Số lần đọc/download: 1676 / 28
Cập nhật: 2017-08-30 02:57:06 +0700
Chương 4 -
A
nh em gần nhau lại yêu nhau như vậy, ai cũng tưởng ngày càng dài nghĩa càng mặn, nào dè Quảng Giao thuở nay không chịu đi chơi, mà chừng có Bác Ái về ở gần được ba tháng rồi thì anh ta sanh tâm hay đi chơi đêm lắm. Ban đầu hai ba đêm anh ta mới đi chơi một lần, mà có đi thì chừng 11 giờ hoặc 12 giờ khuya thì về, lần lần mỗi đêm mỗi đi, có đêm cho tới hai ba giờ, nhứt là tối thứ bảy thường đi tới sáng bét. Bác Ái lại chơi hai ba lần không gặp Quảng Giao ở nhà thì buồn chí nên không muốn lại nữa. Còn Xuân Hoa thấy chồng hay bỏ nhà đi chơi thì buồn thầm, song vì sợ chồng phiền nên ban đầu cứ giả bộ làm vui không dám nói. Lần lần thấy chồng đi thường quá, sợ mê hoa nguyệt mà đánh đổ cang thường, hoặc sa đắm bạc bài mà bại suy gia sản, nên mới nhỏ to than thở dứt bẩn chồng. Thiệt, hễ Xuân Hoa lấy lời đoan chánh khuyên lơn, thì coi bộ Quảng Giao có sắc ăn năn, mà cách chừng vài bữa sau lại cũng cứ đi chơi như cũ.
Có bữa Quảng Giao dạy học 5 giờ ra đi mất cho tới sáng rồi đi dạy luôn đến trưa bữa sau mới về nhà ăn cơm, vóc mình gầy, mắt vàng ẻo. Xuân Hoa buồn rầu hết sức không lời chi can gián nữa, chỉ đêm khuya ngồi trong phòng ngó ngọn đèn tàn rồi đau lòng rơi lụy mà thôi. Cô muốn viết thơ gởi về mẹ ruột với mẹ chồng tỏ hết đoạn thảm mối sầu cho hai mẹ nghe, mà cô nghĩ hai mẹ ở nhà, người thương rể, kẻ thương con, nếu mình đem cái tin chẳng lành mà bỏ vào nhà thì hai mẹ chắc chẳng khỏi lo lắng sanh bịnh hoạn, bởi vậy cô ta dợm đến năm bảy lần mà chưa dám viết.
Đêm nọ lối 7 giờ, trăng mọc dọi hàng cây, sao sáng rỡ, ngoài đường xa mã chạy rần rần, Xuân Hoa ngồi ăn cơm một mình giọt lụy chan canh, khối sầu nghẹn cổ, ăn không ngon, nuốt không được, nên chống đũa ngó ra ngoài đường, thấy nhiều thầy dắt vợ con thủng thẳng đi chơi, chồng ngó vợ mà cười, vợ ngó chồng mà nói, cô ta nhớ phận mình tiu hiu quạnh quẽ, có chồng mà như kẻ góa chồng, thì tức tủi trong lòng chịu không nổi mới dạy đứa ở là thằng Tư, bưng mâm cơm dẹp rồi đi mời thầy Bác Ái lại đặng cô hỏi thăm.
Bác Ái nghe mời, chẳng biết có chuyện chi, nên lật đật thay áo đổi quần rồi đi riết lại. Vừa bước vô ngó thấy Xuân Hoa ngồi chòm hỗm tại cửa, mặt mày dã dượi, đầu cổ chôm bôm, thì anh ta lấy làm đau đớn trong lòng, nên dừng bước rồi muốn thối lui, dường như nhác bước vô cái cảnh bi thảm là cái cảnh dễ làm cho mình động tình rồi thì khó dằn lòng giữ tiếng cho được.
Xuân Hoa vừa ngó thấy Bác Ái liền đứng dậy chào hỏi, mời vô nhà. Bác Ái kéo ghế ngồi, tay vấn thuốc, mắt ngó ra cửa sổ. Xuân Hoa ngồi bên ván, dựa cửa buồng, tay lau nước mắt, muốn nói mà nói không ra lời. Bác Ái không lẽ ngồi lặng thinh loài, nên gượng gạo hỏi rằng:
- Anh đi chơi hoài, bữa nay cũng không về nữa sao?
- Hơn một tháng nay có đêm nào ở nhà đâu.
- Thiệt, tôi thấy ảnh ham chơi như vậy tôi cũng buồn quá. Tuy mấy tháng nay tôi thấy ảnh đi chơi hoài, không có ở nhà, nên tôi không lại, song hễ tôi gặp ảnh thì tôi thường can gián dứt bẩn ảnh luôn. Tôi biết ảnh hồi còn đi học thì tánh ảnh đúng đắn lắm, chẳng hề khi nào chịu chơi những việc quấy quá. Ai dè ngày nay ảnh lại đổi tánh như vậy.
- Thẩy cưới tôi về ăn ở với nhau đã gần năm năm nay, thẩy có chịu chơi bời như người ta đâu. Không biết tại sao mà ngày nay thẩy lại sanh tâm đổi ý như vậy. Phải tôi dè có chồng mà như vầy thì thà tôi ở một mình tôi nuôi má tôi còn vui hơn.
Xuân Hoa nói tới đó rồi ngồi khóc rấm rức. Bác Ái động lòng chịu không được, mới kiếm chuyện khác mà hỏi rằng:
- Chị kêu tôi lại đây có chuyện chi hay không?
- Anh Tư cũng biết, tôi ở đất nầy chẳng có bà con anh em chi hết, bởi vậy cho nên mấy tháng nay chồng tôi chơi bời, tôi chẳng biết cậy ai can gián dùm. Tôi muốn viết thơ cho hai má hay, mà tôi sợ làm buồn hai bà già, nên tôi không dám viết. Nay tôi nghĩ anh Tư với thầy nó thuở nay thương nhau lắm, nên tôi nới cho mời anh Tư lại đây cậy canh Tư làm ơn chịu khó khuyên lơn dùm chồng tôi, nếu như anh Tư làm thế nào chồng tôi bỏ tánh chơi bời được, thì ơn ấy dầu ngàn năm tôi cũng chẳng dám quên.
- Tôi với ảnh tình thương nhau như anh em ruột, không phải đợi có lời chị cậy tôi mới khuyên. Mấy tháng nay tôi thường dứt bẩn ảnh hoài, tại nói ảnh không nghe nên tôi không biết liệu làm sao. Mà thôi, nay chị nói vậy, để tôi ráng khuyên lơn ảnh coi ảnh có động lòng cải tà quy chánh hay không.
- Xin anh Tư rán dùm cho em, dầu khuyên được hay là không, em chẳng dám quên ơn anh đâu.
- Thôi chị đừng buồn mà sanh bịnh, để thủng thẳng tôi sẽ liệu. Tôi tưởng một ngày một tiếng, nói hoài có lẽ ảnh cũng phải xiêu lòng chớ.
Bác Ái từ giã Xuân Hoa ra về. Xuân Hoa tỏ được chút tâm sự mới lưng bớt mạch sầu, nên đêm ấy ngủ yên, ít buồn rầu hơn mấy đêm trước.
