Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 4
K
hông biết câu chuyện đọc được trong sách vở này là có thật hay không, rằng ngày xưa, có một chú khỉ, bằng cách chuyền từ cây này sang cây khác, đã có thể rời Roma tới Tây Ban Nha mà không hề chạm đất. Vào thời của tôi thì những chỗ dày đặc cây cối như thế chỉ có ở vịnh BóngRâm, từ bờ này sang mỏm kia, từ cái thung lũng cho đến những chỏm núi của nó; và cũng chính vì thế mà các địa danh của chúng tôi được nhắc đến khắp nơi.
Bây giờ các khu vực ấy không còn nhận ra được nữa. Khi quân Pháp tới đây, người ta bắt đầu đốn rừng như thể phạt đồng cỏ hằng năm để cỏ lại mọc lên. Những cánh rừng không mọc lại. Tưởng chỉ là sự vụ của chiến tranh, của Napoléon, của một thời buổi: thế mà rừng cứ bị đốn mãi. Nhìn các sườn núi trơ trụi, chúng tôi, những người đã biết chúng trước đó, thấy mà sững sờ.
Ngày ấy, đi đâu chúng tôi cũng thấy một bầu trời cành lá. Những khu vực cây cối thấp hơn cả là những vườn chanh, tuy nhiên, xen trong đó, cũng có những cây sung quằn quèo vươn lên; trên những triền đồi núi cao, chúng trĩu chịt những những vòm lá che kín bầu trời; và nếu không là cây sung, thì đây: cây anh đào với lá màu nâu, cây mộc qua mềm mại, cây đào, cây hạnh, cây lê tươi trẻ, hoặc cây mận sum suê, rồi khi không là cây lê đá hoặc cây minh quyết, thì này: cây dâu tằm, hoặc một cây óc chó lâu năm. Hết những vườn cây ăn trái thì bắt đầu những khu vườn ôliu. Một giải mây xám bạc kết nụ trên sườn núi. Tọa giữa cái bến cảng dưới thấp và một thành lũy dựng cao, là cái thị trấn chồng xếp; và ngay cả ở đó, giữa các mái nhà, vô số những chòm cây lô nhô: sồi xanh, tiêu huyền, cả sồi dẻ, những loài thực vật vô tư và đĩnh đạc bừng trổ – một kiểu bừng trổ ngăn nắp – trong khu vực mà những gia đình quý tộc đã kiến tạo nên trang viên và vòng rào bao quanh các ngôi vườn của họ.
Đi quá những vườn ôliu, rừng bắt đầu. Rừng thông hẳn có thời từng ngự trị cả vùng đất này, bởi luồng và khóm của chúng vẫn còn len lỏi từ trên những triền núi xuống đến bãi biển, những cây thông rụng lá cũng vậy. Những cây sồi dẻ hẳn đã từng hiện diện nhiều và dày khít hơn, không như bây giờ người ta nghĩ, bởi chúng đã là các nạn nhân đầu tiên và được ưu ái nhất của những lưỡi cưa. Quá lên trên nữa, thông nhường chỗ cho dẻ: rừng đâm tít tắp lên núi, không thấy đâu là giới hạn. Đó từng là cái vũ trụ nhựa sống trong sinh hoạt của chúng tôi, cư dân vùng BóngRâm, mà hầu như chúng tôi không ý thức.
Cosimo là người đầu tiên suy xét kỹ chuyện này. Anh hiểu ra, với cây cối rậm rạp như thế, mình có thể di chuyển nhiều dặm đường bằng cách chuyền từ cành này sang cành khác mà không bao giờ phải tụt xuống. Đôi lúc, hở ra một khoảng đất trống, anh phải di chuyển theo những tuyến dường vòng rất dài, song anh nhanh chóng làm quen với mọi chặng bắt buộc, anh không còn đo khoảng cách theo kiểu ước lượng thông thường, mà luôn nhớ trong đầu những chặng đường vòng vo phải tiến hành trên cành. Rồi tại những nơi mà một cú phóng cũng không thể vươn tới cành cây gần nhất, anh sẽ sử dụng những thủ thuật; nhưng tôi sẽ kể chuyện này sau; giờ thì chúng ta vẫn ở tại cái buổi bình minh khi mà thức dậy, anh thấy mình đang ở trên đỉnh một cây sồi xanh, giữa tiếng chiêm chiếp huyên náo của đàn sáo đá, người đẫm ướt sương lạnh, tê cóng, xương sậu mỏi rời, kiến bò trên bắp chân bắp tay, và anh sung sướng lao vào việc thám hiểm cái thế giới mới.
