Think of all the beauty still left around you and be happy.

Anne Frank, Diary of a Young Girl, 1952

 
 
 
 
 
Tác giả: S.e. Hinton
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Outsiders
Dịch giả: Thiên Nga
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3423 / 85
Cập nhật: 2016-06-18 07:56:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ông viên rộng chừng hai khối nhà vuông, có đài phun nước ở giữa và một hồ bơi nhỏ cho trẻ con. Lúc này đang mùa thu nên hồ bơi cạn khô, nhưng đài phun nước vẫn phun rộn rã. Những cây du cao làm công viên có bóng râm và tối, và nó có thể là một chỗ tới lui được đó, nhưng bọn tôi thích lô đất trống của mình hơn, trong khi lũ Shepard lại khoái mấy lối đi xuôi theo đường ray, vậy nên công viên bị bỏ lại cho những đôi tình nhân và bọn nhóc con.
Chẳng có ai ở ngoài đường vào hai rưỡi sáng, và đó là một nơi thích hợp để nghỉ ngơi và nguôi ngoai. Lạnh hơn nữa thì chắc tôi thành que kem luôn quá. Johnny gài kín cái áo khoác jean và hất cổ áo lên.
“Mày không sắp lạnh cóng đến chết đó chứ, Pony?”
“Mày đừng có gâu gâu lên nữa,” tôi nói, vừa xoa xoa hai cánh tay trần vừa rít thuốc lá. Tôi vừa định nói cái gì đó về lớp băng đang tụ lại trên thành ngoài của đài phun nước thì bất thần một tiếng còi xe ré lên làm cả hai đứa giật mình. Chiếc Mustang xanh thong thả lượn lờ quanh công viên.
Johnny lầm rầm chửi thề, trong khi tôi càu nhàu, “Chúng muốn gì đây? Đây là lãnh địa của bọn mình mà. Bọn Soc làm gì ở tận phía Đông này?”
Johnny lắc đầu. “Tao chả biết. Nhưng tao cá là tụi nó đang tìm bọn mình. Bọn mình đã làm quen bạn gái tụi nó.”
“Ôi, trời đất,” tôi rên rỉ, “tao chỉ cần mỗi vụ này nữa thôi là xong một đêm tuyệt cú mèo đây.” Tôi rít một hơi thuốc sau chót, nghiền mẩu thuốc dưới gót giày. “Muốn bỏ chạy không?”
“Giờ trễ quá rồi,” Johnny nói. “Tụi nó tới rồi đây.”
Năm thằng Soc đang đi thẳng về phía bọn tôi, và với cái kiểu chân nam đá chân chiêu đó thì tôi biết là tụi nó đang lảo đảo say khướt. Cái đó làm tôi sợ. Một thằng đại bợm tỉnh khô thì có khi cũng tống khứ được, nhưng không đâu nếu chúng áp đảo ta, những năm thằng so với hai, và lại đang say. Bàn tay thằng Johnny đưa vào túi sau, tôi nhớ ra con dao bấm của nó. Tôi ước gì có cái vỏ chai bể. Chắc chắn tôi sẽ cho chúng thấy mình cũng sẽ dùng đến nó nếu cần. Thằng Johnny đang sợ khiếp vía. Tôi nói nghiêm túc đó. Nó trắng bệch như thây ma, mắt hoang dại như một con thú bị sập bẫy. Bọn tôi dựa lưng vào đài phun nước trong khi tụi Soc bao vây bọn tôi. Người chúng nồng nặc mùi whiskey và nước hoa English Leather đến mức tôi muốn ngạt thở. Tôi ước ao trong tuyệt vọng rằng anh Darry và Soda sẽ đi tìm mình. Bốn đứa tôi có thể chọi tụi nó dễ dàng. Nhưng chẳng có ai ở đó cả, và tôi biết hai đứa sẽ phải chống chọi lấy một mình. Mặt thằng Johnny có cái vẻ chai lì, vô cảm - ta phải quen nó thì mới thấy được cái ánh thất đảm trong mắt nó. Tôi điềm tĩnh, trừng trừng nhìn bọn Soc. Có thể tụi nó làm bọn tôi sợ muốn chết, nhưng bọn tôi sẽ không bao giờ cho tụi nó được một phen hả hê khi biết điều đó.