Mấy bữa sau hễ chiều Bác Ái ăn cơm rồi, thì đi chơi mà kiếm Quảng Giao. Có khi gặp tại nhà hàng có bữa gặp tại khách sạn, có lúc thấy ở chơi nhà bầu bạn, có đêm thấy nghễu nghển ngoài đường gặp chỗ nào Bác Ái cũng dùng lời ngon ngọt, lấy lẽ thiệt hơn mà gián can, có bữa Quảng Giao coi bộ ăn năn nên đi theo Bác Ái về nhà, có bữa lại coi bộ buồn rầu nên kiếm chuyện nói cho xuôi rồi giã từ đi mất.
Bác Ái can gián hết sức mà coi bộ Quảng Giao không sửa nết chút nào, cứ cà rà nơi tửu điếm, xẩn bẩn lối lầu xanh, giọt lụy của vợ đẹp không thấm đến can trường, lời khuyên của bạn hiền không nhiễm vào trí óc. Bác Ái thấy vậy càng buồn ý, lại càng thương thân phận Xuân Hoa, tiếc đóa hoa tươi sao lại để cho úa sầu, phiền người có ngọc sao không biết trau dồi cho xinh đẹp.
Đêm nọ lối 8 giờ rưỡi, Bác Ái nằm trên ghế hút thuốc, tay cầm một quyển tiểu thuyết, vừa muốn giở ra xem, bỗng thấy thẳng Tự là đứa ở của Quảng Giao, bước vào thưa rằng: "Bẩm ông, cô tôi biểu tôi lại mời ông lại nhà đặng hỏi thăm một chuyện cần kíp lắm".
Bác Ái ngồi dậy ngó tên gia dịch ấy mà hỏi rằng:
- Thầy mầy bữa nay có ở nhà không?
- Thưa không.
- Vậy chớ cô vui hay là buồn?
- Thưa buồn. Hồi chiều cô tôi ăn cơm rồi kêu xe kéo đi đâu không biết, cho đến 7 giờ rưỡi mới về, mà bộ giận lung lắm. Nãy giờ cô tôi ngồi viết giống gì dài quá không biết, rồi mới sai tôi chạy lại mời ông đây.
Bác Ái nghe nói dứt lời thở dài ra một cái rồi biểu rằng:
- Mầy về trước đi, một lát nữa tao lại đa.
Thằng Tự ra về, Bác Ái bước vô buồng thay áo đổi quần rồi đội nón đi liền. Bác Ái bước vô nhà thấy Xuân Hoa đương ngồi trên ván, mặt có sắc giận, chớ không phải buồn như trước. Bác Ái vừa kéo ghế ngồi vừa hỏi:
- Chị kêu tôi có chuyện chi vậy?
- Anh Tư ôi, thiệt tức tôi quá.
- Sao vậy?
- Mấy tháng nay tuy chồng tôi nó không nghĩ đến tôi nên nó chơi bời, song tôi cũng ráng giữ cho tròn đạo vợ, bởi vậy cho nên tôi thường hay lấy lời ngon ngọt mà khuyên lơn, chớ không dám nói một tiếng nào nặng nề. Chẳng dè chồng tôi nó không biết nghe lời phải, nên lời tôi nói cũng như nước đổ lá môn. Tôi nghĩ tôi giận, nên tôi mới tính tôi làm rầy một lần, hoặc may chồng tôi nó có tởn chăng. Hồi tối tôi kêu xe kéo tôi đi kiếm, trong bụng tôi tính hễ gặp thì tôi kéo lưng đem về, nếu mắc cở đánh tôi, thì tôi la mã tà (lính) đặng họ bắt nó cho nó biết chừng. Xe tôi chạy ngang Vĩnh Lạc khách lầu, tôi thấy chồng tôi đương ngồi ăn cơm với hai thầy nào đó không biết mà lại có hai con đĩ nữa.
- Úy sao chị biết đó là đĩ? Không biết chừng hai cô đó là vợ của hai thầy nọ chớ.
- Không, tôi biểu xe đi chậm chậm qua lại hai ba lần tôi coi kỹ lắm mà. Thứ đồ đánh chơn mày, cạo tóc con, môi thoa son, má dồi phấn, ngồi nói chuyện cười ngả nghiêng ngả ngửa đó mà vợ ai.
- Ậy, bây giờ phần nhiều người ta trang điểm lung lắm, chớ không phải u tệ như ở dưới xứ mình vậy đâu.
- Không! Tôi biết, đồ đó là đồ đĩ thiệt mà, chớ không phải người tử tế đâu. Tôi giận quá tôi muốn vô tôi đánh nó coi chồng tôi nói làm sao? Nhưng mà tôi nghĩ lại nếu tôi rầy rà chắc là chồng tôi mang xấu với anh em bạn, bởi vậy nên tôi không nỡ bước vô, mà thấy vậy rồi bỏ qua cũng ức bụng, nên tôi chạy về nãy giờ tôi viết cho chồng tôi một bức thơ đây. Anh Tư cũng như anh em ruột trong nhà nên tôi chẳng dấu diếm mà làm gì, trong thơ tôi nói gắt lắm, nếu chồng tôi còn nghĩ nghĩa vợ chồng thì được thơ nầy phải về liền rồi chừa bỏ tánh cũ đi, thì dầu mấy tháng nay ở quấy với tôi bao nhiêu tôi cũng bỏ hết, còn như chồng tôi nói rằng duyên nợ đã hết rồi, thì cũng phải tỏ cho tôi biết, đặng tôi lo phận tôi, chớ có chồng mà như kẻ góa chồng, thì cực thân tôi nhiều quá. Hồi nãy tôi tính sai sắp ở trong nhà cầm thơ xuống đưa cho chồng tôi, song tôi nghĩ đứa ở nó khờ dại, hễ trao thơ rồi thì thôi, chớ không biết nói tiếng chi cho chồng tôi tỉnh ngộ, nên tôi mới sai mời anh Tư làm ơn đem dùm bức thơ nầy cho chồng tôi, anh là người thân thiết với chồng tôi, nếu chồng tôi đọc thơ rồi anh thừa dịp nói dùm vô ít tiếng chắc chồng tôi xiêu lòng về liền. Anh Tư liệu coi đi dùm cho tôi có được hay không?
- Đi thì đi, song tôi liệu tôi đi cũng không ích gì, bởi vì mấy tháng nay tôi nói hoài ảnh cũng trơ trơ, có nhúc nhích chút nào đâu.
Bác Ái lấy bức thơ bỏ túi rồi từ giã. Xuân Hoa hối trẻ ở kêu xe kéo rồi nói với Bác Ái rằng: "Chồng tôi chắc bây giờ còn ở tại Vĩnh Lạc Khách lầu. Anh Tư có xuống đó thì gặp. Anh nói dùm dầu được hay không được cũng về ghé cho hay, nghe hôn anh Tư. Tôi ở nhà tôi thức tôi chờ đa".
