Nguồn gốc của thiên tài là nguồn gốc của nhiệt huyết.

Benjamin Disraeli

 
 
 
 
 
Tác giả: Madeleine L'engle
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: A Wrinkle In Time
Dịch giả: Nguyễn Lan Hương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4527 / 194
Cập nhật: 2017-09-04 05:50:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 - Bà Cái Nào
rong rừng, bóng tối đã bắt đầu buông xuống, và bọn trẻ đi bên nhau trong yên lặng. Charles và Fortinbras nhảy nhót phía trước. Đằng sau, Calvin đi cùng với Meg, ngón tay nó hầu như chỉ chạm hờ cánh tay Meg trong một tư thế sẵn sàng che chở.
Đây là buổi chiều ngoài mong đợi nhất và khó hiểu nhất của cả đời mình, nó nghĩ, mình không còn cảm thấy bối rối hay lo lắng gì nữa hết; mình chỉ cảm thấy sung sướng. Sao vậy nhỉ?
“Có lẽ chúng ta không được trù định gặp nhau trước sự kiện này”, Calvin nói. “Ý anh là, anh biết em là ai ở trường và mọi điều khác, nhưng anh vẫn không quen em. Anh rất vui vì chúng ta gặp nhau hôm nay, Meg ạ. Chúng ta sẽ là những người bạn, em biết đấy”.
“Em cũng vui”, Meg thì thầm, và chúng lại im lặng.
Khi chúng trở về đến nhà, bà Murry vẫn đang ở trong phòng thí nghiệm. Bà đang quan sát một thứ chất lỏng màu xanh nhợt chảy chậm chạp từ một cái cốc vại vào một bình chưng cất qua ống nghiệm. Trên ngọn đèn Bunsen sùng sục một nồi hầm to bằng đất nung. “Đừng nói với Sandy và Dennys là mẹ đang nấu ăn ngoài này nhé”, bà nói. “Lúc nào chúng cũng nghi ngờ là có vài hóa chất lẫn vào trong thịt, mà mẹ lại có một thí nghiệm cần phải nán lại đây”.
“Mẹ, đây là anh Calvin O’Keefe”, Meg nói. “Có đủ cho anh ấy không hả mẹ? Mùi thơm quá”.
“Chào cháu, Calvin”. Bà Murry bắt tay nó. “Rất vui được gặp cháu. Tối nay chúng ta chẳng có gì ngoài món hầm, nhưng nhiều và ngon lắm”.
“Nghe tuyệt quá”, Calvin nói. “Cháu có thể dùng điện thoại nhà mình được không, để mẹ cháu biết cháu đang ở đâu?”
“Tất nhiên rồi. Chỉ cho anh điện thoại ở đâu được không, nào, Meg? Nếu cháu không phiền, bác không đề nghị cháu sử dụng điện thoại ngoài này? Bác muốn hoàn thành cho xong thí nghiệm”.
Meg chỉ lối vào trong nhà. Charles Wallace và Fortinbras đã biến đâu mất. Bên ngoài nhà, con bé có thể nghe thấy tiếng Sandy và Dennys đang chơi đánh trận ở cái pháo đài bọn nó dựng lên trên một thân cây thích. “Lối này”, Meg đi qua bếp và vào phòng khách.
“Anh không biết vì sao anh lại gọi điện cho bà ấy khi anh không về nhà”, Calvin nói, giọng nó nghe chua xót. “Bà ấy chẳng để ý đâu mà”. Nó thở dài và ấn số. “Mẹ à?” nó nói. “À, Hinky. Nói với mẹ là tối muộn anh mới về. Nói ngay nhé, không được quên đâu đấy. Anh không muốn lại bị khóa ở ngoài đâu”. Nó dập máy và nhìn Meg. “Em có biết là em may mắn đến thế nào không?”
Con bé gượng cười nhăn nhó. “Không phải lúc nào cũng vậy”.
“Một người mẹ như thế! Một ngôi nhà như thế! Mà mẹ em đẹp thật đấy! Em nên nhìn thấy mẹ anh. Cả hàm trên của bà ấy chìa ra, bố đã mua cho bà ấy một cái nẹp hàm nhưng bà ấy chẳng bao giờ thèm đeo nó, bà ấy cũng hầu như chẳng bao giờ chải đầu. Mà thậm chí có chải cũng chẳng khác là mấy”. Nó siết chặt nắm tay. “Nhưng anh vẫn yêu bà ấy. Đấy là điều buồn cười. Anh yêu tất cả bọn họ, nhưng bọn họ cóc thèm quan tâm gì đến anh. Có lẽ vì thế mà anh gọi điện khi anh không về nhà. Bởi vì anh quan tâm. Chẳng có ai khác quan tâm. Vậy nên em không biết em còn được yêu là hạnh phúc thế nào đâu”.