Đó là Randy, Bob và ba thằng Soc khác, và tụi nó đã nhận ra bọn tôi. Tôi biết Johnny cũng đã nhận ra tụi kia; nó đang nhìn ánh sáng trăng hắt trên mấy cái nhẫn của thằng Bob bằng đôi mắt mở to.
“Ê, tụi bay biết gì không?” thằng Bob nói giọng có hơi run run, “đây là mấy thằng nhóc Mỡ làm quen bạn gái tụi tao đó. Nè, Mỡ.”
“Tụi bay cút về đất tụi bay đi,” Johnny lí nhí cảnh cáo. “Tụi bay nên liệu hồn đi thì hơn.”
Thằng Randy chửi vài câu, rồi chúng xáp lại. Thằng Bob ngó Johnny. “Không, bồ ơi, bọn mày mới là đứa phải liệu hồn đó. Lần sau bọn mày mà có cần một con nhỏ thì đi mà làm quen hạng của bọn mày đó - đồ rác rưởi.”
Tôi như phát điên. Tôi căm ghét bọn nó đến không còn giữ được bình tĩnh nữa.
“Tụi mày có biết một thằng Mỡ là gì không?” thằng Bob hỏi. “Lũ da trắng mạt hạng để tóc dài.”
Tôi cảm thấy máu dồn cả lên mặt. Tôi đã bị rủa xả, bị người khác văng tục, nhưng chưa có gì chạm nọc tôi như cái đó. Nhịp thở của Johnnycake trở nên gấp gáp, ánh mắt nó nung nấu căm hờn.
“Bọn mày biết một thằng Soc là gì không?” tôi nói, giọng tôi run lên vì thịnh nộ. “Đồ da trắng mạt hạng có xe Mustang và áo kẻ ô.” Và rồi, vì tôi không nghĩ ra được cái gì đủ thậm tệ để gọi chúng, tôi nhổ vào bọn chúng.
Thằng Bob lắc đầu, mỉm cười ung dung. “Mày có thể tắm một cái, Mỡ ạ. Và một ca lao động cật lực nữa. Ta có cả đêm để làm chuyện đó. Tắm cho thằng nhóc một cái đi, David.”
Tôi né và cố thoát thân, nhưng một thằng Soc đã tóm lấy cánh tay tôi mà vặn ra sau lưng tôi, rồi gí mặt tôi vào đài phun nước. Tôi vùng vẫy, nhưng bàn tay sau gáy tôi siết chặt và tôi phải nín thở. Mình sắp chết, tôi nghĩ, rồi băn khoăn không biết chuyện gì đang xảy ra với Johnny. Tôi không nín thở lâu hơn được nữa. Tôi lại vùng vẫy tuyệt vọng, nhưng chỉ càng làm nước tràn vào họng. Mình đang chết đuối, tôi nghĩ, chúng đã đi quá xa... Một màn sương mù đỏ phủ kín tâm trí tôi, tôi từ từ buông xuôi và không biết gì nữa.
Tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trên nền gạch lát cạnh đài phun nước, sặc nước và thở hổn hển. Tôi nằm đó lả người, hít không khí vào và ộc nước ra. Gió phần phật thổi qua chiếc áo lạnh giá sũng nước và mớ tóc nước chảy tong tong. Răng tôi cứ đánh lập cập chẳng thể nào dừng được. Cuối cùng thì tôi cũng dựng mình dậy được, dựa người vào đài phun nước, nước chảy dài trên mặt. Rồi tôi thấy Johnny.
Nó ngồi cạnh tôi, cùi chỏ dựa trên đầu gối, mắt nhìn trân trân về phía trước. Mặt nó tái xanh kỳ lạ, còn đôi mắt thì to chưa từng thấy.
“Tao giết nó rồi,” nó nói chậm rãi. “Tao giết thằng đó mất rồi.”
Bob, thằng Soc bảnh trai, đang nằm đó dưới ánh trăng, gập người lại, bất động. Một vũng đen kịt tràn ra từ người nó, từ từ lan ra khắp nền xi măng trắng xanh. Tôi nhìn tay Johnny. Nó đang nắm chặt con dao bấm, và con dao đậm đen đến tận chuôi. Ruột tôi lộn lên dữ dội và máu tôi đóng băng lại.
“Johnny,” tôi ráng nói, cố nén cơn chóng mặt, “e là tao sắp nôn rồi.”
“Cứ việc,” nó vẫn nói bằng giọng điềm tĩnh. “Tao không nhìn mày đâu.”
