cũng ngạc nhiên không kém ba vị lãnh đạo chính phủ bang. Cuối cùng ông cũng chấp nhận, kéo theo sự đồng thuận của ba người kia. Hitler nói rõ:
- Tôi cảnh báo các ngài phải trung thành với tôi. Tôi có bốn viên đạn trong súng, mỗi người một viên nếu các ngài phản tôi, và viên cuối cùng dành cho tôi. Các ngài cần phải đấu tranh cùng tôi, chiến thắng cùng tôi. Nếu không thì chết cùng tôi.
Hắn đi vào phòng lớn để giải thích cho công chúng việc gì sẽ đến, cái mà nước Đức sẽ có được trong cuộc cách mạng quốc gia này. Không rõ là nhờ sự đe dọa từ những khẩu súng liên thanh, sự có mặt đông đảo của đám SA hay nhờ vào tài hùng biện của Hitler mà cử tọa trở mặt như chong chóng và quay sang hò hét hào hứng, tung khăn mùi soa và mũ lên trời chúc mừng thủ tướng tương lai.
Rõ ràng, cuộc cách mạng đã khởi đầu thuận lợi.
Trong lúc ấy, Rudolf Hess, với sự trợ giúp của vài thành viên SA đã bắt giữ những thành viên khác của chính phủ mà Hitler không hoan nghênh. Rôhm khẳng định với hắn rằng nhìn chung lực lượng cảnh sát ủng hộ quân đảo chính.
Hitler vui sướng cực điểm. Hắn tưới đẫm đoạn kết bài diễn văn của mình với những giọt nước mắt thực sự.
- Giờ đây, tôi sẽ hoàn thành điều mà tôi đã thề với chính mình cách đây năm năm, năm 1918, khi tôi đang mù lòa tàn tật trong quân y viện: hạ gục những tên tội phạm làm ra cuộc đình chiến và bằng cách nào đó, từ đống đổ nát thương tâm của Tổ quốc chúng ta, nước Đức hùng mạnh, tự do và rạng rỡ sẽ đứng dậy. Amen.
- Amen, cử tọa đáp lại.
Sau đó, Hitler đi đến Munich để thị sát tình hình đảo chính trong các doanh trại.
Quá nửa đêm, Hitler quay về căn phòng nhỏ và xúc động về chính mình. Hắn đưa mắt nhìn quanh. Khungcảnh đạm bạc, một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, năm mười quyển vở và hắn lấy làm mừng vì đãthanh bạch như thế. Đó chắc chắn là cái đã giúp hắn thành công.
Năm giờ sáng, người ta đánh thức Hitler dậy để thông báo tin bộ ba lãnh đạo Kahr, Lossow, Seisser đã phản bội hắn. Chính ba người này đã cử đại tá Leupold đến thông báo với Hitler.
- Tướng von Kahr, tướng von Lossow, đại tá von Seisser lên án vụ đảo chính của Hitler. Những cam kết có được bằng sức ép vũ lực tại nhà hàng Bürgerbru không có giá trị.
Hắn phải mất hơn mười phút mới tin nổi thông báo ấy: hắn đã tính đến tất cả các phương án, trừ việc người ta phản bội hắn.
Hitler đến gặp ông già Ludendorff và những người mưu phản thuộc đảng Quốc xã. Họ phẫn nộ. Họ quyết định giữ nguyên cuộc diễu hành như dự kiến. Như thế họ sẽ có được sự ủng hộ của dân chúng. Họ sẽ làm các đối thủ phải kinh sợ.
- Hãy tuần hành! Ludendorff hét lên. Chưa biết ai được ai thua đâu.
Hitler chấp nhận vì nghĩ rằng cả quân đội và cảnh sát đều sẽ không dám bắn vào ông già Ludendorff. Hắn hứa sẽ bước cạnh ông ta và yêu cầu tất cả những người diễu hành bước đi, tay khoác vào nhau.
Đi sau hai người cầm cờ là Hitler, Ludendorff, Scheubner-Richter, Gôring, tiếp đến là các thành viên SA xếp hàng dọc. Đến quảng trường Marie, họ đượcđám đông tán thưởng nhiệt liệt. Hitler lấy lại hy vọng. Việc tiếp tục tiến bước gặp nhiều khó khăn hơn. Hàng rào cảnh sát đã ngăn cản họ vào trung tâm thành phố.
Một tiếng súng vang lên.
Từ đâu? Từ phía họ? Từ phía cảnh sát?
Súng nổ liên hồi. Cuộc chiến bắt đầu.
Scheubner-Richter bị tử thương ngã xuống. Ông ta kéo Hitler ngã theo.
Viên vệ sĩ nằm đè lên Hitler để bảo vệ hắn khỏi những viên đạn sắp găm vào đùi Gôring. Tiếng rú. CảLudendorff cũng nằm bẹp xuống đất. Tiếng kêu. Hỗn loạn. Đạn bắn. Những cú đánh. Bỏ chạy.
Hitler lê được đến tận ô tô nơi bác sĩ Schultz chăm sóc cho hắn.
- Ngài chỉ bị sai khớp vai và đầu gối thôi.
Hắn cho xe nổ máy. Chạy trốn. Để cuộc chiến lại sau lưng. Đến trú ẩn tại một biệt thự rộng lớn ở Uffing. Giam mình trong một căn phòng.
Không, hắn không phải là kẻ hèn nhát. Không, hắn đã không bỏ chạy. Hắn đến để tự tử đấy chứ. Bằng chứng ư? Hắn đang cầm trong tay một khẩu súng lục.
Hắn tiến đến gần một cái gương lớn hoen lỗ chỗ và nhìn mình, người bó trong một chiếc áo măng tô, chiếc mũ nhung ụp trên đầu, trông kỳ quặc với bộ ria mà hắn không bao giờ biết phải tỉa như thế nào. Lịch sử sẽ kết thúc ở đây.
Rienzi... Hắn nghĩ đến vở opera đã nâng hắn lên ở Viên, tới cảnh tự tử của Rienzi trên quảng trường Capitole rực lửa. Cuộc đời dữ dội và đúng đắn của hắn kết thúc như số phận của người anh hùng ấy. Hắn sẽ đứng thẳng mà chết. Hắn sẽ tự giết mình.
Hắn nhìn mình từ dưới lên trên. Cảnh tượng chẳng hề giống với cái hắn hình dung. Hắn hầu như không nghe thấy tiếng vĩ cầm. Hắn không chắc là tiếng vỗ tay sẽ òa ra từ công chúng. Thực chất, hắn nhớ Wagner và không chắc mình đang ở vị trí của ông ấy.
Chợt một tia tỉnh táo lóe lên trong đầu hắn: hắn không chết vì chủ nghĩa anh hùng mà chết để thoát khỏi lời đàm tiếu; hắn chỉ là một thằng hề thảm hại, kẻ đã cướp chính quyền khi chưa chuẩn bị kỹ kế hoạch của mình. Người ta sẽ cười vào mặt hắn và người ta có lý để làm như thế.
Mắt hắn nhòe đi.
Khẩu súng tuột khỏi tay. Theo phản xạ, hắn nhảy sang một bên; nhưng không có tiếng súng nào vang lên, khẩu súng rơi êm xuống tấm thảm có diềm. Hitler kịp nhìn thấy bóng mình nhảy lên sợ hãi trong gương và điều đó chấm dứt việc hắn tự đánh giá thấp mình. Hắn ngỡ mình đang ở trong một vở opera của Wagner, hắn đang nhại lại Offenbach.
Hắn nhặt súng lên và kề vào thái dương. Hắn phải chấm dứt nỗi đau không thể chịu đựng được này: hắn không yêu mình nữa. Ngón trỏ của hắn vuốt ve cò súng bằng thép với một cảm giác được giải thoát. Hắn bóp cò trong trí tưởng tượng của mình, chưa gì đã khoan khoái vì được hưởng sự an nghỉ thiên thu. Mọi thứ trở nên dễ dàng làm sao...
Nhưng một ý nghĩ đã ngăn hắn lại và đẩy lui khẩu súng: hắn tự tử để thoát khỏi nỗi ô nhục. Hắn thiếu dũng cảm. Hắn sẽ rời bỏ thế giới này mà chưa cứu được nước Đức vì đã thối chí sau thất bại đầu tiên. Hắn chỉ là một Đấng cứu thế tập sự.
Hắn đặt khẩu súng lên bàn ngủ và quyết định đợi cảnh sát đến: hắn sẽ chỉ tự tử mãi sau này khi cuộc đời đã đạt tới tột đỉnh vinh quang.
o O o
- Mười một giờ rưỡi, dù có chuyện gì đi nữa, sáng hay chưa sáng, em đều tỉnh giấc.
Nàng nhảy xuống giường và Adolf H. chìa cho nàng một bát trà bột rễ diếp xoăn để nàng ghé mặt vào sưởi ấm.
Giờ đây hắn đã biết nguồn gốc biệt danh của nàng: ngày nào cũng vậy, Mười-một-giờ-rưỡi tỉnh giấc vào mười một giờ rưỡi. Sớm hơn, nàng không thể dậy. Muộn hơn, nàng không thể chịu nổi.
Adolf không đủ khả năng tài chính để vẽ dưới ánh sáng nhân tạo nên tiếp tục sáng sáng dứt mình ra khỏi chăn ấm và làm việc khi Mười-một-giờ-rưỡi còn ngủ. Những hôm đầu, hắn còn rón rén đi lại như một tên trộm, như một người lạ trong căn nhà của chính mình, cố gắng không gây ra tiếng động nào dù là nhỏ nhất; nhưng, do thiếu cẩn thận, hắn làm rơi mấy cây cọ, làm đổ giá vẽ, hắn chửi thề, thế rồi hắn phát hiện ra rằng không gì có thể kéo Mười-một-giờ-rưỡi khỏi những bến bờ tuyệt diệu nơi nàng đang vùng vẫy. Hơn thế nữa, khi nàng kể lại với hắn những chuyện đó, hắn nhận thấy rằng những giấc mơ của nàng, những người canh gác trung thành cho giấc ngủ của nàng, đã bảo vệ nàng khỏi thức giấc khi đưa những nhiễu loạn về âm thanh ấy vào trong câu chuyện của chúng. Adolf biết rằng từ nay hắn có thể đi lại thoải mái mà không sợ làm ảnh hưởng tới nàng.
Để thoát khỏi sức ép của công việc nặng nhọc, hắn thường tiến đến gần nàng và nhìn nàng ngủ. Nàng đang ở đâu khi cơ thể nàng nghỉ ngơi, cuộn vào trong chăn gối, cặp má biến mất trong cái gối lông chim êm ái kia? Nàng đang tham gia vào cuộc phiêu lưu kỳ thú nào? Chẳng phải mặt nàng đang phác một nụ cười đó sao? Chẳng phải vừa có một thoáng tà dâm vừa chạy qua môi nàng ư? Đúng, nàng cười. Cười với ai? Về cái gì? Nhiều lần, hắn muốn đánh thức nàng dậy, đấy, ngay lúc ấy, lay nàng dậy để nàng kể hắn nghe nội dung những giấc mơ của nàng, để tát cạn chúng khỏi tâm trí nàng.Em có đang bên tôi không? Có phải em đang bên ai đó? Em trốn đi với ai trong giấc ngủ của mình?Nhưng chừng ấy lần, khuôn mặt của nàng lại trở nên nhẵn nhụi, da thịt đầy đặn nhưng vô hồn, tỏa sáng sự trẻ trung hoàn toàn vật chất. Những lúc ấy, Adolf thấy lòng mình se lại. Nàng sẽ già đi ư? Đúng, nhưng già thế nào? Làm thế nào mà sắc da này, một thứ ánh sáng thuần khiết, lại có thể mờ nhạt đi? Một sắc đẹp hiển hiện đến thế bị tháng năm hủy hoại chẳng phải là một tai họa hay sao? Viện lấy quyền gì? Khi hắn không còn e sợ những người tình tưởng tượng, hắn thấy lo lắng trước đối thủ khó chơi nhất - thời gian, kẻ sẽ cướp đi Mười-một-giờ-rưỡi mà hắn yêu. Và ở đó, không còn là sự ghen tuông mà là sự tuyệt vọng, nó làm hắn muốn gọi nàng dậy để siết chặt lấy nàng vào người hắn và nói: “Anh yêu em”.
Hắn nói chuyện với Mười-một-giờ-rưỡi say ngủ nhiều hơn là với Mười-một-giờ-rưỡi thức. Những khi không nằm trong tầm mắt nàng, hắn cảm nhận những tình cảm thuần khiết nhất và thầm lặng gửi tới nàng những tình cảm ấy. Tự do, không phải chịu sức ép, thoát khỏi sự chế nhạo, không phải sợ những lời châm chọc chết người hoặc những câu nói đùa mà cứ hễ có dịp là nàng tuôn ra, hắn thể hiện niềm vui, sự gắn bó, sự ái mộ của mình, nỗi sợ hãi bị nàng phản bội, sự hoảng sợ mà hắn nhận thấy mỗi khi nàng để ý tới một người đàn ông khác, mong muốn cao độ được giữ nàng làm tù binh trong tình yêu của hắn, sự chắc chắn rằng mình sẽ không thiết sống nếu nàng không còn đó nữa. Buổi sáng trôi qua như vậy, giữa những đường cọ vẽ và những lời khen có cánh, lặng lẽ gửi đến người đẹp say ngủ.
Khoảng mười một giờ mười, một bên mắt mở ra một cách máy móc. Một cái đồng tử đen, sợ sệt, ngạc nhiên, bồng bềnh vô định trong làn nước trắng của nhãn cầu, cố gắng phân tích và tập trung vào những cái nhìn thấy. Khi con ngươi đặt vào Adolf, có một ánh sáng lóe lên nhưng không trụ được lâu trước sức nặng của mí mắt. Tất cả các cố gắng sau đó đều thất bại. Đành rằng con mắt cử động ngày càng nhiều nhưng mí mắt xử sự như một kẻ thù của nó và kéo tấm ri đô sắt sập xuống.
Khoảng mười một giờ hai mươi, đôi môi mọng lên vì tinh chất của những giấc mơ khe khẽ động đậy và Adolf có thể nói chuyện ít nhiều với Mười-một-giờ-rưỡi bằng vài từ rời rạc, như thể người ta nói chuyện với một đứa bé mười tám tháng tuổi. Hắn thích thấy nàng mộc mạc như thế lúc vừa ngủ dậy, nó hé lộ một sự dịu dàng mà nàng tìm cách che giấu nhiều hơn khi đã tỉnh; hắn thích bắt gặp nàng cởi bỏ tất cả các sắc thái tình cảm, như khi nàng tắm, trước khi khoác bộ áo ngôn ngữ mỉa mai, nhạo báng lên mình.
- Sắp mười một giờ rưỡi rồi con chim bé bỏng ơi.
- E iết.
Hai âm này có nghĩa là “em biết”, nhưng trước mười một rưỡi, Mười-một-giờ-rưỡi không bao giờ phát âm các phụ âm.
Cuối cùng giờ khắc ấy cũng đến và lúc đó, dù chuông có reo hay không, người đàn bà trẻ ấy vẫn nhỏm dậy, thư thái, nóng lòng được bắt đầu ngày mới.
Adolf đã kiểm tra nhiều lần tính chính xác của thời điểm nàng tỉnh dậy. Hắn đã giấu đồng hồ đi, vặn nhanh lên, chậm đi, không có tác dụng gì: theo đúng cái đồng hồ trong cơ thể, Mười-một-giờ-rưỡi tỉnh giấc vào mười một giờ rưỡi đúng.
- Thật đáng kinh ngạc, em chẳng bao giờ dậy sai giờ.
- Thế tại sao anh lại muốn điều đó? Người ta luôn luôn giả định rằng những người thức dậy muộn không có chút khái niệm nào về giờ giấc... điều đó chẳng quan hệ gì với nhau.
Để đùa, Adolf thường ôm nàng vào giờ khắc định mệnh ấy và ghì nàng vào người mình để ru nàng ngủ. Chẳng có tác dụng gì. Nàng chống trả. Trườn mình ra khỏi hắn.
Nàng ghét nằm lại trên giường sau cái phút ấy.
- Buông em ra, anh sẽ làm hỏng ngày hôm nay của em mất. Một ngày bắt đầu từ mười hai giờ trưa là một ngày vứt đi.
Nàng có những nguyên tắc chỉ của riêng mình nhưng nàng tôn trọng chúng một cách nghiêm ngặt.
- Làm như thế em có cảm giác mình là một ả giang hồ, một đứa chả ra gì, một thứ bỏ đi, một cục thịt. Vả lại, em cần phải làm việc nữa.
Nàng vẽ trên quạt giấy.
Chỉ sử dụng các màu cơ bản, nàng vẽ đầy trên mặt lụa những mô típ hình học - các tia, hình bán nguyệt, hình tròn, hình thoi và hình vuông - mà nàng chủ ý xử lý phá cách. Tác phẩm cuối cùng có màu rực rỡ, bắt mắt, mới mẻ và Mười-một-giờ-rưỡi bán chúng còn chạy hơn Adolf bán các bức tranh của mình.
- Bình thường thôi mà, chàng Boche của em, ít ra thì cái quạt còn dùng vào được việc gì đấy.
Với cửa hàng nho nhỏ của mình, nàng còn kiếm được nhiều tiền hơn Adolf, nhưng nàng làm tất cả để hắn quên điều đó đi và không lấy đó làm hổ thẹn.
- Em bán được vì em làm việc cho những kẻ đua đòi.
- Đua đòi?
- Đua đòi là những kẻ lười nhác không biết suy nghĩ hay đưa ra chính kiến. Để những kẻ đua đòi không ngồi rỗi người ta nghĩ ra thời trang, cái gọi là đời mới nhất, hàng mốt mới. Em ấy à, em làm những cái quạt hiện đại.
- Hiện đại?
- Chứ còn gì nữa! Hiện đại. Cái mà người ta chưa từng thấy trước đó! Hoặc không nhìn thấy đã lâu. Chính vì thế người ta tin rằng nó thuộc về thời đại của chúng ta.
- Chính thế. Như nghệ thuật của người da đen chẳng hạn. Picasso và những người khác đã làm cho người ta tin rằng đó là cái mới trong khi nó đã tồn tại hàng bao thế kỷ nay.
- Vậy đó. Còn em, em làm quạt lập thể. Những đứa con gái ngu ngốc, muốn khác mẹ mình, khác bà mình và bà hàng xóm của mình sẽ mua quạt lập thể của em.
- Đừng phê phán mình nhiều quá. Quạt em làm rất đẹp.
- Em không nói là quạt em làm xấu. Em giải thích cho anh tại sao người ta mua quạt của em.
Adolf vẫn chưa tạo dựng được chút tên tuổi nào trong giới nghệ thuật.
Từ khi đến Paris, bằng tranh vẽ của mình, có tháng hắn sống được có tháng sống lay lắt. Hắn thường xuyên phải trả tiền bữa ăn của mình bằng tranh vẽ hoặc hình vẽ - khi người ta chấp nhận - và hắn có thể chịu được sự nghiệt ngã này vào thời gian đầu là bởi hắn nghĩ rằng đó chỉ là chuyện tình thế, với hắn, chuyện này trở nên không thể tha thứ được từ khi hắn thấy những họa sĩ khác thành công, tức là từ khi hắn thấy mình thất bại.
- Anh không phải là một họa sĩ bỏ đi mà là một họa sĩ bị nguyền rủa, Mười-một-giờ-rưỡi nói với hắn.
- Ừa, có gì khác nhau?
- Hãy xem trường hợp của cái ông người Ý điển trai tuyệt vời ấy, cái nhà ông Mobidi gì đó.
- Modigliani.
- Đấy. Ông ta chết trong nghèo khó nhưng bây giờ tranh của ông ta quý như vàng.
- Thế thì ích gì?
- Em sẽ là một bà góa giàu có.
- Không, anh thích nổi tiếng khi còn sống hơn là tên tuổi được lưu truyền hậu thế... và anh còn muốn sống. Sống sung sướng. Cuối cùng cũng được như thế. Picasso đã trở thành triệu phú, Derain đi xe Bugatti, Man Ray đi xe Voisin, Picabia đi Delage và Kisling đi xe do Mỹ sản xuất.
- Coi nào, chàng Boche của em, có những tay già hơn anh, Picasso chẳng hạn, ông ta...
- Tám năm khác biệt! Chỉ tám năm thôi! Liệu điều đó có quan trọng không?
- Tám năm nữa có thể anh sẽ giàu. Coi nào, chàng Boche của em, anh không có quyền chán nản.
Adolf đau khổ vì sống trong nghèo khó nhưng nỗi đau ấy, thể hiện ra được, tầm thường, hiểu được, với hắn là cách để bộc lộ một nỗi đau khác, sâu thẳm hơn mà hắn giữ riêng cho mình: hắn nghi ngờ tài năng của mình.
Vẽ những tác phẩm mà mình không nhất thiết phải thích, đó chính là cái nghiệp của những người cầm cọ. Người nghệ sĩ luôn thích cái mình đang làm chứ không phải cái mình đã làm. Đứng ở vị trí diễn viên hơn là khán giả, anh ta không được chỉ định để tận hưởng kết quả làm ra. Hiếm khi một người ca sĩ thích giọng hát của chính mình, không bao giờ một nhà văn lại đọc tác phẩm của mình, cái chính yếu còn lại là người thứ nhất thì thích hát và người thứ hai thích viết. Về điểm này, Adolf không lo ngại gì vì hắn biết rõ rằng hắn sẽ không bao giờ đánh giá cao tranh vẽ của mình. Nhưng, nghiêm trọng hơn, hắn nghi ngờ rằng đó chỉ là những thứ phỉnh phờ. Bức tranh độc đáo thực sự đầu tiên, hắn đã vẽ nênmột cách tình cờ, giữa sự bực bội, bải hoải và hưng phấn. Lẽ ra hắn đã hủy tác phẩm ấy một cách nhanh chóng nếu Neumann đã không mê mẩn nó. Trong khi đó, chưa bao giờ Adolf thấy Neumann sai khi nói về tranh của người khác. Tại sao không tin anh ấy thêm một lần này nữa? Để bóp nghẹt sự bi quan của mình, hắn đã cân nhắc tất cả sự tin tưởng mang tính phê phán của mình đối với Neumann. Hắn đã đặt số phận của mình vào sự đánh giá của người khác.
Thiếu thốn vật chất, giới buôn tranh lạnh nhạt, người yêu tranh hờ hững, tất cả những cái đó giờ đây càng mài sắc lưỡi dao nghi ngờ trong hắn. Hắn đã nhầm chăng? Hắn cảm thấy mình chẳng hợp thời mấy. Hắn biết rõ rằng, trong sâu thẳm, hắn chẳng giống một chút nào các họa sĩ ở Montparnasse mà hắn quen: chủ nghĩa lập thể đối với hắn dường như là một ngõ cụt, cả trường phái dã thú nữa, trừu tượng còn tệ hơn thế nữa; Hắn ghét cay ghét đắng cái dấu ấn hoang dã, đậm đặc, dày cộp mà thế kỷ này đã biến thành mốt; hắn khinh bỉ việc làm biến dạng các đường nét - kỹ thuật “ghi chú bên lề” - đang xâmchiếm hình họa nhằm làm cho nó hiện đại hơn. Hắn tiếp tục đến Louvre, ngưỡng mộ Ingres, David và thậm chí là cả Winterhalter; hắn yêu thích những bức tranh hoàn chỉnh, không nhìn thấy nét cọ, không còn thấy hành động của họa sĩ trong bức họa; hắn chỉ đánh giá cao các giá trị truyền thống và trong sâu thẳm, gần như bí mật, hắn tôn trọng các tác phẩm của các họa sĩ kinh viện vốn bị ghét bỏ và chỉ trích nặng nề, những người vẫn bị gọi là “đám khoa trương” với lý do là họ không bao giờ bỏ sót một tia phản chiếu, một ánh sáng lóe lên hay một đường gân nổi trên những chiếc mũ mà họ dùng để phục trang cho các nhân vật trong thần thoại La Mã. Điêu luyện làm sao! Hắn chẳng tôn thờ gì ngoài sự điêu luyện, trong khi đó, hội họa hiện đại tôn vinh sự táo bạo, hành động đoạn tuyệt, trò diễn của những thứ chẳng ra gì.