Bác Ái thấy Xuân Hoa bạc phận chừng nào, trong lòng lại càng thương trộm tiếc thầm chừng ấy. Tuy anh ta chẳng có ý trông Xuân Hoa giận chồng, dứt nghĩa cang thường rồi anh ta thừa mối tình thân bấy lâu mà chấp nối làm cho hóa ra mối tình ái, nhưng mà ngồi xe đi dọc đường nghĩ càng thêm giận Quảng Giao, người sao không biết thương lục tiếc hồng, người sao nỡ để cho vàng phai ngọc đục. Anh ta lại nhớ mấy lời Xuân Hoa nói: "Như chồng tôi nói duyên nợ đã hết rồi thì cũng phải tỏ cho tôi biết đặng tôi lo liệu thân phận tôi". Liệu làm sao?
Xe chạy ngang nhà thờ, đồng hồ đổ chín giờ rưỡi, tiếng chuông đổ boòng boong làm cho Bác Ái tỉnh giấc chiêm bao mà nhớ tới việc nhơn gian. Anh ta nhớ mình tưởng quấy thì hổ thầm, nên giục chạy mau mau đặng cố tìm Quảng Giao trao thơ rồi an ủi. Xuống tới khách sạn không thấy ai ăn uống chi hết, duy có mấy thằng bồi đương dẹp ghế lau bàn, Bác Ái bước vô hỏi thăm thì họ nói Quảng Giao đã mướn cái phòng số 8 ở trên lầu và đương đờn ca với hai thầy và hai cô nào đó.
Bác Ái lên được nửa thang lầu, nghe trong cái phòng có tiếng đờn ca inh ỏi. Anh ta đi nhẹ nhẹ, lên tới cửa phòng thấy hai thầy mặc quần tây, áo sơ mi đương nằm trên bộ ván, một người đương vịn ống hút kê đèn cho một người hút có một cô mặc áo lụa trắng, quần lụa trắng, ngồi trên ván khảy đờn tranh, có một cô nữa, mặc áo tím quần lãnh đen đương ngồi trên ghế mà ca, còn Quảng Giao ngồi một bên chống tay dựa bàn ngó mà cười. Bác Ái đi qua rồi đi lại một lần nữa, Quảng Giao ngó thấy liền đứng dậy chạy ra hỏi rằng:
- Bữa nay tôi bắt được anh rồi. Anh cũng đi nhà ngủ nữa sao. Thôi vô đây chơi với tôi.
Quảng Giao nắm tay kéo, Bác Ái chỏi cẳng trì lại không vô, nói rằng:
- Tôi kiếm anh có chuyện riêng, chớ phải tôi chơi hay sao? Anh chịu phiền bước xê ra ngoài đặng tôi nói chuyện riêng một chút.
Quảng Giao nghe nói thì châu mày ủ mặt, buông tay Bác Ái ra, rồi hai người thủng thẳng đi lại đứng dựa cửa sổ ngó xuống đường không nói chi hết. Trong phòng hai cô cũng thôi đờn ca và nói chuyện rì rầm, chẳng biết nói gì. Bác Ái liếc coi thấy Quảng Giao có sắc buồn bèn nói nhỏ rằng: "Anh thiệt là tệ quá! Mấy tháng nay tôi vì tình anh em thường can gián anh mà sao anh không nghe lời cứ đi chơi hoài, bỏ chỉ ở nhà tiu hiu một mình tội nghiệp hết sức vậy? Chẳng dấu chi anh, hồi nãy chỉ đi kiếm chỉ thấy anh ngồi ăn uống với mấy cô ở đâu không biết, mà chỉ giận quá nên về viết thơ rồi mượn tôi cầm xuống đây cho anh". Bác Ái thò tay vào túi lấy thơ đưa cho Quảng Giao và nói tiếp: "Anh coi thơ đi rồi về với tôi, kẻo chỉ ở nhà trông. Vợ buồn rầu như vậy mà anh không thương cho đành hay sao?"
Quảng Giao lấy bức thơ, thở dài một cái, rồi đi lại gần đèn xé ra đọc. Bác Ái đứng chống tay dựa cửa sổ ngó theo, thấy Quảng Giao vừa xem thơ vừa ứa nước mắt. Đọc thơ rồi xếp kỹ lưỡng bỏ vô túi coi bộ trong trí suy nghĩ lung lắm. Bác Ái thấy Quảng Giao đương cảm xúc, tính thừa dịp ấy nói riết vô đặng cho Quảng Giao về, nên bước lại vỗ vai mà rằng: "Đi anh. Đi về với tôi. Tội nghiệp chỉ lắm mà. Chỉ ở nhà buồn quá, mà anh nỡ vui cho đành hay sao?"
Quảng Giao day lại nhìn Bác Ái, dường như người mới tỉnh mộng, rồi cười mà nói rằng: "Ừ, thôi anh vô đây chờ tôi một chút rồi tôi về với".
Quảng Giao liền nắm tay kéo riết Bác Ái vô phòng. Bác Ái muốn làm vừa lòng Quảng Giao nên đi theo, không dục dặc nữa. Vừa bước vô phòng Quảng Giao liền nói lớn lên rằng: "Ông nầy là Thừa Biện Ái, anh em bạn thiết của tôi. Ủa, sao lại thôi đờn ca như vậy? Cô Bảy, cô đờn đi đặng cho cô Tư cổ ca một chặp nữa nghe chơi chớ". Hai thầy nằm hút thuốc thấy Bác Ái, lồm cồm ngồi dậy mà chào. Hai cô nọ cũng đứng dậy chào Bác Ái, rồi kẻ lo làm thuốc phiện, người lo lên dây đờn. Bác Ái kéo ghế ngồi dựa bên Quảng Giao, mùi thuốc phiện bay thơm ngát, sắc ba đào bẹo trước mắt, ngắm cảnh trông người rồi trong dạ bồi hồi, thầm nghĩ cảnh thú như vầy hèn chi xưa nay nhiều người nát cửa hư nhà không hay, giảm giá nhơ danh không tiếc. Tiếng đờn nghe rỉ rả dường như ăn thảm uống sầu, rồi lại tiếng ca nghe bi ai làm cho động tình cảm xúc nữa. Dầu người đại chí mà lạc bước vào lối nầy, thì tâm chí cũng tiêu mòn, huống chi là bực thanh niên, thấy cuộc vui chơi cũng như thiêu thân thấy ngọn đèn, thế thì làm sao khỏi cháy mày nám mặt.
Quảng Giao lấy rượu cỏ-nhắc rót rồi mời Bác Ái uống, còn hai thầy kia cứ theo mời hút thuốc hoài. Bác Ái từ chối không chịu uống mà cũng không chịu hút. Bác Ái thấy Quảng Giao lần lần càng thêm hứng chí, chớ không buồn như hồi nãy nữa thì ngó Quảng Giao mà nháy mắt, có ý thúc Quảng Giao về. Quảng Giao đã không tính tới sự về lại cứ theo mơn trớn với hai cô nọ hoài. Bác Ái thấy vậy bèn đứng dậy nắm tay Quảng Giao nói rằng: "Tôi xin lỗi với hai thầy và hai cô, anh tôi bữa nay có việc nhà cần kíp lắm, nên ở chơi không được. Vậy xin cho anh tôi kiếu, để khi khác rồi sẽ ở chơi lâu". Quảng Giao lắc đầu nói rằng: "Không, không, tôi không có chuyện gì cần kíp hết. Hai cô cứ đờn ca cho tôi nghe đi. Tôi không về đâu".