Tôi quay đầu đi lẳng lặng nôn một lát. Rồi tôi ngửa người ra và nhắm mắt để không thấy thằng Bob nằm đó.
Chuyện này không thể nào xảy ra. Chuyện này không thể nào xảy ra. Chuyện này không thể...
“Mày giết nó thiệt hả, Johnny?”
“Ừ.” Giọng nó run run. “Tao buộc phải làm vậy. Tụi nó trấn nước mày, Pony. Tụi nó có thể đã giết chết mày rồi. Và tụi nó có dao... tụi nó sẽ hành hung tao...”
“Như...” - tôi nuốt nước bọt - “như tụi nó đã làm trước đây?”
Johnny im lặng một lát. “Ừ,” nó nói, “như tụi nó đã làm trước đây.”
Thằng Johnny kể lại cho tôi chuyện đã xảy ra: “Tụi nó bỏ chạy khi tao đâm thằng đó. Cả bọn bỏ chạy...”
Một nỗi kinh hoàng dâng lên trong tôi, khi cái giọng nhỏ nhẹ của Johnny vẫn cứ tiếp tục vang lên. “Johnny!” Tôi gần như la thất thanh. “Tụi mình sẽ làm gì đây? Họ sẽ đưa mày lên ghế điện vì đã giết người đó!” Tôi run lên. Tôi cần một điếu thuốc. Tôi cần một điếu thuốc. Tôi cần một điếu thuốc. Bọn tôi đã hút nhẵn bao cuối cùng rồi. “Tao sợ, Johnny. Tụi mình sẽ làm gì đây?”
Johnny nhỏm dậy rồi túm áo lạnh của tôi mà lôi tôi đứng dậy. Nó lay tôi. “Bình tĩnh đi, Ponyboy. Trấn tĩnh lại đi.”
Tôi đã không nhận ra là mình đang kêu thất thanh. Tôi giằng ra. “Được,” tôi nói, “giờ tao ổn rồi.”
Johnny nhìn quanh, bồn chồn đưa tay vỗ túi. “Bọn mình phải đi khỏi đây. Đến đâu đó. Chạy trốn. Cảnh sát sẽ tới bây giờ đấy.” Tôi run lẩy bẩy, chẳng phải chỉ vì lạnh không thôi. Nhưng thằng Johnny, trừ hai bàn tay đang giật giật ra, trông điềm tĩnh như anh Darry. “Bọn mình cần có tiền. Có lẽ cả một khẩu súng nữa. Và một kế hoạch.”
Tiền. Một khẩu súng? Một kế hoạch. Làm thế quái nào bọn tôi kiếm được những thứ này?
“Dally,” Johnny nói cả quyết. “Dally sẽ kéo bọn mình ra khỏi đây.”
Tôi thở phào một cái. Sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Mà có bao giờ tôi nghĩ ra cái gì đâu? Dallas Winston có thể làm được tất.
“Tụi mình tìm nó ở đâu được?”
“Tao nghĩ ở chỗ Buck Merril. Tối nay ở đó có tiệc. Hồi chiều nay Dally có nói gì đó về bữa tiệc.”
Buck Merril là bạn đua rodeo của thằng Dally. Nó là thằng đã kiếm cho Dally việc làm nài ngựa cho Slash J. Thằng Buck nuôi một số ngựa đua và kiếm được phần lớn xu từ các vụ dàn xếp trước kết quả cuộc đua và bán rượu lậu chút đỉnh. Tôi được cả anh Darry và anh Soda căn dặn kỹ là không được để bị tóm trong vòng mười dặm từ chỗ nó, mà chuyện này với tôi thì ổn thôi. Tôi chẳng ưa Buck Merril. Nó là một thằng cao bồi lêu nghêu với mái tóc vàng và hàm răng hô. Hoặc giả nó đã từng hô trước khi bị gãy mất hai răng cửa trong một lần choảng nhau. Nó thật chẳng giống ai. Nó thích Hank Williams(5) đó - bạn thấy gớm cỡ nào chưa?
Khi bọn tôi gõ cửa thì thằng Buck ra mở, kéo theo một tiếng nhạc rẻ tiền ầm ĩ ùa ra. Tiếng ly cụng lanh canh, tiếng cười đinh tai, ồn ào, tiếng con gái rúc rích, và Hank Williams. Cái đó chà lên thần kinh non nớt của tôi như giấy nhám. Cầm lon bia trong tay, thằng Buck trừng trừng nhìn lại bọn tôi. “Tụi bay muốn gì?”