Cosimo chuyền tới ngọn cây tận cùng trong vườn, một cây tiêu huyền. Dưới kia: cái thung lũng thả dốc vào một mũ miện mây, những cụm khói bốc lên từ vài mái đá bảng, những căn nhà đồng quê ẩn mình sau những gò dốc trông như những đống đá cuội. Cây sung, cây anh đào dựng lên cả một vòm trời lá; thấp hơn, cây mận, cây đào trổ cành nhánh béo lùn; có thể thấy tất cả, ngay cả cỏ, từng đọn một, song lại không thấy màu của đất, trùm phủ bởi lá bí ngô nhàn tản, lá xà lách loăn xoăn, hoặc những bông cải trong nương trồng. Cũng y như thế, triền này và triền kia của cái thung lũng hình chữ V mở ra như một miệng phễu chứa biển cả mênh mông.
Và trên cái cảnh tượng này, như thể gợn lên một đợt sóng, vô hình, cũng như vô thanh, ít ra là đôi lúc, song điều mà người ta nghe ra, đủ để truyền tỏa một nỗi day dứt: tiếng gầm thét xé lên bất chợt, sau đó, dường như loạt lào rào lịch thịch, và có lẽ, cả tiếng răng rắc của một cành cây gãy, rồi lại tiếng gầm thét, song lần này thì khác, những giọng điệu cuồng nộ, quy tụ về nơi trước đó những tiếng gầm thét đã xuất phát. Rồi không gì nữa, một cảm giác hình thành bởi sự trống lặng, như thể một cuộc trải nghiệm, về cái điều gì đó được trông chờ, không từ nơi kia, mà từ một chốn khác hẳn, và thật vậy, toàn thể những giọng điệu và tiếng động lại bắt đầu, chốn khởi nguồn khả dĩ của chúng, đâu đó trong thung lũng, lúc nào cũng là nơi mà những cụm lá anh đào răng lược be bé đang vờn trong gió. Thế nên Cosimo – một phần tâm trí lênh đênh lễnh đễnh, phần kia thì ý thức và sớm sủa lĩnh hội trọn vẹn – luận ra cái ý tưởng này: cây anh đào biết nói.
Anh đang chuyền về phía cây anh đào gần nhất, đúng hơn, một rặng anh đào cao to, sum suê cành lá xanh mướt và trĩu chịt những chùm anh đào đen nhánh, nhưng mắt anh chưa phân biệt ngay lập tức cái gì có cái gì không trên cành. Anh dừng lại, trước đó anh nghe thấy tiếng động, bây giờ thì không. Anh đang ở một cành thấp nhất, anh cảm thấy toàn bộ những chùm anh đào ở bên trên, biết giải thích thế nào đây, dường như đang đồng quy về mình, tóm lại: dường như một cái cây với những con mắt thay vì những trái anh đào.
Cosimo ngước mặt lên, một trái anh đào chín già rụng trên trán anh kêu đánh toóc! Hấp hé mí mắt, nhìn đối sáng (phía mặt trời đang lên), anh thấy trên đó và trên những cây kề cạnh có nhiều chàng nhóc đang đu đeo.
Thấy bị bắt gặp, chúng phá tan sự im lặng, qua những giọng nói lanh lảnh dù đã hãm bớt, chúng thốt lên những câu như:
– Nhìn kìa chúng mày! Tay này trông bảnh ghê!