Meg chợt thấy giật mình, “Em đoán em chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Em đoán em luôn chỉ cho đó là chuyện hiển nhiên”.
Calvin trông ủ rũ; rồi nụ cười rộng mở làm khuôn mặt nó rạng rỡ trở lại. “Mọi việc sắp xảy ra rồi, Meg ạ! Những việc tốt đẹp! Anh cảm giác vậy!” Vẫn vẻ chậm chạp, nó bắt đầu đi thơ thẩn quanh căn phòng khách dễ chịu, dù có hơi tồi tàn. Nó dừng bước trước một tấm ảnh phía trên chiếc dương cầm, trong ảnh là một nhóm những người đàn ông đang đứng cùng nhau trên một bãi biển. “Đây là những ai?”
“À, một hội các nhà khoa học”.
“Ở đâu?”
Meg lại gần bức ảnh. “Mũi Canaveral. Đây là Bố”.
“Người nào?”
“Đây”.
“Người đeo kính á?”
“Vâng. Là người trông như cần phải đi cắt tóc ấy.” Meg rúc rích cười, sung sướng chỉ cho Calvin tấm ảnh mà lòng quên hết những điều phiền muộn. “Tóc bố cùng màu với tóc em, và bố toàn quên cắt tóc. Cuối cùng thì mẹ phải cắt tóc cho bố - mẹ đã mua mấy cái tông đơ cùng đồ lề - vì bố sẽ chẳng chịu bỏ thời gian đến hiệu”.
Calvin chăm chú nhìn tấm ảnh. “Anh thích ông ấy”, nó thận trọng tuyên bố. “Charles Wallace trông khá giống bố phải không?”
Meg lại bật cười. “Hồi Charles còn bé, trông nó giống y hệt bố. Buồn cười lắm”.
Calvin tiếp tục ngắm tấm ảnh. “Ông ấy không đẹp trai hay gì cả. Nhưng anh thích ông ấy”.
Meg như bị chọc tức. “Ông ấy có mà, đẹp trai đấy chứ”.
Calvin lắc đầu. “Không. Ông ấy cao và gầy nhom giống anh”.
“Thì vậy, em nghĩ anh đẹp trai mà”, Meg nói. “Mắt của bố trông cũng khá giống mắt anh. Anh biết đấy. Thật xanh. Chỉ có điều anh không để ý thấy vì cặp kính của bố thôi”.
“Bây giờ ông ấy đâu rồi?”
Meg lặng người đi. Nhưng nó không phải trả lời vì cánh cửa phòng thí nghiệm thông với bếp đóng sầm lại và bà Murry bước vào, mang theo một đĩa hầm. “Nào”, bà gọi, “mẹ sẽ nấu nốt món này trên bếp lò cho thật hoàn hảo. Con đã làm bài tập về nhà chưa, Meg?”
“Chưa hẳn ạ”, Meg nói, quay trở vào bếp.
“Vậy thì mẹ chắc Calvin sẽ không phiền đâu, nếu con làm cho xong trước bữa tối”.
“Tất nhiên rồi, em cứ đi đi”, Calvin lục trong túi và móc ra một xấp tài liệu gập nhỏ. “Thực tế là anh cũng có hàng đống bài tập phải làm. Môn toán. Đấy là môn học mà có một dạo phải rất vất vả anh mới theo kịp được. Anh thạo bất cứ môn nào liên quan đến ngôn từ, còn với các con số thì không được vậy”.
Bà Murry mỉm cười. “Vậy sao cháu không nhờ Meg giúp?”
“Nhưng, bác thấy đấy, cháu trên Meg tận vài lớp”.
“Cứ thử nhờ con bé giúp cháu môn toán xem sao”, bà Murry gợi ý.
“Vâng, được thôi ạ”, Calvin nói. “Đây. Nhưng khá phức tạp đấy”.
