Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Phần II: Quả Bong Bóng Mỹ - Chương 1: Miền Nam, Một Việt Nam Khác
C
ó một miền Nam Việt Nam không? Có một thực tế nào khác một cách cơ bản với miền Bắc khiến Nam Việt Nam có thể biện minh cho số phận riêng rẽ của nó không?
Khi từ Hà Nội đi về hướng Nam theo quốc lộ 1 và vượt sông Bến Hải, lập tức câu hỏi trên hiện ra và nó nhanh chóng trở thành vô nghĩa. Sông Bến Hải đã cụ thể hóa vĩ tuyến 17. Cái giới tuyến tạm thời được áp đặt một cách võ đoán bởi Hiệp định Genève năm 1954 ấy lẽ ra không bao giờ được đi vào lịch sử, nếu như dòng sông Bến Hải hiền hòa không bị người Mỹ giáng xuống một nhát chém phũ phàng...
Bởi bên này cũng như bên kia vĩ tuyến 17, diện mạo vật chất và con người của Việt Nam vẫn là sự tiếp nối không một cách biệt: từ Nghệ An, tỉnh phía Nam của miền Bắc đến Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi... mấy tỉnh phía Bắc của miền Nam, đâu đâu cũng vẫn là một thứ đất nghèo nàn, khó canh tác. Ở đây dải đất kéo dài thành một nét mảnh trong hình cong cong chữ S của đất nước Việt Nam mà như người ta thường ví, nó giống như một chiếc đòn gánh hai đầu gánh hai thúng thóc: đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam. Nằm kẹt giữa một bên là dãy Trường Sơn một bên là biển Đông, đó là miền Trung của Việt Nam, hay còn gọi là “Trung Bộ”...
Hai bên bờ sông Bến Hải, người ta vẫn gặp cùng một kiểu người như thế: cần cù trong lao động, chịu đựng được khó khăn nhưng cứng cỏi, bất khuất... Họ gắn bó với mảnh đất cằn cỗi của mình, mảnh đất mà những khi vui đùa, người ta gọi nó là “cá gỗ”: có một giai thoại kể rằng, dân ở đây mỗi khi phải lưu lạc đi làm ăn xa ở những vùng đất màu mỡ hơn, họ thường mang theo một con cá gỗ để đến bữa ăn, họ chấm nó vào nước mắm!
Vùng đất khắc khổ này đã sản sinh ra những gương mặt lớn của Việt Nam, giặc cũng có mà văn hào cũng có. Từ buổi đầu công cuộc xâm chiếm thuộc địa của Pháp ở Việt Nam thì nơi đây đã trở thành một căn cứ kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Chính tại đây Hồ Chí Minh đã ra đời năm 1890, ở Nghệ An, một tỉnh nằm quá trên phía Bắc một chút của miền Trung. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là Nguyễn Tất Thành, con một quan lại nhỏ có tinh thần yêu nước...
Phía Nam Bến Hải là Quảng Trị. Thăm Quảng Trị ít ngày sau khi ký kết Hiệp định Paris, qua những xóm làng mới được giải phóng, người ta có thể cảm nhận được nông dân ở đây đã gắn bó với mảnh đất của họ biết nhường nào, một thứ gắn bó cũng y hệt như những người trên phía Bắc: sợi chỉ đỏ của kháng chiến đã đến với họ qua sự gắn bó ấy; họ đã phải đau khổ, phải chiến đấu cũng vì nó. Nhưng đây chỉ là một câu chuyện, ví dụ như của Cửu, và cũng của rất nhiều người khác, và của một xòm làng có tên là Cam Chính...
Cam Chính nằm ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi mà từ đây những triền núi Trường Sơn bắt đầu chạy thoai thoải dần về phía đông. Ngày nay nó chỉ còn là một khu đồi bị chất khai quang của Mỹ cạo trọc nhẵn, nhưng vào những năm 1960, ở đấy vẫn còn là rừng rậm rất thuận tiện cho những cuộc di chuyển bí mật.
Từ nhiều đời trước, có những lớp người muốn thoát khỏi sự nghèo đói của vùng đồng bằng ven biển quá đông dân đã trốn chạy lên đây để phá rừng lập ấp. Đất đai thuộc về tất cả, ngoại trừ một đồn điền lớn thuộc về bà Nhu, em dâu và đồng thời là một cái bóng của tổng thống Ngô Đình Diệm...
Từ ngày người Pháp quay trở lại chiếm Đông Dương năm 1946, Cam Chính đã trở thành một thứ đại bản doanh kháng chiến của vùng này. Nó cũng thuộc về cái hành lang đẫm máu mà quân đội viễn chinh Pháp mệnh danh là “dãy phố không vui”1...
Cửu bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban cách mạng địa phương. Tuổi trẻ của anh đã từng bị xót xa dằn vặt bởi những kỷ niệm của năm đói năm 1945, mà những câu chuyện của lớp người già đã in dấu vào tâm hồn của những thanh niên có nhiệt huyết. Công việc nơi đồng ruộng đã nhào nặn như thể nỗi ám ảnh của những kỷ niệm của một thời cơ cực đã qua và biến nó thành một thứ đất mùn màu mỡ nuôi dưỡng cho kháng chiến.
Năm 1954, Cửu mới mười tuổi. Giới tuyến trong khi chia cắt Quảng Trị cũng đã chia cắt nhiều gia đình... Phần lớn tỉnh nằm ở phía Nam; những cán bộ cách mạng phải dời một vùng trước đây thuộc quyền kiểm soát của họ để tập kết ra Bắc theo quy định của Hiệp định Genève. Họ để lại nằm vùng ở phía sau một “đội hậu vệ” những cán bộ có trách nhiệm chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử được dự kiến tiến hành vào năm 1956. Diệm lên nắm chính quyền ở Sài Gòn và quân đội của ông ta tiến vào Quảng Trị.