Bác Ái nghe nói chưng hửng liền hỏi rằng:
- Ủa, vậy chớ hồi nãy anh hứa với tôi làm sao?
- Không, tôi không về đâu.
- Anh thiệt tệ quá!
- Thôi, như anh không vui lòng ở chơi với tôi thì anh về đi.
- Tôi muốn anh về với tôi chớ.
- Tôi về không được.
- Sao vậy?
- Tại tôi về không được, tôi có biết sao đâu mà nói.
Bác Ái nghe nói, đứng chắc lưỡi lắc đầu. Quảng Giao liếc Bác Ái mà nói rằng: "Chắc anh về anh ghé nhà tôi chớ? Nầy, xin anh làm ơn nói dùm với vợ tôi rằng tôi không về được, tự ý nó muốn tính thế nào thì nó tính. Tôi về nó càng buồn, chớ ích gì đâu...Anh làm ơn nói dùm một chút nhé".
Bác Ái nghĩ mình đã nói cạn lời mà Quảng Giao không nghe, dầu ở nữa cũng không ích gì, nên từ giã mà về một mình.
o O o
Xưa nay, người ta thường nói đàn bà hay lạt lòng mà lại hay thù vặt. Cái lý thuyết ấy nghĩ thật là đúng lắm. Ai có ý quan sát tánh của đàn bà thì cũng đều biết rằng đàn bà phần nhiều dầu gặp chồng ngang tàng thô tục, mở miệng ra thì mắng nhiếc, về đến nhà thì la rầy, coi thân phận vợ như rác như rơm, nhưng chị vợ dầu có phiền hà thì trách móc chút đỉnh thôi, chớ chẳng hề khi nào sanh lòng oán giận, nếu chồng dỗ ngọt vài tiếng thì cái lòng phiền hà sẽ tan hết rã hết, chẳng còn giận hờn chi nữa. Trong chốn gia đình dầu chồng có ở quấy với vợ đến chừng nào đi nữa, vợ cũng không câu chấp, song phải giữ một điều nầy cho toàn vẹn, là đừng có làm cho vợ sanh lòng ghen, bởi vì vợ mà ghen thì ân nghĩa bao nhiêu cũng phủi hết, rồi ái tình ngày trước nặng nề bao nhiêu thì ác cảm từ ấy càng dữ dội bấy nhiêu.
Xuân Hoa dầu chân chất thiệt thà cho mấy đi nữa, cũng là một người đàn bà, bởi vậy tánh cũng chẳng khác gì những đàn bà khác. Trót mấy trăng chồng sanh tâm phóng túng, đi chơi bỏ vợ nằm lưu vong ở nhà, tuy là phiền muộn nên có hơi giận chồng, song nếu Quảng Giao về nói một vài tiếng phôi pha, chắc cô cũng đổi lòng buồn mà làm vui lòng được. Ngặt Quảng Giao hễ về đến nhà thì buồn mà thôi, chớ không nói tiếng chi cho vui lòng vợ, mà hồi tối lại để cho vợ dòm thấy cái bạc tình của mình nữa, bởi vậy Xuân Hoa chẳng những là giận mà lại thêm thù thêm oán nữa.
Bác Ái lãnh thơ ra đi rồi, Xuân Hoa nằm ngồi không yên cứ ra ngóng vào trông, tính hễ chồng về thì tác sắc mà trách một lần cho chồng biết cái thói bạc tình của đàn ông là cái thói đàn bà ố hơn hết. Đêm khuya lần lần, ngoài đường thiên hạ cũng ít hay lai vãng. Cô ngồi trước cửa chờ hễ thấy dạng xe kéo ở xa xa thì nghi là chồng về, nên trong lòng hồi hộp, đứng dậy mà ngó, chừng xe chạy tới, thấy không phải chồng thì trở vô, mặt mày buồn xo.
Đồng hồ gõ 11 giờ. Xuân Hoa nghe xe kéo dừng ngoài cửa, ngước mặt ngó ra, thấy có một mình Bác Ái đi vô, thì cô biết chồng không chịu về, song cũng gượng mời Bác Ái ngồi rồi hỏi rằng: "Anh Tư có gặp thầy nó hay không?" Bác Ái gật đầu rồi lấy thuốc ra hút, không nói chi hết. Xuân Hoa ngồi bên ván đã buồn lại giận nên không muốn hỏi nữa. Bác Ái thủng thẳng thuật hết cử chỉ của Quảng Giao lại cho Xuân Hoa nghe, nói không sót một lời, thuật không quên một mảy.
Xuân Hoa nghe hết đầu đuôi rồi thở ra nói rằng:
- Anh Tư nghĩ đó mà coi, tôi đã nhịn nhục hết sức mà chồng tôi nó không biết nghĩ, ấy là tại nó chớ không phải tại tôi. Vậy xin anh Tư làm ơn đặt dùm tôi một lá đơn đặng tôi về Long Xuyên tôi xin để, chồng tôi nó không thương tôi nữa, tôi ở đây làm gì.
Bác Ái nghe Xuân Hoa để chồng thì biến sắc, trong lòng bối rối, nên ngồi lặng thinh, suy nghĩ một hồi rồi can rằng:
- Chị nóng giận chị tính như vậy sao phải. Đạo vợ chồng là đạo trọng, dầu ảnh có quấy thì cũng còn có cha mẹ hai bên phân xử chớ chị giận mà chị đi kiện xin để, không cho mợ Hương và bác ở bển hay, chắc hay là trách chị lắm. Mà người ngoài dòm vô họ cũng cười chị nữa. Đừng có làm như vậy không nên đâu.
Xuân Hoa đáp rằng:
- Không, nếu tôi xin để thì tôi cũng thưa trước cho hai má hay rồi tôi mới vào đơn chớ. Song tôi muốn cậy anh làm sẵn dùm cho tôi một lá đơn, đặng hễ tôi thưa rồi tôi vô đơn liền cho dễ.
Bác Ái từ chối hoài không chịu làm đơn dùm. Anh ta ngồi liếc xem thấy Xuân Hoa sắc mặt giận chớ không buồn như mấy tháng nay vậy. Anh ta biết cô đã quyết ý nên kiếm lời can hoài, mà anh ta chữa lỗi cho Quảng Giao chừng nào, Xuân Hoa lại càng giận chừng nấy. Đến 12 giờ khuya Bác Ái từ giã ra về, tuy chẳng hề trông cho Xuân Hoa kiện để Quảng Giao nhưng trong trí thầm nghĩ nếu Xuân Hoa mà dứt nghĩa cang thường rồi thì cũng chẳng thiếu chi kẻ sẵn lòng cầu chờ chấp tơ nối chỉ. Bác Ái về nhà thấy có một phong thơ để trên bàn, dòm coi con dấu thì ở Long Xuyên gởi lên, lật đật xé ra xem, mới hay ông thân đau, nên anh cả gởi thơ biểu xin phép về cho gấp. Anh ta được tin chẳng lành trong lòng bứt rứt hết sức, rạng ngày vô xin phép nghỉ một tuần lễ, rồi riết về Long Kiến thăm cha.