Meg vuốt lại tờ giấy cho thẳng thớm rồi xem xét. “Họ có quan tâm đến cách anh giải bài toán không?” nó hỏi. “Ý em là, anh có được làm theo cách riêng của mình không?”
“Ồ, tất nhiên, miễn là anh hiểu và có đáp số đúng”.
“Ôi, chúng em luôn phải làm theo cách của họ. Bây giờ anh nhìn nhé, Calvin, anh có thấy là sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu anh giải bài toán theo cách này không?” Cây bút chì của con bé lướt trên giấy.
“Ơ!” Calvin nói. “Ơ này! Anh nghĩ là anh hiểu rồi đấy. Chỉ cho anh lần nữa với bài khác đi”.
Một lần nữa cây bút chì của Meg lại bận rộn. “Tất cả những gì anh cần phải nhớ là mọi phân số thông thường đều có thể chuyển sang dạng số thập phân vô hạn tuần hoàn. Anh thấy không? Như vậy, 3/7 sẽ bằng 0,428571”.
“Gia đình này thật điên rồ bậc nhất”, Calvin nhoẻn miệng cười với Meg. “Anh nghĩ là lẽ ra lúc này anh phải hết ngạc nhiên rồi mới phải, nhưng ở trường em vẫn bị cho là ngớ ngẩn, lúc nào cũng bị gọi lên quở trách”.
“Ồ, thì em là vậy mà”.
“Vấn đề giữa Meg và toán học”, bà Murry hùng hồn lên tiếng, “là ở chỗ Meg với bố con bé từng chơi đùa với các con số, Meg đã học được quá nhiều những cách làm tắt. Vì vậy, khi người ta muốn nó giải bài tập ở trường theo cái cách dài dòng vòng vèo, thì nó tỏ ra ngoan cố và bướng bỉnh, thành ra gây trở ngại lớn về tâm lý cho chính nó”.
“Quanh đây còn ai ngốc nghếch kiểu như Meg với Charles nữa không ạ?” Calvin hỏi. “Nếu có, chắc cháu nên gặp họ luôn thể”.
“Đáng nhẽ cũng không đến nỗi nếu chữ viết của Meg dễ đọc hơn”, bà Murry nói tiếp. “Thường thì phải cố gắng lắm bác mới có thể luận ra, nhưng bác rất ngờ là thầy giáo nó ở trường thì chịu không thể, hoặc không sẵn thời giờ cho việc đó. Bác đang định mua cho con bé một chiếc máy đánh chữ vào Giáng sinh này. May ra sẽ có ích”.
“Nếu con có làm gì đúng thì cũng chẳng ai tin là chính con làm đâu”, Meg nói.
“Megaparsec là cái gì?” Calvin hỏi.
“Một trong những biệt hiệu Bố đặt cho em”, Meg nói. “Nghĩa là 3,26 triệu năm ánh sáng”.
“Thế E = mc2 là cái gì?”
“Là phương trình Einstein”.
“Vậy E là viết tắt của cái gì?”
“Năng lượng”.
“m?”
“Khối lượng”.
“c2?”
“Bình phương của vận tốc ánh sáng tính bằng xăng-ti-mét trên giây”.
“Nước nào giáp với Peru?”
“Em chẳng biết gì đâu. Em nghĩ nó nằm ở Nam Mỹ hay đâu đó”.
“Thủ phủ của New York là gì?”
“Ồ, thành phố New York, dĩ nhiên rồi!”
“Ai viết cuốn Cuộc sống của Johnson của Boswell?”
“Ôi, Calvin, em chẳng giỏi môn tiếng Anh tí nào đâu”.
Calvin rên rỉ và quay sang bà Murry. “Cháu hiểu những gì bác nói rồi. Và cháu chẳng hề muốn dạy em ấy đâu”.
“Nó học hơi lệch, bác đồng ý với cháu”, bà Murry nói. “Mặc dù bác đã trách cứ bố nó và chính mình về chuyện này. Thế nhưng nó vẫn cứ thích chơi với ngôi nhà búp bê của nó”.
“Mẹ!” Meg hét lên đau đớn.
“Ôi, con yêu, mẹ xin lỗi”, bà Murry vội nói. “Nhưng mẹ chắc là Calvin hiểu mẹ định nói gì”.