“Dally!” Johnny thở hổn hển, ngoái nhìn lui. “Tụi tao phải gặp thằng Dally.”
“Nó bận rồi,” thằng Buck gắt, trong khi đứa nào đó trong phòng khách của nó hú lên “À ha!” và rồi “Hô-hô,” âm thanh đó làm thần kinh tôi muốn đứt ra.
“Nói nó là có Pony và Johnny,” tôi ra lệnh. Tôi biết thằng Buck, và cách duy nhất ta có thể khiến nó làm gì cho ta là dằn mặt nó. Tôi nghĩ vì vậy mà Dallas mới trị nó dễ dàng thế, dù thằng Buck đâu đã hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, còn Dallas mới mười bảy. “Nó ra ngay.”
Buck trừng trừng nhìn tôi một lát, rồi loạng choạng quay đi. Nó gần như say mèm, điều này khiến tôi hơi run. Nếu Dally đang say và trong tâm trạng đáng sợ...
Ít phút sau Dally xuất hiện, mặc độc cái quần jean xanh lưng xệ, gãi gãi lông ngực. Nó cũng còn tỉnh táo phết, điều đó khiến tôi ngạc nhiên. Chắc nó đến đây chưa lâu.
“Được rồi, mấy nhóc, tụi bay cần tao có chuyện gì vậy?”
Khi Johnny thuật lại cho nó nghe câu chuyện, tôi quan sát Dally, cố nghĩ thử cái gì ở thằng du côn bặm trợn này mà một đứa con gái như Cherry Valance lại yêu được. Tóc trắng với đôi mắt gian giảo, nhìn Dally chẳng bảnh trai chút nào. Vậy nhưng trên gương mặt chai sạn của nó có hiện lên cá tính, niềm kiêu hãnh và vẻ phớt đời thật hoang dại. Nó chẳng đời nào lại đi đáp lại tình yêu của Cherry Valance. Họa có là phép màu thì Dally mới yêu thương cái gì. Cuộc đấu tranh sinh tồn đã khiến nó chai sạn bất cần.
Nó chẳng hề chớp mắt khi nghe chuyện, chỉ nhăn răng cười và nói “Khá lắm” khi Johnny trình bày đến đoạn nó đã lụi thằng Soc. Cuối cùng Johnny cũng kể xong. “Tụi tao nghĩ nếu có ai có thể đưa bọn tao ra khỏi đây thì đó là mày. Xin lỗi vì tụi tao đã dứt mày ra khỏi buổi tiệc.”
“Ối, chết tiệt, nhóc,” - Dally khinh khỉnh liếc ra sau - “tao đang trong phòng ngủ mà.”
Nó chợt nhìn tôi chòng chọc. “Trời đất, vậy mà tai mày cũng đỏ lựng lên được, Ponyboy.”
Tôi đang nhớ lại cái sự thường diễn ra trong mấy phòng ngủ tại tiệc của thằng Buck. Rồi Dally nhăn răng cười khi khoái trá nhận ra. “Chẳng có gì kiểu đó đâu, nhóc. Tao đang ngủ, hay cố ngủ, giữa đủ thứ điếc óc đó. Hank Williams” - nó trợn ngược mắt và thêm vài tính từ vào sau “Hank Williams”. “Tao cùng thằng Shepard đụng độ, và tao gãy mất mấy cái xương sườn. Tao chỉ cần một chỗ để ngả lưng thôi.” Nó thảm não xát xát bên sườn. “Ông bạn Tim đấm cũng mạnh phết. Nó sẽ chẳng nhìn được một bên mắt cả tuần cho xem.” Nó nhìn bọn tôi một lượt rồi thở dài. “Thôi được, chờ chút rồi tao coi tao có làm gì được cái vụ lộn xộn này không.” Rồi nó nhìn tôi thật kỹ. “Ponyboy, mày bị ướt rồi hả?”
“P-h-ả-i,” tôi lắp ba lắp bắp qua hàm răng đánh lập cập.
“Trời ơi là trời!” Nó mở cánh cửa lưới rồi xô tôi vào, ra hiệu cho Johnny theo sau. Mày sẽ chết vì viêm phổi trước khi cớm sờ gáy đấy.”