Và từ trên cành, mỗi đứa, vừa vạch đám lá trước mặt vừa tụt xuống một cành thấp hơn, về phía cậu công tử đội mũ ba góc. Chúng để đầu trần hoặc đội mũ rơm sổ vành, một số đứa đội bao thay mũ; áo sơ mi và quần ống túm của chúng rách bươm, đứa nào chân không mang giày thì quấn vải, vài đứa, guốc gỡ khỏi chân, quàng lên cổ để trèo; chúng chính là cái băng hái trộm trái cây nổi tiếng, mà Cosimo và tôi – ở điểm này thì tuân thủ mệnh lệnh gia đình – luôn xa lánh. Thế nhưng, sáng hôm đó, dường như anh tôi lại mong gặp chúng, dù chính anh cũng không rõ điều này sẽ hứa hẹn gì.
Anh ở yên một chỗ chờ lũ trẻ đang lần xuống, chỉ trỏ, đánh tiếng với anh qua cái giọng nói chí chóe đã giảm nhỏ của chúng, những lời bình luận như:
– Tay này kiếm chác gì ở đây vậy ta?
Cùng lúc bọn trẻ còn nhổ hoặc ném vào anh những hột anh đào, những trái cây hư thối hoặc lỗ chỗ vết mổ chim sáo đá, sau khi chúng đã được lia xoay tít quanh cuống trên không trung theo cách của một chiến binh trang bị túi văng đá.
Chúng đồng thanh:
– Úi chà!
Chúng đã thấy thanh gươm ngắn lủng lẳng đằng sau anh.
– Ô nhìn kìa chúng mày, thấy gì không?
Lại một loạt cười rộ.
– Một cây roi để đét đít!
Sau đó, im bặt, chúng nén cười vì có một điều khoái chí ngoặt nghẽo sắp diễn ra: hai chú trộm tinh quái, lặng lẽ, êm ru bà rù, trườn tới cái cành ngay phía trên Cosimo, và đang thả miệng của một cái túi ụp lên đầu anh (một trong những cái túi nhơm nhớp của chúng, dùng để chứa chiến lợi phẩm, và khi còn trống, thì thắt làm khăn đội đầu rủ xuống vai). Lát nữa thôi, anh tôi sẽ bị lọt gọn trong đó mà chẳng hiểu trời trăng gì, chúng có thể buộc anh lại như một cục xúc xích rồi tha hồ mà nện.
Cosimo đánh hơi thấy mối nguy, hoặc có lẽ chẳng đánh hơi đánh hung gì: thấy mình bị cười nhạo vì thanh gươm, anh muốn tuốt nó ra để bảo tồn danh dự. Anh vung cao, lưỡi gươm sướt qua cái bao, nhìn thấy nó, anh xoáy và giật khỏi tay hai chú nhóc tinh quái, rồi hất nó bay đi.
Đòn ngoạn mục. Những đứa còn lại thốt lên: “Ối!”, vừa thất vọng vừa thán phục, và hai đứa đồng bọn để bị giật mất cái bao phải hứng chịu những lời rủa bằng tiếng địa phương kiểu:
– Đồ ngu! bẽ mặt chưa!
Cosimo chưa kịp mừng thắng lợi. Từ dưới đất một cơn thịnh nộ khác nổ chéo lên. Chó sủa, đá bay, la hét:
– Lũ trộm khốn kiếp! lần này thì chúng mày cùng đường rồi.
Những mũi đinh ba giương cao. Những chú trộm thu mình trên cành, khuỷu tay bắp chân rụt lại. Tiếng ầm ĩ xung quanh Cosimo đã báo động cho các nông dân, đang mai phục trong vườn.