Với một cử chỉ cảm thông bất thình lình, Calvin vung tay thật rộng, như thể nó muốn ôm lấy Meg và bà Murry, ôm lấy cả ngôi nhà. “Làm thế nào mà tất cả những chuyện này lại xảy ra được nhỉ? Chẳng phải rất tuyệt sao? Cháu cảm thấy như thể mình vừa mới được sinh ra! Cháu không còn cô đơn nữa! Mọi người có biết điều đó có ý nghĩa thế nào với cháu không?”
“Nhưng anh giỏi bóng rổ và mọi thứ khác mà”, Meg không đồng tình. “Anh rất giỏi ở trường. Mọi người ai cũng thích anh”.
“Vì tất cả những lý do không quan trọng nhất”, Calvin nói. “Anh chẳng thể nói chuyện với một ai, bất cứ một ai trên thế giới này. Chắc chắn anh có thể làm được như mọi người khác, anh có thể cưỡng ép bản thân, nhưng thế không còn là anh nữa”.
Meg lấy một lô dĩa từ trong ngăn kéo ra, lật đi lật lại và ngắm nghía chúng. “Em lại bối rối nữa rồi”.
“Ừ, anh cũng vậy”, Calvin hoan hỉ nói. “Nhưng giờ ít ra anh còn biết chúng ta sắp sửa đi đâu đấy”.
Meg hài lòng và thoáng chút ngạc nhiên khi hai đứa em sinh đôi hào hứng vì Calvin ở lại ăn bữa tối. Chúng biết nhiều về những kỷ lục thể thao của anh và thấy ấn tượng vì những kỷ lục ấy hơn Meg rất nhiều. Calvin ăn năm bát hầm, ba đĩa thạch Jell-O và cả tá bánh quy, và rồi Charles Wallace cứ khăng khăng đòi Calvin phải đưa nó đi ngủ và đọc truyện cho nó nghe. Hai đứa sinh đôi đã làm xong bài tập nên được phép xem ti vi nửa tiếng. Meg giúp mẹ rửa chén bát và rồi ngồi vào bàn chiến đấu với đống bài tập về nhà. Nhưng nó chẳng thể nào tập trung được.
“Mẹ, mẹ lại lo à?” Đột nhiên nó hỏi.
Bà Murry rời mắt khỏi một bản tạp chí khoa học bằng tiếng Anh mà bà đang xem lướt. Trong một chốc bà không nói gì. Và rồi, “Ừ”.
“Tại sao ạ?”
Bà Murry lại ngập ngừng. Bà giơ hai bàn tay ra và ngắm nghía chúng. Chúng dài, mạnh mẽ và xinh đẹp. Những ngón tay phải của bà mân mê chiếc nhẫn vàng lớn trên ngón thứ ba của bàn tay trái. “Mẹ vẫn còn là một phụ nữ trẻ, con biết đấy”, cuối cùng bà nói. “Mặc dù, mẹ biết là mấy đứa trẻ các con thật khó có thể hiểu được. Và mẹ vẫn còn rất yêu bố con. Mẹ nhớ ông ấy vô cùng”.
“Và mẹ nghĩ rằng tất cả những thứ này có liên quan gì đó đến bố con?”
“Mẹ nghĩ chắc phải có”.
“Nhưng gì đó là cái gì chứ?”
“Điều đó thì mẹ không biết. Nhưng có vẻ đó là lý giải duy nhất”.
“Mẹ có nghĩ rằng mọi điều đều có một cách lý giải không?”
“Có. Mẹ tin như vậy. Nhưng mẹ nghĩ rằng với những giới hạn của con người, chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu hết những lý giải đó. Nhưng con thấy đấy, Meg, chỉ bởi vì chúng ta không hiểu, không có nghĩa là lý giải đó không tồn tại”.
“Con muốn hiểu được mọi thứ”, Meg nói.
“Chúng ta đều muốn vậy. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể được”.
“Charles Wallace hiểu được nhiều hơn tất cả chúng ta phải không ạ?”
“Phải”.
“Tại sao ạ?”
“Mẹ cho là bởi vì em con... ờ, bởi vì em con khác, Meg ạ”.
“Khác thế nào ạ?”
“Mẹ không chắc lắm. Bản thân con cũng biết em nó không giống với bất kỳ ai khác mà”.
“Không. Mà con cũng không muốn em như vậy”, Meg chống chế.
“Muốn hay không chẳng liên quan gì cả. Charles Wallace là chính em nó. Khác biệt. Chưa từng thấy”.
