Số lần đọc/download: 222 / 15
Cập nhật: 2020-01-25 21:17:45 +0700
Miramis
T
ÔI LUÔN BĂN KHOĂN TỰ HỎI không biết Ben sẽ nói gì nếu nó được thấy chú ngựa bạch có cái bờm vàng óng của tôi, con Miramis móng vàng, bờm vàng của tôi.
Ben và tôi đều mê ngựa kinh khủng. Hồi tôi còn sống ở Phố Bắc, bạn bè tôi không chỉ có Ben và bà Lundy. Tôi còn có một người bạn khác nữa mà tôi quên chưa nói đến. Tên nó là Charlie, và nó là con ngựa của ông lão nấu bia.
Mỗi tuần hai lần cỗ xe ngựa của ông lão nấu bia đưa bia đến các cửa hiệu trên Phố Bắc, thường vào lúc sáng sớm khỉ tôi đến trường, và tôi luôn ngong ngóng chờ để được chuyện trò với Char¬lie một lúc. Nó là một con ngựa già cực kỳ hiền hậu, và tôi vẫn hay để dành đường cục và vỏ bánh mì cho nó. Ben cũng làm như thế, vì Ben cũng thích mê con Charlie. Nó nói con Charlie là con ngựa của nó, và tôi thì nói Charlie là con ngựa của tôi nên thỉnh thoảng chúng tôi cãi nhau chí chóe vì con Charlie. Nhưng khi nào sểnh ra mà Ben không để ý, tôi thường thì thâm vào tai con Charlie, "Mày là con ngựa của tao nhé!" Tôi nghĩ con Charlie có vẻ hiểu tôi nói gì và nó cũng đồng ý với tôi. Ben có cha mẹ và có mọi thứ, và nó chẳng cần một con ngựa đến như tôi, vì tôi chỉ cỏ mỗi một mình. Cho nên tôi vẫn nghĩ con Charlie là của tôi thì hợp lý hon là của Ben. Tất nhiên, sự thực thì con Charlie không phải là của chúng tôi mà là của nhà máy bia cơ. Chúng tôi chỉ giả vờ nó là con ngựa của chúng tôi thôi. Nhưng tôi giả vờ thật đến nỗi tôi gần như tin là thế. Thỉnh thoảng mải nói chuyện với Charlie hơi lâu nên tôi bị muộn học, và khi cô giáo hỏi tại sao tôi đến muộn, tôi biết mình không trả lời được. Vì bạn không thề nào nói với cô giáo là bạn mải nói chuyện với con ngựa của ông lão nấu bia.
Có hôm xe chở bia mãi không xuất hiện, tôi đành phải đến trường mà không gặp được Charlie. Tôi giận các ông thợ chậm chạp ở nhà mấy bia ghê, vừa ngồi trong lớp, tôi vừa mân mê mấy cục đường và miếng vỏ bánh mì trong túi áo, hết sức buồn nhớ con Charlie, trong bụng nghĩ rằng phải đến mấy hôm nữa tôi mới được gặp nó.
Những lúc như thế cô giáo luôn hỏi, "Sao lại ngồi thở dài thườn thượt thế Andy? Có chuyện gì thế?"
Tôi im bặt. Mà tôi biết nói gì cơ chứ? Cô giáo làm sao có thể hiểu tôi yêu con Charlie đến mức nào.
Bây giờ thì tôi chắc Ben đã có con Charlie cho riêng nó, như thế cũng hay. Thật hay vì Ben còn có Charlie để được khuây khỏa, sau khi tôi đã biến mất.
Còn tôi thì có con Miramis bờm vàng của mình. Tôi có nó thật là bất ngờ, vô cùng bất ngờ như thế này.
Một buổi tối, khi chúng tôi làm mô hình máy bay và trò chuyện với nhau - giống y như Ben và cha nó vẫn hay cùng làm với nhau vậy - tôi đã kể cho Đức Vua cha tôi nghe về con Charlie.
"Mio, con trai ta," Đức Vua cha tôi hỏi, "con thích ngựa à?"
"À vâng, con cho là thế," tôi đáp. Nghe thì có vẻ tôi hết sức thờ ơ, nhưng ấy chỉ bởi tôi không muốn Đức Vua cha tôi nghĩ rằng tôi còn thiếu thốn điều gì, khi sống ở đây cùng Người.
Sáng hôm sau, khi cùng Đức Vua cha tôi dạo chơi trong Vườn Hoa Hồng, tôi chợt nom thấy giữa những khóm hoa một chú ngựa bạch đang tung vó phi đến. Những sợi lông bờm vàng óng ả của nó bay phấp phới trong gió, những chiếc móng vàng của nó lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nó tiến thẳng về phía tôi, cất tiếng hí vang hùng dũng tôi chưa từng được nghe thấy bao giờ. Tôi đâm ra hơi hoảng hốt và phải nép thật sát vào Đức Vua cha tôi. Nhưng Đức Vua cha tôi đã tóm lấy những sợi lông bờm vàng óng trong đôi tay mạnh mẽ của Nguời, con ngựa đúng khựng lại rồi gí cái mũi mềm mại của nó vào túi tôi để tìm đường cục. Y như con ngựa Charlie vẫn thường làm. Và đúng là tôi có mấy viên đường cục ở trong túi thật. Theo thói quen, tôi vẫn nhét đường vào túi, và con ngựa lập tức ăn hết ngay.
"Mio, con trai ta," Đức Vua cha tôi nói, "con ngựa này là của con, tên nó là Miramis.”