- Chú ý! Có khách!
Mười-một-giờ-rưỡi đã nghe thấy tín hiệu của bà gác cổng mỗi khi nhà có khách. Bà Salomon đã gõ mộttiếng vào cái ống nước. Nếu bà tiếp tục gõ hai tiếng nữa, khách sẽ là một người mua; ba tiếng là nhân viên tòa án, bốn tiếng là cảnh sát.
Hai tiếng gõ vang lên trong ống nước. Mười-một-giờ-rưỡi ra mở cửa khi nghe tiếng chân nặng nề vang lên trong cầu thang.
- Slawomir! Bất ngờ quá!
Cao, to, béo như mỡ tảng, nhà buôn tranh Slawomir đưa tay lên quệt mồ hôi, không trả lời Mười-một-giờ-rưỡi vì ông ta có thói quen không cần biết đến sự có mặt của người tình của các nghệ sĩ của mình, hoặc là vì họ bị thay quá nhiều không nhớ nổi tên, hoặc vì nếu họ có ở lại thì cũng sẽ kêu ca với ông ta về sự nghèo khó không thể chấp nhận được của người tình của họ.
- Adolf, cậu cần phải cứu tôi. Có một vị khách quan tâm đến cậu.
- Thế thì sao? Cứ bán cho ông ấy tranh của tôi.
- Ông ta say mê tác phẩm của cậu!
- Ông ngạc nhiên vì điều ấy hả? Hãy bán thật đắt vào!
- Đúng, chắc rồi, nhưng ông ta cũng muốn gặp cậu.
Adolf nhăn mặt vì hắn có những cảm nhận trái ngược đối với những người mua tranh của mình: hắn biết ơn họ vì đã đánh giá cao hắn đồng thời cũng giận vì họ trả rẻ thế và đặc biệt vì đã mang đi các tác phẩm mà hắn còn muốn giữ lại với mình.
- Ôi Adolf, đừng có thế một lần nữa, đừng có trái tính trái nết như bà mẹ vợ thế đi.
Đó là cách Slawomir gọi phản ứng của các họa sĩ xem các tác phẩm bị bán đi của mình là một cô con gái bị cậu con rể cướp mất.
- Nào, mời ông ngồi, ông Slawomir-người-không-thể-nhớ-nổi-tên-tôi-từ-mười-tám-tháng-nay, Mười-một-giờ-rưỡi nói và kéo một chiếc ghế lại phía Slawomir.
Slawomir nhìn nàng kinh ngạc như thể ông ta ngạc nhiên vì nàng biết nói rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế duy nhất trong xưởng.
- Ông ta thật tuyệt vời, cái nhà ông Slawo này, Mười-một-giờ-rưỡi rúc rích cười. Tuần thì tóc hung, tuần thì hói, tuần để ria tròn quanh miệng, tuần cắt tóc dựng bàn chải. Một sự tưởng tượng về râu tóc mới phong phú làm sao! Một nghệ sĩ râu tóc! Thật không thể hình dung nổi, cứ như ông đã cưới một cô thợ làm đầu vậy...
Như thường lệ, Slawomir làm bộ như không nghe thấy gì và quay lại phía Adolf.
- Tôi đã đi xuyên qua cả Paris còn khách hàng thì đang đợi, cậu nhanh lên đi.
Đối với Slawomir, “cả Paris” có nghĩa là “tám trăm mét”, nhưng với thân hình đồ sộ của ông, tám trăm mét là cả một hành trình dài.
- Không, tôi không đi đâu cả, tôi làm việc. Ai có việc của người ấy.
- Tôi xin cậu đấy...
- Không. Tôi vẽ. Ông bán.
- Van cậu!
- Không...
Đó là một trận đấu cốt tử giữa hai người đàn ông: bằng sự từ chối của mình, Adolf đang giải thích với Slawomir rằng hắn là một họa sĩ giỏi còn ông ta là một chủ gallery tồi.
Mười-một-giờ-rưỡi chen vào:
- Đi đi, chàng Boche của em. Anh biết rõ là Slawomir là một nhà buôn giỏi mua hơn bán mà.
Hai người đàn ông sững người khi nghe câu nói này. Mười-một-giờ-rưỡi đã đúng. Nhạy bén, có gu, đam mê và dũng cảm, Slawomir luôn luôn biết cách phát hiện các họa sĩ triển vọng, ký hợp đồng với họ khi không ai muốn làm như vậy rồi để họ chìm trong đói khổ vì không biết cách thuyết phục khách hàng tiềm năng, tin tưởng chắc chắn rằng bức tranh tự thân nó nói lên là đủ. Nhiều người trong số các họa sĩ này đã trở nên giàu và nổi tiếng sau khi rời bỏ Slawomir, điều đó khẳng định sự nhạy bén trong cảm nhận cũng như vô duyên trong buôn bán của ông ta.
- Được rồi, tôi mặc quần áo để đi đây, Adolf nói.
- Đừng chỉn chu quá, nhất quyết không được chỉn chu quá, Mười-một-giờ-rưỡi cười khẩy nói, đừng quên là anh là một họa sĩ bị nguyền rủa đấy.
Nàng quay lại phía lò sưởi để lấy cà phê cho Slawomir uống nhưng trước khi nàng kịp đưa thì ông ta đã ngủ mất rồi.
- Bất hạnh làm sao. Giờ này còn ngủ được! Thật đáng xấu hổ! Ông này bạ lúc nào cũng ngủ.
Người lái tranh này nổi tiếng với những vụ ngủ quên bất thình lình, ngắn và thường xuyên. Người ta còn đồn rằng có lần ông ta đã ngủ quên ngay trong lúc đang tranh luận căng thẳng với nhân viên thuế vụ.
- Tệ hơn nữa, nước bọt còn phồng lên thành bong bóng nữa!
Một dải nước dãi đang chảy ra từ đôi môi nhỏ và phồng lên vì hơi thở, dường như muốn bay lên dưới dạng một bong bóng nhỏ.
- Đúng là một hiện tượng. Cần phải làm như thế này trong một rạp xiếc. Ngay sau tiết mục của lũ voi để bọn trẻ con không quá sợ hãi.
- Tôi xong rồi, Adolf nói.
Slawomir mở mắt, hơi đỏ, nhìn quanh để xem mình đang ở đâu.
- Ông quay lại mặt đất rồi ông bạn to béo ạ, Mười-một-giờ-rưỡi nói nhỏ vào tai Slawomir, ông đã trở thành vợ thứ một trăm mười bốn của Sultan Ali Baba. Đó là người duy nhất đủ sức nuôi ông.
Nàng quay lại phía Adolf.
- Đúng vậy, một người như thế này thì phải hốc cái gì nhỉ?
Slawomir đứng dậy, giả điếc và thản nhiên, cầm tay Adolf kéo đi.
Mười-một-giờ-rưỡi chạy theo ông ta tới tận cầu thang.
- Cứ quay lại bất cứ lúc nào ông muốn, ông Slawomir ạ. Chúng ta đã đùa thật vui. Lần này, tôi đã cho ông xem ngực tôi, lần tới tôi sẽ chìa mông trái cho ông xem.
Xuống cầu thang bệ vệ như một thượng nghị sĩ, Slawomir quay lại nói với Adolf:
- Thật không? Cô ta đã cởi quần áo trước mặt tôi?
- Đúng, nhưng điều đó có quan trọng gì? Ông ngủ mà.
- Thật tình! Slawomir sốc nặng, nói. Vậy ra người ta không thể ngủ yên ở bất cứ nơi đâu. Nếu bà mẹ tội nghiệp của tôi biết điều đó...
Xúc động như thể vừa bị hãm hiếp, ông ta chấm chấm mồ hôi trên trán bằng chiếc khăn mùi soa ướt nhẹp.
Họ đi qua đoạn đường tám trăm mét đến gallery một cách khó nhọc, Slawomir phải dừng lại nhiều lần để lấy hơi. Một người đàn ông đang đợi họ ở đó.
- Đây, xin giới thiệu với ông Adolf H., Slawomir nói, như bị xuất huyết não, ngồi phịch xuống chiếc phô tơi và ngủ ngay lập tức.
Mắt xanh, tóc dài xõa sang hai bên, mặt chữ điền, mũi thẳng, khá đẹp trai, một vẻ đẹp gần như được tạc từ da thịt, người đàn ông nhìn Adolf với một sức mạnh như nam châm. Người họa sĩ trẻ nghĩ rằng ông ta phải là một trong ba vị vua đỡ đầu của Chúa hài đồng mới phải.
- Chúc mừng ông thưa ông, ông đã là người trong nhóm chúng tôi.
- Xin lỗi, tôi không hiểu, Adolf hỏi, sợ là một sự tinh tế nào đó trong tiếng Pháp đã ngăn không cho mình hiểu đúng câu nói.
- Ông đã là người trong nhóm chúng tôi. Ông là một nhân vật lớn. Cái lô gích thoát khỏi mọi quy ước của lý tính, sự phá cách không ổn định tuân theo những xung năng trái ngược nhất, sự đứt đoạn trong diễn ngôn mặc dù ông dùng những phương tiện hội họa cổ điển nhất, tính hiện đại hỗn hào, pha trộn giữa chủ nghĩa kinh viện và sự đoạn tuyệt bạo liệt làm nên tính tiền phong, tóm lại, tôi thừa nhận ông là một người trong nhóm chúng tôi.
Adolf choáng váng, cảm thấy như bị thôi miên bởi con mắt xanh ấy. Nhà hiền triết - chưa gì hắn đã gọi ông ta như thế - tỏa ra một tia sáng đen làm hắn run lên, giữa sự hấp dẫn cứu thế và sự cuốn hút nhục dục bản năng. Cái nhìn dường như chuyển tải những thế giới xa xăm huyền bí, trong khi môi dưới, quá to, quá cong, hé lộ một sự hấp dẫn nhục dục mạnh mẽ. Nhà hiền triết cười mà không một nét đẹp nào bị ảnh hưởng, bằng một thứ ánh sáng bên trong, như kiểu cười của một người đàn bà rất chăm chút cho sắc đẹp của mình.
- Xin lỗi, Adolf ấp úng, nhưng lúc nãy, Slawomir đã phát âm rất tồi tên ông và tôi e là...
- Tôi là André Breton, nhà hiền triết nói, người đứng đầu nhóm nghệ sĩ siêu thực. Hãy đi theo tôi.
o O o
- Thư cho ông, ông Hitler.
- Hoa cho ông, ông Hitler.
- Một giỏ hoa quả cho ông, ông Hitler.
- Có một phu nhân và một nhà báo ở phòng tiếp khách xin được gặp ông, ông Hitler.
- Người ta đã mang những quyển sách mà ông đặt đến, ông Hitler; người thủ thư sẽ đích thân mang lên cho ông.
Suốt cả ngày, những viên gác tù gõ cửa nhà giam một cách cung kính. Không còn biết để đâu cho hết những quà cáp, thư từ của những người hâm mộ ào ào gửi đến. Người ta chưa bao giờ thấy có nhiều người thăm viếng đến thế. Đám nhân viên trại giam Landsberg thầm hãnh diện được trông coi một vị khách được chúc mừng nhiều đến thế, một trung tâm thu hút giới thượng lưu; từ vài tháng nay, có người thậm chí còn ngây ngất tưởng như mình đang phục vụ trong một khách sạn sang trọng hơn là trong một nhà tù.
Người ta đã dời ngôi sao trước đó - Arco, kẻ đã ám sát thủ tướng xứ Bavaria Eisner - đi chỗ khác, để đưa Hitler vào ở trong xà lim số 7 rộng thênh thang, căn phòng đồ đạc đầy đủ nhất, phòng duy nhất nhìn ra phía ruộng đồng cây cỏ tuyệt đẹp. Mặc áo ngủ sang trọng màu trắng hay vận một chiếc quần cụt truyền thống bằng da, hắn được tự do tiếp đón những tù nhân khác, Rodolf Hess chẳng hạn, người đã vào đây cùng hắn.
Sau khi đứng im hồi lâu, hối hận vì đã không tự tử, Hitler bình tĩnh lại. Tin tốt thứ nhất là đã có mười sáu đảng viên Quốc xã chết trong cuộc đảo chính: hắn kết luận từ đó là: Định mệnh, như thường lệ, đã một lần nữa che chở cho hắn. Tin tốt thứ hai là Lenin đã chết vào tháng Giêng; hắn không chỉ hài lòng với cái chết của người Do Thái Bôn sê vich này mà còn đọc được trong đó một thông điệp tinh tế của số mệnh, giống như việc số mệnh đã cứu Frédéric Đại đế bằng cái chết của nữ hoàng Nga Elisabeth, đã cứu cơ đồ của hắn bằng cách loại bỏ một trở ngại và khẳng định với hắn, qua sự trùng hợp này, vai trò số một của hắn; tin tốt thứ ba là chính vụ xét xử: Hitler đã nói ở đó suốt nhiều tiếng đồng hồ và ra khỏi tòa án với mức án năm năm, án phạt nực cười nếu như người ta tính đến bốn cảnh sát đã chết và hàng triệu mác bị cướp khi trụ sở tờ Tin điện Munich bị phá hủy và việc bắt cóc những nhà chính trị và các ủy viên Hội đồng thành phố, một hình phạt chắc chắn sẽ được rút ngắn khi hắn cải tạo tốt.
Ở Munich, người ta không còn nghe nói đến Hitler, không còn nhìn thấy những chữ thập ngoặc trên đường phố, cũng không thấy các cuộc họp chính trị nữa; một số người thậm chí đã tin là Hitler và đảng Quốc xã đã biến mất vĩnh viễn khỏi bản đồ thế giới. Nhưng trong xà lim số 7 ở Landsberg đang diễn ra một thứ khác hẳn: Hitler hoàn tất việc sáng tạo ra Hitler.
Thâm tâm hắn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh gã hề trong chiếc áo măng tô ký giả sợ hình ảnh khẩu súng của mình phản chiếu trong tấm gương xanh nhạt mạ crôm cũ kỹ. Hắn liên tục xóa bỏ hình ảnh đó song song với việc tạo dựng một hình ảnh của Hitler mà hắn tự hào, một Hitler không thất bại, một Hitler sẽ thành công trong cuộc tiến chiếm quyền lực mà không hề chùn tay.
Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi cuộc đảo chính thất bại và không rút ra được điều gì. Còn hắn, Hitler, hắn rút ra được những kinh nghiệm từ đó. Và chỉ có hắn mà thôi.
Đầu tiên, hắn quyết định phải học chữ nhẫn. Có thử thách nào gai góc hơn với một người không kiên nhẫn khi buộc mình phải kiên nhẫn? Hắn đã làm được điều đó khi sắp xếp các ý tưởng của mình theo trật tự: nếu mục tiêu là chiếm được quyền lực thì chỉ có cái đó là cái duy nhất được quyết định thời gian sẽ là bao lâu. Hắn chấp nhận ngay lập tức thời gian mà tham vọng của mình đòi hỏi.
Tiếp đó, hắn sẽ nắm quyền lực bằng con đường hợp pháp. Vì đã từng là cán bộ tuyên truyền hạng nhất, hắn sẽ tham gia vào chiến dịch tranh cử và thu hút phiếu bầu của cử tri. Các kẻ thù của hắn sẽ không ngờ tới sự ngạc nhiên khó chịu này.
Cuối cùng, hắn đang viết về cuộc đời và tư tưởng của mình, hay đúng ra là đọc cho người khác chép vì cảm hứng bạo liệt mà hắn có khi nói sẽ lại tắt ngấm ngay khi hắn ngồi một mình trước trang giấy trắng. Hắn đặt tên cho quyển sách là Cuộc chiến đấu của tôi, hắn khoái trá khám phá trong đó con đường của hắn mạch lạc đến mức nào và làm thế nào mà con đường ấy không có cách nào khác sẽ đưa hắn thành con người vĩ đại mà nước Đức đang chờ đợi. Chính hắn cũng ngạc nhiên về điều đó.
“Một sự tiền định may mắn cho tôi sinh ra ở Braunau am Inn, một thị trấn nằm chính xác ở biên giới giữa hai quốc gia của người Đức mà sự tái hợp nhất là bổn phận chính yếu của đời chúng ta, một sự nghiệp phải theo đuổi bằng bất cứ phương tiện nào.” Hắn ngây ngất khi thấy cuộc đời mình ngay lập tức đã có dáng vẻ của một truyền thuyết, báo hiệu ngay từ ngày đầu tiên sự hợp nhất giữa nước Đức và nước Áo mà hắn xếp vào trong chương trình hành động của mình. Trên thực tế, hắn không kể lại đời mình như vốn có mà như nó cần phải có. Hắn không ngần ngại xóa mờ những điều không phù hợp với một vị lãnh tụ của nước Đức, cũng như không ngần ngại thêm vào những chi tiết còn thiếu. Vì thế, về chuyện học hành, không phải hắn bị trượt mà đã chủ động bỏ vì thấy mình phải thực hiện những trọng trách cốt yếu hơn. Hắn bỏ qua sự hung bạo của người cha, chỉ ghi lại việc ông ta phản bác việc hắn muốn trở thành nghệ sĩ, chủ yếu là để nhấn mạnh ý chí mạnh mẽ của nhà lãnh tụ ngay từ khi còn là một đứa trẻ. Hắn biến những năm tháng dài sống trong các nhà tế bần và nhà cứu trợ cho người nghèo thành cuộc sống lang bạt của một chàng sinh viên. Hắn giải thích sự thất bại của mình trong việc trở thành họa sĩ bằng cách gán cho mình có khiếu kiến trúc sư hơn là một họa sĩ. Hắn khai man ngày tháng cốt khỏi để lộ rằng hắn đã tìm cách trốn nghĩa vụ quân sự. Hắn nói rằng từ thời còn rất trẻ đã có quan điểm bài Do Thái - trong khi trên thực tế là mới đây - và ý thức trí tuệ sâu sắc mà hắn cho là mình đang có hiệnnay trên nhiều lĩnh vực. Một thiên tài chính trị. Hắn tạc mình vào đá hoa cương. Hắn khăng khăng khẳng định rằng mình không hề thay đổi. Nếu có thể được, chắc hắn đã vẽ cho mình một bộ ria khi còn nằm nôi.
Trong những chương khác, ít mang tính lý lịch hơn, hắn làm rõ tư tưởng của mình. Rudolf Hess, viên thư lại tận tụy của hắn, giúp đỡ hắn trong việc này ngay cả khi Hess làm Hitler lúng túng với lối suy nghĩ kinh viện của mình.
- Ôi trời, Hess, đừng quấy rầy tôi nữa với mớ kiến thức viện dẫn của anh! Tư tưởng này là của ai, không quan trọng! Tư tưởng thì phải hoặc là tốt, hoặc là xấu, thế thôi. Tôi không biết khái niệm về chủng tộc mình lấy của Chamberlain, Go.. Go gì ấy nhỉ?
- Gobineau.
- Của Gobineau hay của...
- Bôlsche.
- ... hay của Bôlsche. Dù gì thì tôi chẳng bao giờ nhớ tên các tác giả cả. Tư tưởng thì không thuộc về ai cả. Hoặc nếu có, chúng thuộc về những người suy nghĩ, làm cho chúng sống động bằng lời nói của mình và truyền đạt chúng cho người khác. Trong trường hợp này là tôi: Adolf Hitler.
Trong thời gian nghỉ ngơi bắt buộc này mà hắn gọi mỉa mai là “chuyến thực tập của tôi ở trường đại học do nhà nước trả tiền”, cuối cùng hắn đã có thời gian để nối kết những bình luận rải rác.
- Hess, anh thấy không, tôi cho là tôi đã hiểu hết về con người khi quan sát loài chó. Người ta không thể luyện cho chó Pug những phẩm chất của chó săn thỏ hay của chó xù. Huấn luyện chẳng ích gì. Tốc độ của chó săn hay khả năng nắm bắt của chó xù là cái thiên bẩm gắn liền với giống nòi. Người ta chỉ có thể chấn hưng nước Đức bằng cách coi sóc nước Đức với tâm thế của người dạy chó, có tính đến sự thuần chủng của giống. Điều này dẫn đến hai chương trình song song: chăm sóc sự tái sinh sản nội tại của giống đó, loại bỏ những yếu tố ngoại lai mà không mềm lòng bởi chủ nghĩa tình cảm vốn rất nguy hiểm. Không nên giữ lại những con người khốn khổ, tật nguyền, tàn phế hay ngu xuẩn bằng cách này hay cách khác. Với những con người như thế đang sống, cần phải khẩn cấp triệt sản. Với những con người như thế đang sắp ra đời thì cần phải loại bỏ trước khi bố mẹ chúng nhìn thấy. Tiến bộ thực thụ của ngành y sẽ là quyền lực thực sự để phân tách sức mạnh sinh tồn với sự yếu ớt ngu xuẩn, chứ không phải sự cứng đầu đáng nghi ngờ cố giữ cho sống những cá nhân làm suy thoái dòng giống. Đó là một nền y tế nhân đạo. Phần thứ hai của chương trình sẽ là loại bỏ dân Do Thái.
- Sao ạ?
- Trước tiên, cần phải gom nhốt chúng lại để tránh việc chúng tiếp tục làm suy thoái dòng máu của chúng ta. Vả lại, cần phải nhốt chung tất cả các đối tượng bị bệnh không chữa được để chúng không lây nhiễm sang những người khỏe mạnh; cần phải ngay lập tức cách ly những người bị bệnh giang mai và những người bệnh lao. Tôi tán đồng việc cách ly không thương tiếc những kẻ bị bệnh không chữa được.
- Gom nhốt bọn Do Thái. Sau đó thì sao ạ?
- Tống cổ chúng khỏi lãnh thổ Đức.
- Sau đó?
- Tôi biết là mình có vẻ thái quá nhưng cần phải dùng đến những phương pháp vệ sinh. Nếu vào đầu cuộc chiến này, một lần nào đó, người ta cho mười hai hoặc mười lăm nghìn đứa trong lũ dân Do Thái hủ hóa này vào hơi độc mà chúng ta đã hít phải sau đó trong chiến hào thì chúng ta đã có thể tránh được cái chết của cả hàng triệu người Đức dũng cảm đầy tương lai.
- Ngài định nói là...
- Hiện tại, hãy nói về những giải pháp liên quan đến lãnh thổ. Tống cổ chúng đi. Thế là đủ.
- Nhưng đồng thời, ngài nói rằng nước Đức cần phải được mở rộng.
- Đúng, chúng ta cần một không gian sinh tồn!
Khái niệm “không gian sinh tồn” đến với hắn trong sự giam cầm, chắc hẳn nhờ vào sự chán nản bị giam giữ, chắc hẳn cũng vì hắn đánh đồng nước Đức với bản thân mình.
- Chúng ta cần phải khẩn cấp sử dụng lại những lời lẽ của bọn Do Thái để áp dụng cho chúng ta. Chúng ta là Dân tộc được lựa chọn. Chúng ta là dân tộc Aryen. Không thể nào có hai dân tộc được chọn. Hoặc nếu như có hai dân tộc như thế, hẳn một dân tộc do Thượng đế, một do quỷ Satăng lựa chọn. Sự xung đột giữa thế giới Aryen và thế giới Do Thái, đó là sự xung đột giữa Thượng đế và quỷ Satăng. Một gã Do Thái là sự cười nhạo con người, khác xa với chúng ta cũng như động vật với loài người. Đó là một sinh vật xa lạ với trật tự tự nhiên, một sinh vật không nằm trong thiên nhiên.
- Tuy nhiên, không dễ xác định Aryen chính xác là như thế nào. Chỉ nội trong nước Đức đã có biết bao sự pha trộn mà ngài, tôi, chúng ta...