“Chưa từng thấy?”
“Đúng. Đó chính là điều mà bố con và mẹ cảm nhận”.
Meg quay bút chì quá mạnh khiến cái bút bị gãy. Nó cười váng. “Con xin lỗi. Con thực sự không có ý phá hoại đâu. Con chỉ cố hiểu rõ mọi chuyện thôi”.
“Mẹ biết”.
“Nhưng trông Charles Wallace chẳng khác gì ai cả”.
“Không khác, Meg ạ, nhưng con người ta không phải chỉ có mỗi vẻ bề ngoài. Sự khác biệt của Charles Wallace không phải là ở thể chất. Mà là ở bản chất”.
Meg thở dài nặng nề, gỡ cặp kính ra và quay tròn, rồi lại đeo lại. “Thôi được, con biết Charles rất khác, và con biết em còn hơn thế. Con đoán con chỉ phải chấp nhận điều đó, mà không hiểu gì cả”.
Bà Murry mỉm cười với Meg. “Có lẽ đó thực sự là điều mà mẹ đang cố gắng làm cho con hiểu”.
“Vâng”, Meg trả lời đầy vẻ hoài nghi.
Mẹ nó lại mỉm cười. “Có lẽ vì thế mà vị khách của chúng ta tối qua đã không làm mẹ ngạc nhiên. Có lẽ vì thế mà mẹ có thể có một... một sự sẵn sàng để kìm mối nghi ngờ lại. Vì Charles Wallace”.
“Thế mẹ có giống Charles không?” Meg hỏi.
“Mẹ ư? Trời ơi không. Mẹ được ban phúc có trí tuệ và cơ hội hơn nhiều người, nhưng chẳng có điều gì ở mẹ lại vượt ra ngoài khuôn khổ thông thường cả”.
“Trông mẹ giống thế lắm”, Meg nói.
Bà Murry cười. “Con không có đủ cơ sở để so sánh, Meg ạ. Mẹ rất bình thường, thực sự đấy”.
Calvin O’Keefe vừa mới vào tới nơi và lên tiếng, “Ha ha”.
“Charles ngủ say rồi à?” Bà Murry hỏi.
“Vâng”.
“Cháu đọc cái gì cho nó vậy?”
“Sáng thế ký. Nó chọn đấy ạ. Nhân tiện bác hỏi, bác vừa làm thí nghiệm gì chiều nay vậy, bác Murry?”
“Ồ, có vài thứ mà bác và bác trai đang cùng nhau sáng chế. Bác không muốn bị bỏ cách quá xa khi ông ấy quay về”.
“Mẹ”, Meg nói tiếp. “Charles nói rằng con không phải là cái này hay cái kia, chẳng phải thịt lợn, chẳng phải thịt gà, cũng chẳng phải thịt cá trích đỏ tươi”.
“Ô hay, gì mà ầm ĩ vậy”, Calvin nói, “em là Meg, đúng không nào? Thôi nào, chúng ta cùng đi dạo đi”.
Nhưng Meg vẫn chưa thỏa mãn. “Thế mẹ nghĩ anh Calvin là gì?” nó gặng hỏi mẹ nó.
Bà Murry cười. “Mẹ không muốn nghĩ Calvin là gì cả. Mẹ mến cậu ấy lắm và mẹ rất mừng cậu ấy đã tìm được đến đây”.
“Mẹ, mẹ định kể cho con về khối lập phương bốn chiều mà”.
“Ừ”. Một thoáng phiền muộn hiện lên trong mắt bà Murry. “Nhưng không phải bây giờ, Meg ạ. Không phải bây giờ. Hãy ra ngoài và đi dạo với Calvin. Mẹ sẽ lên hôn Charles rồi phải xem xem hai đứa sinh đôi đã ngủ chưa”.
Bên ngoài, cỏ ướt đẫm vì sương. Mặt trăng đã lên nửa trời, làm mờ đi những ngôi sao bởi quầng sáng vĩ đại của nó. Calvin vươn người nắm lấy tay Meg, một cử chỉ bình thường và thân thiện như Charles Wallace vẫn thường làm. “Có phải em vừa làm mẹ lo lắng không?” Calvin dịu dàng hỏi.
“Em không nghĩ là do em. Nhưng đúng là mẹ có lo lắng”.
“Về điều gì vậy?”
“Về Bố”.