Đối với những người kháng chiến, đó là thời kỳ mà họ thi hành một chính sách nhằm duy trì ở vùng đất nhạy cảm này một tình hình bình thường, không căng thẳng trong khi chờ đợi các điều khoản của Hiệp định được áp dụng... Nhưng đối với Diệm và các chuyên gia Anh, Mỹ về chống phá cách mạng thì đó là một dịp để họ thể nghiệm những gì mà họ đã thành công ở Mã Lai: đó là tách những người cách mạng ra khỏi dân... Từ tháng Năm năm 1957 đến 1959, dân chúng đã bị gom lại trong hai mươi “ấp chiến lược”. Những người hoạt động cách mạng bị truy đuổi: những buổi họp “tố cộng”, tiếp theo là bắt bớ, tra tấn cực hình diễn ra ở khắp nơi trong toàn tỉnh, hàng nghìn cán bộ và những người có cảm tình với kháng chiến bị tàn sát.
o O o
Từ năm 1960, tại Nam Bộ, dân chúng vùng đồng bằng Cửu Long nổi dậy, và phong trào Đồng khởi dần dần lan lên những vùng phía Bắc: năm 1961, là đến lượt khu Năm. Ở vùng Cam Chính, những người kháng chiến đã chống lại những cuộc đàn áp của Mỹ - Diệm. Và Cửu nhớ lại một ngày tháng Năm năm 1963, ba tên ác ôn trong đó có tên quận trưởng và hai thủ hạ của hắn đã bị cách mạng trừng trị. Bọn ngụy đã bắt đầu tụ họp lại ở giữa làng và hỏi tên những tên “Việt cộng khủng bố”... Dân chúng đã ở đấy suốt 15 ngày, chịu đói chịu khát dưới sự canh gác của binh lính địch. Một người già và hai trẻ em bị chết, nhưng dân làng không một ai cung khai.
Như tất cả các thanh niên khác, Cửu bị xung vào “dân vệ”, một thứ dự bị cho quân đội Sài Gòn. Một hôm, trong khi anh đang làm ruộng, một người đã đến gần anh, một cán bộ cách mạng. Người cán bộ này đã nói với anh về số phận khốn khổ, nhục nhã đang chờ đợi anh, đó là mai đây anh sẽ bị bắt vào lính và anh sẽ phải bắn vào những người anh em, những đồng bào của anh. Suốt hai năm 1963, 1964 cứ cách hai, ba ngày người cán bộ lại đến gặp Cửu và theo lời chỉ bảo của người cán bộ ấy, Cửu đã tuyên truyền, vận động số thanh niên gần gụi, thân thiết với anh, nhằm trước hết vào những người “có nợ máu”, tức là những người mà gia đình họ có người thân bị địch bắt bớ, giết hại. Khi họ đã được giác ngộ, Cửu lại chuyển qua những người khác... Cứ như vậy, ngày này qua tháng khác, ngoại trừ những tên chỉ huy, con cái bọn chức dịch, Cửu đã lôi kéo được gần hết số ba chục thanh niên trong trung đội dân vệ nắm trong tay 25 khẩu súng. Tối đến, trong khi cùng gác, họ lại bàn bạc với nhau về tương lai và giờ đây, quyết tâm của họ đã vững và họ đã sẵn sàng để hành động...
Ngày 12 tháng Sáu năm 1964, Cửu được triệu tập vào “cứ”: “Từ bốn ngày nay, chúng tôi đã được báo trước về cuộc nổi dậy sắp nổ ra, nhưng ngày giờ chính xác còn chưa được ấn định…” Bây giờ Cửu được biết là nó sẽ bắt đầu vào 18 giờ ngay ngày hôm nay... Tin tức lần lượt được báo về các cơ sở mà thôn xóm nào cũng có.
Đến giờ đã định, khắp vùng bỗng vang dậy những hồi trống, mõ, và cả những tiếng khua tiếng gõ của bất cứ thứ gì mà người dân có: thùng sắt, xoong nồi, chiêng trống... Tiếng mõ báo động vang lên. Cửu và các bạn anh một mặt chạy đi đến bắt bọn hương lý và một mặt gọi bà con nổi dậy. Số nhân viên ngụy quyền được đưa vào rừng và sau mười lăm, hai mươi ngày giáo dục, chúng lại được trở về với gia đình... Một cuộc mít tinh được triệu tập Cửu đứng lên nói, anh kêu gọi bà con hãy phá ấp chiến lược... Từ lúc bắt đầu nổi dậy cho đến lúc này, tất cả chỉ mất hai mươi phút: 75% dân chúng đã đi theo cách mạng.
Ngày hôm sau, các lớp kẽm gai đã bị nhổ sạch. Một Uỷ ban cách mạng được thành lập với sự tham gia của một số cán bộ “ngoài rừng”, một số khác vẫn hoạt động bí mật. Cán bộ và nhân dân tiến hành các biện pháp phòng thủ để chống giặc và bảo vệ xóm làng: tổ chức các đội dân quân, tự vệ, làm công sự chiến đấu... Và người ta cũng không quên việc dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ...
Theo phương thức ấy, phong trào nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân đã diễn ra trong toàn tỉnh và kéo dài tới tận tháng 7 năm 1965, tức là đến khi Mỹ đổ quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam. Hai sư đoàn quân Mỹ, gồm toàn những đơn vị sừng sỏ như quân dù và thủy quân lục chiến, sẽ vào tác chiến ở Quảng Trị... Sức mạnh của chúng quá lớn, cách mạng cần phải có một bước lùi, bỏ lại đất và trở về rừng.
Quân Mỹ càn quét khu vực, dùng xe ủi phá trụi làng mạc để buộc dân phải trở lại vùng chúng kiểm soát. Từ tháng Bảy năm 1965 đến tháng Mười một năm 1966, Cửu và đồng đội của mình đã dùng cách đánh du kích tiến hành một cuộc chiến đấu hết sức gay go ác liệt chống lại địch. Nhưng đến tháng Mười một, đại bộ phận dân chúng đã bị dồn vào một trại tập trung dài 2000m, rộng 500m, vây quanh ngoài là một con hào, hai lớp rào tre gỗ, ba hàng rào kẽm gai và hai bãi mìn. Để ra vào trại có tám cổng mà ở đấy mỗi ngày dân chúng chỉ có thể ra ngoài làm đồng vào lúc sáu giờ sáng và trở về lúc 6 giờ tối và mỗi lần ra vào họ đều bị lục soát kỹ càng. Trại được chia thành xóm, thành làng và xã… Cách đấy khoảng một kilômét có hai tiểu đoàn ngụy đóng quân. Ngay trong trại, ngoài bọn công an mật vụ, còn có ba mươi sáu đội bình định thay nhau làm công tác tác động tâm lý, phỏng theo cách làm “dân vận” của Việt cộng: đội bình định cũng thực hiện “ba cùng”1, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân mà chúng chia thành ba hạng: “bọn đỏ”, những phần tử “trung lập” và nhưng người “thân Sài Gòn”...
Đối với Cửu, nhiệm vụ của anh là giữ liên hệ với quần chúng: “Tôi sống ở ngoài rừng, nhưng tôi tiếp xúc với bà con khi họ đi làm đồng; đôi khi, khoảng mười lần mỗi tháng, tôi thâm nhập ban đêm vào trại để họp bàn với cơ sở, gặp gỡ một số bà con...”. Mỗi lần vào như thế, Cửu đều có du kích đi cùng, khoảng hai ba mươi người tuỳ theo, để bảo đảm an toàn. Khi có tín hiệu của cơ sở, như năm cú bật lửa chẳng hạn, Cửu cùng đồng đội lội luồn qua các lớp hàng rào để vào trại, có khi chỉ cách bọn gác chừng vài ba mét.