- Không quan trọng. Cái quan trọng là vạch mặt chỉ tên kẻ thù. Và ở đây, đó là điều rõ ràng: chính là dân Do Thái. Vậy thì, nước Đức, dân tộc duy nhất được Thượng đế lựa chọn, phải mở rộng lãnh thổ. Đó là một sự cần thiết. Chúng ta sẽ tiến hành chiến tranh vì thanh gươm đi trước lưỡi cày là chuyện bình thường. Chiến tranh là quyền chính yếu của dân tộc, quyền được nuôi sống những đứa con của mình. Với tôi, hai lãnh thổ sẽ mang lại ruộng đồng, nguyên liệu và những thị trường hấp dẫn cho nước Đức chính là Hoa Kỳ và Liên bang Xô Viết. Chúng ta sẽ bắt đầu từ phía Đông vì chúng ta cần vựa thóc lớn của châu Âu trước khi tấn công sang phía Tây.
- Thật vĩ đại. Nhưng chúng ta sẽ làm gì với bọn Do Thái, nếu nước Đức làm chủ thế giới?
- Chúng ta sẽ sửa lại đường lối vào lúc đó Hess à, chúng ta sẽ sửa lại.
- Vĩ đại!
Hitler khó khăn lắm mới ngủ được sau những buổi làm việc dài như vậy. Những điều táo bạo trong ý nghĩ của hắn làm hắn kiệt sức. Những câu nói tiếp tục được hình thành trong trí óc hắn và không hiếm khi hắn thức giấc và để mặc mình diễn thuyết vào lúc bình minh hé rạng.
- Ta bị thần nhập, hắn lẩm bẩm khi nhìn trân vào mặt trời mới ló dạng với những tia sáng yếu ớt đang chầm chậm đánh thức lũ gà trống. Ta liên tục bị choáng ngợp bởi những tư tưởng chạy qua đầu mình. Sứ mệnh của ta không cho phép ta nghỉ. Đúng, thực vậy, ta bị thần nhập.
Vị thần mang thiện ý. Không một giây phút nào hắn nghĩ rằng cái nhập vào hắn thực ra là tà ý.
Ngày 20 tháng Chạp năm 1924, giám đốc trại giam đến đọc thông báo thả tự do cho hắn trong khi hắn còn bốn năm nữa mới mãn hạn.
“Nhanh thế ư? Tiếc thật! Hitler mơ màng. Ta sắp hoàn thành quyển sách của mình rồi.”
o O o
- Không đội mũ, không quần lót thì không có nhân cách! Có phải thế không?
Mười-một-giờ-rưỡi hét vào mặt tay bồi bàn đang sợ tái mặt, bỏ chỗ bàn ngoài tiệm cà phê để rút lui vào phía trong.
Adolf và Neumann bật cười khi thấy người phụ nữ trẻ nổi cơn thịnh nộ.
- Không thể tha thứ được! Từ chối phục vụ vì tôi không đội mũ à! Coi tôi là một con điếm vì tôi để tóc trần à! Cái lũ ngốc này nghĩ cái gì cơ chứ? Rằng cái để ụp trên đầu thì tốt hơn một cây thánh giá để chứng nhận ai đó là người tôn trọng thuần phong mỹ tục ư? Thế cái mũ rộng vành thì dùng để che đùi đàn bà cho nó không hở à? Tôi ấy à, tôi biết cả tá con điếm lúc nào cũng cài lông vũ trên đầu, tôi có thể liệt kê cho hắn nghe. Cả một danh sách! Tôi nghĩ rằng nếu bây giờ hắn mang cốcchambéry-fraisette cho tôi, tôi sẽ ném thẳng vào cái mặt hắn! Thằng ngu đạo! Đồ bán nước giải khát! Hắn câu cơm câu gạo bằng cách đầu độc những người khốn khổ với cái thứ rượu pha của hắn, đã thế lại còn lên mặt dạy đời? Đúng là tôi đang mê ngủ rồi...
Sự tức giận là một cách thể hiện tâm trạng vui vẻ ở Mười-một-giờ-rưỡi. Qua những câu chửi, sự tức giận, những câu nhiếc mắng màu mè, nàng thể hiện niềm vui được ở đó, niềm ham sống, ham muốn không để người khác cướp mất phần bánh của mình hoặc để nó rơi vào hư không.
- Thưa bà, nước của bà đây. Hai rượu anít và một chambéry-fraisette.
Người bồi bàn, mặt tái nhợt, đặt những chiếc cốc lên mặt bàn và sợ rằng sẽ có một cơn lôi đình nữa. Nhưng Mười-một-giờ-rưỡi đã thay đổi mối quan tâm của mình.
- Đến xem ông thầy bói này với em đi. Hình như ông ta bói rất tuyệt.
- Không, cảm ơn, Neumann nói, anh không có đủ tiền để ném qua cửa sổ.
- Anh không tin à?
- Anh chỉ tin vào sự ngẫu nhiên giữa những mảnh vật chất. Anh là người duy vật. Vì thế anh không hiểu tại sao một người lại có thể cho rằng mình đọc được tương lai.
- Thế mà người ta đã khuyên em đến gặp ông thầy này.
- Chuyện các nạn nhân tình nguyện truyền miệng cho nhau thông tin là chuyện bình thường.
- Ôi, chán các anh quá, mấy anh Bôn sê vich này. Anh không thấy à Adolf, rằng những kẻ điệu đà như anh Neumann đã biến thành điềm gở, kiểu như biến thành cha cố khoác áo đỏ, thấy không? Thay vì bốc mùi nến tắt họ lại sặc mùi lưỡi liềm rỉ. Đúng là chẳng tốt đẹp gì hơn.
- Mười-một, em phải tôn trọng Neumann chứ, Adolf âu yếm nói.
- Nhưng em tôn trọng anh ấy đấy chứ. Em tôn trọng vì anh ấy đẹp trai ngay cả khi anh ấy buồn. Em tôn trọng vì anh ấy là bạn anh ngay cả khi anh ấy tắc lẻm tiền của anh. Em tôn trọng vì anh ấy là bạn thân của em ngay cả khi chúng em chẳng đồng quan điểm về bất cứ chuyện gì. Ngh-i-ê-m, đồng chí Neumann, tôi lúc nào cũng tôn trọng đồng chí nhưng dẫu sao tôi cũng đi gặp ông ta đây.
Nàng chào kiểu nhà binh rồi để hai người đàn ông lại ở quán cà phê trên vỉa hè để đi đến cái sân nơi ông thầy bói hành nghề.
Trong một quán hàng tí hon kẹp giữa hai tòa nhà và một cái kho chứa thùng rác, người đàn ông tiếp khách, bên cạnh là một quyển sổ lớn đặt trên bốn viên gạch, một cái rương đầy văn tự, hai cái ghế cập kênh đặt quanh một cái bàn cũ tận dụng lại dưới cái nhìn của chúa Jesus được vẽ bằng phấn trên tường. Đầu ông thầy tròn nhỏ bóng như quả cầu pha lê của ông ta, ông thầy chỉ tiếp khách vào thứ Hai và tự cho mình là một nhà thơ dù rằng không ai coi điều đó là nghiêm túc.
- Chào ông Jacob, Mười-một-giờ-rưỡi nói.
- Hãy gọi tôi là Max, ông thầy bói tí hon trả lời.
Họ đóng kín cửa để nói về tương lai.
Ngồi lười sưởi nắng, phấn chấn vì đã uống rượu anít, Adolf và Neumann nhìn ngắm những cô gái Paris đi ngang quán.
- Tớ sẽ đi Moskva, Neumann nói.
- Tớ biết.
- Tớ đã được mời tới làm việc ở Nhà văn hóa nhân dân. Tớ sẽ ở lại đó ba tháng.
- Cậu sẽ vẽ gì?
- Tớ không biết.
- Neumann, tớ hiểu rất rõ rằng cậu muốn làm chính trị nhưng thật là đáng tiếc nếu điều đó làm cậu từ bỏ hội họa.
- Hội họa đã bỏ qua tớ.
- Đúng, nhưng cậu, liệu cậu có bỏ qua hội họa được không?
Neumann tư lự đáp lại bằng một sự im lặng.
Adolf nói thêm:
- Cậu có tài năng. Cậu phải có trách nhiệm với tài năng ấy. Cậu phải dùng nó vào một việc gì đó.
Neumann há miệng ngáp không cần che.
- Tớ chẳng thấy việc vẽ có lợi ích gì trong thế giới mà chúng ta cần phải xây dựng. Bao nhiêu người không có việc làm, không có cái ăn thế mà cậu lại nghĩ đến vẽ vời.
- Đúng thế. Tớ đói, không ai muốn mua các tác phẩm của tớ thế mà bất chấp tất cả, tớ vẫn nghĩ đến việc cầm cọ. Và tớ mong muốn rằng những kẻ giàu có, những tên tư bản bẩn thỉu như cậu nói, những kẻ lợi dụng, sẽ mê đắm các tác phẩm của tớ. Đúng thế.
- Thời ấy qua rồi. Tớ không còn đồng ý với điều ấy, Neumann nói.
- Chiến tranh đã ăn cắp mất cuộc đời chúng ta, thế vẫn còn chưa đủ hay sao? Cậu lại còn muốn để chính trị cướp đi cuộc đời cậu một lần nữa ư?
- Không, Adolf à, cậu chẳng hiểu gì về chiến tranh. Cậu thấy đó là một cái lò sát sinh đã giết chết tài năng của Bernstein, làm chậm lại sự nở rộ tài năng của cậu. Một trở ngại cá nhân. Còn tớ, tớ thấy đó là một sự khủng khiếp về mặt chính trị. Cuộc chiến mà chúng ta trải qua, đó là do quốc gia đã yêu cầu chúng ta phải hy sinh. Đổi lại cái gì? Chẳng gì cả. Quốc gia, cái đó có nghĩa là gì? Làm người Đức, người Pháp, người Bỉ, người Thụy Điển có nghĩa gì? Chẳng nghĩa gì. Đó chính là cái tớ đã rút ra được trong cuộc chiến: cần phải thay Nhà nước vào chỗ quốc gia. Mà không phải là bất cứ loại Nhànước nào. Đó phải là một nhà nước đảm bảo được hạnh phúc, ấm no và sự công bằng cho mỗi người.
- Đừng mang cái món chủ nghĩa cộng sản ấy ra nói với tớ nữa, tớ biết rồi Neumann, tớ đã nghe cả trăm lần rồi.
- Cậu nghe thấy tớ nói chứ cậu không lắng nghe tớ...
- Các cậu muốn thay đổi cái xã hội đã đòi hỏi hàng triệu cái chết trong cuộc hiến sinh. Nhưng thay vì đòi hỏi xã hội ấy ít đi các cậu lại đòi hỏi nhiều hơn. Nó đã yêu cầu các cậu phải chết đi, bây giờ các cậu lại đòi hỏi nó phải sống, phải tổ chức cuộc sống của các cậu đến chân tơ kẽ tóc. Theo tớ, các cậu bị nhầm lẫn chính ở điểm này. Tớ ấy à, tớ không muốn nhiều tính tập thể hơn mà là muốn ít hơn. Sau cuộc chiến, tớ không còn muốn cống hiến cho cộng đồng bất cứ cái gì nữa, nó hãy cứ để cho tớ được yên, tớ chẳng nợ nần gì nó cả.
- Hoan hô! Chủ nghĩa vô chính phủ cánh hữu! Câu trả lời mới hay làm sao! Đó không phải cái sẽ làm thay đổi thế giới đâu.
- Nhưng tớ nào muốn thay đổi thế giới, Neumann, tớ chỉ muốn thành công trong cuộc đời mình.
Mười-một-giờ-rưỡi đến ngồi lại trên chiếc ghế gần chỗ hai người và lặng lẽ đưa chiếc ly đã cạn lên môi. Adolf nhận thấy mũi nàng sưng lên và mắt mọng đỏ.
- Chuyện gì xảy ra vậy? Em khóc à?
- Em ấy à?
Nàng dường như giật mình nhận ra sự có mặt của họ. Nàng trìu mến cười với Adolf.
- Không. Thực ra là... có.
- Thằng cha thầy bói ấy nói gì với em à?
- Không. Thực ra là... có.
- Điều gì làm em khóc vậy?
- Không. Chẳng có liên can gì. Em sụt sịt là vì em bị sổ mũi theo mùa. Bây giờ đang là mùa em bị sổ mũi.
- Anh không hề biết là em bị sổ mũi theo mùa đấy, Adolf nói vẻ nghi ngờ.
- Vậy thì bây giờ anh biết, thế thôi!
Dù gì Adolf cũng không còn thời gian để cật vấn Mười-một-giờ-rưỡi thêm nữa vì họ cần phải đến tham dự cuộc họp của nhóm siêu thực ở khán phòng Gaveau nơi vụ xử Anatole France(24) sắp diễn ra.
Khi họ đến gần nhà hát thì những người đeo bảng quảng cáo một trước, một sau đang đi lại trên vỉa hè và thông báo vụ xử.
Những người qua đường bị sốc buông lời nhiếc mắng:
- Các ông giở cái trò gì thế, Anatole France đã chết rồi mà. Người ta đã tổ chức quốc tang, làm sao ai lại dám xử ông ấy?
- Ông ấy phạm tội gì?
- Một vụ lăng nhăng tình ái chăng?
- Một vụ đạo văn?
- Hãy để cho người chết được yên, đúng là một vụ xì căng đan!
Adolf, Neumann và Mười-một-giờ-rưỡi xoa tay khi nhận thấy không khí trong phòng đã rất căng thẳng.
- Sắp có trò vui đây, Mười-một-giờ-rưỡi nói.
Những người rao tin thông báo Charlie Chaplin, Buster Keaton và hoàng tử Monaco sẽ có mặt tại phiên xử. Không ai trong số họ có mặt ở đó nhưng nhiều kẻ hiếu kỳ ngờ ngệch đã đổ xô vào trong phòng.
- Nhanh lên quý vị, một nhà thơ trẻ hét lên, tất cả những ai đến muộn sẽ bị cạo đầu!
Nhiều người do lo lắng nên lần chần đã bị đẩy vào phòng.
Trên sân khấu, người ta đã kê bàn và ghế băng để gợi nên một cách mơ hồ khung cảnh một tòa án. Nhà hiền triết, André Breton, ngồi ở ghế chủ tọa. Bên luận tội có Benjamin Péret. Bên bào chữa là Louis Aragon.
- Cái ông Aragon này lúc nào cũng ăn mặc bảnh bao, Mười-một-giờ-rưỡi ngưỡng mộ thì thầm. Nếu người ta không nói ông ta là nhà thơ, em sẽ nghĩ ông ấy là thợ cắt tóc.
Nhà hiền triết lên tiếng:
- Thưa quý bà, quý ông, bị cáo Anatole France thậm chí không thèm tự giới thiệu mình trước tòa dù rằng ông ta được triệu tới đây. Ông ta đã vội vã rời Paris bằng xe đòn mà không nói một lời xin lỗi, trong khi ông ta là người viết nhiều đến vậy.
- Thật đáng xấu hổ! Nói về người chết như vậy ư! Một bà trong cử tọa phẫn nộ nói.
- Thưa bà, ông ta đã chết từ hồi vẫn còn sống cơ. Lúc nào ông ta cũng bốc mùi tử thi. Chỉ có ông ta với bà mới không nhận thấy điều ấy.
Người đàn bà vung cây ô của mình về phía sân khấu, chồng bà ta cũng bị sốc và đám thanh niên xung quanh trêu chọc họ. Ẩu đả nổ ra.
- Vui quá thôi, Mười-một-giờ-rưỡi tán thưởng.
Nhà hiền triết lại cất lời át cả mớ âm thanh ồn ĩ trong phòng:
- Như vậy bị cáo sẽ được thay bằng một con ma nơ canh vải tin tưởng tuyệt đối rằng mình chính là Anatole France, điều này hoàn toàn phù hợp với chúng ta vì một trong những điều cáo buộc trong vụ này là việc cướp đoạt căn cước. Bị cáo Anatole, hãy đứng lên.
Con ma nơ canh không động đậy.
- Chúng tôi kết tội anh đã ăn cắp tên của một dân tộc u mê đã ngu ngốc yêu quý anh quá đỗi: nước Pháp(25).
- Đả đảo nước Pháp! Một nhà siêu thực trẻ hét lên.
- Nước Pháp và khoai tây chiên muôn năm! Nhà hiền triết phấn khích.
- Nước Đức và lát thịt bê muôn năm! Adolf hét lên.
- Dì tôi và món bò xốt vang của bà muôn năm! Mười-một-giờ-rưỡi chêm vào.
- Hãy làm bọn họ im mồm đi! Người đàn bà cầm ô lúc nãy hét lên. Các người báng bổ tất cả những gì thiêng liêng.
- Thưa bà, nhà hiền triết gào lên, anh chỉ thể hiện hết khả năng của mình khi tình hình đã trở nên hỗn loạn, chúng tôi không tôn trọng bất cứ cái gì mà mọi người tôn trọng. Anatole France làm cho mọi người nhất trí khi nói về tài năng và con người của ông ta, thu được phiếu bầu của cả cánh tả và cánh hữu, vinh dự và thói hợm hĩnh thối rữa trên con người ông ta.
- Thưa ông, tôi lúc nào cũng đặc biệt yêu thích Anatole France.
- Tôi coi tất cả những kẻ ngưỡng mộ Anatole France là những sinh vật đồi bại! Aragon hào hứng hô, quên mất rằng mình đang đóng vai luật sư biện hộ.
- Dừng ngay cái trò lố lăng này lại, một người đàn ông có chòm râu dê trắng phau lịch lãm, mặc quần áo màu xanh nước biển cất tiếng sang sảng. Các ông chỉ là một lũ khốn nạn nhỏ mọn.
- Đúng thưa ông, tất cả chúng tôi ở đây là một lũ khốn nạn, sự khác biệt duy nhất là có những kẻ khốn nạn nặng và khốn nạn nhẹ. Ông thuộc loại nào?
- Loại những người có phẩm giá!
- Tôi ỉa vào phẩm giá!
- Ông chỉ là một thằng ngu.
- Đúng thưa ông, tôi là một thằng ngu hoàn hảo, tôi không giấu giếm điều đó và tôi không tìm cách thoát ra khỏi nhà thương điên nơi tôi đang sống. Ngược lại, tôi khai thác nó. Chính cái đó là chủ nghĩa siêu thực, thưa ông.
- Tôi mặc xác cái chủ nghĩa siêu thực.
- A, cuối cùng cũng có một câu nói thông minh.
- Vui quá đi thôi, Mười-một-giờ-rưỡi nhắc lại.
- Vì các ông tự cho mình là nghệ sĩ, cái ông mặc đồ xanh nước biển lại cất lời, hãy cho chúng tôi xem những cái các ông làm. Thay vì phá hủy thì hãy sáng tác đi.
- Không, trước tiên chúng tôi muốn phá hủy đã. Từ của chúng tôi là đạn, câu của chúng tôi là súng tiểu liên, văn bản của chúng tôi là đội hành quyết. Người nghệ sĩ mới phản kháng, anh ta không vẽ nữa, anh ta tiến hành chiến tranh. Quét sạch! Rửa sạch! Đó là một thái độ siêu hình. Chúng tôi tin vào sức mạnh của hư vô.
- Tầm phào!
- Dada! Dada! Dadadadada!
Để thể hiện sự gắn kết, những thành viên siêu thực trẻ bắt đầu đọc lên cụm từ vô nghĩa này như những đứa trẻ loa loa vào miệng cái bô. Những người muốn giữ vẹn lương tri muốn đứng lên ra về; người ta chửi rủa họ; các cú đấm đá văng ra và cuộc họp biến thành cuộc ẩu đả.
Một cái túi bay đến tận chỗ Adolf và đập vào trán Neumann. Máu nhỏ thành giọt.
- Hôm nay văn chương thế là đủ rồi đấy nhỉ? Mười-một-giờ-rưỡi hỏi khi chìa chiếc khăn mùi soa sạch ra.
- Đúng thế, lý thuyết cũng hòm hòm rồi đấy, Neumann nói.
Cả ba rời khỏi phòng và đi đến một tiệm thuốc gần Champs-Elysées để băng bó cho Neumann.
- Tớ ngạc nhiên là cậu lại quan tâm đến những người bạn mới của tớ, Adolf nói với Neumann. Những cuộc tranh luận nghệ thuật này về mặt nguyên tắc đúng ra phải có vẻ hoàn toàn phù phiếm với cậu chứ nhỉ.
- Breton là đảng viên đảng Cộng sản, Neumann ngần ngại nói, và nhiều nghệ sĩ siêu thực khác nữa.
- Thế à? Adolf nói, đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác.
- Đúng vậy, hình như có một sự liên hệ giữa sự giải phóng trí tưởng tượng với việc giải phóng các giai cấp bị bóc lột.
- À thế à? Adolf nói vẻ nghi hoặc.
- Dù sao chúng ta cũng đã vui đùa thoải mái, Mười-một-giờ-rưỡi kết luận.
Neumann chia tay hai bạn để đến nhà nhân tình nơi anh ở từ khi Mười-một-giờ-rưỡi xuất hiện trong cuộc đời Adolf và từ khi anh ít nhiều từ bỏ hội họa để đến với chính trị.
Mười-một-giờ-rưỡi và Adolf quyết định đi bộ về nhà ở Montparnasse.
- Thật là, Mười-một, em thấy họ có nghiêm túc không?
- Ai cơ?
- Những người siêu thực ấy.
- Cẩn thận đấy. Em nhắc lại là anh cũng nằm trong số họ. Thuộc dòng hội họa trong chủ nghĩa siêu thực. Với Max Ernst, Chirico, Dali và những người khác. Vả lại, từ khi trào lưu ấy được biết đến, anh bán được nhiều hơn trước một chút.
- Mười-một, anh đang nói chuyện nghiêm túc với em. Em nghĩ sao về chuyện đó?
- Sống động, ồn ào, trẻ trung.
- Ngu ngốc.
- Đúng. Và chúng ta đã vui vẻ
- “Chúng ta đã vui vẻ”, chỉ thế là đủ với em sao?
Hắn xẵng giọng, to tiếng. Khi quay lại, hắn nhận ra nàng đang khóc.
- Đúng vậy, chúng ta đã vui vẻ, thế là đủ với em, đó là điều quan trọng.
Nàng không kìm được nữa, khóc òa lên.
- Mười-một-giờ-rưỡi, có chuyện gì vậy? Không phải em bị sổ mũi theo mùa. Cái tay thầy bói ấy nói gì với em?
Nàng ngoảnh mặt đi.
- Ồ, ông ta nói với em điều em đã biết từ lâu. Nhưng em chỉ cần một lời khẳng định.
- Cái gì cơ?
- Rằng em sẽ không sống lâu. Rằng em sẽ không sống qua tuổi ba mươi.
- Xem nào, nhảm nhí quá. Làm sao em lại có thể tin...
- Ừ thì em đã biết điều đó từ khi em còn bé tí. Một bà người Digan đã nói vậy khi xem tay cho em. Sau đó, em tự xem cho mình qua bói bài. Ông Jacob, ông ấy đã đọc thấy điều ấy qua cặn cốc cà phê(26).
- Còn anh, cái đế giày của anh mách bảo rằng anh sẽ đá vào đít cái tay Jacob này!
Hắn ôm Mười-một-giờ-rưỡi trong tay, nhấc bổng nàng lên như nhấc một đứa trẻ và áp sát mặt mình vào mặt nàng. Hắn cọ mũi vào mũi nàng.
- Anh không muốn em để mình phiền muộn bởi những kẻ mồm miệng ác độc. Em có một sức khỏe tuyệt vờivà em sẽ sống rất rất rất lâu.
- Thật không? Mười-một-giờ-rưỡi hỏi, mắt mở to vì hy vọng.
- Thật đấy.
Khuôn mặt nàng trở nên rạng rỡ.
- Và em sẽ già đi bên anh, Adolf nói thêm.
- Thật chứ?
- Thật.