Calvin dẫn Meg băng qua bãi cỏ. Bóng những cái cây đổ dài và xoắn xuýt với nhau, hương mùa thu ngòn ngọt, ướt đẫm cả không gian. Meg trượt chân suýt ngã khi đoạn đường bỗng dốc xuống chân đồi, nhưng bàn tay mạnh mẽ của Calvin đã kịp đỡ lấy nó. Chúng bước thận trọng qua vườn rau của hai đứa sinh đôi, rón rén ngang qua những dãy bắp cải, củ cải đường, cải xanh và bí ngô. Lờ mờ hiện ra bên trái chúng là những cụm bắp ngô cao vống. Trước mặt chúng là một vườn táo nhỏ bao quanh bởi bức tường đá, và xa hơn nữa chính là khu rừng mà chúng đã đi qua chiều nay. Calvin đi đến bức tường, rồi ngồi xuống đó, mái tóc đỏ của nó như dát bạc dưới ánh trăng, người nó lốm đốm hình những nhành cây quấn lấy nhau. Nó với người lên, giật một quả táo trên một cành lắm mấu và đưa cho Meg, rồi lại hái một quả khác cho mình. “Kể cho anh nghe về bố em đi”.
“Ông ấy là một nhà vật lý”.
“Hẳn rồi, tất cả chúng ta đều biết vậy. Và mọi người cho rằng ông ấy đã bỏ mẹ em để đi với mấy bà nào đó”.
Meg đứng phắt dậy khỏi tảng đá vừa ngồi, nhưng Calvin đã chộp lấy cổ tay nó và kéo nó ngồi xuống. “Từ từ nào, cô bé. Anh chưa hề nói điều gì mà em chưa từng được nghe, phải không nào?”
“Chưa”, Meg nói, nhưng vẫn tiếp tục giằng ra. “Để em đi”.
“Thôi nào, bình tĩnh đi. Em biết đó không phải sự thật, anh biết đó không phải sự thật. Và người nào đó đã nhìn thấy mẹ em rồi mà vẫn có thể tin có người đàn ông nào lại rời bỏ bà để đi theo người đàn bà khác được, thì chỉ chứng tỏ ghen tuông có thể đẩy con người ta đến đâu thôi. Phải không?”
“Em đoán là vậy”, Meg nói, nhưng niềm hạnh phúc trong nó đã biến mất, nó lại trở về với bãi lầy của sự trách móc và tức giận.
“Nhìn xem, ngốc ạ”, Calvin lắc người nó nhè nhẹ. “Anh chỉ cố hiểu rõ mọi chuyện thôi mà, phần nào biết được sự thật từ những điều bịa đặt. Bố em là một nhà vật lý. Đó là sự thật, đúng chứ?”
“Đúng”.
“Ông ấy được bằng tiến sĩ vài lần?”
“Đúng”.
“Phần lớn thời gian ông làm việc một mình nhưng thỉnh thoảng ông ở Viện Nghiên cứu cao cấp tại Princeton. Chính xác?”
“Chính xác”.
“Sau đó, ông làm một số việc cho chính phủ, đúng không?”
“Đúng”.
“Từ đoạn này thì đến lượt em. Đó là tất cả những gì anh biết”.
“Cũng là tất cả những gì em biết”, Meg nói. “Có lẽ Mẹ biết nhiều hơn. Em không biết nữa. Công việc của bố là... ừm, nó là cái mà người ta gọi là Mật”.
“Ý em là Tối Mật hả?”
“Đúng rồi”.
“Và em thậm chí không có chút khái niệm gì về việc đó hay sao?”
Meg lắc đầu. “Không. Không hẳn. Chỉ một chút căn cứ vào nơi bố làm việc”.
“Được, ở đâu vậy?”
“Ngoài New Mexico một đoạn; chúng em ở với bố tại đó; và rồi bố sang Florida ở Mũi Canaveral, chúng em cũng ở đấy với bố. Rồi bố đi xa nhiều quá, nên chúng em dọn đến đây”.
“Vậy trước đấy gia đình em đã có ngôi nhà này rồi à?”
“Vâng. Nhưng thường nhà em chỉ ở đây vào mùa hè”.
“Và em cũng không biết bố em được cử đi đâu?”