Nó gần như lôi tôi xềnh xệch vào một phòng ngủ trống, vừa đi vừa chửi. “Cởi cái áo lạnh đó ra.” Nó ném cho tôi cái khăn. “Lau khô rồi chờ đây. Thằng Johnny ít ra còn có cái áo khoác jean. Mày phải biết là không nên bỏ nhà đi mà chỉ mặc mỗi cái áo, lại là cái ướt nhẹp như vậy nữa. Mày chẳng bao giờ dùng cái đầu hay sao?” Giọng điệu nó giống anh Darry đến độ tôi nhìn nó chòng chọc. Nó cũng chẳng để ý, cứ vậy bỏ bọn tôi ngồi lại trên giường.
Johnny nằm vật ra. “Ước gì tao kiếm được cho mình điếu thuốc.”
Lau khô người xong, tôi mặc độc một chiếc quần jean ngồi đó, hai đầu gối rung bần bật.
Lát sau thì thằng Dally xuất hiện. Nó cẩn thận đóng cửa lại. “Nè” - nó đưa cho bọn tôi một khẩu súng và một xấp tiền - “súng nạp đạn đó, làm ơn làm phước, Johnny, đừng có chĩa nó vào tao. Đây là năm mươi đô la. Tối nay tao chỉ moi thằng Merril được nhiêu đó thôi. Nó làm bay hết xu kiếm được từ cuộc đua mới đây rồi.”
Bạn có thể nghĩ rằng chính Dallas là đứa dàn xếp trước các cuộc đua đó cho thằng Buck, làm thằng nài ngựa và này nọ, nhưng thật ra không phải. Thằng mới đây nhất nói bóng gió như vậy đã đi luôn ba cái răng. Đó là sự thật. Dally đua một cách trung thực và làm hết sức mình để thắng cuộc. Đó là thứ duy nhất mà Dally làm một cách tử tế.
“Pony nè, Darry và Sodapop biết chuyện này chưa?”
Tôi lắc đầu. Dally thở dài. “Mẹ kiếp, tao chả ham làm liên lạc viên cho ông Darry để rồi lủng đầu đâu.”
“Vậy thì đừng nói lại với mấy anh ấy,” tôi nói. Tôi ghét làm Sodapop lo lắng và rất muốn cho anh biết rằng mặc dù tới nước này nhưng tôi vẫn ổn, tuy nhiên tôi chẳng cần biết anh Darry có lo đến bạc đầu đi không. Tôi quá chán khi cứ phải tự nhủ mình kém cỏi và không biết điều rồi. Tôi tự thuyết phục mình là sẽ không công bằng khi bắt thằng Dally báo cho anh biết. Anh Darry sẽ đánh nó chết vì đã cho bọn tôi tiền và súng và tiếp tay bọn tôi ra khỏi thị trấn.
“Nè!” Thằng Dally đưa cho tôi một cái sơ mi rộng khủng bố. “Của thằng Buck đó - mày với nó không cùng cỡ, được cái là khô.” Nó đưa tôi cái áo khoác da nâu sờn có viền lông cừu vàng của mình. “Nơi tụi bay đến sẽ lạnh đó, nhưng tụi bay không thể liều chất theo cả đống mền được.”
Tôi bắt đầu cài kín cúc. Cái áo gần như nuốt chửng tôi luôn. “Đu tàu chở hàng ba giờ mười lăm sáng đến Windrixville,” Dally chỉ dẫn. “Ở đó có một nhà thờ cũ bỏ hoang trên đỉnh núi Jay. Đằng sau có một cái máy bơm nên khỏi lo thức uống. Hãy mua thực phẩm cho cả tuần ngay khi tụi bay tới đó vào sáng nay, trước khi chuyện lan ra, và đừng manh động, cho dù chỉ là thò mũi ra ngoài cửa. Tao sẽ lên đó ngay khi thấy an toàn. Trời, tao cứ tưởng ở New York chỉ có tao mới bị dây vào tội giết người thôi chứ.”
Nghe từ “giết người” thằng Johnny hực một tiếng khẽ trong cổ họng và run bắn.
Dally đưa bọn tôi trở ra cửa, tắt đèn ngoài hàng hiên trước khi cả lũ bước ra. “Đi đi!” Nó vò đầu thằng Johnny. “Bảo trọng, nhóc,” nó nhẹ nhàng.
“Ừ, Dally, cám ơn.” Và bọn tôi chạy vào bóng tối.