Mười-một-giờ-rưỡi choàng tay qua vai và áp đầu vào cổ Adolf, để mặc nước mắt tuôn trào vì nhẹ nhõm.
- Ôi... em thấy mình hạnh phúc... em đã ngu ngốc... anh đã an ủi em... em biết là anh nói đúng.
Adolf rùng mình. Trong khi vừa khẳng định như đinh đóng cột sự lạc quan của mình, cũng với một sự chắc chắn như thế, vậy mà theo một cách không thể hiểu được, hắn linh tính rằng cái tay Jacob loắt choắt ấy chắc chắn đã nói đúng.
o O o
Một cái thân phát ra nhạc. Người đàn ông ấy trông giống như một cái gốc cây bị đốn bởi dáng vẻ đồ sộ, màu sắc, sự bất động không chút cảm xúc của mình; tuy vậy, ông ta lại có một cái rãnh xẻ ngang giữa khuôn mặt, như một vết sẹo do bị chém bằng rìu, và từ cái rãnh ấy thoát lên một giọng hát nam tính lấp đầy cả phòng khách mùa hè.
- Hỡi Đấng chí tôn đầy quyền năng hãy cúi xuống nhìn ta. Hãy giữ vẹn nguyên sức mạnh mà Người đã đặt nó một cách diệu kỳ trong ta. Người đã làm cho ta kiên nghị, Người đã cho ta quyền lực tối thượng,Người đã cho ta những phẩm chất cao quý: soi sáng cho những kẻ đang bò lết, vực dậy những kẻ khuynhgia bại sản. Qua Người, ta biến sự sỉ nhục thành vĩ đại, huy hoàng và uy nghiêm.
Trong ngôi biệt thự hướng ra dãy Alpe, cử tọa đang thành kính nghe giọng nam cao trình diễn tác phẩm của Wagner cất tiếng hát lời nguyện cầu của Rienzi. Tất cả các khán giả đều theo dõi cùng một buổi hòa nhạc được tổ chức riêng theo yêu cầu, nhưng mỗi người lại nghe thấy một thứ khác nhau. Nhà Bechstein, chủ biệt thự và là nhà sản xuất đàn dương cầm danh tiếng, đang kiểm tra âm thanh ngọt ngào tươi mới của mô đen đàn mới nhất của mình, Winnifred Wagner khám phá vở opera mà bà chưa bao giờ tổ chức trình diễn ở Bayreuth, trong khi về phần mình, Adolf Hitler có cảm giác người ta đang cao giọng hát lên cuốn nhật ký của hắn.
Ca sĩ giọng nam cao đã kết thúc phần trình diễn và đón nhận những tiếng vỗ tay vừa phải của một nhóm thượng lưu đang đi nghỉ; còn Hitler, hắn lại muốn làm dấu thánh. Âm nhạc của Wagner đã trở thành một thứ nhạc lễ, một nghi lễ cá nhân với hắn, và hắn đến dự những buổi biểu diễn gần Bayreuth như thể người ta đến chiêm nghiệm và cầu nguyện trong một giáo đường.
Giờ đây, khi một lần nữa được tôi mình trong chủ nghĩa anh hùng của Rienzi, hắn muốn thoát khỏi những người đàn bà vây quanh hắn. Có quá nhiều người đàn bà hâm mộ hắn trong phòng khách này nên phần tiếp theo của buổi chiều dễ biến thành một cuộc ẩu đả giữa những mái đầu đã nhuốm bạc. Hắn bước đến hôn tay Hélène Bechstein, bà chủ nhà, một người ủng hộ nhiệt thành, cách đây hai năm đã từng cầm cố đồ trang sức của mình để cung cấp tiền cho Đảng; khi nói những lời khen ngợi bà ta, Hitler cố ý để bà ta thấy mình đang đeo chiếc cà vạt mới nhất mà bà ta vừa tặng.
- Ôi không! Ngài không định bỏ chúng tôi sớm như thế chứ!
- Tôi phải về để viết.
- Nếu là vì nước Đức thì tôi sẽ bỏ qua cho ngài.
Hắn biến mất sau cửa chiếc Mercedes, để lại sau mình hàng tá quý bà ngẩn ngơ.
Hắn đi gặp Mimi.
Mimi, Mimilein, Mizzi, Mizzerl, không có biệt danh nào đủ trìu mến để gọi tên nàng.
Nàng mười sáu tuổi. Hắn ba mươi bảy tuổi.
Nàng nhìn hắn bằng con mắt mà người ta dùng để nhìn những siêu sao chính trị khi người ta là một thiếu nữ buồn chán trong một ngôi làng nhỏ trên vùng núi Alpe thuộc xứ Bavaria. Nàng ngây ngất ngang như được gặp Rudolf Valentino(27).
Trước tiên, hai con chó của họ làm thân với nhau trước cửa hàng của gia đình nàng, điều mà Hitler cho là điềm lành. Trước khi nhìn ra cô gái, Hitler đã cảm thấy sự xúc động hắn gây ra trong lòng cô gái. Sau đó, hắn đã chiêm ngưỡng tấm thân mảnh dẻ, tươi trẻ, vui vẻ, dường như được sinh ra từ những giọt sương, cặp má tròn trịa và êm ái nhường ấy, như trái trên cây, rồi mái tóc vàng vô tư, đôi mắt màu hoa cà. Nàng đã trở thành một người phụ nữ hoàn chỉnh trong mùa hè tươi đẹp này. Hắn nhận thấy nàng đỏ mặt vì cái nhìn của hắn. Với nàng, hắn thật tuyệt vời trong chiếc quần da ngắn, với đôi tất màu ghi nhạt to đùng và chiếc áo trượt tuyết thắt bằng một chiếc dây lưng da như người ta thường thấy hắn trên báo chí và lãng mạn một cách đáng buồn vì vụ bị bắt bỏ tù phi lý. Hắn lại gần, sử dụng cái nhìn trực diện nổi tiếng của mình với cặp đồng tử xanh phớt tím để làm nàng bối rối trước khi cất lời khen con chó của nàng. Họ đã nói chuyện về vật nuôi suốt một giờ đồng hồ. Sau đó, khi Hitler xin phép chị cả của nàng để đưa Mimi đi dạo thì Mimi, bối rối vì đã thu hút sự chú ý của một ngôi sao,chạy biến đi mất.
Hitler cảm thấy được hồi sinh bởi sức trẻ ấy: Mimi không những nghiến ngấu hắn với cùng cặp mắt tình tứ như tất cả những bà mẹ bảo trợ của hắn, mà nhìn nàng còn dễ chịu hơn rất nhiều so với những cặp răng giả gắn ngọc hay mẹ nạ dòng đang tuổi tắt kinh. Hơn nữa, nàng chẳng đòi hỏi hắn điều gì; chưa tấn công, nàng đã bị chinh phục rồi. Khi hắn tán tỉnh nàng, hắn có cảm giác như mình đang quệt một thứ bơ ngon của vùng Alpe lên một lát bánh mì épice(28), tự nó đã ngon lắm rồi.
Để củng cố uy thế của mình, hắn đã mời nàng tới một cuộc mít tinh chính trị nơi hắn biết rằng mình sẽ là ngôi sao. Khi đó, hắn đã trổ hết tài hùng biện của mình, biến cuộc tụ họp khiêm nhường trong một biệt thự ở Berchtesgaden thành một cuộc gặp gỡ chính yếu nơi số phận của nước Đức được quyết định; hắn nói liên hồi, chuyển từ cách nói trữ tình sang kiên quyết, từ sự hoài niệm sang niềm hy vọng vào một ngày mai xán lạn, từ hận thù sang tình cảm ái quốc, tổ chức một liên hoan có bắn pháo hoa, cái đã giúp hắn được đón tiếp nồng hậu không tưởng. Đến bữa ăn, hắn muốn Mimi và chị nàng được ngồi vào ghế danh dự, ngay cạnh hắn và làm nàng nóng bừng má như có lửa đốt khi thú nhận với nàng rằng buổi hôm nay, hắn chỉ nói cho mình nàng. Hắn ngắm cặp môi cong, mềm mại, hồng hồng, và đến lúc ăn tráng miệng, không kìm mình được nữa, hắn đút cho nàng ăn bánh ga tô. Thoắt cái, hắn coi nàng như một đứa trẻ, thoắt cái, hắn coi nàng như một người đàn bà, điều này làm cô bé vị thành niên căng thẳng. Sau bữa ăn, hắn so sánh mẹ của Mimi vừa mới qua đời vì bệnh ung thư và bà Hitler, mẹ hắn, điều này làm mắt hắn nhòa đi và cho phép hắn cọ đùi mình vào đùi cô gái.
Rồi họ đi đêm với nhau. Hitler cúi xuống Mimi, hôn lướt lên vai nàng và tiến lại gần để hôn nàng. Đúng vào thời khắc ấy, hai con chó lao vào cắn nhau chí tử. Hitler điên lên, túm lấy vòng cổ kéo con chó của mình ra và dùng roi quất nó.
- Thôi đi! Thôi đi! Mimi kêu lên.
Hitler trút giận lên con vật giờ đây đang rên rỉ và co rúm lại, chỉ còn là những tiếng rên.
- Thôi đi! Em xin anh! Thôi đi!
Hitler không nghe nữa. Hắn quật tới tấp lên người bạn đồng hành mà hắn nói là không thể sống thiếu được.
- Làm sao anh có thể tàn nhẫn với con vật tội nghiệp này đến thế?
Hitler dừng lại và nhìn nàng, mắt ngơ ngác.
- Cần phải làm như vậy.
Hắn nhìn chiếc roi trên tay mình và tiến lại gần nàng như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Mimi lùi lại theo bản năng.
- Sao hả Mimi? Em không muốn hôn tôi nữa à?
- Không.
Hitler trở nên lạnh băng. Tất cả sự tử tế làm sáng bừng khuôn mặt hắn tối nay đã biến mất. Hắn bỏ đi trong bóng tối, mồm lẩm bẩm “Heil”.
Ngày hôm sau, sau khi nói chuyện với Emile, tài xế của mình, người đã đảm bảo với hắn rằng một cô gái trẻ được dạy dỗ tử tế bao giờ cũng từ chối nụ hôn đầu, hắn gửi cho nàng một bó hoa ngụ ý rằng trái tim hắn đang tan nát! Nàng chấp nhận hẹn hò lại với hắn ở nơi hắn đến ngày hôm nay.
Chiếc Mercedes dừng lại trước cửa hàng và mở cửa đón cô gái. Nàng thật rạng rỡ.
Trong xe, nàng trông đợi Hitler sẽ nói chuyện thật ra trò. Vốn là người chỉ nói nhiều trước công chúng và về chính trị, hắn lúng túng bởi sự trông đợi này và hắn cố gắng làm hài lòng nàng được ít nhiều. Sau nửa giờ cố gắng, hắn tìm ra một chiến thuật mới.
- Anh cầm tay em, em có thể đặt lên vai anh, nhắm mắt lại và anh sẽ gửi sang cho em những ước mơ của anh.
Mimi, hân hoan với trò lạ này liền làm như hắn nói. Như thế Hitler có thể chạm vào nàng và thoải mái nhìn nàng, lại không phải mệt vì nói chuyện.
Chiếc xe dừng lại ở nghĩa trang. Mimi ngạc nhiên, nhưng Hitler đã giải thích với vẻ mặt nghiêm nghị:
- Chúng ta sẽ đi thăm mộ mẹ em, cô bé của anh.
Họ đi giữa những lối đi được trang trí một cách điệu đà và đầy hoa. Trời quá đẹp và quá nóng cho những tình cảm đau buồn và Hitler phải ép mình tạo ra một không khí thê lương. Trước bia mộ, hắn nói về mẹ mình, về ánh mắt của bà, về tình thương vĩnh cửu của bà. Hắn khóc nhiều. Mimi khóc một chút. Phù! Hắn đã kéo dài được một tiếng.
Ngày hôm sau, họ đi dạo cùng nhau trong rừng. Họ chạy giữa những hàng cây. Hắn nói rằng nàng là nàng nymphe của hắn - một điều gợi nhớ mơ hồ tới các vở opera - điều làm cho nàng cười nhiều và họ ngẫu hứng nghĩ ra một vở rượt đuổi như hắn đã thấy các cặp tình nhân thường làm trong phim.
Hắn quay lại chỗ ô tô đậu, mệt nhoài. Cô nàng không bao giờ thỏa mãn lại đòi hắn tiếp tục nói và hắn đã trốn được khi giả vờ thôi miên nàng.
Hắn cảm thấy ngày càng không thoải mái vì hắn làm nàng thất vọng. Nàng trông chờ hắn cư xử như mộtngười đàn ông, đi xa hơn và không dừng lại ở những cái hôn vào cổ nàng. Trong khi đó, hắn không thấy mình có thể đi xa hơn. Hoàn toàn chểnh mảng, hắn vẫn không dành thời gian để phá bỏ sự trinh trắng của mình. Việc hắn liên tục trì hoãn lần đầu tiên ngủ với phụ nữ đã hình thành cho hắn một thói quen gìn giữ sự trinh trắng của mình và vẫn cảm thấy thoải mái. Ở tuổi ba mươi bảy, hắn cảm nhận một sự sung sướng thực sự khi không có bất kỳ quan hệ tình dục nào vì như thế hắn sẽ không bị giang mai, không mất cả thời gian và năng lượng của mình, hắn có thể tán tỉnh phụ nữ mà không bao giờ nghĩ đến những điều bậy bạ, hắn cảm thấy mình thanh khiết và đạo đức. Như Rienzi! Ý nghĩ cắt đứt sự thanh bìnhnày làm hắn sợ, và nỗi sợ mà hắn đã có thể thoải mái vượt qua như mọi người đàn ông khác ở tuổi mười tám đã trở nên không thể vượt qua được ở tuổi ba mươi bảy. Một khả năng bị né tránh trong thời gian dài trở thành một sự bất khả. Một bức tường đã được dựng lên. Một bức tường quá cao cho hắn bước qua. Ban đầu, hắn tìm lý do biện minh là sự nghèo khó, ở Viên và Munich, rồi chiến tranh, rồi bước khởi đầu đầy dông tố trong sự nghiệp chính trị; giờ đây, hắn không còn cớ nào khác, điều đó còn tệ hại hơn; lần đầu tiên kể từ khi quen biết, đứng trước mặt Mimi, hắn cảm thấy nhu cầu có một thân xác dùng vào việc gì đó khác ngoài việc nói, ăn, ỉa và ngủ và cái nhu cầu mới này làm hắn tê dại. Hắn càngđau khổ hơn vì về điểm này, hắn không thể thổ lộ cùng ai, thậm chí là với Emile, tài xế của hắn, người mà hắn sử dụng để loan tin rằng hắn có quan hệ với các vũ công và diễn viên trong khi hắn chỉ làm một việc duy nhất với họ là trả tiền ăn uống.
Hắn sẽ làm gì?
Hắn lẩn trốn qua những lời có cánh.
- Mimilein, tôi yêu em quá đỗi. Người ta không thể nào yêu nhiều đến như tôi. Tôi sắp chết vì tình yêu.
Những giờ bên nhau trong khung cảnh đồng quê vui thú với Mimi trở thành cơn ác mộng với hắn, hắn cảm thấy cái bẫy đang dần sập lấy mình.
Một buổi chiều, khi Mimi giả vờ trượt chân để bám lấy tay hắn, hắn quyết định chơi một ván cờ mới.
- Mimi, anh yêu em quá đỗi. Anh biết em là người đàn bà của đời anh, anh cần phải cưới em, nhưng anh thấy mình chưa sẵn sàng.
Hắn đẩy nàng ra, bám lấy một cái cây như thể đó là một cái phao cứu sinh và tiếp tục nói giọng tuyệt vọng:
- Anh không muốn lạm dụng em, cô bé của anh. Anh phải về Viên để suy nghĩ. Em cần hiểu rằng đây là một sự cam kết rất nghiêm túc.
Nàng định cự nự thì hắn cắt ngang:
- Không, đừng trả lời anh bây giờ. Em hãy trả lời anh sau này, dù câu trả lời có thế nào đi nữa, khi anh có đủ can đảm hỏi em điều ấy.
Hắn quay lại cầm tay nàng và cả hai cùng khóc vì xúc động và thất vọng.
Hitler quay về Munich, thở phào nhẹ nhõm. Lại một lần nữa, hắn đã thành công trong việc kéo lùi lại thời điểm phải quan hệ tình dục.
Trong cơn lốc xoáy của các hoạt động chính trị sau kỳ nghỉ, hắn vẫn không quên Mimi nhưng hắn đã tái tạo lại hình ảnh của nàng trong hắn, một hình ảnh không làm hắn phiền lòng. Kỷ niệm thì không buộc anh phải lên giường làm chuyện đó. Do vậy, hắn để mình nói chuyện về Mimi với những người thân cận, thậm chí còn nói về nàng như là vợ chưa cưới của hắn, sống trong một sự thầm kín êm ái với nàng, không bị ai đính chính vì nàng ở xa quá.
Vì vậy hắn dang tay đón nàng với cặp mắt rơm rớm khi nàng tranh thủ việc câu lạc bộ trượt pa tanh của nàng đến Munich để gặp lại hắn. Hắn đưa nàng đến quán cà phê Heck, tổng hành dinh của hắn và âu yếm nói chuyện với nàng.
- Anh sẽ tìm một căn hộ rộng hơn. Chúng ta sẽ sống cùng nhau. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc. Em sẽ mãi mãi ở bên anh.
- Mãi mãi bên anh, thưa ông Sói.
Họ phá lên cười. Nàng thích gọi hắn là ông Sói, cái tên mà hắn sử dụng khi đi lại bí mật.
- Chúng mình sẽ cùng nhau chọn từng vật dụng một, công chúa bé nhỏ của anh, màu tường, phô tơi, tranh vẽ. Xem nào, anh đã tưởng tượng ra rồi đây này: những chiếc ghế phô tơi ở phòng khách to và đẹp, phủ nhung lông màu tím.
- Nhung lông màu tím?
- Em không thích sao?
- Em thích lắm. Và chúng ta sẽ ghi trên thùng thư: “Ông bà Sói. Chú ý: hạnh phúc”.
Tối hôm đó, Hitler thấy nàng tràn ngập hạnh phúc đến nỗi không đòi hỏi một hành động cụ thể, hắn gửi nàng, lâng lâng ngây ngất, về Berchtesgaden.
Hắn đã thề với nàng là sẽ gặp lại nàng trong hai tuần nữa.
Hắn đã không đến.
Ba tháng sau, nàng treo cổ tự vẫn. Tuyệt vọng vì không có tin tức gì, không nhận được bất kỳ hồi âm nào cho những lá thư cũng như các cú điện thoại của mình, nàng lấy một sợi dây phơi, thắt một cái nút thòng lọng và buông mình vào khoảng không. Anh rể nàng đến đúng lúc để gỡ nàng ra, thân xác bất động, và cứu sống nàng.
Sợ rằng sự việc sẽ tái diễn, anh ta bí mật đến Munich yêu cầu Hitler giải thích.
Hitler đã biết chuyện tự tử của nàng và đóng chặt cửa một phòng trong quán cà phê Heck để giải thích tất cả với anh ta.
- Tôi đã nhận được nhiều thư nặc danh. Người ta đe dọa sẽ lôi sự việc lên báo chí rằng tôi đã lạm dụng một cô gái vị thành niên. Tôi đã phải dập tắt những lời xì xầm này. Tôi thích giam mình trong một sự im lặng tàn nhẫn còn hơn phá hoại cuộc đời Mimi và tương lai của cô ấy. Hãy tin rằng tôi cũng đau khổ nhiều như cô ấy.
- Ngài có định... ý tôi là... liệu có đúng là ngài đã đề nghị cưới con bé?
- Tôi chỉ yêu thương cô bé như một người cha mà thôi.
- Thế nhưng con bé lại nói là...
- Tôi nghĩ rằng cô bé đã nằm mơ. Đó là điều thường gặp ở tuổi ấy đúng không?
Người anh rể yên tâm trở về Berchtesgaden; anh ta đã có đủ thông tin để an ủi Mimi và đồng thời cũng khuyên cô bé chuyển sang chuyện khác.
Điều mà Hitler không tiết lộ là chính hắn là khởi nguyên của các bức thư nặc danh. Hắn đã khéo léo để một trong các bà mẹ của mình, Hélène Bechstein, rỉ tai người ghen dữ nhất, Carola Hofmann, bà góa của ông hiệu trưởng, để bà này viết thư và những lời đe dọa nặc danh nhằm ngăn cản Hitler đi xa hơn trong vụ này.
Hắn đặc biệt hài lòng với mưu kế ấy. Hắn đã phải rút khỏi cuộc phiêu lưu này vì những toan tính chính trị. Trong chừng mực nào đó, đó là vì nước Đức. Cuối cùng, hắn cũng đã tìm ra một cái cớ mới để giữ nguyên sự trinh trắng của mình.
Hắn càng hài lòng hơn khi dù sao cũng sắp được ở một căn hộ lớn, sang trọng nơi hắn sẽ sống với một cô gái rất trẻ.
Hắn dọn đến nhà mới sống với cháu gái Geli Raubal của mình, người cũng xinh đẹp và trẻ như Mimi, lắm lời hơn nhiều và do đó đỡ tẻ nhạt hơn nhiều.
Hắn công khai sống với một cô gái trẻ hai mươi tuổi mà không phải đối mặt với nỗi e sợ nặng đầu là phải đáp ứng về mặt tình dục và cũng không phải sợ mụ điếm già Hofmann hay ai đó trong số những mụ nạ dòng dơ dáng ho he gì.
o O o
COMOEDIA, ngày 27 tháng Giêng năm 1925
“Trường phái Paris có tồn tại. Sau này những nhà viết sử nghệ thuật có thể chỉ ra đặc tính của nó rõ hơn chúng tôi và nghiên cứu các thành tố tạo lập nên trường phái này, nhưng ngay từ bây giờ chúng tôi đã có thể khẳng định sự tồn tại và sức hấp dẫn đã làm nên hoặc lôi kéo đến chỗ chúng ta những nghệ sĩ trên toàn thế giới. Modigliani, van Dongen, Foujita, Soutine, Chagall, Kisling, Adolf H., danh sách còn dài và rực rỡ. Với người nghệ sĩ mà Paris là miền đất hứa, miền đất lành của các họa sĩ và nhà điêu khắc, liệu ta có thể coi anh ta là kẻ không được chào đón hay không?
André Warnod”
- Cũng không đến nỗi nào phải không? Mười-một-giờ-rưỡi nói. Bài này miệng lưỡi cũng ngon nghẻ đấy nhỉ.
Adolf mải bận thắt chiếc nơ bướm lên trên bộ lễ phục mới, nghe câu được câu chăng. Hắn đã thuộc lòng bài báo ấy.
Mười-một-giờ-rưỡi tiếp tục lục trong đống báo chí và nhón tay nhặt lấy một tờ tạp chí.
- Xem nào. Em đọc cho anh bài em thích nhất nhé. Đó quả là một tuyệt tác. “Tinh thần Do Thái tiếp tục công việc phá hoại ngầm và âm thầm khẳng định tính quốc tế độc hại của nó. Sau cái gọi là “Lập thể”, nghệ thuật kiểu bọn Đức, đã đè nặng lên những năm đầu thế kỷ, giờ đây lại đến cái tự cho là trường phái Paris, một nhóm ô hợp gồm những thanh niên không được chào mừng, dốt đặc và quấy rối, đã xâm chiếm khu Montparnasse và tụ họp trong một quán cà phê nổi tiếng ngang nổi khói, quán La Rotonde, một địa điểm lâu đời ở Paris mà nay đã trở thành tụ điểm thực sự của bọn Do Thái và dân nhập cư.Chúng sáng tác một thứ nghệ thuật không có liên hệ gì đến gốc gác của mình, một thứ nghệ thuật không Pháp, không Đức, không Slavơ, không Tây Ban Nha cũng chẳng Rumania, tóm lại là một thứ nghệ thuật Do Thái. Ý thức bản địa, tinh thần bản địa, chủ đề bản địa, màu sắc bản địa đang khốn khổ vì những kẻ này bởi một sự suy đồi chắc chắn đến mức chúng còn nói tới một thứ nghệ thuật quốc tế. Làm thế nào để không khỏi lo sợ khi nhìn thấy mọi biên giới và giới hạn bị xóa nhòa? Các vị đã bao giờ nhìn thấy một tác phẩm của Soutine, của Pascin hay của Adolf H. chưa? Một sự tầm thường rõ rệt, màu sắc bẩn thỉu và nghèo nàn về chất liệu, bài Pháp, ủ dột, tục tĩu, moi móc, chúng được dựa trên những suy nghĩ mang tính giáo điều và vì thế phản nghệ thuật. Khi mà hội họa trở thành một môn khoa học đầu cơ, bọn Do Thái sẽ nhảy vào. Những tay chép kinh Talmud sẽ đi mua toan và màu vẽ. Trước đây, chúng chỉ là những tay lái buôn; từ nay, chúng tưởng rằng mình là những nhà sáng tạo. Trên thực tế, một dân tộc giết Chúa là một dân tộc giết nghệ thuật. Chúng...”