“Không. Mới đầu, nhà em nhận được rất nhiều thư. Hàng ngày, Mẹ và Bố đều viết thư cho nhau. Em nghĩ Mẹ giờ vẫn tiếp tục viết cho bố hàng đêm. Thỉnh thoảng, bà giám đốc bưu điện vẫn kể chuyện phiếm về những lá thư của mẹ”.
“Anh đoán họ sẽ nghĩ mẹ em đang cố níu kéo bố em hay gì đó”, Calvin nói, giọng có chút cay đắng. “Họ không thể hiểu được tình yêu giản dị và bình thường khi họ nhìn thấy nó. Thôi được, tiếp tục nào. Điều gì xảy ra sau đó?”
“Chẳng có gì xảy ra cả”, Meg nói. “Đó mới là vấn đề”.
“Vậy, còn những lá thư của bố em?”
“Chúng không đến nữa”.
“Em không nghe được tin tức gì hết à?”
“Không”, Meg nói. “Không gì hết”. Giọng nó nặng trĩu vì đau đớn.
Sự im lặng rơi vào giữa chúng, hữu hình như những bóng cây đen thẫm vô tình in trên lòng chúng, lúc này đây dường như đè nặng lên chúng như thể chính những bóng cây ấy cũng sở hữu một trọng lượng có thể đo đếm được của riêng mình.
Cuối cùng, Calvin cất tiếng, giọng nó khô khốc và vô cảm, không hề nhìn Meg. “Em có nghĩ bố em có thể đã chết không?”
Một lần nữa, Meg nhảy dựng lên, và lại một lần nữa, Calvin kéo nó xuống. “Không! Họ hẳn đã báo với gia đình em nếu như ông chết rồi. Luôn phải có một bức điện báo hoặc cái gì đó. Họ sẽ báo!”
“Họ báo cho nhà em những gì?”
Meg cố nén tiếng khóc nấc, gắng tự chủ để nói tiếp. “Ôi, Calvin, Mẹ đã cố và cố để tìm ra. Mẹ đã đến Washington và mọi nơi. Và tất cả những gì họ nói vẫn chỉ là ông ấy đang tham gia một nhiệm vụ bí mật và nguy hiểm, và mẹ có thể vô cùng tự hào về ông ấy, nhưng ông ấy sẽ không thể... liên lạc với gia đình em trong một thời gian. Và họ sẽ cho gia đình em biết tin tức ngay khi họ nhận được”.
“Meg, đừng cáu nhé, em có nghĩ rằng có thể chính họ cũng không biết?”
Một giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống má Meg. “Đó chính là điều em lo sợ”.
“Tại sao em không khóc?” Calvin nhẹ nhàng hỏi. “Em đúng là đang phát điên lên vì lo cho bố mình, không phải sao? Cứ tiếp tục và hãy khóc đi. Như thế sẽ tốt cho em”.
Giọng của Meg òa lên trong nước mắt. “Em đã khóc nhiều, quá nhiều. Em nên giống mẹ. Em nên biết cách tự chủ”.
“Mẹ em là một người hoàn toàn khác và bà lớn tuổi hơn em nhiều”.
“Ước gì em là một người khác”, giọng Meg run run. “Em ghét bản thân mình”.
Calvin với tay gỡ cặp kính của Meg ra. Rồi nó lấy khỏi túi một chiếc khăn tay và lau nước mắt cho Meg. Cử chỉ dịu dàng đó đã giải tỏa hoàn toàn cho Meg, con bé gục đầu xuống đầu gối và khóc nức nở. Calvin lặng lẽ ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng lại vỗ nhẹ vào đầu con bé.
“Em xin lỗi”, cuối cùng, nó nấc lên. “Em vô cùng xin lỗi. Giờ anh sẽ ghét em”.
“Ồ, Meg, em đúng là một cô bé ngốc”, Calvin nói. “Em không biết rằng em chính là điều tốt đẹp nhất đã đến với anh trong suốt một thời gian dài sao?”
Meg ngẩng đầu lên, ánh trăng rọi vào gương mặt hoen nước mắt của nó; không có cặp kính, đôi mắt nó đẹp lạ lùng. “Nếu Charles Wallace là một kẻ biến dị, thì em nghĩ chính em là một sai lầm của sinh học”. Ánh trăng lóe sáng phản chiếu bộ nẹp hàm khi nó nói.
Lúc này, nó đang chờ đợi một lời phủ nhận. Nhưng Calvin nói, “Em có biết đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy em không đeo kính không?”