Hai đứa chúng tôi ngồi thu lu trong bụi rậm cạnh đường ray xe lửa, lắng nghe tiếng còi tàu mỗi lúc một to hơn. Xe lửa từ từ dừng lại. “Đi,” Johnny thì thào. Bọn tôi chạy và đẩy mình lên một toa chở hàng mở cửa. Cả hai ép người sát vào vách tàu, cố nín thở trong khi nghe nhân viên hỏa xa đi tới đi lui bên ngoài. Một người thò đầu vào bên trong, bọn tôi chết trân. Nhưng ông ta không thấy bọn tôi, tiếp theo toa chở hàng kêu rầm rập và xe lửa bắt đầu chuyển bánh.
“Trạm đầu tiên sẽ là Windrixville,” Johnny nói, rón rén đặt khẩu súng xuống. Nó lắc đầu. “Tao chả hiểu sao nó lại đưa tao cái này. Tao đâu thể bắn ai.”
Thế rồi lần đầu tiên, thực vậy, tôi nhận ra bọn tôi đang lâm vào hoàn cảnh nào. Johnny đã giết chết một người. Johnny bé bỏng vẫn ăn nói nhỏ nhẹ và trầm lặng, thằng nhóc chẳng bao giờ có ý làm hại một sinh vật, đã lấy đi một mạng người. Thực tế là bọn tôi đang chạy trốn, trong khi cảnh sát săn đuổi vì tội giết người, và một khẩu súng nạp đạn bên cạnh. Tôi ước gì lúc ấy bọn tôi hỏi xin Dally một bao thuốc...
Tôi nằm dài ra và kê chân thằng Johnny làm gối. Tôi cuộn tròn người lại, thầm cám ơn cái áo khoác của thằng Dally. Nó to sụ, nhưng ấm. Cả tiếng tàu xình xịch cũng chẳng đánh thức nổi tôi, và rồi tôi ngủ thiếp đi trong cái áo khoác của một thằng du côn, cùng khẩu súng nằm bên bàn tay mình.
Tôi hầu như vẫn chưa tỉnh khi cùng Johnny nhảy từ tàu xuống đồng cỏ. Chỉ đến khi đáp xuống lớp sương đọng rồi giật mình vì bị ướt, tôi mới nhận ra mình đang làm gì. Thằng Johnny chắc đã kêu tôi dậy và bảo tôi nhảy, nhưng tôi không nhớ được chuyện đó. Bọn tôi nằm giữa đám bụi rậm cao ngút và thảm cỏ ướt, thở hồng hộc. Bình minh đang lên. Đằng Đông dần hừng sáng, một tia vàng phớt lên những ngọn đồi. Mây ánh lên màu hồng còn lũ chim chiền chiện trên đồng cỏ đang líu lo hót. Đây là đồng quê, tôi nghĩ, nửa mơ nửa tỉnh. Giấc mơ của tôi đã thành sự thật, tôi đang ở đồng quê.
“Khốn kiếp, Pony” - Johnny xoa xoa chân - “tại mày mà giò tao tê cả rồi. Tao còn không đứng dậy được. Vừa rồi gần như là tao rơi khỏi tàu.”
“Tao xin lỗi. Sao mày không đánh thức tao?”
“Thôi, không sao. Tao không muốn kêu mày dậy cho đến khi buộc phải làm thế.”
“Giờ làm sao bọn mình tìm ra núi Jay đây?” tôi hỏi Johnny. Tôi vẫn còn ngái ngủ và muốn ngủ mãi mãi ngay tại đó, trong sương sớm và bình minh.
“Đi mà hỏi ai đó đi. Chuyện còn chưa lên báo đâu. Giả làm thằng bé nhà nông đi dạo hay gì đó đi.”
“Trông tao đâu có giống thằng bé nhà nông,” tôi nói. Tôi chợt nghĩ đến mái tóc dài chải ngược ra sau và dáng đi khuỳnh khuỳnh theo thói quen của mình. Tôi nhìn thằng Johnny. Tôi thấy nó chẳng giống thằng nhóc nông dân chút nào. Nó vẫn còn làm tôi liên tưởng đến một con cún đi lạc cứ bị đá bị đạp hoài, nhưng lần đầu tiên tôi thấy nó theo cái cách một người lạ vẫn thấy. Johnny trông đanh rắn và bặm trợn, vì cái áo phông đen, quần jean xanh cùng áo khoác, vì tóc nó xức dầu nhiều và quá dài. Thấy tóc nó vén ra sau tai, tôi nghĩ: Cả hai đứa cần phải cắt tóc và ít áo quần tử tế rồi. Tôi nhìn xuống cái quần jean xanh sờn bạc màu của mình, cái áo sơ mi rộng khủng khiếp của mình, và cái áo khoác sờn của thằng Dally. Người ta sẽ nhận ra bọn tôi là du côn ngay khi nhìn thấy, tôi nghĩ.