Còn Xuân Hoa thấy mình gởi thơ nói đã cạn lời mà chồng cũng không nghĩ, thì giận rồi lại phiền nên đêm ấy nằm trằn trọc hoài, ngủ không được, nằm suy tới nghĩ lui không biết có gì mà vợ chồng ở với nhau đã gần năm năm như bát nước đầy, không xao không dợn, mà ai khiến ai xuôi nông nỗi, dây tơ hồng muốn đứt nửa chừng, làm cho người trọng nghĩa hữu tình lại hóa ra người vô tình bạc nghĩa. Cô thầm nghĩ hay là tại mình ở quấy nên chồng mới phụ phàng, mà cô tìm hoài cũng không thấy mình quấy ở chỗ nào. Canh khuya vắng vẻ cô nhớ tới lời Bác Ái rằng: "Vợ chồng phải biết ý nhau trước, nếu chắc ý hiệp tâm đầu rồi sẽ cưới thì mới vui mà ở đời với nhau", cô vừa muốn tiếc rằng mình không dọ trước rồi sẽ ưng Quảng Giao, song cô lại nghĩ đã gần năm năm nay mình chẳng có chút nào trách chồng, há chẳng phải là đồng tâm chí với nhau sao, ngày nay nghĩa muốn phai, tình đã lạt, ai có dè đâu mà ngờ trước được.
Xuân Hoa hễ nghĩ đến nghĩa nặng của chồng thì thương, mà hễ nhớ tới tình sơ của chồng thì giận. Bởi vậy cô buồn bực chịu không nổi, nên thức dậy đốt đèn rồi viết hai lá thơ, một bức thơ gởi cho mẹ chồng, còn một bức gởi cho mẹ ruột. Trong thơ không nói việc chi cho rõ, duy chỉ tỏ sơ rằng vợ chồng không được thuận với nhau và xin hai mẹ lên Sài Gòn chơi đặng tính dùm việc nhà cho hai trẻ.
Từ ngày Xuân Hoa cậy Bác Ái đem thơ trao cho Quảng Giao thì Quảng Giao không về nhà nữa, mà Xuân Hoa đã mỏi lòng rồi nên cũng không thèm kiếm tìm. Cách bốn ngày sau nhằm ngày thứ bảy, lối sáu giờ chiều, cơm đã dọn để trên bàn mà Xuân Hoa cứ nằm dã dượi trong mùng, không muốn đi ăn. Đứa ở nấu ăn đương lui cui sau bếp, còn cửa trước thì khép lại, duy chỉ có cửa sổ mở mà thôi. Trong nhà im lìm, Xuân Hoa đương nằm tưởng thầm có lẽ nay mai hai mẹ sẽ lên tới, bỗng nghe ở ngoài cửa có tiếng gõ cộp cộp. Xuân Hoa kêu đứa ở biểu ra ngoài coi ai, thằng Tự chạy ra ngoài mở cửa. Xuân Hoa nghe có tiếng nói chuyện nho nhỏ, rồi nghe đóng cửa lại, kế thằng Tự bước vô phòng đưa cho Xuân Hoa một bức thơ, có gắn bánh kiến đỏ bốn góc, mà nói: "Có một đứa học trò đem thơ lại, biểu phải giao tới tay cô. Tôi hỏi thơ của ai, nó nói cô xé ra coi thì biết".
Tuy trời đã chạng vạng tối, song Xuân Hoa cầm phong thơ coi thấy rõ bao ngoài đề như vầy:
Bà PHẠM QUẢNG GIAO
Số 36, Đường Bangkok
Sài Gòn
Cô nhìn coi biết chữ chồng, ném phong thơ trên bàn thở dài, ý không muốn đọc. Thằng Tự thấy cô buồn thì chơn lui ra mà miệng nói rằng: "Cô ra ăn cơm cho rồi, kẻo đồ ăn nguội hết". Xuân Hoa không trả lời, lại đứng dậy thò tay dặn đèn cháy lên, rồi lấy phong thơ đứng dựa đèn, xé ra xem.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 12 năm 192...
Em ôi,
Tôi trung dõng ấy là báu nước, vợ hiền hòa vốn thiệt phước nhà. Từ ngày đôi ta kết duyên cầm sắc, qua thấy em cũng biết kính chồng biết trọng mẹ, qua thường có dạ mừng thầm, tưởng là chầy tháng lâu ngày chữ nghĩa nặng, chữ tình rồi cũng nặng.
Qua cũng biết vợ chồng ăn ở với nhau gần năm năm nay, chẳng có chút chi xích mích, nhưng mà mấy tháng nay anh Bác Ái ở gần, anh em luận sự hôn nhơn rồi qua xét cái tình của em với qua thì thiệt chữ nghĩa kết được, mà mối tình không kết được. Nói ra thì hổ thẹn với anh Bác Ái, chớ qua nghĩ lại mối tình của vợ chồng ta không thương trước mà đi cưới nhau bướng, làm cho mấy năm nay em chẳng thỏa tình đắc ý, qua ăn năn không biết chừng nào.
Em ôi, mấy tháng nay qua không nói ra, chớ qua vẫn biết hiện bây giờ đây có một người thương em hết sức mà em cũng mến hết lòng, nếu hai đàng hiệp được một nhà thì mới gọi gia đình hạnh phúc. Ngặt có qua đứng trơ trơ ở giữa, nên trai vì nghĩa không đành bước tới, còn gái vì trinh không dám lại gần, rồi kẻ ôm sầu quyết bỏ ngày xuân, người đêm thảm muốn vùi sắc nước. Qua thấy vậy nên chí dốc bắc cầu cho Ngưu - Nữ, giả ăn chơi mà xa lánh chốn gia đình để cho đôi đàng phỉ nguyện ước mơ, thà qua buồn thác cho hai đàng vui sống.
Em ôi, có lẽ em cũng biết tánh qua chẳng phải là tánh người say mê tửu sắc, bởi vì thương em, muốn cho em trọn chữ tình, nên qua phải hủy bỏ chút thân danh. Bức thơ nầy là bức thơ từ biệt nhau, vậy nên qua phải tỏ hết nỗi lòng cho em nghe, và chúc cho em chốn dương trần lai láng biển tình, nếu bữa nào em sực nhớ tới qua, thì em đừng có giận, ấy cũng đủ cho qua phỉ lòng nơi chín suối.
Nhỏ vài giọt lụy gởi vợ hiền, dầu xuống cửu tuyền anh cũng còn nhớ năm năm nghĩa nặng.
PHẠM QUẢNG GIAO
Xuân Hoa mới đọc thơ khúc ban đầu thấy mấy câu chồng nói có anh Bác Ái về ở gần, luận việc hôn nhơn rồi ăn năn, vì vợ chồng không thương trước mà cưới bướng nên có nghĩa mà chẳng có tình thì cô châu mày ủ mặt. Chừng đọc đến khúc giữa, là khúc chồng nói có người thương cô và cô cũng hữu tình với người ấy, chồng muốn cho hai đàng hiệp nhau nên mới giả kế chơi bời, thì cô biến sắc, nước mắt chảy dầm dề, màng tang mồ hôi lạnh ngắt. Đọc tới đoạn chót, thấy ý chồng quyết liều mình tự tử, cô kinh hãi la khóc om sòm. Thằng Tự ở sau bếp không hiểu việc chi, nghe khóc lật đật chạy ra hỏi: "Giống gì vậy cô?". Xuân Hoa cứ ngồi khóc và nói rằng: "Té ra tại tôi nên chồng tôi khổ tâm mấy tháng nay! Bây giờ chồng tôi còn muốn hủy mình nữa, trời ôi, nếu chồng tôi chết thì tôi sống sao được".