- Thôi đi Mười-một, nếu không anh sẽ lấy xà phòng ra rửa mồm em đấy.
- Không đời nào, anh phải tự hào mới phải chứ. Làm cho mình được coi là dân Do Thái là bằng chứng rằng anh đã thành công. Em ấy à, em rất hài lòng khi thấy những thằng ngu phỉ nhổ vào anh.
- Em đã mặc xong quần áo để đi chưa?
- Không phải nói, em đã sẵn sàng rồi! Em đã chuẩn bị từ sáng. Đã thay mười lăm bộ quần áo. Em vẫn chưa nghĩ là mình đã tìm thấy cái váy phù hợp nhưng em đã dừng lại chỉ vì mệt.
Adolf nhận thấy Mười-một-giờ-rưỡi có lẽ đẹp hơn với một chiếc áo màu da nổi lên với hình thêu kiểu Nga.
- Ồ, Adolf, đừng nhìn em, anh đang kiểm tra em đấy!
- Không hề. Em ngon đến muốn cắn.
- Vậy cứ cắn đi.
- Không còn thời gian.
- Thế thì chúng ta sẽ bỏ qua đoạn đầu tiên. Dù sao, đoạn mở đầu của vở ba lê Nga nào cũng tẻ nhạt.
- Không thể được. Anh không thể làm thế với Diaghilev. Đi thôi.
Mười-một-giờ-rưỡi nghe lời và đi theo người tình đến chiếc Bugatti.
Từ khi được những người theo phái siêu thực lăng xê, tranh của Adolf bán chạy, giá cao lên, tiền tài và danh vọng dồn dập đến với hắn.
- Thuộc nằm lòng các kỹ năng chưa phải là tất cả, anh còn phải khiến mọi người thuộc nằm lòng tên anh nữa, Mười-một-giờ-rưỡi thường xuyên nói vậy.
Tranh của Adolf H. không hề thay đổi, nó vẫn y nguyên như hồi 1918, nhưng hiện nay người ta đang đổ xô đi sưu tầm tranh của hắn. Sự quảng cáo của nhà hiền triết đã tạo nên một luồng chú ý mới, nhanh chóng được các nhà buôn tranh như Rosenberg và Kahnweiler cổ xúy, họ bán các tác phẩm này cho những nhà sưu tập giàu có người Mỹ như Gertrude Stein, Paul Barnes, John Quine hay Chester Dale, điều này đã dấy lên sự quan tâm ở Mỹ.
Adolf đã rời bỏ người chủ gallery trước, Slawomir, bất chấp việc ông này đã rơi nước mắt và buồn thực sự. Slawomir, như thường lệ, đã chấp nhận tất cả rủi ro mà lại không được hưởng chút thành quả nào.
- Ít nhất, điều đó cũng chứng minh rằng người ta không thể làm giàu khi chỉ có ngủ, Mười-một-giờ-rưỡi bình luận.
Sống quá lâu trong bóng tối, Adolf gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận sự thành công chóng vánh này. Hắn biết quá rõ rằng thành công chỉ là chuyện gặp thời hay không; hắn chăm chăm giữ để vẫn là mình như trước, một cánh bướm được gió cuốn đi, nhẹ nhàng, không ổn định, mong manh, không neo đậu; hắn đã đợi quá lâu để không lo sợ thấy nó đã vút cánh bay đi. Chiến thắng của hắn, thay vì làm cho hắn thanh thản, lại làm hắn lo sợ hơn. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu hắn lên cao hôm nay, ngày mai hắn chỉ có thể đi xuống mà thôi. Trong thời kỳ tăm tối của mình, hắn sống nhờ hy vọng. Nhưng từ nay, hắn còn có thể hy vọng gì? Hắn chỉ còn đường tuyệt vọng trong thành công. Việc người ta tôn vinh hắn ngày hôm nay chẳng làm thay đổi cái gì cả. Sự thờ ơ vẫn luôn luôn chiến thắng. Một thế giới đã không biết đến hắntrong quá khứ ngay cả khi nó đã thừa nhận hắn hiện nay, vẫn có thể một lần nữa lại lờ hắn đi. Hắn đã chẳng kiếm được gì. Hay đúng hơn, hắn đã thắng một trận đánh nhưng không phải một cuộc chiến. Hắn giày vò mình.
Cái làm hắn day dứt nhất trong tình cảnh mới hiện nay là nghệ thuật của hắn không còn cho hắn nhiều niềm vui như xưa nữa. Trước kia, hắn chỉ tin vào mình để thành công và điều đó đã làm cho hắn tập trung được dễ dàng, huy động sức lực để làm việc từ ngày này sang ngày khác. Tranh của hắn trước kia là một sự cứu rỗi với hắn; nay nó đã trở thành nghề nghiệp. Nhảy ra khỏi giường, hắn lao đến xưởng vẽ như nhân viên chứng khoán lao đến sàn giao dịch; hắn muốn biện minh cho ngôi nhà mới, xe hơi, người hầu; hắn quyết phải đổ mồ hôi thì mới được hưởng sự giàu có của mình. Bị thúc giục bởi cảm giác có lỗi hơn là cảm hứng, hắn buộc mình làm việc quá nhiều, vượt quá mong muốn và sức lực của bản thân, cấm mình không được dành thời gian để mơ và lang thang trong khi đó lại là những cái đặc biệt cần thiết với việc sáng tác.
Vị thế một nghệ sĩ đang nổi buộc hắn phải tham gia những sinh hoạt của giới thượng lưu, hắn thêm những đêm giải trí vào lịch làm việc dày đặc của mình và sự quá sức này làm hắn trở nên cáu bẳn. Mười-một-giờ-rưỡi, vẫn giữ nguyên sự vui tươi của mình, không bực mình vì chuyện đó, nàng quá hạnh phúc được tận hưởng những vật dụng mới, ngôi biệt thự, người hầu, bữa ăn đặt nhà hàng mang tới, đồ trang điểm, các loại mũ và vị thế của “quý bà đang nổi”. Đành rằng nàng có đau khổ khi thấy Adolf có ít thời gian cho mình đến vậy. Nàng tiếc nuối thời họ sống vô tư với nhau dù rằng riêng nàng, nàng vẫn vô tư như thế.
Buổi tối, Adolf mặc nguyên quần áo thả mình xuống giường và nàng thích thú cởi quần áo trong khi hắn ngủ. Hắn không còn đủ năng lượng cho những đêm dài ân ái. Tuy vậy, hắn vẫn nói với nàng:
- Anh yêu em. Mười-một, em biết mà. Anh yêu em.
Nhưng hắn lại lộ vẻ quá chán chường và như nhận lỗi khi nói thế. Hắn nói để xin lỗi vì đã không ở bên nàng, không còn nghiến ngấu chồm lên nàng nữa.
Mười-một đã có thói quen choàng áo ngủ rồi bất thình lình vào xưởng vẽ.
- Em đến để quấy rối đây.
Nàng mở hé chiếc áo choàng bằng lụa rồi mỉm cười. Adolf buông cọ rồi hôn vào bụng nàng. Họ tiếp tục dưới đất. Tuy nhiên có hôm, Adolf lấy cớ quá mệt, hôm khác, viện cớ vẽ chưa xong, hôm khác nữa... một lý do khác... và Mười-một-giờ-rưỡi hiểu rằng nàng làm phiền Adolf. Vì nàng đã thấy việc đi đòi hỏi cái mà thông thường một người đàn ông là người đòi hỏi là một chuyện chẳng dễ chịu gì, nàng thôi không chấp nhận nguy cơ bị từ chối và họ chỉ còn sinh hoạt tình dục một cách đứt quãng.
Chiếc Bugatti tiến vào đại lộ Montaigne.
- Chàng Boche của em à, anh có thích xem ba lê không?
- Có chứ. Tất nhiên rồi.
- Anh nói chữ “tất nhiên rồi” có nghĩa là anh không thích thực sự mà là anh cảm thấy mình buộc phải thích.
Adolf mỉm cười.
- Đúng vậy. Anh lúc nào cũng thích opera hơn. Nhất là Wagner.
- Ôi Wagner, em thì không thể thích được! Mười-một-giờ-rưỡi kêu lên. Đó là âm nhạc của các giáo phái. Hoặc anh gia nhập được hoặc anh ở ngoài. Nó không tác động lên gu thưởng thức mà là sự đam mê.
- Em có thể có lý.
- Có thể ư? Anh nói thế nào ấy chứ!
Adolf cười nhẹ nhõm. Sự tư sản hóa đã không cướp đi tính nói thẳng của Mười-một-giờ-rưỡi.
Họ đỗ xe và tay trong tay bước về phía nhà hát Champs-Elysées.
- Nói xem nào chàng Boche, một ngày nào đó anh sẽ cưới em chứ?
- Tại sao em muốn anh cưới em?
- Để anh là ông chồng góa của em.
- Mười-một, đừng lại bắt đầu câu chuyện ngu ngốc về những linh tính và chết trẻ nữa. Anh không tin một giây vào những cái đó.
- Thôi được. Cứ cho là em sẽ sống đến lúc thành một miếng thịt già, anh sẽ cưới em chứ?
- Anh sẽ cưới em khi nào anh không còn yêu em nữa.
Tưởng rằng mình đã có một lời tỏ tình tuyệt vời khi nói câu này, hắn ngạc nhiên khi thấy nàng trả lời giọng nghẹn ngào.
- Thế thì nhanh lên, chàng Boche của em, nhanh lên.
Hắn dừng lại và nhìn người bạn đời của mình.
- Tại sao em nói vậy? Bởi anh làm việc quá nhiều và không có thời gian để...
- Đúng vậy.
Hắn khoát tay chán nản và muốn tránh nhắc đến chủ đề ấy.
- Chúng ta sắp đi nghỉ ở biển rồi, sắp có thời gian vui vẻ bên nhau.
- Vâng, Adolf của em, hãy cứ làm như thế. Em thì em thích thời gian vui vẻ bên anh. Em không thích thời gian vui vẻ lại thuộc về quá khứ.
Hắn cúi xuống hôn lên môi nàng.
- Đồng ý chứ?
- Đồng ý.
- Anh yêu em. Mười-một, em biết thế mà. Anh yêu em.
- Em biết. Nhưng em, em thích cái sờ nắn được, đừng để nó trở nên quá trừu tượng.
Họ cười và hôn nhau lần nữa.
Tươi tỉnh trở lại, phấn chấn vì chính mình, họ tạo thành một cặp tuyệt vời khi bước vào tiền sảnh chật kín người, diêm dúa, thơm nức của nhà hát.
Mười-một-giờ-rưỡi chỉ một chàng trai đẹp như một pho tượng Hy Lạp đang tựa người vào một cái cột.
- Anh có nhìn thấy chàng trai kia không? Trông anh ta đẹp trai phải không?
- Ừ. Ai vậy?
- Đó là Lars Ekstrôm, diễn viên múa chính của đoàn ba lê Thụy Điển.
- Thế à? Nhưng sao em lại biết anh ta?
- Em biết anh ta rất rõ, nàng nói, đó là người tình của em.
o O o
- Tôi chưa bao giờ là người bài Do Thái cả.
Hitler ngồi vắt chéo chân, tay cầm một tách trà, vừa phát ngôn điều đó với vẻ bình thản của một người đã kinh qua mọi chuyện và cuối cùng cũng quyết định nói ra sự thật.
Nhà báo người Mỹ giật nảy mình.
- Xin lỗi, ông nói gì ạ?
- Tôi chưa bao giờ là người bài Do Thái cả.
Hitler kẹp ê tô nhà báo bằng mắt mình. Ông này cố chống chọi.
- Ấy vậy mà trong các diễn văn của mình, đôi khi ông kêu gọi kỳ thị chủng tộc.
Hitler đưa mắt nhìn lên trần, thở dài rồi nghiêng người về phía trước để thổ lộ bí mật mới mẻ của mình.
- Nhân dân có lẽ đã không hiểu rằng tôi không làm như vậy.
Đôi mắt của nhà báo sáng lên vì kích động. Ông ta đã tóm được một tin đặc biệt: trên thực tế Hitler không phải là người bài Do Thái, ông ta chỉ giả vờ như vậy do tình thế. Nhà báo rối rít cảm ơn rồi chạy đi đọc bài báo của mình qua điện thoại.
Còn lại một mình, Hitler ngồi một lúc trong quán bar của khách sạn lớn và cười với hình ảnh của mình trong gương: chuyện đã thành. Hắn không những không còn bị công kích bởi tính lố bịch của cuộc đảo chính mà đảng Quốc xã còn nhận được ngày càng nhiều phiếu trong các cuộc bầu cử. Bây giờ người ta coi Hitler như một trong những khuôn mặt chính trị quan trọng nhất của nước Đức, báo chí trong nước và quốc tế nói đến hắn, phó nháy riêng của hắn, Hoffmann, phân phát các bức hình đã qua kiểm duyệt của hắn. Hắn rất đỗi vui mừng khi thấy các đối thủ tiếp tục đánh giá thấp hắn khi cho hắn là một đối thủ vô hại vì quá khác biệt, quá phụ thuộc vào các cơn lên đồng, vào các cơn giận, vào những hô ngữ không tưởng, những lời nói lung tung mang tính thần bí; họ không nhận ra rằng thời đại này đã chán các chính trị gia truyền thống và thích Hitler chính vì điều đó, vì hắn cho mình là liều thuốc giúptránh được ngày tận thế, một á thánh cứu rỗi-chữa bệnh có thể vực dậy nước Đức.
- Chú Alf? Chú Alf nhỏ bé của cháu đâu rồi?
Geli bước vào, bồng bềnh trong chiếc áo lông và mùi nước hoa. Cô nhìn thấy bóng Hitler, điệu đà ra hiệu rồi ưỡn ẹo ra chỗ hắn trên đôi guốc quá cao, quá mới.
- Chào chú Alf, giá mà lúc nãy chú ở chỗ học hát của cháu: cháu đã hát được nốt contre-rê. Một nốt chỉn chu. Không phải một nốt contre-rê kiểu chuột mắc bẫy. Không, một nốt thật sự, thật trôi chảy, thật thanh khiết, thật dài, kiểu như Elizabeth Schumann. Chú uống gì vậy? Trà à. Khiếp. Không, một ly cốc tai bloody-mary. Vâng, đúng như kiểu Elizabeth Schumann hay Maria Ivogün, chú đã có thể tự hào vì cháu, ông chú nhỏ bé của cháu ạ. Cần phải nói là cháu đã không chủ ý. Cháu cứ nghĩ là giọng mình thấp hơn rất nhiều, cháu không dè là mình làm được. Thế nào, người ta có mang ly bloody-mary đến không hay cháu phải gửi cho họ mấy cây cà chua? Cuộc gặp với ông người Mỹ của chú tốt đẹp chứ ạ? Chắc là có, chắc chắn rồi, chú xuất sắc đến thế kia mà. Ông ta có đẹp trai không ạ, cái ông nhà báo ấy?
- Bình thường.
- Bình thường so với một người Đức hay một người Mỹ ạ? Bởi vì một tay người Mỹ, nói gì thì nói, vẫn đẹp hơn một anh chàng người Đức. Ít nhất là trên phim ảnh. À, cảm ơn, tôi sắp chết vì khát đây. Ưmmm... ngon thật. Một nốt contre-rê lanh lảnh như còi tàu. Chú sẽ bảo cháu là trong nhạc mục của mình cháu không cần một bài cung contre-rê. Thực ra, có bài dự trữ vẫn yên tâm hơn. Tôi sẽ uống một ly nữa. Chú có thời gian đưa cháu đi thử bộ quần áo của cháu không? Không ạ? Lại cái trò chính trị vớ vẩn của chú chứ gì?
- Được chứ, chú đang rảnh mà.
- Hoan hô! Chú của cháu muôn năm! Cháu gặp may rồi. Cháu không chủ ý nhưng cháu biết thừa nhận điều ấy. Phải không chú Alf?
- Ừ.
- Cháu nghĩ là dù gì lời khen đáng được thưởng một cái hôn vào má.
- Đây.
- Thế thôi á? Thế hóa ra cửa hàng bán sôn rồi ư?
- Đây nữa.
- Thế thì tốt hơn. Trên thang điểm từ không đến hai mươi, cháu cho chú... mười một.
- Chỉ thế thôi ư? Thế còn cái này?
- Ừm... mười bốn. Thôi! Không nên đốt cháy giai đoạn. Chú có thời gian để cải thiện kỷ lục của mình từ giờ đến tối. Chúng ta sẽ xem gì tối nay nhỉ?
- Con Dơi.
- Tuyệt! Cháu mới chỉ xem có hai trăm mười sáu lần!
- Thế nhưng...
- Không, không, cháu rất vui. Và như thế ít ra cháu không phải nghe Wagner hay tệ hơn là Bruckner.
- Geli, chú cấm cháu...
- Vâng, cháu biết, ông chú nhỏ bé của cháu, đó là những nhà soạn nhạc yêu thích của chú nhưng cái đó quá cao xa với cháu, mấy cái ông Wagner, hay Bruckner của chú ấy. Ngoài ra, cháu ủng hộ việc cấmtất cả các nhà soạn nhạc có họ gồm hai âm tiết và kết thúc bằng “er”. Chú không muốn thêm cái này vàocương lĩnh của đảng Quốc xã ư?
Họ đứng dậy và đi dạo cửa hàng cùng nhau. Hitler cảm nhận một niềm tự hào thực sự của một con đực để thể hiện khi tay trong tay với Geli. Cô nàng líu lo cả ngày, vui vẻ, xấc xược, hay chọc ghẹo; khi không nói có nghĩa là cô đang hát vì nhờ vào sự bảo trợ về mặt tài chính của ông chú, cô đã bỏ học ngành y để theo học opera; và khi cô không hát có nghĩa là cô đang ăn, như thùng không đáy, tham lam. Đối với Hitler, Geli là một cái miệng, một cái miệng không ngưng động đậy, một cái miệng sung sướng cắn ngập cuộc đời và trao vô số những nụ hôn cho ông chú yêu thương.
Đó là người duy nhất mà hắn chấp nhận để mình lu mờ khi đứng bên cạnh. Hắn mang Geli đi khắp nơi, trong những bữa ăn, hội họp, quán cà phê, để mặc cô nàng đốp các vị khách mời và trở thành tâm điểm của sự chúý.
Đàn ông thích Geli. Hitler thích điều đó. Hắn đánh giá cao cái luồng điện khiêu dâm sáng lên mỗi khi Geli đi qua, sự dâm dục trong những cái nhìn, độ căng đầy kích động của những cơ thể, ánh lửa đen trong những đồng tử. Những lúc như vậy Hitler cảm thấy mình đầy nam tính, gần như khi hắn diễn thuyết cho quần chúng ban đầu vốn thụ động vụt trở nên kích động. Nhiều lần, hắn cảm thấy run lên vì khoái trá khi từ chối những tay thanh niên đẹp trai đến xin phép hắn được đi chơi với Geli hoặc đi xem hát cùng cô. Hắn đặc biệt thích thưởng thức cái giây phút khi những thanh niên đó hiểu rằng Geli thuộc về hắn; hàng mi chớp chớp vì hốt hoảng mang đến cho Hitler sự thỏa mãn ngang với một cơn cực khoái thực sự. Hắn khoái trận đấu với những chàng rắp ranh bắn sẻ này đến mức không nhận ra rằng Geli gây ra nhiều đam mê bùng cháy như thế là vì cô nàng cư xử như một ả lẳng lơ. Geli nhìn mọi người đàn ông như thể họ đẹp trai, quyền uy và sẵn sàng làm nàng mệt nhoài trong vòng tay của họ; thế rồi, một giây sau, cô nàng đã chế giễu và ăn nói xấc xược; kết quả của sự trở chứng này dẫn đến việc chàng trai lịch lãm sẽ tiếp cận thử vận may.
Tuy Geli thích cuộc sống kiểu này với chú mình, một người có vai vế, một ngôi sao chính trị, nhiều tiền bạc và rất rộng rãi với cô nhưng sau hai năm cô bắt đầu cảm thấy bị giam cầm. Nhiều lần, cô đã đề nghị với Hitler được đính hôn với người này hay người khác. Hắn lúc nào cũng tìm được cớ để không đồng ý. Sau khi sa thải tài xế của mình, Emile, người mà Geli đã đầu mày cuối mắt, hắn tiếp tục vùi dập từng người một trong đám thanh niên mà cô phải lòng. Ban đầu, cô còn nghe những lập luận của ông chú còn bây giờ cô thậm chí không buồn nghe nữa vì biết rằng ông ta sẽ tiếp tục nghĩ ra những cớ khác.
- Thế nào chú Alf, chú không thấy chàng trai nào xứng với cháu à?
- Không một ai.
- Vậy là cháu tuyệt đến vậy sao?
- Cháu là công chúa nhỏ của ta.
Câu nói nghe thật sướng tai nhưng cô đã hai mươi ba tuổi rồi và bắt đầu thấy thời gian dài ra và mòn mỏi mong được rơi vào vòng tay một người đàn ông.
Chán chường vì hy vọng có được một tấm chồng, cô quyết định có một người tình.
Jochen là một nghệ sĩ vĩ cầm người Viên, tóc dài như dây cây vĩ của anh ta. Cô đã gặp anh ta ở nhà thầy giáo của mình. Vì anh ta là người trong giới âm nhạc và không nằm trong vòng kiềm tỏa của ông chú, cô quyết định lén lút hẹn hò với anh ta. Mỗi ngày, Geli và Jochen lên giường với nhau hai tiếng.
Nhưng giờ giấc không thuận tiện cho họ, Geli thường xuyên lo sợ bị nhận ra hoặc tệ hơn là có chửa. Nhưng Jochen vốn là người tài tình và lão luyện, anh ta biết cách làm cô sung sướng mà không phải sợ nguy cơ này.
- Chú yêu của cháu ơi, chú không nghĩ là cháu nên hoàn thiện việc học hát của mình ở Viên hay sao?
Hitler tím mặt.
- Ý nghĩ mới ngu ngốc làm sao! Chú ghét cay ghét đắng cái lời đồn thổi rằng nhạc của Viên thì cao quý hơn của Đức.
- Nhưng dù sao...
- Wagner là người Đức hay người Áo?
- Nếu cháu có thể hát vai Isolde, cháu sẽ đồng ý với chú. Nhưng khổ nỗi giọng cháu lại hơi yếu, cháu cần...
- Không phải chỉ có giọng cháu mới yếu mà cả trí lực của cháu nữa.
Geli ngưng nói, hoảng sợ, cảm nhận thấy bão tố đang đến. Quá muộn. Hitler phun ra hàng tràng:
- Chú làm việc quần quật tối ngày để cháu làm những điều cháu thích và đây là cách cháu nói lời cảm ơn phải không? Bằng cách đòi đi Viên! Liệu khi đó mỗi năm chú còn có vinh dự được nhìn thấy cô nương một lần khi cô ấy trở thành một ngôi sao hay không? Họ hàng gì mà bội bạc làm sao! Chẳng ai tốt hơn ai trong cái gia đình người Áo bẩn thỉu ti tiện này! Đầu tiên là mẹ cháu, người đã...