“Mới đầu, chúng tôi chỉ họp ở nhà những gia đình thật tin cậy, nhưng sau này, vì tên ấp trưởng quá sợ hãi, đêm đến cứ chạy lên đồn ngủ, chúng tôi đã họp ở ngay nhà hắn, có lần họp tới ba, bốn chục người! Ngày hôm sau, dân chỉ bảo là Việt cộng họ vào ấp và buộc chúng tôi phải cho họ họp...”
Tết năm 1968, dân trong trại nổi dậy, vẫn theo cách thức của năm 1964, nhưng lần này, có sự hỗ trợ của một đại đội bộ đội chủ lực. Trại bị phá, nhưng dân chúng vẫn phải ở tại chỗ, bởi các lối ra vào vẫn bị quân Mỹ và quân ngụy đóng nguyên ở các vị trí cũ của chúng kiểm soát. Trong 6 tháng, bên cách mạng và phía Mỹ cứ ở như vậy trong tình trạng rình rập lẫn nhau. Và một ngày tháng Sáu năm 1968, vào 5 giờ sáng “quân ngụy chia làm nhiều cánh tiến hành bao vây trại chúng tôi. Chúng tôi chống cự được nửa giờ, nhưng rồi trực thăng Mỹ kéo tới đổ quân xuống. Không thể chống cự được nữa, chúng tôi, cán bộ, du kích, những người đã bị lộ mặt đành phải rút lui...”
Trại được tái lập với những phương pháp hoàn hảo hơn. Nó mang dấu ấn của một công cuộc bình định: đẩy mạnh tuyên truyền, tăng cường đàn áp nhưng đi đôi với nó là cấp cho dân những khoản vay mượn, trong đó có cả những công cụ cơ giới để sản xuất nông nghiệp. Những phân biệt cũ vẫn được duy trì, dân chúng vẫn được chia thành “những người trung thành” và “những tên cộng sản” đàn áp nặng nề hơn, bắt giết tù đày nhiều hơn...” Và đương nhiên việc giữ liên hệ với quần chúng của cách mạng càng khó khăn hơn. Dân chúng chỉ có thể ra ngoài trại từ 7 giờ đến 17 giờ... Lực lượng cách mạng bị tổn thất lớn và chính sách bình định của địch dựa trên “Cuộc cách mạng xanh” đã thu được những kết quả nhất định...
“Chúng tôi nói với đồng bào: chúng ta hãy kiên trì! Cách mạng dù có những lúc “khó khăn nhưng cuối cùng sẽ thắng...”
o O o
Năm 1972, cuộc tiến công chiến lược của Quân đội nhân dân đã đem lại tự do cho trại: đa số nhân dân vẫn ở lại không chạy theo địch và họ có thể trở về làng cũ làm ăn...
Khi người ta hỏi Cửu, hay cô gái mười sáu tuổi 15 lần bị địch bắt thì cả 15 lần, bất chấp mọi tra tấn nhục hình đều không hé miệng nửa lời cung khai, về lý do tại sao họ lại đứng lên chiến đấu thì câu hỏi ấy đã làm họ hết sức ngạc nhiên, ngạc nhiên đến nỗi không biết trả lời ra sao? Bởi đối với họ, điều đó rất tự nhiên, nó cứ như “tự nó, nó đến”...
Câu trả lời ấy chính lại do một bà già bảy mươi tư tuổi cho biết. Cụ sinh ra tại một làng quê Quảng Trị, lúc đó vào năm 1973 hãy còn nằm trong vòng kiểm soát của chính quyền ngụy. Nhưng cụ đã bỏ làng để ra vùng giải phóng: “Tôi đi chỉ mang theo một cái xẻng cột vào đòn gánh để ở đấy nếu lỡ có chết thì người ta đã có sẵn cái để chôn tôi... Ở đây, người ta được tự do, không bị ai đánh đập. Nhưng tôi không phải ở nhà tôi. Tôi muốn trở lại một ngày nào đó về nơi chôn nhau cắt rốn của tôi và của các con tôi, nơi có mồ mả của ông bà, bố mẹ tôi...”. Bà cụ có bảy người con trai, tất cả đều đi theo kháng chiến, trong đó có năm người đã hy sinh...
Cuộc kháng chiến đã mạnh lên như thế đấy, dựa vào những cơ cấu của xã hội Việt Nam truyền thống trong đó những trụ cột là gia đình, đất đai và ông bà tổ tiên. Trong những tỉnh miền Trung, nơi mà ảnh hưởng cách mạng ít nhất cũng đã có từ thời chống thực dân Pháp xâm lăng từ thế kỷ trước, người ta có ý thức chung là hướng về kháng chiến, cho nên tất cả những gì đi ngược với trào lưu ấy, hay hợp tác với địch đều có nghĩa là mất phẩm giá, là tự loại mình ra khỏi cộng đồng gốc gác, là mất “tấm thẻ căn cước” và sự đồng nhất của mình đối với cộng đồng.
Cuộc chiến tranh của Mỹ sẽ cố làm đảo lộn và phá vỡ những cơ cấu truyền thống ấy....
Sài Gòn mới giải phóng được vài ngày. Bây giờ lần đầu tiên từ hai mươi năm nay, người ta đã có thể đi từ Hà Nội vào Sài Gòn bằng đường số 1 chạy dọc theo duyên hải Việt Nam. Được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 dưới vương triều Nguyễn, “con đường cái quan” cổ xưa này đã như một gạch nối chạy suốt chiều dài đất nước và biểu trưng cho một nền thống nhất được tái lập sau hai thế kỷ nội chiến liên miên.
Suốt dọc theo con đường, đó là một xã hội bị đánh bật mất gốc rễ mà người ta sẽ khám phá...
Khi vượt qua sông Thạch Hãn, đường tuyến của mặt trận Quảng Trị nằm 1972, người ta chứng kiến trước mắt những tàn phá của những trận chiến năm đó và của những gì là vùng đất của chính quyền Sài Gòn cho đến tháng Ba năm 1975. Đến La Vang chẳng hạn, dọc đường là những “ấp Tân sinh”: những căn nhà tồi tàn lợp tôn xung quanh rào kẽm gai, một chiếc chòi canh tiếp nối xa tít tận chân trời là một vùng đất trắng, trần trụi, chốc chốc lại mọc lên những trại lính, những đồn binh...