Xuân Hoa than khóc một hồi rồi mở bức thơ ra coi nữa. Coi thơ rồi lại khóc. Thằng Tự thấy tình cảnh như vậy lấy làm lạ, nên theo hỏi hoài. Xuân Hoa cứ đọc rồi khóc không trả lời. Đọc thơ đến ba lần rồi xếp bỏ vào túi và hỏi rằng:
- Hồi nãy đứa nào đưa thơ cho mầy đó?
- Phải thơ của thầy không vậy cô?
- Phải, mà đứa nào đưa cho mầy đó?
- Có một đứa học trò đem tới.
- Mầy có biết nó hay không?
- Thưa, tôi không biết.
- Bây giờ biết đi đâu mà kiếm!
- Cô muốn kiếm thầy phải hôn cô?
Xuân Hoa không trả lời, lấy khăn trắng choàng đầu rồi ra kêu xe kéo mà đi. Thằng Tự chưng hửng, không biết có việc chi, nên ái ngại trong lòng, lấy lồng bàn đậy mâm cơm lại rồi ra cửa ngồi khoanh tay chờ.
Xuân Hoa ngồi xe lên đường Mayer, ghé nhà thầy giáo Đống, là người dạy một trường với Quảng Giao, hỏi thăm coi có biết chồng mình ở đâu hay không. Thầy Đống nói hồi chiều Quảng Giao có xin phép với quan Cai trường nghỉ cho tới thứ sáu tuần sau, nói rằng ở nhà có việc. Lúc tan học thấy thầy kêu xe kéo đi, song vô ý nên không biết thầy đi đâu. Thầy Đống tưởng Xuân Hoa ghen tuông, muốn nói cho xuôi, nên kiếm lời vỗ về, khuyên Xuân Hoa về nghỉ, không đêm nay thì sáng mai Quảng Giao sẽ về, không đi đâu mà sợ.
Xuân Hoa trong lòng nóng như lửa đốt, nghe thầy Đống nói như vậy nghĩ thầm chắc là thầy không biết chồng mình ở đâu, nên từ giã ra đi, không tỏ việc gì hết.
Cô lên xe rồi biểu kéo xuống chợ Bến Thành. Người kéo xe mạnh mẽ nên chạy thật mau, nhưng cô nóng nảy quá, nên cứ thúc chạy cho mau hoài... Lúc ấy lối bảy giờ tối, cô chắc Quảng Giao đi ăn cơm ở mấy nhà hàng, nên biểu xe kéo chạy lại Lương Hữu, Lê Văn Du, Yêng Yêng, Cửu Long Giang, Quảng Hạp, Đông Pháp lữ quán mà kiếm, té ra đến chỗ nào cũng không thấy chồng mình hết thảy. Cô muốn đi đến mấy khách sạn kiếm song chừng xe ngừng trước cửa khách sạn cô bợ ngợ không biết ai mà hỏi thăm, nên tính chạy về cậy Bác Ái kiếm dùm.
Xe về ngang nhà mà Xuân Hoa không ghé, biểu chạy thẳng lại nhà Bác Ái. Xe ngừng rồi, cô dòm thấy trong nhà Bác Ái đèn đốt sáng lòa, vừa muốn bước vô, lại nhớ mấy lời chồng nói trong thơ, tuy lời nói không rõ ràng, song xét ý tứ thì đủ hiểu chồng ghen cho mình có tình riêng với Bác Ái, bởi vậy cô ngần ngại lật đật ra, rồi leo lên xe biểu chạy trở xuống Bến Thành, nước mắt chảy dầm dề, ruột gan đau từ đoạn.
Xuân Hoa ngồi trên xe thủng thẳng chạy cùng các nẻo đường thấy ai mặc đồ tây đi xa xa cũng tưởng là chồng, nên trong lòng khắp khởi, tới chừng lại gần coi lại không phải, thì càng đau đớn không xiết kể. Chạy vòng cho tới 11 giờ, mấy tiệm đóng cửa ngủ hết mà ngoài đường cũng thưa thớt ít ai đi, cô cùng thế mới trở về nhà thì thằng Tự đã đóng cửa tắt đèn mà ngủ. Xuân Hoa kêu cửa bước vô nhà, thấy mâm cơm còn đầy để đó, biểu thằng Tự dọn xuống ăn rồi dẹp đi, vì cô không đói. Cô vô buồng ngồi khóc rấm rức, nghĩ thầm rằng mình đã có chồng hơn năm năm rồi, hễ đi đâu thì đi với chồng chớ chẳng khi nào đi một mình, mà chồng mình tuy quen biết nhiều người song ai cũng ít khi lân la lui tới, duy mấy tháng nay có mình Bác Ái hay tới chơi vậy thì chồng mình nghi đây là nghi cho Bác Ái chớ chẳng phải nghi cho người nào khác. Cô lại nhớ Bác Ái hồi trước có ghẹo chọc mình, song hồi đó mình chưa xuất giá, từ ngày mình kết tóc xe tơ với Quảng Giao thì Bác Ái đi học, không gặp nhau nữa, mà Bác Ái ra làm việc quan rồi cũng chẳng có ý muốn gần gũi mình. Việc xin đổi về Sài Gòn và mướn nhà ở gần đều tại chồng mình ép uổng chớ không phải anh ta muốn như vậy. Đã vậy mà mấy tháng nay anh ta ở gần, tuy lui tới thường thường, song chẳng hề tỏ ý chi lạ, cử chỉ như vậy sao chồng mình lại nghi.
Xuân Hoa ngồi ngẫm nghĩ hoài: nhớ lại mấy tháng nay Bác Ái đến chơi thì mình thường niềm nở lắm, hay là tại mình bải buôi quá nên chồng mình nó tưởng tư tình chăng? Cô nghĩ tới đó, rồi lại nhớ Bác Ái về ở chừng gần một vài tháng thì chồng mình phát đi chơi bời, vậy thì chồng mình nghi đây chắc là nghi cho anh Bác Ái lắm. Xuân Hoa nghĩ như vậy thì xốn xang đau đớn chịu không được, nên ngồi chống tay trên ghế khóc trót giờ đồng hồ.
Cô khóc đã thèm rồi mới thò tay vào túi lấy bức thơ của chồng đọc lại, đọc một câu thì nước mắt nhỏ một giọt, càng đọc càng nát ruột gan. Tư bề vắng vẻ, bỗng nghe tiếng đồng hồ gõ ba giờ, Xuân Hoa thảm vì làm phận đàn bà mà không có hạnh, để cho chồng nghi mình mất trinh mất tiết như vậy, thì cũng chẳng nên sống nữa làm chi, mà nhứt là mình thiếu hạnh đến nỗi làm cho chồng buồn rầu rồi quyết liều thân vong mạng, thì mình lại còn phải mang lỗi với chồng nhiều hơn nữa, dầu có chết xuống cửu tuyền cũng chẳng còn mặt mũi nào dám ngó mặt chồng.