“Tao phải ngồi lại đây thôi,” Johnny nói, xoa xoa hai giò. “Mày đi xuống đường hỏi người đầu tiên mày gặp xem núi Jay đâu.” Nó nhăn mặt vì đau ở chân. “Rồi trở về đây. Và làm ơn làm phước, chải tóc một cái và bỏ cái kiểu thòng vai như một thằng lưu manh đó đi.”
Vậy là cả thằng Johnny cũng nhận thấy chuyện đó. Tôi lôi cái lược trong túi sau ra chải tóc cẩn thận. “Tao nghĩ chắc giờ tao trông được rồi, nhỉ, Johnny?”
Nó nhìn kỹ tôi. “Mày biết không, mày trông giống Sodapop khiếp, cách mày để tóc tai các thứ. Ý tao là, chỉ trừ việc hai mắt mày là màu xanh lá thôi.”
“Đâu phải xanh lá, xám mà,” tôi nói, đỏ mặt. “Và tao trông giống anh Soda cũng như mày vậy thôi mà.” Tôi đứng lên. “Ảnh đẹp trai.”
“Chết tiệt,” Johnny nói và toét miệng cười, “mày cũng vậy.”
Tôi trèo qua hàng rào dây thép gai mà không nói gì thêm. Tôi nghe thằng Johnny đang cười tôi, nhưng chẳng thèm quan tâm. Tôi thả bộ dọc con đường đất đỏ, hy vọng sắc da tự nhiên của mình tươi tắn lại trước khi tôi gặp ai đó. Không biết giờ này anh Darry và anh Sodapop đang làm gì nhỉ, tôi vừa nghĩ vừa ngáp dài. Lần đầu tiên, anh Soda được một mình một giường. Tôi dám chắc anh Darry đang hối hận vì đã đánh tôi. Anh sẽ lo thật khi biết Johnny và tôi đã giết chết thằng Soc đó. Rồi, trong chốc lát, tôi hình dung mặt anh Soda khi anh hay tin. Ước gì mình đang ở nhà, tôi lơ đãng nghĩ, ước mình đang ở nhà và vẫn còn nằm trên giường. Chắc tôi đang thế. Có lẽ tôi chỉ đang mơ...
Chỉ mới tối qua đây thôi Dally và tôi còn ngồi sau lưng hai đứa con gái đó ở Nightly Double. Trời đất, đầu tôi quay cuồng bối rối, mọi chuyện xảy ra nhanh quá. Quá nhanh. Tôi nghĩ mình chẳng thể vướng vào rắc rối nào tệ hại hơn chuyện giết người. Johnny và tôi sẽ phải trốn tránh đến hết đời. Ngoài thằng Dally ra chẳng ai biết bọn tôi ở đâu, và nó sẽ chẳng thể nói cho ai, vì có thể nó sẽ lại bị tống vào nhà đá vì cái tội đưa bọn tôi khẩu súng đó. Nếu Johnny bị tóm, họ sẽ cho nó lên ghế điện, và nếu họ tóm được tôi, tôi sẽ bị tống vào trại cải huấn. Tôi đã nghe thằng Curly Shepard kể về trại cải huấn và chẳng muốn vô đấy chút nào. Vậy nên bọn tôi sẽ phải làm ẩn sĩ đến hết đời, không bao giờ được gặp ai ngoài thằng Dally. Không gặp anh Darry, không anh Sodapop. Hay cả đến Ba Láp hay Steve cũng không. Dù đang ở thôn quê, nhưng tôi biết mình sẽ chẳng thích nó nhiều như mình tưởng. Có những thứ còn tệ hơn làm một thằng Mỡ.
Tôi gặp một ông nông dân rám nắng đang lái máy kéo xuôi xuống đường. Tôi vẫy ông và ông dừng lại.