Thật là một cú sốc. Bởi trên quãng đường 600 kilômét của miền Bắc vừa đi qua, người ta không hề thấy một chút gì giống thế... Ngay cả trên vùng phía bắc của Quảng Trị, quang cảnh ruộng đồng và những hoạt động của con người ở đấy đã đẩy lùi xa những tàn phế của cuộc chiến tranh...
Chỉ khi đến cách Huế khoảng mười lăm kilômét, người ta mới lại thấy những đồng ruộng được bàn tay con người chăm sóc: hai bên đường là những cánh ruộng lúa vàng chín đã đến độ thu hoạch. Người ta tiến vào Huế gần như không có một sự chuyển tiếp…
Cố đô Huế... tôi có nên nói nỗi thất vọng của mình không? Nó không giống như những gì mà ở Hà Nội các chiến sĩ kỳ cựu của Huế đã mô tả với tôi về nó với một nỗi niềm hoài vọng của nỗi buồn xa quê; họ đã rời Huế năm 1954, ngỡ rằng chỉ hai năm sau sẽ trở lại, thế mà họ đã phải chờ trong mộng tưởng cái ngày này suốt hai mươi năm... Vẻ đẹp kín đáo của những vòm cây rủ bóng xuống sông Hương thơ mộng, nơi ưu ái cho những cuộc hẹn hò đôi lứa của thủa xa xưa, nay đã nhường chỗ cho một thứ tựa hồ như một con kênh lớn, đôi bờ trơ trụi, trên sông chạy dọc ngang những con thuyền máy. Bây giờ trên toà thành cổ của cố đô Huế, lá cờ của Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ cách mạng lâm thời đang phấp phới bay. Và các chiến sĩ quân giải phóng, có người nghịch ngợm cưỡi lên những khẩu thần công đúc bằng đồng, đang canh gác những gian phòng trống rỗng và những con chó đá của hoàng cung, những di tích còn lại của các kho báu của Vương triều Nguyễn mà năm này qua năm khác, nó đã bị những bàn tay của lính Mỹ và các tướng ngụy Sài Gòn vơ vét. Trên sân hoàng cung, một số chiến sĩ đang tập xếp thành hàng sáu và đi đều, làm một số động tác đội ngũ mà trước đây vì bận chinh chiến họ chưa có điều kiện biết tới.
Trong thành phố, các cửa hiệu đã mở lại, kể cả những phòng làm thẩm mỹ... tất cả đã có vẻ như trở lại “bình thường” nhưng tiếp tục cuộc hành trình, cái từ “bình thường” này lại không còn hợp với những gì người ta trông thấy nữa: lại vẫn cái cảnh đất bị bỏ hoang, trơ trụi, trống rỗng, chỉ trừ trải dài trên hàng cây số là căn cứ quân sự khổng lồ Phú Bài, nơi hàng nghìn tấn quân cụ Mỹ đang từng ngày han gỉ. Thực vậy, chẳng có gì có thể gọi là “bình thường” được cái “vùng không người” mà ruộng đồng lại hiếm hơn những dấu vết cũ của quân đội Sài Gòn. Trên những triền núi chạy ngang của đèo Hải Vân hiểm trở bao quanh thành phố, người ta đổ xuống Đà Nẵng. Ở đây, trên những trảng đất hẹp nhô ra biển mọc lên chi chít những căn cứ quân sự của Mỹ, hình thành một hệ thống khổng lồ mà dường như nó muốn chứng tỏ rằng mình là bất khả xâm phạm.
Chúng tôi đến Đà Nẵng đúng vào năm sinh lần thứ 2599 của Phật. Phố xá rợp cờ xí, trong đó những lá cờ đuôi nheo của Phật còn nhiều hơn cả những lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời. Ở các góc phố, đám đông tụ họp tấp nập trước các ban thờ Phật được trang trí cờ ảnh đẹp mắt. Họ tập trung chú ý, đắm mình vào tiếng mõ tiếng kinh mà âm hưởng của nó vang vọng khắp phố. Trên các sân chùa, một số người khá kỳ cục của hội bảo trợ hướng đạo sinh cũng tập họp được khá nhiều thanh niên, phần lớn trên tuổi hai mươi vào những trò chơi trẻ con và hơi ngớ ngẩn. Những quang cảnh trên đã làm cho những cán bộ miền Bắc đi cùng chúng tôi vô cùng sửng sốt, bởi đã lâu nay ở ngoài ấy, người ta ít đi chùa, nhất là trong số thanh niên. Nhưng ở miền Nam thì từ năm 1963, đạo Phật đã có sự hồi phục lại khi các Phật tử bước vào cuộc chiến tranh chống anh em nhà Ngô Đình Diệm và cạnh tranh với nhà nước Thiên Chúa giáo mà Diệm muốn thiết lập nên. Theo cách của họ, những người Phật giáo đã chứng tỏ tinh thần phản kháng dân tộc: họ muốn chứng tỏ rằng Việt Nam, một đất nước gắn chặt với mồ mả tổ tiên, sẽ phản ứng như một phản ứng loại bỏ sinh học sự “cấy phép” mà Diệm đang thử làm, tức là biến Nam Việt Nam thành một quốc gia dưới quyền Thiên Chúa giáo. Và trước cuộc chiến tranh sắp mở rộng và sự xâm lăng ồ ạt của Mỹ, Phật giáo sẽ trở nên vừa là một thái độ phản kháng, vừa là một nơi nương tựa về mặt đạo lý và tinh thần.
Những người cách mạng Việt Nam xác định hiện tượng đó như thế nào? “Với tư cách của người mác xít, tôi không tán thành nội dung của nó, nhưng tôi tôn trọng những ý tưởng của những người Phật giáo và cũng tôn trọng cả những hoạt động của họ”, một chiến sĩ trẻ của một mạng lưới bí mật cũ đã trả lời tôi như thế.
Vùng kháng chiến có những quang cảnh riêng của nó: nhiều cây cối rậm rạp, nhiều tầng rừng phủ trên sườn đồi hoặc bị kẹp trong những thung lũng. Trên 600 kilômét từ Đà Nẵng đến Nha Trang, thành phố thứ tư của miền Nam, quốc lộ 1 chạy ngang qua các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
Dải đồng bằng duyên hải khá hẹp, phía tây là dãy Trường Sơn với vùng cao nguyên của Tây Nguyên, tạo thành một mảng xanh lớn chắn ngang qua chân trời, ẩn hiện trong mây, ám ảnh và huyền bí.