Hết lo rồi tính, hết khóc rồi buồn, canh lụn đêm tàn mà Xuân Hoa cũng chưa nhắm mắt. Trời vừa sáng Xuân Hoa kêu thằng Tự thức dậy biểu lại nhà mời Bác Ái, tính tỏ thiệt việc nhà cho Bác Ái nghe, rồi cậy Bác Ái tính dùm phương cứu chồng, bởi vì ở chốn Sài Gòn tứ cố vô thân, lúc bối rối nầy không biết ai cậy mượn. Thằng Tự đi một hồi trở về nói Bác Ái xin phép nghỉ một tuần lễ, đã đi về Long Xuyên bốn bữa rày rồi. Xuân Hoa nghe nói chau mày thở ra, ngồi lặng thinh nghĩ thầm rằng: "Tuy rủi nhưng cũng may, chồng mình đã nghi mình có tình riêng với Bác Ái, sao mình còn dám cậy Bác Ái nữa?"
Xuân Hoa đội khăn rồi kêu xe kéo chạy lên nhà thầy Đống. Cô tỏ với thầy giáo Đống rằng cô có được bức thơ của chồng than phiền việc nhà và quyết tự vận, nên cậy thầy làm ơn đi kiếm dùm. Thầy giáo Đống nghe nói thất kinh lật đật thay áo đổi quần rồi biểu Xuân Hoa về ở nhà để cho thầy đi kiếm.
Thầy Đống đi từ sớm mai cho tới 11 giờ kiếm không gặp Quảng Giao, hỏi thăm người quen cũng không ai biết địa chỉ. Thầy trở về ghé nhà Xuân Hoa thấy cô đương ngồi trên ván khóc. Thầy chắc lưỡi lắc đầu, Xuân Hoa biết đã kiếm không được, nên càng khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Thầy Đống cầm lòng không được, không nỡ ra về mới biểu Xuân Hoa đi với thầy lên bót mà cớ, đặng xin Cò sai lính đi kiếm giúp.
Xuân Hoa tỏ cho Cò hay sự chồng muốn tự vận rồi nói hình dạng áo quần của chồng cho Cò biết để tìm cho dễ. Cò biên hết lời khai rồi biểu Xuân Hoa về, hứa rằng hễ có gặp Quảng Giao ở đâu thì sai lính đến cho cô hay.
Xuân Hoa về nhà nằm khóc hoài, ăn ngủ không được cứ than thân trách phận, cứ nói rằng mình giết chồng mình mà thôi. Cô chờ hoài không thấy lính kêu. Qua ngày thứ hai, lối 10 giờ, có một tên lính đến nhà nói rằng ông Cò đòi. Xuân Hoa lật đật lấy khăn đi theo lính, chơn đi mà miệng thì hỏi:
- Kiếm được chồng tôi rồi hay sao chú?
- Không biết nữa.
- Vậy chớ ông Cò đòi tôi làm chi?
- Tôi thấy bên bót Xóm Chiếu gởi cái áo gì lên đó, rồi ông Cò biểu tôi đi đòi cô nên tôi đi đây.
- Áo của chồng tôi hay là áo của ai?
- Tôi không biết.
- Thôi đi riết đi chú, cha chả! Không biết ông Cò đã hay tin chồng tôi ở đâu hay chưa.
Xuân Hoa vừa bước vô ông Cò liền biểu thầy thông ngôn nói cho cô hay rằng: "Hồi sớm mai tên lính gác bên Xóm Chiếu thấy có một cái áo bành tô trắng bỏ dựa mé sông, phân nửa ở trên bờ, còn phân nửa nằm dưới nước. Nó xách cái áo đem lên thấy trong túi có mỗi cái bóp phơi không có bạc tiền chi hết duy có ba miếng danh thiếp trắng đề tên như vầy:
PHẠM QUẢNG GIAO
Instituteur
36, Rue Bangkok Sài Gòn
Tên lính đem về bót quận thứ nhì thì ông Cò coi bót ấy, đã có tin bót trên nầy kiếm tên đó, nên gởi lên coi có phải hay không". Thầy thông ngôn nói dứt rồi ông Cò mới đưa cái áo với cái bóp phơi cho cô Xuân Hoa nhìn. Cô cầm cái áo run lập cập, thấy bộ nút nghi là áo chồng rồi, chừng coi tới cái bóp phơi thì chẳng còn nghi chút nào hết, nên đã vùng khóc lớn lên rằng: "Trời ôi! Nếu vậy thì chồng tôi đã nhào xuống sông chết rồi, còn gì đâu?... Bẩm ông Cò tôi lạy ông làm ơn cứu dùm chồng tôi, kẻo tội nghiệp chồng tôi lắm... Mình ôi! Mình có nghi ngờ gì thì mình nói ra, chớ sao mình lại tự vận như vậy, mình ơi! Ông ôi! Làm sao vớt chồng tôi bây giờ, ông làm ơn dùm chút, ông ôi!"
Ông Cò tuy không rõ tâm sự của Xuân Hoa, song thấy cô bi thảm như vậy ông cũng động lòng, bởi vậy ông mới kiếm lời khuyên giải, rồi thông ngôn nói lại như vầy:
- Cô đừng buồn, dầu cái áo nầy phải là của thầy đi nữa, cũng chưa đủ bằng cớ rằng thầy đã tự vận rồi, sao cô lại sợ quá như vậy!
- Thầy ơi, tôi chắc chồng tôi đã chết rồi.
- Sao cô chắc dữ vậy?
- Bởi vì chồng tôi đã nói sẽ tự vận.
- Ý! Đàn ông họ nói hơi nào mà tin. Vợ chồng tôi hễ có rầy rà với nhau thì tôi đòi tự vận hoài, mà tôi đã chết lần nào đâu?
- Chuyện thầy khác, còn chuyện chồng tôi khác, chắc chồng tôi đã chết rồi thầy ôi. Xin thầy làm ơn nói dùm ông Cò sai lính lặn vớt dùm chồng tôi, tốn hao bao nhiêu tôi chịu hết.
- Lính mắc đi gác đường, có lính đâu dư đi lặn được. Nầy cô, tôi chắc thầy muốn gạt cô nên đem bỏ cái áo nơi đó đặng cho cô sợ chơi, chớ chưa chết đâu. Cô nghĩ lại coi, nếu thầy tự vận sao thầy lại cổi áo bỏ đó làm gì, vậy chớ bận áo nhảy xuống sông không được hay sao? À, mà nếu thầy muốn bỏ một hai vật lại trên bờ, thì trước hết thầy phải bỏ cái nón lại, chớ có lý nào đội nón mà nhảy, còn cái áo lại cổi bỏ đó. Cô xét thử coi phải không?
- Thầy ôi, tôi chắc chồng tôi chết rồi không còn đâu. Nếu lính lặn dùm cho tôi không được, xin thầy làm ơn chỉ cho tôi biết tôi cậy ai bây giờ.