“Em mù y như loài dơi nếu không có kính. Em bị cận thị, giống Bố”.
“Ồ, em biết không, em có một đôi mắt đẹp mê hồn”, Calvin nói. “Nghe này, em rất có lý khi đeo cặp kính lên mắt. Anh không nghĩ là anh muốn bất kỳ ai khác được nhìn thấy đôi mắt tuyệt đẹp của em”.
Meg mỉm cười sung sướng. Nó cảm thấy mặt đỏ bừng, và nó tự hỏi liệu bộ mặt ửng đỏ của nó có thể thấy được dưới ánh trăng hay không.
“Được rồi, chờ một chút, hai người”, một giọng nói vang lên trong bóng tối. Charles Wallace bước vào vùng ánh trăng. “Em không theo dõi anh chị đâu”, nó nói nhanh, “và em rất ghét phải phá bĩnh, nhưng đây chính là thời điểm đó, mấy nhóc ạ, đây chính là thời điểm đó!” Giọng nó run lên vì kích động.
“Chuyện gì đây?” Calvin nói.
“Chúng ta chuẩn bị đi”.
“Đi? Đi đâu?” Meg nhoài người ra và theo bản năng chộp ngay lấy tay Calvin.
“Em không biết chính xác”, Charles Wallace nói. “Nhưng em nghĩ là để tìm bố”.
Đột nhiên, có hai con mắt như nhảy xổ vào chúng từ trong bóng tối; ánh trăng rọi vào đôi mắt kính của Bà Ai Đấy. Bà đang đứng ngay cạnh Charles Wallace, và Meg chẳng hiểu làm thế nào bà lại có thể xuất hiện ở nơi mà một giây trước đó chẳng có gì ngoài những cái bóng lập lòe dưới ánh trăng. Nó nghe thấy có tiếng động đằng sau và quay lại. Bà Gì Đó đang trườn qua tường.
“Chà chà, tôi ước gì trời không có gió”, Bà Gì Đó than vãn. “Thật khó khăn với tất cả những thứ quần áo này”. Bà mặc bộ trang phục giống đêm hôm trước, đôi ủng cao su và mọi thứ, thêm vào đó là một cái ga giường của bà Buncombe phủ quanh người. Khi bà trượt khỏi bức tường, cái ga giường mắc vào một cành thấp và tuột ra. Chiếc mũ phớt sụp xuống cả hai mắt, một cành cây khác giật tung cái khăn choàng hồng. “Ôi, cưng ơi”, bà thở dài. “Ta sẽ không bao giờ học được cách xoay sở cả”.
Bà Ai Đấy chạy ngay tới chỗ bà, đôi chân bé xíu dường như không chạm đất, cặp thấu kính ở đôi kính mắt lấp lánh. “Come t’è picciol fallo amaro morso! Dante. Một lỗi nhỏ mà khiến cho người đau đớn làm sao!” Với bàn tay như móng vuốt, bà kéo chiếc mũ trên trán Bà Gì Đó lên, gỡ cái khăn khỏi cây, và bằng một động tác thật khéo léo, nhặt cái ga giường lên và quấn lại.
“Ồ, cảm ơn”, Bà Gì Đó nói. “Chị thật tài tình!”
“Un asno viejo sabe más que un potro. A. Pérez. Một con lừa già biết nhiều hơn một con ngựa non”.
“Chỉ bởi chị là một kẻ tầm thường vài tỉ năm...” Bà Gì Đó đang phẫn nộ thì một giọng nói sắc bén và kỳ lạ xen vào.
“Đđượcc rrồi, ccácc côô ggáii. Kkhônng cònn thờii ggiờ đđể cãi lộn nnữaa đđââu”.
“Đó là Bà Cái Nào”, Charles Wallace nói.
Một luồng gió mạnh khiến những chiếc lá run rẩy, những hình thù dưới ánh trăng di chuyển, và trong một vòng tròn màu bạc, có cái gì đó tỏa sáng, rung rinh, rồi một giọng nói cất lên, “Ttôii kkhông nnghĩ ttôii ssẽ hhiệnn hìnnh hhoànn toànn. Ttôii thâấy tthế rrất mệtt, mmà chhúngg tta cònn ccó qquá nnhiềuu viiệc pphải làmm”.
Nếp Gấp Thời Gian Nếp Gấp Thời Gian - Madeleine L'engle Nếp Gấp Thời Gian