Tây Nguyên bao phủ gần 30% diện tích đất đai của miền Nam Việt Nam. Một triệu người sống ở đấy. Đối với dân đồng bằng, nhất là dân Sài Gòn, thì những người dân sống ở Tây Nguyên bị gọi một cách khinh miệt là dân “Mọi”1, mà tổ tiên của họ đã bị đẩy lên sống ở vùng cao. 80% trong số họ là những người dân miền núi, gồm khoảng 3 thành phần dân tộc thiểu số sống thành những bộ tộc đan xen nhau, sử dụng những kỹ thuật cổ xưa và tầm nhìn xã hội không vượt quá khuôn khổ của buôn.
Có phải đây là một nét báo hiệu không? Bởi khi qua Quảng Ngãi người ta thấy có một sự khác lạ. Cũng như các nơi khác, Quảng Ngãi nhà nào cũng treo cờ, nhưng không phải là những lá cờ mới, mà phần lớn cờ ở đây đều cũ kỹ, phai màu, có vẻ như nó đã bị cất giấu từ lâu và bây giờ mới được moi ra từ những nơi cất giấu bí mật. Ở một số làng, người dân còn đưa bày ban thờ tổ tiên ra trước nhà, ngay bên mặt đường, ban thờ nào cũng có ảnh Hồ Chủ tịch.
Ở đây người ta thấy lại đất nước Việt Nam: ở những hoạt động bình thường của người dân, chăn trâu, tát nước, cày cuốc ruộng vườn; ở những ngôi nhà giản dị đơn sơ mà người dân không bao giờ chịu rời bỏ. Ở cách nhau vài chục bước chân, nhà nào cũng ẩn mình sau những hàng tre, hàng chuối, tạo nên một vẻ vừa kín đáo vừa ấm cúng. Với vẻ thanh bình, nó khác hẳn với những căn nhà ổ chuột trong các trại dồn dân mà sắp tới đây người ta sẽ thấy đặc biệt nhiều ở Bình Định, nơi mà ở đấy cách Sài Gòn 780 kilômét, đồng bằng mở rộng ra, hình thành một vựa lúa của miền Trung. Đó là một trong những vùng người dân phải chịu nhiều đau khổ nhất trong cuộc “bình định” của Mỹ ngụy. Suốt trên chặng đường qua đây, người ta thấy nối tiếp nhau không ngừng những trại, “ấp Tân sinh” giờ đây hoang vắng. Rồi đồn bốt, căn cứ với những rào kẽm gai, nay cũng trống trơ trống hoác mặc cho mưa dập gió vùi và rải rác khắp nơi là những bộ quân phục ngụy cởi vất bỏ lại trong cuộc tháo chạy.
Đây là con đường Quân giải phóng đã tràn qua trên đường truy kích địch. Vết tích còn lưu lại rất nhiều. Nhưng điều kỳ lạ là tất cả các xóm làng, các thành phố chúng tôi đi qua đều còn nguyên vẹn: Tam Kỳ, một thị xã nhỏ có nhiều chùa mà người ta nói nó nằm đúng ở giữa Việt Nam, cách Hà Nội và Sài Gòn đều cùng một đoạn; Quảng Ngãi, thủ phủ của tỉnh, cách Sài Gòn 905 kilômét; rồi Tuy Hoà, nơi mà hồi đầu tháng Tư, quân đội Sài Gòn đã từ cao nguyên hoảng loạn tháo chạy về đây…
Bây giờ không còn vết tích gì của cơn hoảng loạn hồi ấy, cuộc sống đã trở lại. Trên phố lớn, năm, sáu người lính ngụy cũ, vẫn còn bận đồ quân phục, đang trò chuyện gì đó với mấy thanh niên, chẳng có ai canh giữ họ. Một dấu hiệu đặc biệt: mùa màng đã được cấy hái.
o O o
Trước khi đến Nha Trang nằm trên bờ biển cách Sài Gòn 480 kilômét, người ta phải vượt qua Đèo Cả. Thiên nhiên trước chắc rất đẹp. Nhưng giờ đây người ta chỉ thấy ở đấy những cây khô mang một màu trắng bệch bạc, một thứ cỏ cây cằn cỗi, dấu hiệu của một trong nhiều vùng bị chất khai quang giết hại... Một phần bảy diện tích của miền Nam đã bị các chất diệt cỏ và khai quang của người Mỹ tàn phá như thế đấy. Một báo cáo làm theo yêu cầu của quốc hội Mỹ năm 1974 đã tiết lộ: từ 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã đổ xuống miền Nam Việt Nam hơn 45000 tấn chất “diệt cỏ”, tức là gần ba kilôgam một đầu người dân ở đây. Theo mười bảy nhà khoa học đã báo cáo thì các chất độc ấy sẽ có thể để lại các di hoạ tới hàng thế kỷ.
Nha Trang 27000 dân, một thành phố biển đồng thời là một nơi nghỉ mát nổi tiếng. Trông ra biển, một số biệt thự của các nhà giáo bỏ đi di tản nay đã trở thành nơi đóng quân của Quân đội nhân dân, nhưng họ có mặt ở đấy rất lặng lẽ, kín đáo. Thành phố rất yên tĩnh: trên bãi biển, một số người đang bơi lội, chơi đùa; học viên của trường kỹ thuật quân sự đã dọn dẹp, tháo gỡ những bom mìn cài đặt, vương vãi trong chiến tranh.
“Như trong tất cả các thành phố ở miền Nam, một người có chức trách đã nói với chúng tôi vấn đề lớn nhất là giải quyết nạn thất nghiệp”. Bởi ngoài tính chất là một nơi nghỉ mát, Nha Trang trước hết còn sống nhờ vào sự có mặt của căn cứ quân sự, với một trường hạ sĩ quan, một trung tâm nghỉ ngơi của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn. Vì thế, tuy Nha Trang thể hiện là một khu đô thị phát triển hơn tất cả các thành phố dọc quốc lộ 1 trên đường vào đến đây, thì người ta vẫn bắt gặp ở đấy những triệu chứng của một thành phố “giả tạo” phụ thuộc vào sự hiện diện của quân đội: một mạng lưới buôn bán nhỏ phát triển quá mức so với ngày nay, khi mà các hàng dễ kiếm được ngày trước đã biến mất. Và như tất cả các thành phố khác ở miền Nam, Nha Trang cũng có một dân số quá phình to, gồm phần lớn các “thị dân” mà thực chất họ là những nông dân bị mất gốc.
Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Rang và tiếp đó là Phan Thiết, nằm trên quốc lộ 1 cách Sài Gòn 248 kỉlômét... tất cả các nơi này đều có chung một đặc điểm: đó là các “thành thị mặt phố”, mà vừa vượt qua nó xong là người ta lập tức thấy ngay ruộng. Công nghệ của thành phố chỉ có những cửa hiệu sửa chữa cơ khí bậc thấp mà số lượng của nó thì tương đương với những điểm sửa chữa xe đạp ở ngoài Bắc.