“Bác làm ơn cho cháu biết núi Jay ở đâu được không?” tôi hỏi lễ phép hết sức có thể.
Ông chỉ về cuối đường. “Theo đường này đến ngọn đồi lớn đằng đó. Là nó đó. Đi bộ à?”
“Vâng, thưa sếp.” Tôi cố trông có vẻ ngượng ngùng. “Bọn cháu đang chơi trò tập trận và cháu phải về trình diện tại tổng hành dinh ở đó.”
Tôi có thể nói dối ngon ơ đến độ đôi khi việc đó làm tôi hoảng sợ - anh Soda bảo là do đọc sách quá nhiều. Nhưng nghĩ kỹ thì thằng Ba Láp cũng nói dối như cuội suốt, mà nó có bao giờ giở sách đâu.
“Các cậu bé thì vẫn cứ là các cậu bé thôi,” ông nông dân ngoác miệng cười, trong khi tôi lờ mờ nghĩ ông nghe chừng có vẻ thật thà như Hank Williams. Ông đi tiếp còn tôi trở về chỗ Johnny đang chờ.
Bọn tôi leo lên con đường dẫn đến nhà thờ, dù nó xa hơn ta thấy nhiều. Càng bước thì con đường càng dốc. Tôi cảm thấy gần như say - tôi luôn như vậy khi trở nên quá buồn ngủ - và hai giò tôi mỗi lúc một nặng hơn. Tôi đoán thằng Johnny còn buồn ngủ hơn tôi nữa - nó đã thức trên tàu để chắc chắn rằng bọn tôi sẽ xuống đúng chỗ. Phải mất khoảng bốn mươi lăm phút hai đứa mới đến nơi. Bọn tôi trèo vào qua cửa sổ phía sau. Đó là một ngôi nhà thờ nhỏ, cũ kỹ, ma quái, mạng nhện giăng đầy. Nó làm tôi nổi da gà.
Tôi đã từng đi nhà thờ rồi. Tôi đi đều, ngay cả sau khi bố mẹ mất. Thế rồi một Chủ nhật nọ, tôi thuyết phục được anh Soda đi cùng mình và Johnny. Anh chẳng muốn trừ khi Steve cũng đi, trong khi với Ba Láp thì chẳng có vấn đề gì. Dally lúc ấy đang ngủ cho giã cơn say váng vất, còn anh Darry thì đi làm. Khi Johnny và tôi tới nơi, bọn tôi ngồi đằng sau, cố học nhìn cho ra được chút gì có ích ở bài thuyết giáo và tránh mặt mọi người, vì hầu như bao giờ bọn tôi cũng ăn mặc không được tươm tất cho lắm. Nhưng hình như chẳng ai bận tâm cả, và hai đứa tôi quả thật rất thích nơi này. Nhưng ngày hôm đó... thế đấy, anh Soda chẳng thể ngồi yên lâu đủ để thưởng thức một bộ phim, nói chi là một bài thuyết giáo. Chẳng mấy chốc anh, Steve và Ba Láp đã ném nùi giấy vào nhau rồi làm trò, cuối cùng thằng Steve làm rơi cuốn thánh ca đánh rầm một cái - không cố ý, dĩ nhiên rồi. Hết thảy mọi người ở đó quay lại nhìn bọn tôi, còn Johnny và tôi chỉ muốn chui xuống gầm ghế dài. Và, thằng Ba Láp vẫy chào họ.
Từ đó đến nay tôi chưa đi nhà thờ lại.
Có điều, nhà thờ này làm tôi nổi gai ốc. Phải gọi đó là gì nhỉ? Linh cảm? Tôi ngồi phịch xuống sàn nhà - và tức thì quyết định là sẽ không như thế lần nào nữa. Sàn nhà bằng đá, rất cứng. Thằng Johnny nằm dài ra cạnh tôi, gối đầu lên cánh tay. Tôi mở miệng định nói nó cái gì đó, nhưng lại ngủ thiếp đi trước khi thốt ra thành lời. Tuy nhiên, Johnny chẳng nhận ra. Nó cũng đã ngủ mất rồi.
___________________________
Chú thích:
(5) Hank Williams (1925-1953): ca sĩ và là nhà sáng tác nhạc đồng quê người Mỹ.
Ngựa Chứng Đầu Xanh Ngựa Chứng Đầu Xanh - S.e. Hinton Ngựa Chứng Đầu Xanh