Geli cho rằng nghe cũng chỉ vô ích, cô cụp mắt và khom lưng chờ đợi cơn giận trôi qua. Cô biết rằng chú mình còn phát điên lên vì tuyệt vọng cả tiếng đồng hồ nữa. Cô nhớ tới Jonchen, người mà làn da phía trong cánh tay mới mềm mại làm sao, nơi những mạch máu nhắc nhở rằng cuộc sống mới mong manh làm sao, và điều này giúp cô không chú ý tới những lời gào thét của ông chú.
Jochen đã kết thúc hợp đồng ở Munich và phải quay về Viên. Cuộc chia tay còn xé lòng hơn nữa bởi họ không có nhiều thời gian, Geli chỉ có thể trốn khỏi sự quản thúc của ông chú trong vòng một tiếng. Cô bắt anh phải thề không được viết thư - chú của Geli kiểm soát từng bức thư của cô - và về phần mình, cô thề với anh sẽ gửi cho anh mỗi ngày một lá thư.
Cô đã làm điều ấy và tác động của việc này là tình yêu tuyệt đối mà cô dành cho Jochen. Làm thế nào mà không điên lên vì một người đàn ông đã làm cho cô biết đến sự khoái lạc và không thể trả lời những lời yêu thương ngày càng nồng cháy của cô? Sự thiếu hụt hoàn toàn làm Geli trở nên bấn loạn.
Cô cho rằng mình bất hạnh nên phải đi Viên để bù lại.
Sau khi đòi Hitler mua cho mình một bộ quần áo mới và hai chiếc váy dài, chiều hôm đó, khi về đến căn hộ rộng thênh thang của họ, cô quyết tâm thuyết phục để được đi Viên.
- Chú cưng chiều cháu quá mức, chú Alf, cháu sẽ không bao giờ nói cảm ơn chú cho đủ được.
Hitler ưỡn ngực kiêu hãnh.
- Cháu nghĩ là mình không xứng có một người chú như vậy. Bởi xét cho cùng, cháu là ai cơ chứ? Một đứa con gái chẳng biết gì, không hiểu gì về chính trị và cố gân cổ lên hát một cách khó nhọc để làm vui lòng ông chú quá đỗi yêu nhạc của mình.
- Giọng cháu rất hay, Geli ạ.
- Vâng. Nhưng nó không được phát triển toàn diện.
- Cần phải tập luyện.
- Vâng, nhưng đã ba năm nay cháu đã chạy đi chạy lại đến tất cả các thầy dạy hát ở Munich thế mà giọng cháu vẫn không nổi lên được.
- Cần phải kiên nhẫn.
- Người ta có nói với cháu về một thầy giáo tuyệt vời ở Viên.
Hitler cứng người và nhìn Geli vẻ khó chịu.
- Không, chú Alf, không phải cháu đang nói với chú là cháu muốn dọn đến sống ở Viên mà cháu chỉ muốn đến hát thử cho ông ấy nghe để ông ấy nói thật xem với giọng hát của mình cháu có nên tiếp tục học hát hay không. Chỉ vài ngày thôi mà.
- Cháu muốn gặp ai ở đó?
- Cái ông thầy mà cháu nói đấy.
- Chú hỏi ông ấy tên là gì.
- À? Vôgel. Thầy Vôgel.
- Chưa nghe nói tới bao giờ.
Hitler ngồi nhìn qua cửa sổ vẻ giận dỗi. Geli tiến đến gần và cầm tay hắn.
- Chỉ ba hay bốn ngày thôi chú ạ, để lòng cháu được thanh thản.
- Lòng cháu được thanh thản?
Hắn nói điều ấy bằng giọng hồ nghi đến mức cô run lên vì nghĩ rằng Hitler đã đoán được chân tướng sự việc.
- Chú biết rõ mấy ông thầy dạy hát này: “Vâng, thưa cô Raubal, cô có một giọng hát thật tuyệt nhưng cần phải luyện lại toàn bộ phần kỹ thuật. Tôi có thể giúp cô điều đó. Bốn buổi tập một tuần, giá năm mươi mác một giờ.” Và chính vào lúc đó, cháu sẽ muốn ở lại Viên.
- Chú của cháu ơi, cháu thề là không mà.
Hitler nhìn vào mắt Geli, dò xét.
- Thế tại sao cháu thề với chú là không? Nếu như cái ông Vôgel này là thầy giáo giỏi nhất thế giới?
- Cháu thề là không... vì cháu không muốn... rời xa chú.
Hitler mỉm cười. Hắn thậm chí còn quay mặt nhìn sang phía cửa sổ để giấu cảm xúc của mình. Geli biết là mình đã thắng.
- Ba ngày thôi, chú của cháu ạ. Chỉ ba ngày không ở bên chú và cháu sẽ quay lại.
- Đồng ý. Nhưng mẹ cháu sẽ đi kèm cháu.
Geli hất tay của Hitler ra, điên cuồng nổi cơn thịnh nộ.
- Cháu đã hai mươi ba tuổi rồi, có còn nhỏ gì nữa đâu! Cháu có thể ra ngoài mà không cần người đi kèm!
- Điều đó có thay đổi gì đâu nếu cháu làm chuyện chính đáng?
- Cháu không muốn có mẹ cháu đi kèm.
- Mẹ cháu sẽ đi kèm, nếu không, cháu sẽ không đi đâu cả. Đây là lời cuối cùng về chuyện này.
- Nhưng cháu có phải là một tù nhân không đây?
Hitler giật nảy mình.
- Tù nhân? Cháu nói gì vậy?
Geli đi đi lại lại trong căn phòng, nước mắt đầm đìa.
- Cháu đã hai mươi ba tuổi, chú đã đẩy lui tất cả những người đàn ông đến gần cháu và cháu thậm chí không thể ra ngoài mà không bị giám sát. Tương lai của cháu sẽ ra sao? Một năm? Hai năm? Hai mươi năm tù nữa? Tương lai của cháu sẽ ra sao hả chú Alf? Chú nói đi!
Hitler bình thản nhìn Geli và nhẹ nhàng nói:
- Em sẽ cưới ta.
Trước lời đề nghị động trời ấy, Geli cười khẩy một cách hung tợn, khi nhìn thấy ông chú giữ nét mặt không đổi, cô hiểu rằng ông ta không đùa. Cô đến gần Hitler:
- Chú Alf, cháu nghĩ là mình đã nghe lầm. Chú có thể nhắc lại điều chú vừa nói không?
- Em sẽ cưới ta. Em sẽ là bà Hitler. Em không phải là tù nhân. Em là người đàn bà của đời ta.
Geli quá sợ cái nhìn chăm chắm của ông chú đến mức bỏ chạy về phòng đóng chặt cửa.
Hai mươi phút sau, Hitler đến trước cửa phòng cô và nói, giọng đã trở lại bình thường:
- Geli, chú đi Nuremberg. Tối mai chú sẽ về.
Cô nghe tiếng hắn ra lệnh cho đám người hầu rồi đẩy cánh cửa nặng nề ra đi.
Một kẻ điên! Cô đã rơi vào cái bẫy của một kẻ điên. Thái độ của ông ta trong suốt hai năm qua đột nhiên trở nên sáng tỏ. Ông ta đón cô về ở cùng không phải vì tình cảm gia đình mà vì chính mình, vì ông ta yêu cô. Ông ta đã xua đuổi tất cả những người đàn ông tán tỉnh cô bằng cách dùng uy quyền của người chú để giành lấy vị trí người chồng tương lai.
Nằm trên giường, Geli bị giày vò bởi nỗi tuyệt vọng, ngập trong nước mắt, vừa gọi Jochen mong được cứu, vừa điên tiết vì tất cả những mối tình bị tước đoạt, khiếp sợ tình cảnh của mình: vì ngây thơ, tốt bụng, trong trắng mà đã để cho người chú tin rằng ông ta sẽ đạt được mục đích của mình. Cô gái vui vẻ không được chuẩn bị tinh thần để bị giày vò và vỡ mộng nhiều đến thế. Cô cố tìm một ý nghĩ để bám víu lấy nhưng không tìm được ý nghĩ nào.
Đột nhiên, cô đứng bật dậy, chạy sang phòng ông chú, mở ngăn kéo chiếc bàn đầu giường ngủ. Cần nhất là phải hành động nhanh và không suy nghĩ. Cô cầm khẩu súng và chạy về khóa mình trong phòng.
Cô kề súng vào ngực trái và không chần chừ một giây, bóp cò.
Cô gái đổ gục xuống, chết trong vũng máu.
Ngày hôm sau, sau khi không thấy cô trả lời, đám người hầu phá cửa phòng và tìm thấy xác cô.
Cảnh sát được gọi đến.
Cuối cùng người ta cũng báo tin được cho Hitler ở Nuremberg.
- Cháu gái của ngài, Geli Raubal đã tự tử bằng khẩu súng của ngài. Cảnh sát đang đợi ngài.
Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu Hitler là người ta sẽ khép hắn vào tội giết người. Ý nghĩ thứ hai là cảm giác tức giận trước hành động ngu ngốc đó. Thứ ba là cảm giác đau buồn.
o O o
Mọi thứ ở nhà bá tước Baumont đều ngông cuồng nhưng hợp lý.
Đổ xô đến những buổi tiệc hóa trang tại biệt thự của ông trên phố Duroc là tất cả những nhân vật quan trọng ở Paris: họa sĩ, nhà báo, giám đốc nhà hát, diễn viên, nhà thơ, biên đạo, chừng ấy nhân vật nổi đình nổi đám và một số nhân vật kín tiếng hơn vì họ là những triệu phú, chủ nhà băng, nhân viên môi giới chứng khoán hoặc các nhà tài chính. Đây là chốn phô trương của nghệ thuật chứ không phải là sức mạnh. Giới có chức có quyền thì không thấy xuất hiện bởi chẳng nhà chính trị nào có thể len vào được đám đông nghệ sĩ sặc sỡ này mà không bị chửi rủa hoặc bị đấm vào bụng.
Dạ hội Shakespeare, đã có ai từng nghe thấy điều gì tương tự chưa! Người ta có thể đến dự một dạ hội vẹt, dạ hội da đen, dạ hội olympic, dạ hội giả trang siêu tâm thức, dạ hội sáo mòn; vào phút cuối, Sở Liêm phóng thành phố đã cấm mọi người không được đến dạ hội khốn cùng vì những người thất nghiệp đã biểu tình trên đại lộ Champs-Elysées, cho rằng chủ đề của dạ hội là một thứ mô-ve-gu; nhưng chưa ai đến dự một dạ hội Shakespeare bao giờ!
Sự phấn khích đã ngự trị ngay từ lối ra vào. Hàng trăm kẻ hiếu kỳ đứng xúm xít để chiêm ngưỡng những vị khách mời bước ra khỏi xe. Bộ phận bảo vệ ngăn không cho họ đến gần. Để gieo thêm nỗi khủng khiếp vào cảm giác nóng lòng, một vài người trong giới thượng lưu thậm chí đã truyền miệng nhau rằng những kẻ đứng ngoài này muốn phá hoại buổi tiệc.
Như thường lệ, với những đêm tiệc kiểu này, những tuần chuẩn bị mới là những tuần tuyệt vời nhất. Khách mời tưởng tượng quần áo mình mặc ra sao, cho đi may, thử, sửa rồi cuối cùng mang ra trưng. Một buổi tiệc hóa trang đạt đến đỉnh điểm và nhanh chóng chết sau khi màn được kéo lên; sau đó, người ta chẳng còn vai diễn gì nữa. Trái tim đập chậm lại và mọi chuyện trở lại bình thường. Vào lúc đó, người ta tìm thấy niềm vui thông tục nhất là tán tỉnh nhau, nhảy múa và tán chuyện.
Adolf H. và Mười-một-giờ-rưỡi đột ngột xuất hiện trong đêm tiệc, một người hóa trang thành Othello, một người thành Desdemona, chàng đẹp tuyệt vời, như chàngMô(29) thực sự, đen giòn, hoang dại, đáng sợ, nàng tóc vàng, óng ánh, thanh khiết, tỏa hương Venice.
Chính Adolf là người đưa ra ý tưởng hóa trang thành Desdemona và Othello.
- Đồng ý, Mười-một-giờ-rưỡi vui vẻ trả lời, với điều kiện là chúng ta không diễn hồi cuối.
- Nếu anh phải lấy gối bịt em chết ngạt vì ghen tuông thì anh đã làm rồi.
- Anh ấy à, anh cũng biết ghen hả?
Adolf không trả lời vì hắn không biết gì về chuyện đó. Ít thạo sử dụng những từ chính xác để nói về cảm xúc của mình, quen hơn với việc biểu đạt tình cảm bằng hội họa, hắn để mặc những sức mạnh điều khiển mình sôi sục lên trong hắn, hơn nữa hắn không thể gọi tên chúng được. Từ khi Mười-một-giờ-rưỡi đã thú nhận với hắn - không phải là thú nhận mà là đập vào mặt hắn - rằng nàng có tình nhân, hắn giam mình trong xưởng vẽ và đập đầu vào tường. Trước bức tường bên phải, hắn hét lên rằng nàng là một con điếm, một thứ rác rưởi, một kẻ ích kỷ, rằng nàng phải biến ngay lập tức khỏi đời hắn; trước bức tường bên trái, hắn xin tha lỗi, cho rằng mình là người chịu trách nhiệm, trách mình đã lạnh nhạt, vùi đầu một cách phi lý vào công việc. Chuyện đó chẳng phải là bình thường hay sao khi nàng mới hơn hai mươi tuổi, rằng nàng phải tận dụng cơ thể mình và thay người bạn tình quá bận rộn bằng một diễn viên múa cuồng nhiệt? Họ đã bao giờ hứa chung thủy với nhau chưa? Họ chưa bao giờ thề như thế trước ban thờ hay trước ông thị trưởng, kể cả khi trần truồng nằm với nhau trên chiếc giường tình yêu, người này đối mặt người kia. Chẳng thể có sự phản bội khi chẳng có hứa hẹn nào. Vậy là Mười-một-giờ-rưỡi không phản bội hắn. Tuy nhiên... tuy nhiên hắn lại chưa bao giờ lạc lối vào vòng tay một người đànbà khác! Chính vì thế, khi hắn không còn trong vòng tay của nàng, chắc chắn là vì thế, mọi trục trặc đến từ đó... không, hắn không ghen. Hắn không có quyền ghen. Vả lại, hắn có còn yêu Mười-một-giờ-rưỡi nữa không? Đó liệu có phải là tình yêu, nỗi cáu giận thường trực này? Có phải là tình yêu không, vết thương này? Những giờ phút chửi rủa giữa đống toan phủ keo, câm lặng, đợi chờ, đó có phải là tình yêu không?
Ngược lại, tối nay, trước tấm gương trong phòng tắm, hắn đã cảm thấy một sự thỏa mãn mới khi phủ lên mặt và tay những lớp phấn hóa trang; càng bôi đen da mình, cảm xúc của hắn càng trở nên trong trẻo; nhờ che giấu mình trước con mắt của người khác, cuối cùng hắn cũng tự nhìn thấy mình: đúng, hắn ghen, ghen tưởng đến chết đi vì hắn yêu Mười-một-giờ-rưỡi đến chết đi được. Lòng hắn đã quyết: hắn sẽ nói với nàng hắn yêu nàng biết bao và nàng đang làm hắn đau khổ đến nhường nào. Nàng sẽ tự dàn xếp chuyện đó.
Nhưng khi Mười-một-giờ-rưỡi đến bên hắn trong tiền sảnh, hiền dịu và lộng lẫy trong chiếc váy kiểu Phục Hưng, hắn thấy hoảng sợ. Hắn có thực sự biết nàng? Chẳng phải nàng vẫn hơi xa lạ với hắn sao? Hắn lấy quyền gì mà trút lên nàng tình yêu và sự ghen tuông của mình? Những cái đó liệu có làm nàng bận tâm?
Trên suốt đường đi, ngồi trong xe, hắn tìm cách tự trấn an mình bằng cách nói chuyện trở lại với nàng.
- Thật là một sự ngạc nhiên thú vị khi thấy em thế này! Cuối cùng, em đã có thể trở thành một cô gái tóc vàngrồi.
Hắn ghét cái giọng cảnh vẻ mà hắn không thể ngăn mình thốt ra.
- Có lẽ một tháng nữa chúng ta nên nghĩ đến kỳ nghỉ bên bờ biển rồi nhỉ?
Không thể chịu được! Hắn đang nói với người đàn bà của đời mình bằng cái giọng của một công tử bột trong một buổi khai mạc triển lãm. Hắn diễn, hắn lễ phép, hắn đang thủ một vai.
- Anh muốn ở bên em nhiều hơn.
Nhạt nhẽo làm sao! Đó là do hắn nói một cách nhạt nhẽo hay do cảm xúc của hắn nhạt nhẽo? Làm sao hắn lại để cho những cuộc nói chuyện trở nên hiếm hoi đến mức này, khiến mỗi câu trao đổi đều vang lên trong một sự trống rỗng quá ư trịnh trọng?
Đám đông trầm trồ khi họ bước vào biệt thự Beaumont, hắn cảm thấy vững tin. Hắn hiểu rằng người ta cho là can đảm việc một người đàn ông dám hóa trang thành Othello khi đi với vợ mình. Đúng, các người hiểu đúng đấy, ta đang ghen, ta cho cả thế giới biết điều đó, ta ghen đến phát cuồng bởi vì ta đang yêu đến phát cuồng.
- Xin mời qua đây, Etienne de Beaumont nói, nhất định phải để Man Ray chụp ảnh ông bà.
Họ tạo dáng trước ống kính của nghệ sĩ Mỹ, Adolf trợn mắt một cách hung tợn, Mười-một-giờ-rưỡi chọn một dáng vẻ cực kỳ thuyết phục của một con chim câu bị nghi oan.
Nhạc jazz tràn ngập khắp phòng. Có đến mười lăm Cleopatre và hai mươi Hamlet đang nhảy điệuCharleston. Vì lịch sự, bá tước de Beaumont đã làm xấu mình thậm tệ khi hóa trang thành Richard Đệ tam. Tấtdài và quần áo bó sát người để lộ những đường nét gợi cảm, cặp đùi săn chắc, bộ mông nở nang và người ta xì xầm khắp nơi rằng vào nửa đêm sẽ có một cuộc thi bắp chân.
Một nhóm thanh niên vây quanh Mười-một-giờ-rưỡi và bắt đầu phá lên cười vì những câu đối đáp dí dỏm của nàng. Adolf lùi ra xa, đứng tựa lưng vào cửa sổ sau khi đã tham gia vài câu xã giao, ẩn mình sau lớp phấn hóa trang, để mặc dòng suy nghĩ cuốn đi. Tại sao ta lại để nàng tràn ngập tâm trí mình thế này? Ta đã để nàng chiếm quá nhiều chỗ trong cuộc đời mình. Hãy nhìn nàng xem, nàng cười cợt, run rẩy, nàng thanh khiết, hừng hực, gợi tình. Nàng cần đến ta ít hơn ta cần đến nàng. Chuyện không thể cứ như thế này mãi được. Ta không có quyền đánh mất kiểm soát cuộc đời mình được. Ta không được để mình bị người khác lấn át.Ta...
- Đêm nay, Othello thật buồn...
Một người đàn bà xuất hiện cắt ngang luồng suy tư của hắn. Đó là một người đàn bà cao lớn, đường nét hoàn mỹ, mềm mại, tóc lượn sóng với ba màu vàng khác nhau, một màu vàng cát, một màu vàng kim loại và một màu vàng như bờm sư tử, ba dải tóc màu vàng khỏe mạnh được tết lại, một sức sống hoang dại chảy tràn đến tận ngang hông.
- Tôi nghĩ trước mặt mình là Ophelia phải không?
- Quan sát đúng lắm. Một nàng Ophelia trầm mình trong rượu vang trắng sherry, người đàn bà vừa nói vừa nâng ly lên ngang đôi mắt hình bán nguyệt của mình.
Ở đó cũng vậy, trong cặp đồng tử của nàng, Adolf nhận thấy một sự pha trộn thừa thãi của tất cả các màu nâu, be đến màu đen, màu hạt dẻ, màu nâu đỏ, màu vàng nghệ, màu đỏ gạch, màu nâu gụ... với một chút ánh xanh lá cây.
- Trí tưởng tượng mới phong phú làm sao, hắn thì thầm.
- Ông đang nói đến cái gì?
- Về sắc màu của bà. Khi tạo ra bà, song thân của bà đã chứng tỏ họ có tài phối hợp màu sắc tuyệt vời.
Nàng thở mạnh, nửa bực tức, nửa như ngượng ngùng.
- Ông có đôi chút giọng Đức phải không?
- Tôi là Adolf H., tôi là người Viên.
- Adolf H. Còn tôi là người Berlin! Nàng thốt lên.
Họ cùng cười thoải mái. Áo và Đức giờ đã trở thành tổ quốc chung khi người ta sống lưu vong tại Paris.
- Tôi là Sarah Rubinstein, tôi làm việc bằng mũi.
Nàng trỏ hai lỗ mũi hoàn hảo đang hếch lên khi người ta nói đến chúng.
- Bà vẽ tranh bằng hương thơm ư?
- Tôi thí nghiệm. Tôi vừa học xong tại hãng Guerlain ở Paris. Sau đó, tôi quay lại Đức để sản xuất nước hoa của chính mình.
- Tình hình ở Đức ra sao?
Adolf hỏi Sarah về tình hình rối ren của nước Đức, những khó khăn mà nền cộng hòa Weimar gặp phải khi điều khiển đất nước. Sinh ra từ một cuộc bại trận, thoát thai từ Hiệp ước Versailles năm 1918, trong mắt nhiều người Đức, nền cộng hòa này bị coi như một sự trừng phạt nhục nhã.
- Điều đó tạo quá nhiều khoảng đất trống cho những kẻ cực đoan. Cả cánh tả lẫn cánh hữu. Những người cộng sản kiếm được nhiều phiếu và phe quốc gia cánh hữu cũng vậy, nhất là khi phe này không ngần ngại chơi lá bài bài Do Thái.
- Thế à? Adolf nói.
Nàng nhìn xuống dưới như thể sắp nói một điều thất thố.
- Như ông có thể đoán được khi nghe tên tôi, tôi là người Do Thái.
- Tôi thì không phải, Adolf nói, mặc dù người ta coi tôi là người Do Thái khi nhìn tranh của tôi.
- Thật ư? Ông không phải là người Do Thái à? Adolf H.? Tôi tưởng là...
- Với tôi đây là một lời trách cứ.
Nàng đỏ mặt, lúng túng.
- Xin ông thứ lỗi, tôi quen mất nết đi rồi. Tôi sinh trưởng trong một gia đình có tinh thần tranh đấu quá cao. Cha tôi là một trong những lãnh đạo của phong trào sionist.
- Có nghĩa là?
- Ông đấu tranh cho việc thành lập một quốc gia Do Thái độc lập.
Những điều này cách xa cả ngàn dặm so với những mối bận tâm thường nhật của Adolf, vốn bị công việc sáng tác và mối ghen tuông hút hết tâm trí. Với hắn, đó là một sự thay đổi hoàn toàn mới mẻ.
Hắn tiếp tục hỏi về tình hình chính trị ở Đức.
- Tôi cảm thấy là nền cộng hòa sẽ trở nên thiên hữu và cứng rắn hơn, Sarah nói thêm, một phái quốc gia cực hữu sẽ phản đối Hiệp ước Versailles. Nhưng tôi không e ngại lắm mức độ nguy hiểm của phái cực hữu ngay cả khi chiêu bài mị dân của họ vẫn có người nghe.
- Tại sao?