Điều đập vào mắt người ta là ở tất cả các thành phố đã đi qua hai tuần sau ngày giải phóng đó là người ta không nhận thấy bất kỳ một triệu chứng nào của tình trạng vắng mặt chính quyền. Sự ngừng trệ tạm thời chỉ là một thời điểm ngắn để lập lại trật tự: trong tất cả các thành phố, nơi mà vào cuối tháng Ba tình trạng vô chính phủ còn ngự trị thì bây giờ mọi hoạt động đều được tiếp tục trở lại, đường sá xe cộ bắt đầu chạy, cánh đồng, nông dân ra gặt lúa chín và ở các ruộng muối gần Cam Ranh, diêm dân đã tiếp tục làm muối.
Sau Cam Ranh, cách Sài Gòn 462 kilômét, chúng tôi sẽ phải gặp lại quang cảnh thê thảm nhức nhối của các khu dồn dân.
Toàn bộ con đường số 1 hình như đã chạy qua như vậy, một cuộc đời khuôn khổ, mà cứ từng chặng một theo nhịp độ của chiến tranh, cuộc đời ấy đã ngưng tụ lại dọc theo con lộ huyết mạch sống bằng tiền cứu trợ, và đặt dưới sự kiểm soát của một quân đội mà phạm vi kiểm soát của nó đã không vượt quá ranh giới của bản thân con lộ ấy.
Cam Ranh. Từ xa người ta đã bao quát được chu vi rộng lớn của cái căn cứ hậu cần chính của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương. Để lập nên căn cứ hỗn hợp không -hải quân này, người Mỹ đã phải bỏ vào đấy 133 triệu đôla. Thế mà nó đã rơi một cách nguyên vẹn vào tay các lực lượng giải phóng, với các kho đầy ắp những hàng quân sự lý tưởng nhất trị giá hàng trăm triệu đôla.
Có bao nhiêu những căn cứ người ta gặp trên đường, trải dài trên nhiều kilômét, mà từ ngoài đường nhìn vào, nó gây cho người ta một cảm giác là phải chăng một nửa diện tích đất của miền Nam đã biến thành những khu vục quân sự?
Khi đi vào tỉnh Long Khánh, cách Sài Gòn khoảng một trăm kilômét, người ta lại thấy những trại, hoặc mới làm gần đây, hoặc cũ và những khu dồn dân cũng chẳng khá hơn gì những cái người ta vừa gặp trước, ví dụ như khu Hố Nai, được dành riêng để đón những giáo dân từ miền Bắc di cư vào năm 1954. Chẳng có cái gì được xây dựng một cách tình cờ hết: tất cả những trại, những khu dồn dân ấy đều tạo trên đường số 1 một tấm lá chắn rộng lớn để che chở cho mặt bắc Sài Gòn.
Trên suốt đoạn đường này, người ta phát hiện ra cả một xã hội bị nhổ mất gốc, sống tạm bợ qua thời. Tiếp nối các trại là một chuỗi dài những căn cứ đồn bốt và kết thúc là tổng kho đồ sộ Long Bình, nằm giữa Biên Hòa và Sài Gòn, tạo thành một đường chân trời mà ở đấy chập chờn như trong một ảo giác những mái tôn, những chòi gác, những hàng rào kẽm gai, những bến bãi giống như những bãi tha ma, la liệt những xe cộ và những đồ dùng quân sự đang gỉ dần gỉ mòn.
Cách đây 1000 kilômét, xa tít cái thế giới bị chấn thương này, những cánh đồng miền Bắc mới tạo cho người ta một cảm giác thanh thản, cân bằng làm sao?
Nhưng ở phía bên kia những quang cảnh điên rồ này thì đâu là miền Nam Việt Nam?
Cần phải theo lộ 4 từ Sài Gòn chạy băng qua đồng bằng Cửu Long, người ta mới biết được thế nào là một miền Nam đích thực.
Những cánh đồng lúa ở đây, ở đồng bằng Cửu Long này, không làm cho người nông dân phải lo lắng, bồn chồn như người nông dân ở miền Bắc, nơi mà thậm chí đất đai màu mỡ như đồng bằng sông Hồng, người nông dân ở đấy cũng vẫn phải lo toan nhiều bề trước một thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt đối với con người. Đó còn chưa nói đến dải đất cằn cỗi một màu xám xịt của miền Trung, nhất là đoạn giữa Huế và Đà Nẵng.
Đồng bằng Cửu Long rất được thiên nhiên ưu đãi: nó không phải lo sợ trước cái tính khí thất thường của sông ngòi, do nguồn nước của nó đã được Biển Hồ của Campuchia điều chỉnh.
Trái ngược với đồng bằng sông Hồng ở Bắc Việt Nam, việc điều hòa thủy lợi không đặt ra với người dân ở đây, như một vấn đề sống còn. Ở ngoài Bắc, muốn bảo vệ người và ruộng, người ta tứ thời phải đắp đê và làm nhiều công trình thủy lợi khác để điều hòa con nước. Hệ thống đê điều được xây dựng như vậy ở đồng bằng sông Hồng đã dài gấp đôi Vạn lý trường thành của Trung Quốc, ở miền Nam việc làm cấp bách đó không hề tồn tại.
Ở miền Nam, ngay trong mùa mưa lũ, những cơn mưa như thác đổ cũng không thể làm giảm đi ở con người cái cảm giác là đất đai ở đây đã ưu đãi cho những ruộng lúa, những vườn cây trái trồng đủ mọi thứ của người nông dân như thế nào.
Vậy đời sống của người nông dân đồng bằng Cửu Long ra sao?
Một phóng viên báo Nhân dân, ông Phan Quang, chuyên gia về những vấn đề nông nghiệp, đã làm một cuộc khảo sát tại chỗ về tình hình một huyện mà ông xét thấy là “tiêu biểu cho đất nước và con người đồng bằng Cửu Long”: đó là Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho nằm ở phía nam Sài Gòn 90 kilômét.
Theo truyền thống, Mỹ Tho là một tỉnh hoàn toàn theo cách mạng. Nhưng phải đến đầu 1975, gần một nửa số xã của nó mới được giải phóng. Huyện Cai Lậy có 172.000 dân và đất đai có 59.000 héc ta, trong đó nửa số dân làm ruộng. Phía bắc huyện là Đồng Tháp Mười, nơi rất ít người ở, trừ trước đây những người kháng chiến. Từ mười năm nay, nông dân Cai Lậy đã làm quen với việc chọn giống và dùng phân hóa học để bón đất. Toàn huyện có 60 máy cày, nhưng chỉ làm chưa đến 20% diện tích đất; máy cày vẫn chưa làm biến mất hẳn con trâu truyền thống.