Một lực lượng hùng hậu sửa soạn cuộc đột kích. Mệt mỏi vì tình trạng cứ phải chịu cái cảnh trái cây đang chín muồi bị hái trộm, nhiều chủ đất và thợ lĩnh canh ở thung lũng đã liên minh với nhau. Chiến thuật của lũ trẻ ranh mãnh là tất cả cùng trèo lên hái trộm một vườn cây ăn quả, chất đầy túi, và biến đi một nơi khác xa lắc xa lơ, rồi lại lặp lại từ đầu; chỉ có cách là đối phó với chúng bằng một chiến thuật tương tự: tức là cùng nhau mai phục tại một vườn cây mà chẳng chóng thì chày chúng sẽ kéo đến, rồi thộp cổ chúng tại chỗ. Lúc này, những con chó, xiềng đã tháo, mõm lởm chởm răng, gầm gừ chồm sủa dưới những gốc anh đào, và những mũi xúc rơm thì xọc xọc lên không trung. Dăm ba chú nhóc tì nhảy xuống đất, chưa kịp xoay xở, đã bị những mũi đinh ba hoặc những cú táp soạc lỗ trên lưng áo và đít quần, chúng la toáng lên, phóng chạy, húc đầu đâm thủng những rặng nho. Thế là chẳng đứa nào trong bọn dám xuống nữa: chúng thất kinh đeo dính trên cành, Cosimo cũng thế. Giờ thì những nông dân đã dựng thang xong dưới những gốc anh đào, họ bắt đầu leo lên, mũi đinh ba tiến trước.
Trải qua ít phút, Cosimo mới hiểu ra: quả là vô lý khi để bị lây nỗi sợ từ băng đảng giang hồ này, và cũng vô lý nốt khi nghĩ rằng lũ nhóc này quả là tài giỏi, còn mình thì không. Việc chúng ngẩn người ra như trời trồng là một minh chứng: chúng nào có nghĩ đến việc trốn sang những cây xung quanh. Chính bằng cách đó mà anh tôi đã tới được nơi đây và cũng chính bằng cách này anh tôi có thể rời đi: anh xịch lại chiếc mũ ba góc trên đầu, tìm ra cành cây bắc cầu, chuyển từ cây anh đào sang cây minh quyết, từ cây minh quyết đu đưa bám sang cây mận, và cứ tiếp tục như vậy. Thấy anh di chuyển từ cành này sang cành khác như thể đang lượn là trên một quảng trường, bọn trẻ hiểu rằng, cần phải chuyền theo anh ngay lập tức, bằng không, nếu để mất dấu, chẳng biết mình sẽ nhận hình phạt nào; chúng bám sát anh trong im lặng, lần theo một hành trình ngoằn ngoèo. Lúc này, trên cây sung, anh phóng qua bờ rào của ngôi vườn, bám vào một cây đào với những cành mềm, đến mức mỗi lần chỉ có thể một người đu trên đó. Cành đào chỉ được dùng để bám tới một chạng cây ôliu khúc khuỷu nhô lên từ một bờ tường; từ cây ôliu, anh nhảy sang cây sồi có một cành vạm vỡ chìa sang bên kia một bờ suối, thế là anh có thể vọt sang vườn cây bên đó.
Những người đàn ông cây xỉa trong tay, tin rằng thế nào những chú nhóc hái trộm trái cây rồi sẽ bị tóm gọn, ấy thế mà họ lại phải chứng kiến bọn chúng túa ra trên không trung như một bầy chim. Họ bám theo chúng, giữa tiếng gầm gừ của lũ chó, nhưng phải vòng qua cái rặng cây, bức tường, rồi gặp một con suối, trong một khu vực chẳng có một chiếc cầu nào, và trong lúc tìm kiếm chỗ nước cạn để lội qua, họ để lỡ thời gian, thế là lũ trẻ đã ở đằng xa mất rồi, và đang ba chân bốn cẳng chạy tuốt.
Bây giờ mới đúng là lũ trẻ đang chạy trên mặt đất. Chỉ còn lại anh tôi trên cây. Không còn thấy anh, họ hỏi nhau: – cái tên nhóc chim khoang cổ với bộ ghệt biến đi đâu rồi? Họ ngước mắt nhìn lên: anh đang đu bám trên cây ôliu.