- Vì họ không có ai có khả năng diễn thuyết. Chiêu bài mị dân chỉ thành công khi nó được thực hiện bởi một nhà diễn thuyết đại tài. Không có kẻ quyến rũ thì không có sự quyến rũ. Phe cực hữu có gì? Rôhm ư? Một quân nhân có khả năng huy động những chiến binh hoài niệm nhưng chỉ dừng lại ở đó. Goebbels ư? Ông ta quá xấu và quá cao ngạo để thành công.
- Thật hạnh phúc khi biết tin về đất nước mình, Adolf H. kết luận.
Họ rẽ đám đông đến bàn tiệc buýp phê vĩ đại.
Nhìn qua một đôi cánh và một cái khăn vành, Adolf thoáng nhìn thấy Mười-một-giờ-rưỡi đang tranh luận với một người đàn ông rất đẹp...
Adolf cảm thấy tim mình ngưng đập.
Hắn ta! Lars Ekstrôm! Người tình Thụy Điển! Tay diễn viên múa!
Mười-một-giờ-rưỡi, má ửng đỏ, dường như đang nài nỉ để đạt được cái gì đó ở hắn ta. Thỉnh thoảng nàng liếc nhìn xung quanh lo lắng, hình như hắn đã đồng ý với điều nàng nài nỉ, cầm tay nàng rồi họ lên cầu thang và biến mất.
Adolf nghĩ rằng họ tìm cách trốn vào một phòng nào đó để...
- Có chuyện gì không ổn à? Sarah hỏi.
Hắn giật nảy mình. May mắn thay, việc hắn hóa trang thành người da đen đã giúp hắn che giấu được cảm xúc của mình. Hắn mỉm cười.
- Không, tôi nghĩ đến cái gì đó làm tôi vui thích... và có liên quan đến bà.
- Thế à?
- Đúng vậy.
- Tôi muốn vẽ bà.
- Trong vai Ophelia?
- Ophelia vừa tắm xong. Chính xác hơn là trong vai thần Vệ Nữ.
Sarah đỏ bừng mặt.
- Ông muốn tôi trần truồng trước mặt ông?
- Đúng vậy.
- Không thể được. Chỉ người đàn ông nào mà tôi muốn làm tình mới được nhìn thấy tôi như thế.
- Đó cũng chính là cái tôi muốn nói.
Sarah thoáng giật mình. Adolf không để cho nàng có thời gian để nổi giận.
- Bà không muốn vì bà là người phân biệt chủng tộc phải không?
- Ông nói gì cơ?
- Bà không muốn ngủ với một người da đen?
Sarah phá lên cười. Adolf tiếp tục nói và phủ cái nhìn từ đôi mắt xanh phớt hồng của mình lên người đàn bà.
- Hay bà sợ cái mà bà sẽ khám phá ở tôi sau khi tôi cởi bỏ lớp hóa trang?
- Tôi biết rõ cơ thể ông như thế nào, ông Adolf H.
Qua giọng điệu xấc xược và cái nhìn long lanh của nàng, Adolf hiểu rằng cái hắn vừa mong muốn có lẽkhông phải là điều không thực hiện được.
o O o
- Ông ta sẽ từ bỏ, đó là điều chắc chắn. Ông ấy đã quá suy sụp.
Ông giám đốc nhà xuất bản Adolf Müller và Joseph Goebbels buồn bã nhìn dáng vẻ tàn tạ của Hitler, như mọi ngày đang đứng hàng giờ nhìn đăm đăm xuống mặt nước ủ dột và phẳng lặng của hồ Tergern.
Mây ngừng trôi, soi bóng xuống mặt nước, bất động, nặng nề, dày đặc. Thiên nhiên đông đặc. Ngay cả đám chim chóc cũng dang cánh lượn mà như bay tại chỗ.
- Vợ tôi sợ rằng ông ấy bắt chước Louis Đệ nhị trầm mình tự tử mất, Müller nói. Tôi đã cho người theo dõi ông ấy liên tục. Ông ấy ngủ trong phòng dành cho khách trong nhà tôi, tôi đã cất vũ khí của ông ấy đi và lắng nghe tiếng chân ông ấy suốt cả đêm.
- Đúng là một đại họa. Hơn bao giờ hết, Đảng cần ông ấy. Ông ấy phải tranh cử tổng thống.
- Hãy bảo các đảng viên đợi thêm một thời gian, Müller nói. Ông là người duy nhất, sau ông ấy, có khả năng hiệu triệu quần chúng.
Müller không có chút cảm tình nào với Goebbels nhưng ông ta cũng phải thừa nhận rằng Goebbels có tài hùng biện; ông ta không có cái hấp lực của Hitler nhưng lại có tài hùng biện và kỹ năng làm điều đó.
“Có những dáng vẻ bên ngoài buộc anh phải là người có tài”, ông ta nghĩ khi nghiên cứu ngoại hình gớm ghiếc của tiến sĩ Goebbels tới lần thứ hai mươi.
Thân hình của Goebbels khiến người ta có cảm giác đã có sự lầm lẫn ở đâu đó. Hoặc là cái đầu quá to, hoặc thân hình quá bé, tóm lại, cái đầu không ăn nhập với thân hình. Cái gáy cố giữ vai trò trung gian, nó mọc lên để giữ cái sọ quá rộng, quá nặng, quá tròn nối tiếp với cái lưng, giữ cho cái sọ khỏi rơi về phía trước. Thân hình của ông ta căng và ngoe nguẩy như một con cá đục đang cố giữ một trái bóng trên mặt nước. Hơn nữa, khi Goebbels đi, người ta nhận ra rằng cơ thể ông ta không hòa nhịp với chính nó: một bên chân ngắn hơn, càng nổi bật đối với một người chân vẹo, chối bỏ mọi sự đối xứng. Chân tay của Goebbels giống của động vật nhưng mỗi cái lại thuộc về một loài khác nhau; ông ta cóđôi chân chim sẻ, mông dưới của ngựa lùn, thân hình nhỏ thó của một con khỉ lười, đầu chim cú, mắt sâu hoắm như mắt chồn và mũi gồ như con chim sẻ ở đảo Galapagos. Khi nghe thấy gã con lai đẻ ra trên thuyền của Noé này nói về sự thuần khiết chủng tộc, đả kích người Do Thái kinh tởm, hủ hóa, mũi khoằm, ngợi ca giống nòi Aryen tóc vàng, cao lớn, lực lưỡng, thân trên hình chữ V, bắp đùi cuồn cuộn, tuyên bố trên micro những biện pháp y học để kiểm soát sự sinh sản và ngăn cản việc sinh con của những người tàn tật, Müller nhắm mắt lại để chỉ tập trung vào giọng nói đầm ấm của Goebbels và tránh cảm giác khó chịu. Có thể về thực chất, Goebbels là một nhà diễn thuyết tài năng hơn Hitler vì với ngoại hình như thế, phải có một tài năng xuất chúng thì người ta mới có thể đứng lên bảo vệ thuyết ưu sinh và bảo vệ giống nòi cao quý.
Dường như Goebbels đoán được Müller nghĩ gì, ông ta nói với Müller một cách mộc mạc:
- Tôi chỉ là người số hai. Không gì khác. Tôi yêu lãnh tụ của chúng ta, tôi muốn phục vụ ông ấy và dù các xác tín của tôi như thế nào đi nữa, tôi sẽ không ở lại đảng Quốc xã nếu ông ấy không lãnh đạo Đảng nữa.
- Tôi đã thử hết cách để đưa ông ấy trở lại cuộc sống sau vụ tự tử của Geli, Müller thở dài. Tôi đã hy vọng làm sống lại tinh thần chiến đấu của ông ấy, tôi đã cho ông ấy xem những điều tầm phào mà cánh báo chí đã viết nhằm kết tội ông ấy có quan hệ đồi bại với Geli, giết cô ấy để bịt đầu mối v.v... Vô ích. Ông ấy đã mất đi toàn bộ tính hung hăng rồi. Ông ấy chỉ nói với tôi là “nếu tôi muốn giết cô ấy để tránh một vụ xì căng đan thì tôi không bao giờ ra tay ở nhà tôi với khẩu súng của tôi”.
- Ông ấy có lý.
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Không ai thực sự nghĩ tới việc kết án ông ấy vì lúc đó ông ấy đang ởNuremberg. Vấn đề là ông ấy muốn từ bỏ chính trị và đang ở bên bờ của một cuộc tự sát.
- Đúng là một tấn thảm kịch. Chưa bao giờ ông ta lại gần đích đến vậy. Ông ấy sẽ được bầu nếu kịp tham gia tranh cử.
Trong khi những nhà lãnh đạo đảng Quốc xã rối bời thì Hitler đang nhìn chăm chăm xuống mặt nước hồ buồn tẻ. Cái hồ đã trở thành bia mộ của Geli. Hắn nhìn mặt hoa cương màu ghi gần như trong vắt và gửi cả lòng mình vào đó. Hắn nói với nó về tình yêu. Hắn đã quên rằng chính hắn đã gây ra cái chết của cô gái trẻ. Hắn không hề cảm thấy mình có tội. Không nhìn ra mối liên hệ giữa lời cầu hôn của mình và vụ tự tử, hắn giải thích hành động này như đối với mọi hành động khác của Geli, nghĩa là không giải thích gì cả. Người ta có giải thích một con chim không? Có ai giải thích tiếng nó hót không? Sự duyên dáng của nó? Những cơn biến đổi tâm tính của nó? Geli bao giờ cũng chỉ là một tạo vật nhỏ bé, tràn trề sức sống, tỏa ánh sáng và niềm vui quanh hắn. Hitler không hề nghĩ tới việc ghép cho cô một tâm lý phức tạp, một cuộc sống nội tâm. Hắn khóc nức nở không phải vì Geli mà là về những cái hắn mất.
Khi cảnh sát hỏi hắn về những lý do có thể làm cô gái tự tử, không có gì để trả lời, Hitler kể lại những kỷ niệm xưa, kỷ niệm về một ông thầy bói, người đã nói trong một buổi lên đồng rằng Geli sẽ chết không phải vì tuổi già, cũng không phải vì lý do tự nhiên. Vả lại, Hitler đã nổi cáu khi người ta hỏi han hắn nhiều như vậy về chuyện tự tử, khi người ta truy tìm nguyên nhân, với hắn điều đó có vẻ như che giấu điểm chính yếu là Geli đã chết, vậy đó, cô không còn sống với hắn trong căn nhà của hắn, hắn đã vắng cô. Còn lại thì...
Hắn nói chuyện với cái hồ, kể với nó nỗi buồn của hắn và cùng lúc ấy hắn cảm thấy nhẹ nhõm. Mọi dính líu tới đàn bà từ nay đã kết thúc với hắn. Sau Mimi, sau Geli, hắn không yêu nữa. Không phải vì hắn muốn tránh những vụ tự tử khác - ô, cái thói gàn cứ thích đi tâm lý hóa và gán đủ thứ lý lẽ cho đàn bà! - không, hắn không yêu nữa vì hắn đã giải mã được những dấu hiệu của Số phận. Lần nào cũng vậy, Định mệnh cũng đẩy tình yêu ra xa hắn. Muốn hắn giữ trọn sự trinh bạch. Cẩn trọng và phòng xa, Định mệnh đã gạt bỏ tất cả mọi thứ quanh hắn, đặt hắn lại trên đường, giục hắn bước đi trên con đường của hắn, chỉ cho hắn chân trời duy nhất: nước Đức.
Hitler thở dài. Trong thâm tâm, hắn đã lười biếng không chịu hiểu mọi chuyện. Tất cả đã được hé lộ với hắn vào năm mười tám tuổi khi hắn xem vở Rienzi. Số phận đã rỉ tai tiết lộ vận mệnh của hắn nhưng hắn đã không dám hiểu điều đó. Giờ đây, hắn thuộc nằm lòng những câu nói ấy: “Ồ, có chứ, ta có yêu. Với một niềm đam mê cháy bỏng, ta yêu vị hôn thê của ta, từ ngày đầu tiên khi ta bắt đầu suy nghĩ, từ khi đống đổ nát huy hoàng nói cho ta biết về sự vĩ đại xưa kia của chúng ta. Tình yêu này làm ta đau khổ khi vị hôn thê của ta bị đánh đập, đối xử tàn nhẫn, bị sỉ nhục, chặt chân tay, bị lăng nhục, bị la ó và chế nhạo. Ta dành cho nàng trọn cuộc đời ta, chỉ cho nàng mà thôi, ta trao cho nàng tuổi trẻ của ta, sức mạnh của ta. Ta muốn nhìn thấy nàng đội vương miện nữ hoàng của thế giới. Ngươi biết đấy, vị hôn thê của ta là thành Roma!!” Chỉ cần đặt chữ nước Đức thay chỗ Roma trong câu nói và người ta sẽ có con đường số phận của Hitler.
Hắn biết rằng bộ máy quốc xã đang lo lắng vì sự im lặng của hắn. Hắn biết là hắn có thể thắng trong cuộc bầu cử tổng thống. Hắn biết là mình sẽ thắng. Hiện tại, hắn đang tích tụ sức lực trước khi nhảy vọt và làm cho những người khác cảm thấy họ cần hắn đến mức nào trong cuộc tranh đấu. Hắn sẽ vờ lấy lại tinh thần vào cái lúc mà tinh thần của họ sắp sửa đổ vỡ.
o O o
- Thế cậu đặt tên cho bức tranh này là gì? Neumann hỏi, mắt mê say không rời khỏi bức tranh.
- Gã độc tài đồng trinh.
Adolf cầm một cây cọ mịn bằng lụa và tiến lại gần giá vẽ.
- Xem này, tớ viết tên bức tranh lên khung. Gã độc tài đồng trinh của Adolf H.
Khi viết xong những nét chữ tròn trịa gần như trẻ con, Adolf lùi ra xa để xem tổng thể bức tranh.
Hắn đã thực hiện một bố cục gây sửng sốt.
Một người đàn ông trần truồng, da trắng vàng như sáp, ẽo ợt, phần giữa háng trơn tru chẳng có gì, người không một chút lông, đang bước đi trên đầu đám đông gồm những cá thể không lớn hơn một con chuột. Các nạn nhân đang giương cao những lá cờ đen mà máu họ đang phọt lên trên đó. Những người bị nghiến nát là những cá thể khác nhau về màu da, thể hình, chủng tộc, sắc đẹp; thậm chí có hai người trông như người khổng lồ, hai người mà hắn bóp nghẹt giữa hai ngón chân. Những thiên thần sáu cánh ở góc phải bầu trời đang chơi nhạc nhưng qua nắm tay khổng lồ đầy vẻ đe dọa đang dứ lên về phía họ, người ta thấy cả họ nữa, họ cũng sẽ bị nghiến nát.
- Trông hắn giống như một đứa trẻ sơ sinh, Neumann phản đối.
- Chính vậy. Không có gì ích kỷ hơn một đứa trẻ sơ sinh. Nó chìa tay ra, nó giật lấy, nó nghiền vụn và đưa tất cả vào mồm. Con người ở thuở ban sơ, ai cũng là một con quái vật vô ý thức vì không có ý thức về người khác. Chúng ta, ban đầu, ai cũng là một bạo chúa. Khi bác bỏ lý lẽ của chúng ta, chính cuộc đời đã thuần phục chúng ta.
- Đó là Mussolini à?
- Hoàn toàn không. Mussolini là một kẻ độc tài, hẳn rồi, nhưng hắn không phải là người khủng khiếp nhất mà trái đất có thể có, bởi hắn còn có liên hệ với thực tế, hắn có một người vợ, nhiều nhân tình, con cái, đó là một con đực La tinh thực sự.
- Ý cậu là có kẻ còn tệ hơn cả Mussolini ư?
- Hay tệ hơn cả Stalin chăng? Đúng vậy Neumann, điều đó là có thể. Về mặt lý thuyết là có thể.
Neumann không chỉnh Adolf vì câu lăng mạ nhằm vào Stalin. Anh biết bạn mình là người chống chủ nghĩa cộng sản quyết liệt và chính anh, trở về sau chuyến đi thứ ba ở Moskva với ít nhiều băn khoăn, không muốn lao vào một cuộc khẩu chiến có hại cho cuộc tái ngộ của họ.
- Cậu đã gặp Mười-một chưa? Adolf hỏi.
- Rồi, bọn mình có nói chuyện đôi chút. Tớ thấy cô ấy hơi... khách sáo.
- Có đúng thế không? Adolf kiêu hãnh nói.
Từ nhiều tháng nay, hắn công khai quan hệ của mình với Sarah Rubinstein, hắn không biết cái gì làm hắn thỏa mãn hơn, những giờ phút bên người tình hay sự ghen tuông của Mười-một-giờ-rưỡi. Nàng không dám công khai chỉ trích mối tình này nhưng thỉnh thoảng Adolf bắt gặp nàng với đôi mắt đỏ hoe, hàm nghiến chặt hoặc tay có những cử chỉ cố kiềm chế cho thấy nàng đang sôi lên vì giận. Những phút giây bên Sarah, người đàn bà tóc vàng, cao và mềm mại với ba tông màu khác nhau, hắn tìm lại được phong vị của thân thể hắn, của thân thể đàn bà và của trò chơi khó đoán định, luôn luôn tươi mới, là trao và tận hưởng hoan lạc.
- Mười-một là một cô gái tốt, cậu biết chứ? Neumann nói giọng buồn buồn. Cô ấy không đáng để bị...
- Tớ đang cảm thấy mình được sống, Neumann ạ. Thật là đơn giản, tớ sung sướng cảm nhận mình đang sống. Từ khi lừa dối Mười-một, tớ chợt nhớ ra rằng mình đang tồn tại.
- Thật không công bằng. Cậu còn được sống hơn nhiều khi bọn cậu mới gặp nhau.
- Thành công đã làm hại tớ, đúng vậy. Tớ vắt kiệt sức lực của mình trong công việc. Mười-một đã phải trả giá nhưng đừng quên là chính cô ấy đã đâm nhát dao đầu tiên vào chuyện của bọn tớ.
- Ai chứng minh với cậu là...
- Anh có thể để bọn em lại với nhau được không Neumann? Mười-một-giờ-rưỡi nói, nàng ầm ĩ đi vàoxưởng vẽ. Em đã nghe hết nhưng em không muốn anh bảo vệ em. Tự em sẽ làm việc đó. Và nói gì đi nữa, emkhông tự vệ mà sẽ tấn công.
Không nói một lời nào, Neumann rời xưởng vẽ gần như rón rén trên đầu ngón chân.
Mười-một-giờ-rưỡi đến ngồi đối diện Adolf, vênh cằm về phía hắn, nhìn vào mắt hắn chằm chằm.
- Chuyện này không thể kéo dài được nữa. Anh phải chọn: hoặc tôi hoặc cô ta.
Adolf cảm thấy ấm áp bởi một làn sóng thỏa mãn.
- Chuyện cái tối hậu thư này là thế nào? Anh có đòi hỏi em phải chọn giữa anh và tay diễn viên múa đó không?
- Không, nhưng nếu anh hỏi thế thì tốt quá.
- Thế à? Em sẽ chọn ai?
- Chọn anh. Không một giây do dự.
Bất chấp cái giọng hùng hổ của nàng, hắn muốn hôn lên đôi má đang bừng bừng vì giận.
- Còn bây giờ, diễn thế là đủ rồi, anh chọn đi: cô người Đức Do Thái của anh hay tôi?
- Tất nhiên anh chọn em, Mười-một. Chọn em, không một giây do dự.
Đôi mắt của người đàn bà bé nhỏ nhòe đi ngay lập tức; nàng không dám tin vào niềm vui của mình, lắp bắp:
- Thật chứ? Có thật không?
- Ừ. Sarah là một người đàn bà tốt, rất tốt, nhưng... tóm lại, anh chọn em.
Nàng lấy đà rồi nhảy lên quặp chân vào hông Adolf, cọ mũi mình vào mũi hắn và hôn hắn tới tấp.
- Em muốn anh có con với em, nàng nói.
- Như thế này hả? Bây giờ? Ngay lập tức?
- Không. Ngay sau khi anh cắt đứt với cô ta.
Adolf nhăn mặt khi nghĩ đến cảnh khó khăn mà hắn sắp phải trải qua với Sarah.
- Đồng ý, em sẽ phụ trách việc này, Mười-một-giờ-rưỡi nói.
- Không. Anh không phải là thằng hèn. Anh phải...
- Tất nhiên, nhưng từ đây em đã thấy cảnh ấy rồi: “Anh phải chia tay em vì vợ anh ép thế; anh rất tiếc, anh không muốn điều ấy.” Và thế là hấp! Người ta quay lại giường lần cuối để chia tay rồi trở thành bạn tốt. Không, cảm ơn, không có chuyện ấy đâu. Chia sẻ thế là đủ rồi. Bị coi là con điếm cũng được nhưng chính em sẽ làm điều ấy.
Nàng biến mất một lúc rồi quay trở lại, ăn mặc chỉnh tề, đội mũ, đeo găng. Nàng rút một khẩu súng khỏi chiếc túi đen bằng lụa, chĩa về phía Adolf với dáng vẻ tự nhiên nhất.
- Anh nằm lên giường đi.
- Gì cơ?
- Adolf, không nhì nhằng gì cả, em không có thời gian đâu. Nằm lên giường để em trói anh lại.
- Nhưng...
- Adolf, đừng làm em phải bực lên. Em vừa trải qua những tháng ngày khủng khiếp vì anh, em đang sắp phát điên lên đây, em còn có chuyện yêu cầu tình nhân của anh phải làm, vì thế, xin anh đừng làm đầu em nóng lên và hãy nghe lời em nhanh, nếu không em có nguy cơ xử lý vụng về món đồ chơi nhỏ mà em không quen này. Nằm ra đi.
Sau khi đã cột chặt Adolf vào thang ngang dưới chân và đầu giường, nàng hôn lên môi hắn và đóng sập cửa đi.
Adolf nằm ngửa, không di chuyển được, không làm gì khác được ngoài việc thở.
Hai tiếng sau, Mười-một-giờ-rưỡi quay lại. Nàng ngồi xuống cạnh giường và mỉm cười với Adolf.
- Sarah đã hiểu ra. Cô ấy nói với em là cô ấy yêu anh nhưng rõ ràng là không thể yêu anh nhiều như em. Cô ấy rút lui khỏi cuộc chơi. Cô ấy không phải là kẻ ngốc.
Nàng cởi áo măng tô và thêm vào, giọng cười cợt:
- Cũng cần phải nói thêm là cô ta không có vũ khí. Thực ra... chỉ có mỗi con dao...
Nàng cởi hết quần áo rồi trèo lên người hắn.
- Thế nào, chúng ta có làm ra đứa con này hay không?
- Em cởi trói cho anh chứ?
- Không. Không bao giờ nữa.
Trong những tháng tiếp đó, Mười-một-giờ-rưỡi và Adolf sống lại mối tình mặn nồng thuở trước. Hắn đã dằn lòng viết một lá thư chân thành tới Sarah để giải thích với nàng rằng, nếu Mười-một yêu cầu hắn... chừng nào Mười-một còn trong đời hắn... và dù gì đi nữa, hắn sẽ không bao giờ rời Mười-một...
Mùa xuân năm 1929, Mười-một-giờ-rưỡi đột nhiên hay buồn nôn. Adolf bay bổng vì sung sướng, nghĩ rằng cuối cùng nàng đã có mang.
Hắn dẫn nàng đến nhà bác sĩ Toubon, bác sĩ phụ trách phòng mạch tốt nhất Paris, trong phòng đợi được bài trí phản thẩm mỹ một cách phô trương, chờ đợi sự khẳng định mỹ mãn rằng hắn sắp được làm bố.
Bác sĩ Toubon thò đầu khỏi cửa, bảo hắn đến phòng làm việc của ông ta. Mười-một không ở đó, nàng đang mặc quần áo ở phòng bên.
- Cần phải rất dũng cảm, ông Adolf ạ. Bà nhà bị bệnh lao thể nặng. Tôi không mấy lạc quan. Tôi xin nói thẳng, bà nhà không còn sống được bao lâu.
o O o
Đầu tiên hắn làm cho người ta trông ngóng mình.