- Có lẽ cô qua bên Xóm Chiếu cô mướn mấy người chài lưới họ lặn cho thì được. Mà như thầy đã tự vận rồi dầu có mò được, thầy cũng đã chết rồi, mò làm chi mà gấp dữ vậy? Để vài bữa thây nổi lên chớ gì.
- Thầy nói vậy sao phải, ví dầu chồng tôi tự vận chết rồi đi nữa, tôi cũng phải kiếm cho được thây chôn cất cho ấm cúng chớ.
- Tự ý cô, chớ chết chìm hễ hai mươi bốn giờ thì nổi, khỏi mò thất công. Mà bây giờ mò cũng khó lắm, bởi vì sông Bến Nghé nước chảy mạnh quá, có biết thây đã trôi lên hay là trôi xuống mà mò.
- Chú lính có nói chú kiếm được cái áo đó tại chỗ nào hay không vậy thầy?
Thầy Thông dở thơ của ông Cò quận nhì ra coi rồi nói rằng:
- Cái áo nằm dựa mé sông, tại vàm kinh mới bên Xóm Chiếu.
Xuân Hoa bèn từ giã ông Cò với thầy Thông rồi cầm cái áo bành tô bước ra leo lên xe kéo về nhà. Cô vừa vô nhà thì kêu thằng Tự vừa khóc vừa nói rằng: "Tự ôi! thầy mày đã nhào xuống sông chết rồi còn đâu!". Thằng Tự nghe nói bủn rủn tay chân nên cũng khóc dầm với chủ.
Hai người đang khóc bỗng thấy có một cái xe kiếng ngừng ngay trước cửa, Xuân Hoa thấy mẹ ruột với mẹ chồng trên xe đương leo xuống, cô lật đật chạy ra níu áo hai mẹ mà khóc và nói: "Chồng con đã chết má ôi". Bà Hương chủ với bà Hương sư nghe thất sắc hỏi: "Sao mà chết? Nó đau bịnh gì? Chết hồi nào? Trời ôi!...". Kẻ than người khóc líu nhíu với nhau, người đi đường dòm thấy ai cũng cảm động. Ba người dắt nhau vô nhà, Xuân Hoa vừa khóc vừa kể đầu đuôi tâm sự cho hai mẹ nghe, cô cũng nói luôn sự chồng nghi ngờ mình tư tình với người ta, và nghi đó chắc là nghi cho Bác Ái, chớ không dấu diếm chi hết. Bà chủ Hiệp mới nghe thì có sắc giận, song bà thấy con dâu bi ai thảm thiết và bà nghĩ nếu có ý gì riêng thì không lẽ nó nói thiệt như vậy, bởi vậy bà mới tin bụng dâu, bà mới than khóc con mà thôi, chớ không có lời oán trách dâu hết.
Hai bà với Xuân Hoa khóc một hồi rồi tính dắt nhau qua Xóm Chiếu kiếm thây Quảng Giao. Xuân Hoa biểu thằng Tự dọn cơm ra ăn sơ ba hột rồi kêu xe đi. Hai bà khóc hoài không ăn được, Xuân Hoa tuy biểu dọn ra mà cũng không chịu ăn.
Dắt nhau qua tại vàm kinh mới, Xuân Hoa mướn hai người vãi chài kiếm. Lúc hai người đương chài hai bà ngồi dựa mé sông vừa khóc vừa vái. Xuân Hoa đội khăn ngồi gần đó, mặt ngó xuống sông dường như ai cắt ruột bầm gan. Cô muốn nhào luôn xuống sông chết cho rồi, bởi vì chồng nghi mình hai lòng nên tự vận, mình còn mặt mũi nào thấy thiên hạ trên dương trần nầy nữa. Cô tính như vậy rồi vùng đứng dậy, tính nhảy phức xuống sông, chẳng dè lúc ấy hai người chài hè hụi kéo cái chài lên và nói rằng: "Cha chả! Thế khi vô chài rồi hay sao mà nặng dữ kìa". Hai người đứng dậy mà ngó, Xuân Hoa cũng đứng ngó trân trân, té ra kéo hết cái chài lên thì là một gốc cây lớn.
Xuân Hoa còn đứng ngẩn ngơ, bà chủ Hiệp liền kêu hỏi rằng:
- Nầy con, ông Cò ổng có chỉ chắc lính được cái áo chỗ nầy hay không con?
Xuân Hoa đáp rằng:
- Thưa, ổng nói tại vàm kinh, thì là chỗ nầy chớ có vàm kinh nào nữa đâu?
Bà chủ hỏi mấy lời làm cho Xuân Hoa lảng xao ý muốn tự tử hết một hồi, đến chừng Xuân Hoa day qua ngó hai mẹ, thấy tóc bạc hoa râm gió thổi phất phơ, mẹ chồng thì lắc đầu chắc lưỡi than lầm thầm, còn mẹ ruột lấy tay che mặt mà khóc dầm dề, cô lấy làm cảm động, nên ngồi bẹp xuống đất mà khóc nữa.
Xuân Hoa than khóc một hồi rồi nghĩ thầm trong trí rằng: "Tại mình nên chồng mới chết, nếu mình nhào xuống đây là chỗ chồng chết đặng chết theo chồng, thì mình trọn tình trọn nghĩa với chồng rồi. Nhưng hai mẹ già ngồi kia, mình bỏ lại cho ai? Hai mẹ đã buồn rầu mình còn làm cho buồn rầu thêm nữa thì tội nghiệp lắm. Mà xét cho cùng lý, dầu mình có chết đi nữa cũng chưa chắc xuống cửu tuyền gặp nhau mà chồng chịu tha lỗi cho mình, bởi vì trước khi chồng mình chết đây thì đã lao tâm khổ trí trót mấy tháng trời, vậy mình cũng phải kiếm thế đày đọa cái thân mình cho nhọc nhằn một ít năm rồi mình sẽ chết, chừng ấy gặp nhau mới khỏi hổ". Xuân Hoa nghĩ như vậy nên không tính nhào xuống sông chết nữa, song cô nói thầm rằng: "Anh ôi! Anh không rõ lòng em nên anh mới nghi, mà cũng tại em không đủ ngôn hạnh, nên anh nghi cũng phải. Nhưng mà lòng em thì em biết, em xin đất trời thần thánh chứng minh giùm cho lòng em. Anh ôi! Em chẳng biết liệu thế nào đặng làm cho anh thấy cái lòng trinh bạch của em, vậy nên em nguyện thầm với anh rằng anh chết vì em, thì em chết vì anh, mà trước em khi em chết, em cũng sẽ đày đọa cái thân em đặng bồi thường sự khổ não của anh trong mấy tháng. Xin anh chờ em, em chẳng giây phút nào quên anh đâu. Đợi em xuống rồi em sẽ mổ ruột em ra cho anh soi lòng dạ em".
Hai người vãi chài từ trong vàm kinh cho tới sông lớn, mỗi chỗ mỗi chài, chỗ nào sâu lắm chài không tới thì lặn xuống mò, tìm đến tối nước lớn gần đầy cũng không được thây của Quảng Giao. Xuân Hoa cùng thế mới trả tiền công cho hai người chài, rồi khóc dắt hai mẹ về.