– Này, cậu kia! xuống đi, lũ chúng nó đã bị tống khứ rồi!
Không nghe lời, anh chuyền từ cành này sang cành khác, từ cây ôliu này sang cây ôliu khác, rồi biến mất giữa những đám lá dày đặc, óng ánh bạc.
Giờ thì ở dưới đáy thung lung, lũ nhóc giang hồ, đầu đội bao, tay cầm gậy, đang đột kích vườn anh đào. Chúng tiến hành có phương pháp, tỉa từng cành một, cho tới lúc, chúng bắt gặp ai nhỉ? Chính là cậu công tử đeo bộ ghệt, chân bắt chéo, đang đu đeo trên ngọn của một cái cây cao nhất, với hai ngón tay bứt từng cuống trái anh đào và bỏ vào chiếc mũ ba góc đặt trên đùi.
– Ê! Chú mày chui ra từ đâu vậy.
Chúng xấc xược hỏi. Nhưng tiu nghỉu ngay, bởi vì dường như Cosimo đã có cánh mà bay đến đây.
Lúc này, anh tôi nhặt từng trái anh đào từ trong chiếc mũ ba góc, bỏ vào miệng như những trái mứt ngọt. Và chụm môi phụt nhổ những cái hột, cẩn thận không để vấy bẩn chiếc áo gi lê.
– Cái giống-ăn-cà-rem này – một đứa nói – muốn gì đây? Tại sao hắn xen vào chuyện của chúng ta? Tại sao hắn không ăn anh đào trong vườn nhà hắn?
Song chúng có phần bối rối, bởi vì chúng hiểu rằng ở trên cây anh là kẻ cao cường hơn bất cứ đứa nào trong bọn chúng.
– Trong đám dân-ăn-cà-rem này – một đứa khác nói – thỉnh thoảng, do lầm lẫn, cũng thòi ra một đứa tài giỏi: tiểu thư Sinforosa chẳng hạn…
Nghe thấy cái tên bí ẩn này, tai Cosimo vểnh lên, và chính anh cũng chẳng hiểu tại sao mặt mình lại trở nên đỏ tía.
– Nàng Sinforosa đã phản bội chúng ta! một đứa khác nói.
– Dù là một dân-ăn-cà-rem, song nàng này quả là tài giỏi, nếu sáng nay mà có nàng tại đó thổi tù và thì tụi tao đã không bị bắt gặp.
– Tất nhiên, ngay cả một giống-ăn-cà-rem, nếu muốn, chúng tao sẵn sàng cho theo phe!
(Cosimo hiểu rằng giống-ăn-cà-rem có nghĩa là dân thành thị, quý tộc, hay đại khái, những đứa thuộc tầng lớp giàu có).
– Ê tên kia – một đứa gióng tiếng – giao kết rõ ràng nhé: nếu muốn nhập băng với chúng tao, thì những chuyến ra quân chú mày sẽ trổ tài cùng chúng tao và chỉ cho chúng tao những tuyến đường mà chú mày đã rành rẽ.
– Và hãy để chúng tao xâm nhập vào vườn trái cây của bố chú mày! – một đứa khác nói – có lần người nhà mày đã bắn muối lên người tao đấy!
Cosimo lặng yên nghe chúng nói, song anh như đang bị một ý nghĩ cuốn hút. Rồi anh nói:
– Hãy nói cho tao nghe, nàng Sinforosa là ai?
Thế là toàn bộ lũ trẻ ẩn hiện giữa đám cành lá phá lên cười, cười ngặt nghẽo, đến nỗi, có những đứa suýt bị rớt từ trên cây anh đào xuống đất, đứa thì lật nhào người, chân khoèo vào cành, đứa thì người lọt tõm xuống, tay phải bám cành đu đưa, trong lúc không ngớt cười khúc khích và hò hét.