Thêm vào số máy trên là 210 máy bơm nước và gần 11.000 máy cày đẩy tay mà người dân thường gọi là “máy đuôi tôm”.
Từng sản lượng gạo toàn huyện năm 1974 là 127.000 tấn. Trừ số thóc gạo gia đình tiêu thụ và dành ra cho chăn nuôi, như vậy toàn huyện dư ra 73.000 tấn để bán. Theo Phan Quang, thế là “tương đối cao”.
Theo điều tra làm ở 4 xã, đất đai được phân bố như sau: 10,4% gia đình không có đất; 18% có từ 1 đến 3 công1; 58,8%, 4 đến 10 công; và 10,2% trên 10 công. Vậy đây cũng là một nơi nông dân có đời sống dễ chịu, tuy rằng những cách biệt xã hội chưa phải đã mờ nhạt. Và lấy Cai Lậy để xem xét như một huyện trung bình, người ta đã có thể có được một hình ảnh chung về đồng bằng Cửu Long. Tuy nhiên, nông dân ở đây vẫn còn gặp những khó khăn lớn, lấy một ví dụ như vào lúc cách mạng tiến hành việc đổi tiền, ở xã Tân Hợi, trung bình mỗi gia đình chỉ có 47.000 đồng tiền cũ Sài Gòn để đổi2.
Ở một xã bên cạnh, 12% số gia đình không có tiền đổi; 38% có dưới 10.000 đồng và chỉ có 10% có trên 50.000 đồng.
Tình hình đó minh họa cho một trong những nỗi khổ cố hữu của nông dân đồng bằng Nam Bộ: đó là nợ. Họ nợ những người buôn bán để có tiền mua xăng, phân bón để làm ruộng, hay đi vay nợ ở các nhà chủ cũ. Tất cả các nông dân đều nợ, họ phải bán cả lúa non trước khi được thu hoạch, cứ thế lãi mẹ đẻ lãi con, nợ nần thêm chồng chất cho đến vụ thu hoạch sau. Đã thế lại lạm phát liên miên, khiến món nợ của họ đã nặng càng thêm nặng, và đó cũng là một trong những nguyên nhân đã đẩy họ ra khỏi đồng ruộng để đi kiếm ăn ở ngoài thành phố.
Nhưng so với nông dân miền Bắc năm 1954, hay ngay cả với nông dân miền Trung trong thời điểm hiện nay thì họ vẫn có không ít những điều kiện may mắn hơn.
Đa số họ thuộc tầng lớp trung nông và rất gắn bó với sản xuất tư hữu.
Phan Quang đã có nhận xét là ở họ, người ta nhận thấy có một sự cưỡng lại nào đấy đối với tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp đề ra sau ngày giải phóng: ngay cả ở một xã “anh hùng trong kháng chiến như Tân Hợi, một xã bị địch tàn phá nặng nề, những “tổ tương trợ” được thành lập sau giải phóng để giúp nông dân bước đầu đi vào con đường làm ăn tập thể cũng chỉ mới thu hút được 7% nông dân của xã tham gia. Ở huyện, tỷ lệ này là 1,6%. Cũng như vậy, huyện chỉ có 17% nông dân gia nhập “Hội liên hiệp nông dân”, theo như báo Nhân dân đã đưa tin3.
o O o
Một ví dụ khác như Rạch Giá, một tỉnh nằm ở cực tây đồng bằng Cửu Long trông ra vịnh Thái Lan, cách Sài Gòn 300 kilômét. Trong chiến tranh, Rạch Giá là một nơi tương đối ít bị đụng chạm. Có 496.000 dân, Rạch Giá đã thoát khỏi những chiến dịch càn quét lớn của Mỹ-ngụy, những chiến dịch càn quét đã tàn phá nặng nề miền Trung Việt Nam và vùng Sài Gòn. Đến nỗi mà ở đấy, người ta hầu như không trông thấy quân Mỹ.
Nông nghiệp và ngư nghiệp là nền tảng cho những hoạt động kinh tế của tỉnh. Ngay thành phố Rạch Giá, nơi có 70.000 dân sinh sống, cũng bảo đảm cho một sự tiếp nối rõ rệt giữa hai phần của tỉnh, một phần gắn bó với cảng nuôi sống 30.000 dân, còn phần kia đổ về nông thôn, một nông thôn phân chia thành nhiều mảnh cỡ trung bình của các hộ gia đình.
Một nền công nghiệp phôi thai những năm gần đây đã được gắn kết vào những hoạt động của biển, hướng về kỹ nghệ làm đông lạnh hay chế biến hải sản. Với những nhà mát xay xát và những xưởng sửa chữa, tỉnh đã có khoảng 93 cơ sở công nghiệp. Nhưng những hoạt động ấy còn quá mới để khiến nó có thể làm thay đổi những cơ cấu truyền thống của tỉnh: nông nghiệp vẫn là nền tảng chủ yếu không riêng với đời sống kinh tế và xã hội, mà còn cả với ý thức cách mạng đã nuôi dưỡng chiến tranh du kích trong vùng.
Tình hình nông thôn còn xa mới có thể gọi được là đơn giản: ba cuộc cải cách về ruộng đất - vẫn đều là của kháng chiến trong những năm 1950 sau đã bị Diệm xóa bỏ - trong hai mươi năm đã làm đảo lộn cả những sở hữu ruộng đất, tuy nhiên ở một chừng mực nào đó nó cũng đã tạo ra một sự đồng đều nhất định, làm san bằng bởi những sự cách biệt. Song không phải đối với những người cực giàu, những đại điền chủ: trước giải phóng, một nghị sĩ đồng thời cũng là một tên bạo chúa con trong vùng trong tay hắn đã có 2000 hecta đất, tức là bằng cả một xã. Nhưng nói chung, đối với đồng bằng, người nông dân ở đây vẫn có một diện tích đất đủ lớn để sinh sống dễ chịu, và nếu ở ngoài Bắc thì họ đã có thể được liệt vào loại “khá giả”.
Đi trong tỉnh, một cảnh trái ngược đập vào mắt người ta, đó là sự trái ngược giữa cách ăn ở xuềnh xoàng của người nông dân quen sống với nếp cũ và cách làm ăn thâm canh đất bây giờ: bên cạnh những ngôi nhà tranh, người ta thấy cả những máy cày “Ford” hay “Fiat”. Nhưng cạnh đó, giữa cánh đồng, lại là những ngôi mộ đồ sộ của ông bà tổ tiên được xây cất công phu và trước khi xây nó đã được ông thầy địa lý ngắm đất rất kỹ lưỡng.