Hắn đưa ra một cuộc hẹn. Lúc nào cũng rất xa trong tương lai. Lúc nào cũng không chắc chắn. Để mình trở nên quý giá, hắn cho loan tin rằng trọng trách của hắn nhiều đến nỗi hắn buộc phải hủy cuộc hẹn. Đây là điều bịa đặt, nhưng ai biết được? Do đó, Hitler không còn là người đợi đám đông, mà chính đám đông đợi Hitler. Đám đông hy vọng.
Đến ngày hẹn, hắn lập kịch bản cho sự xuất hiện của mình. Hắn yêu cầu rằng nơi tập hợp, dù là ở đâu, phải mất đi cái dáng vẻ thường thấy của mình; cờ xí, băng rôn, những hàng ghế, hàng núi bục, kệ, loa phóng thanh, đèn chiếu đã tước đi cái vẻ thường nhật của nơi ấy; đám đông đợi trong một khung cảnh đã được biến đổi, tô điểm, trang hoàng rực rỡ. Sau đó, hắn bắt đám đông đợi. Hắn tổ chức chi tiết việc xuất hiện muộn của mình. Hắn tính toán cụ thể thời gian cần thiết để một đám đông trở nên căng thẳng, sốt ruột mà không nổi giận hay cảm thấy bị xúc phạm. Khi đó, hắn biết nhanh nhẹn đi vào và nhảy phóc lên diễn đàn như một giải pháp cho tình trạng căng thẳng ấy.
Hắn hành động nhanh gọn. Động tác chuẩn xác, gọn ghẽ. Hắn biết phải gây bất ngờ bằng vẻ cương quyết của mình. Đám đông chỉ biết đến hắn qua những hình vẽ, bức ảnh, chậm và im lìm, được thực hiện nhờ người bạn Hoffmann của hắn, những hình ảnh trong đó hắn trông quý phái và ưu tư. Giờ đây, trong vòng vài giây, hắn phải thể hiện những phẩm chất ngược lại. Chính nhờ phương pháp ấy mà người ta trở nên cuốn hút, với phương pháp ấy mà người ta trở thành một ngôi sao. Hắn biết điều đó, hắn đã nghiên cứu cách làm của các minh tinh màn bạc. Chỉ có sự đồng hiện của những thái cực đối lập trong cùng một con người mới có thể duy trì được sự hâm mộ của đám đông. Greta Garbo đã thống trị cả thế giới nhờ vào vẻ đẹp kiêu sa, nhã nhặn, ngang như một bức tượng cổ đại kinh điển, hoàn toàn trái ngược với những cử chỉ lóng ngóng của một người đàn bà quá cao, xấu hổ vì quá nổi bật, bước chân như một diễn viên múa vụng về chỉ chực ngã, cái nhìn xúc động vì quá nhạy cảm, cái gáy như con chim trúng thương. Hitler cũng vận hành trong những vùng tương phản như thế: sau khi phát tán hình ảnh của một nhà tiên tri bình thản, mắt màu xanh da trời, bề ngoài uể oải, ngơ ngác trong những mộng tưởng thánh thần của mình, hắn sẽ cho quần chúng thấy hắn, bằng xương bằng thịt, với một năng lượng sắc bén, xung kích, điêu luyện, hừng hực, tạo cảm giác có một sức mạnh vô hình ngự trị trong hắn mà chính hắn cũng không kiểm soát nổi.
Hắn ở đó. Hắn đối diện với đám đông. Đây mới chỉ là vòng bầu cử sơ bộ.
Đám đông là một người đàn bà; đàn bà thì cần phải có thời gian để hưng phấn; Hitler là một người tình vĩ đại vì hắn còn chậm chạp hơn cả nàng. Ngay từ đầu, hắn đưa ra những lý lẽ, những ý tưởng, nhưng chỉ một chút thôi. Hắn thủng thẳng. Hắn kìm giữ. Hắn muốn tạo ra niềm ham muốn trong đám đông. Hắn muốn nàng mở ra. Hắn để dành những con bài tấn công của mình cho sau này. Tuy nhiên, khi người hắn đã nóng lên, hắn sẽ mạnh mẽ, căng cứng, tràn trề bất tận.
Trong tình yêu, người ta gọi đó là ông vua chăn gối; trong chính trị, người ta gọi đó là kẻ mị dân. Bí mật của sự thành công đó là chỉ chú tâm đến khoái cảm của bạn tình.
Hitler bắt đầu làm đám đông run lên. Nàng vỗ tay. Nàng muốn tham gia. Hắn khích động nàng, để mặc nàng làm cái nàng muốn, giữ nàng lại, dán môi mình vào môi nàng để nàng không kêu được. Hắn nhấp nhấp, rút ra, bỏ chiếc giẻ bịt miệng ra: nàng cực sướng.
Hắn lại tấn công. Nàng ngạc nhiên. Gì cơ? Lại nữa ngay ư?
Hắn tiến hành. Hắn mời gọi. Nàng theo hắn. Nàng rên lên. Hắn lại tiếp tục.
Nàng rên lên. Hắn thay đổi nhịp. Nàng vừa rên lên sung sướng vừa than thở. Hắn tăng tốc. Trái tim đê mê. Nàng sướng.
Hắn tiếp tục lần mới ngay lập tức. Không. Nàng không chịu được nữa. Nàng đã bị chinh phục. Nàng đã hiểu. Không ai tốt hơn thế. Đúng đấy. Hắn cố nài và kỳ lạ thay, nàng lại tiếp tục với hắn. Bây giờ, ý chí của nàng đã bị đánh gục, nàng thuộc về hắn, hắn là ông chủ của nàng, hắn muốn làm gì nàng tùy ý. Hắn là hiện tại, tương lai của nàng vì hắn đã trở thành kỷ niệm đẹp nhất của nàng rồi.
Nàng sướng nữa, lại nữa, lại nữa.
Bây giờ, nàng không còn phân biệt được lần nào sự cực khoái đạt đến đỉnh cao hơn, nàng buông thả hoàn toàn. Nàng liên tục gào rú.
Và trong khi hắn cày nàng, nàng hứa với hắn tất cả những gì hắn muốn. Vâng. Với anh. Không làm gì mà không có anh nữa. Không bao giờ.
Đột nhiên hắn rút ra và bỏ đi.
Nàng đột ngột đau.
Âm nhạc nổi lên song song với nỗi đau ấy. Để tĩnh trí lại, đám đông cất tiếng hát. Nàng hạ xuống thế giới bình thường.
Đúng, hứa rồi đấy. Hắn sẽ quay trở lại.
Hitler đã rút về ẩn trong xe của mình. Sau đó, hắn nhảy lên một chiếc máy bay để đến một thành phố khác ngay lúc đó đã ngóng đợi hắn rồi.
Hắn làm đám đông sướng nhưng hắn không sướng.
Hắn khinh bỉ nó vì đã sướng dễ dàng đến thế trong khi hắn không sướng.
Và trong sự khinh bỉ, hắn cảm thấy mình vượt trội.
Và trong sự khinh bỉ này, hắn giữ lấy quyền lực.
Và trong sự thất vọng của mình, hắn tìm thấy sức mạnh để lại tiếp tục chỉ một giờ sau đó.
o O o
Buổi sáng nhợt nhạt trên đại lộ Bois.
Từ cửa sổ nhà mình, Adolf H. dõi theo đám lục sự trong sân đang tới lui một cách ác độc và im lặng; họ mang đi tất cả những vết tích của quãng thời gian hạnh phúc của hắn với Mười-một-giờ-rưỡi.
“Miễn là em giữ được đến...”
Từ năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế đã tàn phá thị trường nghệ thuật, người mua đã biến đi đâu cả, phần lớn là vì họ đã phá sản, những người thoát nạn thì cũng đi tìm những chỗ đầu tư an toàn hơn hội họa hiện đại, tuy nhiên, một số ít tỷ phú, những người không bao giờ hề hấn gì và hoàn toàn có thể tiêu pha không phải nghĩ ngợi, lại đợi tình trạng lạm phát và giá tranh giảm hơn nữa. Adolf không bán được tranh nữa, không còn được chuộng nữa, nhưng vẫn phải trang trải nợ nần.
“Miễn là em giữ được...”
Adolf không muốn Mười-một biết chuyện gia cảnh đang sa sút. Vì nàng không còn đủ sức để ra khỏi giường, hắn đã làm được chuyện giữ nguyên ảo ảnh về mức sống của họ; nàng không hề biết rằng sau cánh cửa kia là ngôi nhà không còn chút đồ đạc nào và trong đám gia nhân, chỉ còn một bà phục vụ quá gắn bó với Mười-một nên không bỏ đi ngay cả khi chưa được trả công từ ba tháng nay. Ngay cả những bức vẽ chưa hoàn thành trong xưởng cũng bị mang đi sáng nay.
- Các ông lấy tranh chưa vẽ xong để làm gì? Adolf bực tức kêu lên với viên lục sự.
- Để bán theo giá toan; ai đó khác vẫn có thể vẽ đè lên trên ấy, luật sư Plissu trả lời với giọng nói êm dịu của mình giống như đang nhấm nháp từng từ như một cái kẹo.
Adolf thậm chí không còn sức để nổi cáu nữa. Phản đối ư? Để làm gì? Thế giới đầy rẫy bất công, ta đã biết vậy. Và thực ra, còn có nhiều điều nghiêm trọng hơn thế. Trong hắn giờ chỉ còn chỗ cho nỗi buồn. Hắn nghĩ tới cái thân thể nhỏ bé ngày xưa tràn trề sinh lực là thế, nay đang tắt dần trong căn phòng bên cạnh.
- Tôi có thể nói với ông một câu không?
Adolf giật nảy mình.
Ông bác sĩ Toubon đang đứng ở cuối căn phòng trống trơn và lạnh cóng.
Bác sĩ Toubon, luật sư Plissu, thầy thuốc, lục sự, tất cả những nhân vật chính thức mà lại đổi lẫn cho nhau được, những con hải cẩu béo đẫy màu đen với bộ ria mép thể hiện sự trang nghiêm và giọng nói êm ái trơn tru, với âm sắc trái ngược biết bao với những tai họa mà họ thông báo. Kín đáo. Lịch sự. Hãi hùng. Từ vài tuần nay, không cảm xúc và chỉn chu như nhà đòn, họ lui tới giật khỏi tay Adolf từng miếng, từng miếng của những gì hắn trân trọng nhất, cuộc sống của hắn với Mười-một, hy vọng về một cuộc sống với nàng...
- Tôi đến để thông báo với ông rằng vợ ông chỉ còn sống được vài tiếng nữa.
- Không!
- Ông H., tôi ngưỡng mộ sự dũng cảm và tình cảm sâu nặng của ông trong thử thách này. Vì tôn trọng cách đối xử ấy của ông, tôi có nghĩa vụ phải nói sự thực với ông. Bà nhà gần như không còn thở được nữa; bà sẽ không qua khỏi ngày hôm nay.
Adolf thả đầu cho đập vào cửa kính. Thế đấy, hắn đã nghe thấy câu nói mà hắn e sợ từ mấy tháng nay, câu nói mà hắn đã đấu tranh với nó, câu nói mà hắn đã huy động năng lượng và tình yêu để chống lại. Tất cả đã bị phá hủy. Không gì trong số đó có tác dụng. Hết rồi. Đến thời điểm, đến giờ của mình, cái chết vẫn cứ đến.
- Ông H. à, ông cần phải coi rằng, với bà nhà đây thực sự là một sự giải thoát.
Tội nghiệp Mười-một bé nhỏ kiên cường đến thế, hồn nhiên đến thế, nàng đã yếu đi mà không hề than thở, sống nốt những giờ cuối cùng của đời mình trước bức tranh, bức duy nhất mà đám lục sự không lấy đi, Chân dung ngoại cỡ của nàng.
Adolf cảm thấy nỗi buồn sắp vỡ òa bèn bỏ đi chỗ khác. Trong cầu thang, hắn gặp Neumann đến chia sẻ với hắn như mọi ngày.
- Neumann, cô ấy chỉ còn sống được có vài giờ thôi. Đến phòng cô ấy đi. Còn tớ, tớ có việc gấp phải làm.
- Nhưng cậu đi đâu mới được?
- Tớ phải đi đến đấy.
- Adolf! Quay lại đi!
- Một việc gấp. Cho cô ấy.
Adolf chạy trên vỉa hè xám xịt. Gió lạnh buốt không ngăn được nước mắt hắn. Hắn cảm thấy quá nhiều sự sống, quá nhiều sức mạnh trong mình, cái gì đó bất tận và vô ích mà hắn muốn trao cho Mười-một.
Đến phố Desbordes-Valmore, hắn lao vào số nhà 12 và chạy lên tầng. Hắn hốt hoảng nhấn chuông nhiều lần, không để cho chiếc chuông kịp hồi lại.
Cuối cùng, Lars Ekstrôm, khoác áo ngủ, cũng mở cửa. Anh ta lùi lại vì sợ khi nhìn thấy Adolf trên thềm nghỉ cầu thang nhưng Adolf đã nắm lấy tay anh ta và van vỉ.
- Hãy đi với tôi. Mười-một sắp chết. Tôi mong rằng anh cũng ở bên giường cô ấy.
- Nhưng...
- Không, tôi không giận anh. Cô ấy đã yêu anh. Trong giây phút cuối cùng của cuộc đời mà cô ấy có hai người đàn ông đã đầu gối tay ấp với cô ấy bên mình thì thật tốt biết bao.
- Nhưng...
Adolf nhìn đôi chân đẹp và biến dạng vì tập luyện cực khổ của diễn viên múa. “Tay này mới ngu dốt làm sao, hắn nghĩ khi nhìn thấy chân anh ta... nhưng không quan trọng. Mười-một yêu anh ta.”
Một thanh niên trẻ, trần truồng, quấn khăn tắm xốp quanh hông, đến áp vào lưng Lars Ekstrôm và hỏi giọng ngái ngủ:
- Chuyện gì vậy?
- Không có gì, anh diễn viên múa nói, đây là chồng của một cô bạn. Quay vào giường ngủ đi.
Chàng thanh niên kia biến mất.
- Ông nhầm rồi, Lars Ekstrôm nói, tôi chưa bao giờ là tình nhân của vợ ông. Bà ấy đã yêu cầu tôi làm ông tưởng như thế để...
- Để?
- Để làm ông ghen.
Adolf đổ lưng vào bức tường. Hắn ngạt thở. Không, không thế được. Không thế hai lần được. Trong đờimình, Mười-một đã hai lần nói dối. Làm hắn tưởng rằng nàng đã có nhiều tình nhân để Adolf không e ngại cho trinh tiết của nàng. Rồi làm hắn tin rằng nàng ngoại tình để hắn thức tỉnh khỏi sự thờ ơ của mình. Vậy ra... hắn là người duy nhất? Người đàn ông duy nhất trong đời nàng? Mười-một...
- Ông không ổn à? Ông có muốn uống gì không? Mời ông vào nhà ...
Adolf lao xuống cầu thang và chạy như tên bắn. Mười-một... hắn không được bỏ phí một phút nào. Từ giờ, hắn đã thấy sợ nàng. Mười-một. Chừng ấy tình yêu từ thuở đầu. Thủy chung nhường ấy... Chừng ấy... Không, người ta không có quyền tước bỏ của nàng điều ấy.
Hắn lao vào căn phòng tối và nằm sõng soài lên giường, hôn điên dại lên đôi bàn tay bé nhỏ âm ẩm của nàng.
- Mười-một... tình yêu bé nhỏ của anh...
- Thế nào, anh đã ở đâu thế, chàng Boche của em? Em đang lo.
- Anh... Lars vừa cho anh biết là...
- Thôi bỏ đi. Sưởi ấm em đi.
Hắn ghì Mười-một vào lòng mình; người nàng nhẹ bỗng, hắn không thấy cảm giác nào trong số những cảmgiác mà hắn đã có biết bao lần khi ôm nàng. Nàng thì ngược lại, cọ vào người hắn như một người đàn bà đang yêu, thích thú cái thân thể mà nàng rất đỗi yêu thương này.
- Chúng ta đã vui vẻ bên nhau, phải không?
- Em nói gì vậy? Tại sao em bảo “đã”?
- Thôi đi. Em biết mà.
Nàng ho và nhắc lại, không chú ý đến câu cắt ngang của hắn.
- Chúng ta đã vui vẻ bên nhau, phải không?
Bị cảm xúc tàn phá tâm trí, Adolf khó khăn lắm mới nói được rành mạch:
- Ừ. Chúng ta đã vui vẻ bên nhau.
Hắn không dám nhìn nàng nữa, hắn không dám siết nàng quá mạnh vào người mình, hắn sợ làm nàng vỡ vụn ra.
- Chàng Boche của em, cần phải nghĩ đến tương lai. Một người như em, anh không tìm được nữa đâu.
- Mười-một... em im đi!
- Em sẽ im khi nào em muốn! Nàng nói, không còn đủ sức lực để nổi cáu rồi bật ho suốt nhiều phút.
Trong bóng tối nhờ nhờ, Adolf, ôm trọn thân hình bé nhỏ đang rung lên ấy trong vòng tay mình, sợ rằng sợi chỉ cuộc sống sẽ đứt đoạn bất cứ lúc nào.
- Đừng bực tức nữa, Mười-một, nói với anh điều mà em muốn nói đi.
Khó nhọc lắm Mười-một mới lấy lại được hơi thở. Mắt lồi ra.
- Thế đấy. Em không muốn anh buông xuôi mọi việc. Anh phải vẽ, anh phải sống.
- Sống thế nào chứ? Không thể sống không có em.
- Nhìn về phía sau giường đi.
Adolf không hiểu. Mười-một nài nỉ, giọng thều thào đứt quãng:
- Thả em xuống và nhìn về phía sau giường.
Neumann vặn cây đèn ngủ to lên. Adolf lướt mắt qua đầu giường treo những tấm ri đô to nặng và nhìn thấy Sarah Rubinstein đứng dựa vào bức tường màu xanh da trời, nàng nhợt nhạt, lo lắng, rối bời.
- Sarah ư?
- Sau em, cô ấy là người tốt nhất mà anh có thể gặp, Mười-một nói. Em đã mời cô ấy đến vì chuyện đó. Đương nhiên, cô ấy không đồng ý nhưng anh cứ tỏ ra dễ thương một chút là được. Em nhờ cả vào anh đấy.
Adolf tiến lại gần Sarah, người mà hắn chưa từng gặp lại kể từ khi họ chia tay. Nàng ngoảnh mặt về phía tia ánh sáng nhỏ mảnh lọt qua mành cửa đã được khép lại.
Nàng thì thầm giọng không âm sắc:
- Mười-một đã liên hệ lại với em ngay khi biết mình bị bệnh. Em đã đến đây nhiều lần khi anh không ở nhà.Em...
Sarah ép mình nhìn vào Adolf. Mắt nàng, khi lướt qua phía giường, chợt ánh lên tia hoảng sợ.
Adolf quay đầu lại.
Đã quá muộn. Mười-một đã chết.
o O o
Hitler thắng cử. Hắn trở thành thủ tướng mới của Đức.
Họa sĩ bất đắc chí, kẻ lang thang xưa kia, gã lính không tài nào lên lon được, kẻ phản loạn trong nhà hàng bia, kẻ đảo chính nực cười, người tình còn tân của đám đông, tay người Áo trở thành người Đức nhờ thủ thuật hành chính đã đứng đầu một trong những nước giàu có và văn hóa phát triển nhất châu Âu.
Hắn đã kêu to đến mức một số người đã nghe thấy hắn. Họ đã bầu cho hắn.
Hắn đã kêu to đến mức một số người thấy hắn thật lố bịch. Họ đã để hắn điều khiển.
Tuy thế, cả trăm lần, ngàn lần, hắn đã công bố những ý tưởng ma quỷ của mình: tiêu diệt dân Do Thái, tận diệt những người cộng sản, trả thù nước Pháp, mở rộng biên giới về phía Đông rồi phía Tây... Hắn đã luôn luôn nói rằng chiến tranh là một quyền, rằng chiến tranh là cần thiết. Chưa từng có ai chơi một cuộc chơi hung tợn và rõ ràng đến thế. Chưa từng có ai dùng thù hận làm cương lĩnh chính trị duy nhất của mình. Người ta thấy hắn nói có sức thuyết phục. Người ta thấy hắn lố bịch. Nhưng gần như không ai thấy hắn là người nguy hiểm. Làm thế nào mà người ta có thể điếc đến thế? Hitler không phải là kẻ nói dối. Hắn nói thẳng những sự thật nhơ nhuốc. Và chính điều đó đã che chở cho hắn. Vìngười ta đã quen phán xét con người qua hành động chứ không phải lời nói của anh ta. Họ biết rằng giữa ý định và việc thực hiện nó còn thiếu một mắt xích: quyền lực để hành động. Vậy mà, cái quyền lực ấy, họ vừa trao cho Hitler. Có thể họ cho rằng việc lãnh đạo đất nước sẽ làm kẻ cực đoan trở nên ôn hòa, như vẫn thường xảy ra như thế? Rằng Hitler sẽ bình tĩnh lại khi học quy luật nghiệt ngã của thực tế?
Họ không biết rằng mình đã không chỉ định một nhà chính trị mà là một nghệ sĩ. Có nghĩa là cái đối lập hoàn toàn. Một nghệ sĩ không cúi mình trước hiện thực, anh ta sáng tạo nên hiện thực. Đó là vì nghệ sĩ ghét thực tế và chính vì phẫn chí mà anh ta sáng tạo. Thông thường, những người nghệ sĩ không chấp thuận nhận lấy quyền lực: họ đã thi hành nó từ trước, bằng cách dung hòa cái tưởng tượng với cái thực trong tác phẩm của mình. Còn hắn, Hitler, hắn chấp nhận quyền lực bởi hắn là một nghệ sĩ bỏ đi. Hắn đã lẩm nhẩm từ mười năm nay: “Chúng ta sẽ chiếm quyền lực một cách hợp pháp. Sau đó...“
Sau đó, quyền lực chính là hắn.
Cùng lúc ấy, có một người đã mất ngủ. Khi ngỡ đã hành động để làm tròn bổn phận nghề nghiệp của mình, ông ta đã gây ra một thảm họa. Làm thế nào mà khi ấy ông ta có thể dự đoán được điều đó?
Bác sĩ Forster đã lo lắng theo dõi đường thăng tiến trên chính trường của anh giao liên Hitler, bệnh nhân của ông ta ở Pasewalk năm 1918, người mà ông đã chữa khỏi bệnh mù vì hysteria khi thuyết phục anh ta rằng Chúa đã trao cho anh ta nhiệm vụ cứu nước Đức. Ông ta những tưởng mình đã chữa khỏi bệnh cho con người ấy bằng phương pháp thôi miên, thế nhưng lại tiêm nhiễm cho hắn một căn bệnh. Giờ đây, con người này đã đứng đầu đất nước, bác sĩ Forster kết luận rằng nghĩa vụ của mình là phải nói, ngay cả khi phải vi phạm bí mật nghề nghiệp. Ông thông báo trong một buổi dạy ở trường đại học Greifswald rằng Hitler là một người bị loạn thần kinh đã được điều trị bằng ám thị và thôi miên và rằngông sẽ công bố hồ sơ bệnh lý tâm thần của hắn.
Gestapo đã phản ứng không chần chừ. Bác sĩ Forster ngay lập tức bị thôi việc vì chứng tâm thần không ổn định. Cùm xích bằng cách bịt miệng.
Bác sĩ Forster bỏ trốn sang Thụy Sĩ và bị mật vụ Đức truy đuổi. Ông chỉ kịp gửi vào một két sắt ở Basel những tấm phiếu bệnh lý tâm thần được viết bằng một loại mật mã, và báo cho một vài người bạn mà không nói rõ là ở nhà băng nào, trước khi người ta tìm thấy xác ông trong phòng khách sạn của mình, tự tử bằng một viên đạn bắn vào đầu.
Nửa Kia Của Hitler Nửa Kia Của Hitler - Eric Emmanuel Schumitt Nửa Kia Của Hitler