Qua sự ầm ĩ như thế, quả là dễ hiểu, chúng đã bị những người săn đuổi chúng bám sát gót. Thật vậy, cả một đội quân với những chú chó đang ở ngay gần đó, bởi vì những tiếng sủa đã inh ỏi vọng đến, và đây rồi, tất cả bọn họ với những cây đinh ba. Có điều là lần này, đã học được từ những thất bại trong quá khứ, việc đầu tiên họ làm là bắc thang chốt xung quanh các gốc cây, leo lên trên đó để bủa vây lũ trẻ với đinh ba và lưỡi cào. Dưới đất, những chú chó, trước cuộc phân bố người trên cây, thoạt tiên không hiểu phải sừng sổ vào nơi nào, có phần bị phân tán, đứng tru mõm lên không trung mà sủa.
Chỉ còn Cosimo trụ lại trên cây.
– Xuống đi!
Những đứa trẻ khác hét lớn về phía anh trong lúc tìm cách thoát thân.
– Chú mày làm gì vậy? Ngủ hả? Hãy nhảy xuống đất khi vẫn còn đường chạy!
Thế nhưng Cosimo, đầu gối tì sát vào cành, tuốt gươm. Từ những gốc cây kề cận, những bác nông dân thọc những mũi đinh ba được nối dài vào đầu những chiếc gậy để có thể chạm tới chỗ anh, và Cosimo, khua gươm gạt chúng ra, cho tới lúc một mũi dấn sát ngực và gí anh vào thân cây.
– Dừng lại! – một người lên tiếng – Đó là cậu Nam Tước MưaGiông! Cậu Tướng công làm gì trên đó vậy? Sao cậu lại dính với cái đám ranh con ấy?
Cosimo nhận ra bác Giuà xứ Vasca, người thợ lĩnh canh thân tín của bố.
Những chiếc đinh ba rụt lại. Nhiều người ngả mũ chào anh. Cosimo, bằng hai ngón tay, cũng giở chiếc mũ ba góc và uốn người.
– Này, này, mọi người dưới kia, hãy buộc những con chó lại! – họ bắn tiếng xuống.
– Hãy để cậu Nam tước xuống! Cậu có thể xuống rồi, nhưng hãy cẩn thận, cậu à! bởi vì cây này rất cao! À cậu hãy đợi đó, chúng tôi sẽ bắc một chiếc thang! Và chính tôi sẽ đưa cậu về nhà!
– Không, không, xin cám ơn, xin cám ơn – anh tôi nói – Các bác đừng bận tâm, cháu biết con đường của mình, chỉ cháu mới biết con đường của cháu!
Anh lẩn ra sau cái chạc cây, và ló ra trên một cành khác bên trên, và lại lẩn ra sau chạc cây ở trên đó, và người ta chỉ còn thấy chân anh trên cái cành cao nhất, và bởi vì trên đó là những tán lá rậm rạp, và chân anh thì thoăn thoắt, và người ta không còn thấy anh nữa.
– Cậu ấy đâu rồi?
Mọi người hỏi nhau, không biết nhìn vào đâu nữa, trên hay dưới.
– Đây rồi!
Anh đang ở trên đỉnh của một cây khác, từ xa, rồi lại biến mất.
– Đây rồi!
Anh lại đang ở trên đỉnh của một cây khác, đang đong đưa như thể được gió ru, và anh buông người.
– Cậu ấy ngã rồi! Không, không phải! Cậu ấy ở đằng kia kìa!
Người ta chỉ còn thấy, bên trên sự khua động của màu xanh, chiếc mũ ba góc và cái đuôi tóc.
– Cậu chủ của ông đấy à? – họ hỏi bác Giuà xứ Vasca – Cậu ta là một con người, hay là một con vật hoang dã? Hay lại là một quỷ vương đội lốt người?
Bác Giuà xứ Vasca ngẩn người không biết trả lời làm sao. Ông làm dấu thánh giá.
Mọi người nghe ra tiếng hát của Cosimo, một kiểu hét xướng nhịp.
– Ố là Sin-fo-ro-saaà…!