Chúng ta lấy ví dụ một huyện: Giồng Riêng, cách Rạch Giá khoảng bốn chục kilômét. Với 1600 héc ta đất canh tác, nông dân ở đây có 124 máy cày và máy cày đẩy tay, tất cả đều là của tư nhân. Vậy đây là một huyện mà nông dân có đất, có phương tiện trong tay: sau giải phóng, trong 15809 hộ nông dân, chính quyền cách mạng thống kê chỉ có 1335 hộ “nghèo” cần được giúp đỡ lương thực.
Tuy nhiên những điều kiện được ưu đãi ấy cũng không ngăn cản nhân dân ở đây tiếp thu những ảnh hưởng của cách mạng: Tính trung bình cứ hai trăm giá thì có một người tham gia du kích.
Nhưng như vậy, liệu sau giải phóng người ta có thể tính đến việc hợp tác hóa nông nghiệp ở đồng bằng Cửu Long được không?
“Hợp tác hóa nông nghiệp ở đây cũng sẽ không thành vấn đề lớn”, một cán bộ cách mạng tin tưởng nói với tôi, “bởi nếu ở đây bà con có những điều kiện sinh sống dễ chịu hơn thì họ cũng chưa phải là tới mức giàu có. Trừ khu vực Sài Gòn, còn thì ở các nơi khác ở đồng bằng, đời sống của nông dân vẫn chủ yếu là dựa vào một nền kinh tế tự cấp tự túc”. “Nhưng chúng tôi vẫn cần phải thận trọng, đi dần từng bước, và không có chuyện là tiến hành cải cách ruộng đất như ở ngoài Bắc hồi 1954.”
Vậy là người ta dự kiến, muốn phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở đồng bằng Nam Bộ, người ta cần phải xuất phát từ những cái được và chưa được của nền nông nghiệp ấy: cơ sở của vấn đề sẽ không phải là phân chia lại ruộng đất mà cái chính là ở cách sử dụng những phương tiện sản xuất mới (như sử dụng tập thể máy cày và máy cày đẩy tay hay cung cấp xăng dầu...) Và cũng như vậy ở cách sử dụng đất đai hợp lý hơn, xây dựng những công trình thuỷ lợi lớn để giải quyết vấn đề thau chua rửa mặn, cho đất có nồng độ phèn rất cao ở đây, rồi xây dựng trên những vùng đất mới do khai hoang hay cải tạo đầm lầy tạo ra những cơ sở lớn, hiện đại về khai thác, chăn nuôi; một số những tổ hợp công trình như thế cũng sẽ được lập nên ở những đồn điền lớn được tịch thu hoặc trưng mua.
Việc cải tạo nền nông nghiệp ấy là có khả năng thực hiện được ngay: theo ghi nhận của Phan Quang thì ở Cai Lậy, 42% hộ nông dân vẫn chưa nuôi lợn, điều khác hẳn với điều ngoài Bắc là nông dân ở đâu cũng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi; việc dùng phân chuồng phân thực vật bị coi nhẹ; khả năng thâm canh đất cũng rất thấp, nếu so hệ số ngoài Bắc là 1,75 thì ở đây mới chỉ có 1,2. Nhưng trong khuôn khổ chung của những hợp tác xã tương lai của Nam Bộ thì ở đây, diện tích đất phần trăm dành cho các hộ gia đình sẽ phải lớn hơn so với miền Bắc và miền Trung.
Sáu tháng sau giải phóng, một biện pháp cơ bản đầu tiên được thực hiện: Nhà nước giữ độc quyền về mua bán gạo, cá, xăng dầu. Ở Rạch Giá, giống như những gì vẫn diễn ra ở Nam Bộ, mười một thương gia - chủ yếu là Hoa kiều - đã phân chia nhau các thị trường nông sản, họ mua gạo và bán ra phân bón và các nông cụ. Để giải quyết những nhu cầu tăng lên do việc thâm canh đất, nông dân đã phải đến vay nợ họ và họ đã mua lại của nông dân gạo, cá theo giá rẻ. Việc nắm giữ độc quyền của nhà nước đã giáng một đòn vào thủ đoạn buôn bán này, nhưng trong khi cấm những người trung gian buôn bán lại sản phẩm, nó cũng làm cho việc lưu thông của thị trường nội địa miền Nam một thời gian đầu bị rối loạn. Còn về những món nợ vay trước đây thì chính quyền sẽ xem xét từng trường hợp cụ thể. Trong khi chờ đợi xem xét, việc trả lãi đã có lệnh ngừng lại.
Như vậy là mặc dù nông dân đồng bằng Cửu Long có những nét đặc thù riêng, nhưng điều đó cũng không tạo thành một sự ngăn cách để khép kín họ với phong trào cách mạng. Ảnh hưởng truyền thống của kháng chiến, việc xây dựng những công trình lớn về thủy lợi và khai hoang, sự giúp đỡ đối với nông dân của nhà nước, những tiến bộ trong phong trào tương trợ hợp tác... Tất cả cho phép người ta dự tính đến những gì sẽ làm để mở mang phần còn lại của miền Nam. Thực vậy, sau khi đã biết Sài Gòn, những quang cảnh diễn ra dọc con lộ 4 đã giúp người ta nhận lại được hình ảnh của đất nước Việt Nam.
Chú thích
1. Có người còn gọi là “Con đường không vui”.
2. Ở đây tác giả chỉ nói có “hai cùng”, chúng tôi xin phép sửa lại - N.D
3. Thi hành chính sách “chia để trị”, thực dân Pháp đã lợi dụng mâu thuẫn ấy. Họ tập họp, khích động một số bộ lạc người Tây Nguyên để chống lại kháng chiến. Ngay cả sau 1954, tình báo Pháp từ Pnông Pênh vẫn sử dụng F.U.L.R.O (Front Unifie’ pour la liberation des Races Opprimées-Mặt trận thống nhất để giải phóng các dân tộc bị áp bức) để chống cách mạng Việt Nam, dưới chiêu bài tự trị. Ngược lại chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn bảo tồn những đặc điểm của các dân tộc thiểu số ấy, chính quyền Ngụy, nhất là dưới thời Diệm lại muốn đồng hoá họ, thậm chí một cách tàn bạo, gây nên một sự tranh chấp nặng nề giữa Sài Gòn và dân chúng miền núi.
4. 10 công = 1 hecta.
5. Nhớ rằng để mua 100 kilô gạo cho một gia đình 5-6 người ăn trong một tháng, người dân phải trả 25-30.000 đồng tiền cũ Sài Gòn.
6. Điều tra công bố trong báo Nhân dân từ ngày 8 đến 11-12-1975.