Ôi, con Miramis của tôi, tôi đã yêu nó ngay từ khoảnh khắc đầu tiên. Tôi nghĩ nó là con ngựa đẹp nhất trần đời, và không giống con Charlie già nua mệt mỏi chút nào. Ít nhất là thoạt tiên tôi không thấy giống tí nào, cho đến khi con Miramis ngẩng cái đầu xinh đẹp của nó lên và nhìn tôi. Bấy giờ tôi mới thấy nó có đôi mắt giống hệt con Charlie. Một đôi mắt vô cùng tận tụy, trung thành - như mắt của tất cả loài ngựa.
Cả đời tôi chưa được cưỡi ngựa bao giờ. Nhưng bây giờ Đức Vua cha tôi đã nhấc bổng tôi lên lưng con Miramis.
"Con không biết con có dám không," tôi nói.
"Mio, con trai ta," Đức Vua cha tôi nói. "Chẳng phải là con có một trái tim can đảm hay sao?"
Thế là tôi bèn cầm dây cương và cưỡi ngựa phi qua Vườn Hoa Hồng, dưới hàng cây bạch dương trút những chiếc lá lóng lánh ánh bạc lên mái tóc tôi. Tôi phi mỗi lúc một nhanh hơn, con Miramis nhảy qua những khóm hoa hồng vươn cao nhất một cách nhẹ nhàng, duyên dáng. Nó chỉ chạm khẽ vào hàng rào một lần, khiến những cánh hoa hồng bay tung lên một trận mưa ở sau lưng chúng tôi.
Liền đó, chợt Pompoo xuất hiện trong vườn. Thầy tôi đang cưỡi ngựa, nó vỗ tay và hét váng lên, "Mio đang cưỡi con Miramis! Mio đang cưỡi con Miramis!"
Tôi ghìm dây cương cho con Miramis đứng lại, hỏi Pompoo có muốn cưỡi ngựa không, tất nhiên là nó muốn. Nó thoăn thoắt leo lên ngồi sau lưng tôi rồi chúng tôi phi ngựa ra cánh đồng cỏ xanh mướt trải rộng bên ngoài Vườn Hoa Hồng. Đó là điều thú vị nhất trong đời tôi từ trước đến nay.Vương quốc của Đức Vua cha tôi thật mênh mông. Xứ sở Xa Xăm là đất nước bao la hơn bất kỳ đất nước nào. Nó trải dài từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Hòn đảo nơi lâu đài của Đức Vua cha tôi tọa lạc có tên là Đảo Đồng Xanh. Nhưng đấy chỉ là một phần nhỏ của Xứ sở Xa Xăm. Một mảnh nhỏ, rất nhỏ.
"Vùng Đất Bên Kia Biển và Bên Kia Núi cũng thuộc về Đức Vua tôn quý của chúng ta," Pompoo nói khi chúng tôi cưỡi ngựa qua cánh đồng cỏ xanh bên ngoài Vườn Hoa Hồng.
Tôi vẫn nghĩ tới Ben khi chứng tôi phi nhanh dưới ánh mặt trời. Tội nghiệp Ben, tôi nghĩ hẳn nó đang đứng trong bóng tối dưói con mưa lất phất trên Phố Bắc trong khi tôi thì đang vui sướng cưỡi ngựa dạo trên Đảo Đồng Xanh. Nơi đây đẹp quá chừng, cỏ mềm mại và xanh mơn mởn, hoa đua nở nơi nơi, những dòng suối trong trẻo chảy tràn xuống các ngọn đồi, và những chú cừu non bé nhỏ lông trắng mịn thảnh thơi gặm cỏ trên cánh đồng.
Chúng tôi bắt gặp một thằng bé chăn cừu đang thổi cây sáo gỗ nhỏ. Nó chơi một khúc nhạc kỳ diệu mà tôi ngờ ngợ như mình đã từng được nghe ở đâu đó, nhưng tôi chắc chắn là mình chưa hề nghe nó ở trên Phố Bắc.
Chúng tôi dừng ngựa lại và trò chuyện với thằng bé chăn cừu. Tên nó là Nonno, tôi hỏi liệu có thể mượn cây sáo của nó một lát được không. Nó nói được, và còn dạy tôi thổi sáo nữa.
"Tớ có thể làm sáo cho các cậu, nếu các cậu thích," Nonno nói.
Chúng tôi đáp rằng chúng tôi rất thích có cây sáo. Ngay cạnh đó có một dòng suối chảy qua, nhành liễu buông lòa xòa trên mặt nước. Nonno chạy đi cắt một nhành liễu. Hai đứa chúng tôi cùng ngồi xuống bên bờ suối và dùng chân đá nước bắn tung tóe trong khi Nonno khoét sáo cho chúng tôi. Pompoo đã học được cách thổi điệu nhạc kỳ lạ kia. Nonno bảo chúng tôi rằng đó là một khúc nhạc cổ xưa ra đời trước tất cả mọi khúc nhạc khác trên thế gian này và những người chăn cừu đã thổi nó trên đồng cỏ của họ từ hàng nghìn, hàng nghìn năm rồi.
Chúng tôi cảm ơn nó đã làm sáo cho chúng tôi và đã dạy chúng tôi khúc nhạc cổ xưa. Rồi chúng tôi lại cưỡi lên lưng con Miramis và đi. Chúng tôi nghe tiếng Nonno thổi sáo xa dần, càng lúc càng xa.
"Mình phải giữ cây sáo cẩn thận," tôi nói với Pompoo, "nếu một trong hai đứa gặp chuyện không may, minh sẽ thổi điệu nhạc cổ xưa này nhé."
Pompoo bèn quàng hai tay ôm chặt lấy tôi và tựa đầu vào lưng tôi đề khỏi ngã trên lưng ngựa xuống, "ừ, Mio," nó nói, "chúng mình phải giữ gìn cây sáo cẩn thận, nếu cậu nghe thầy tiếng sáo của tớ, cậu sẽ biết ngay là tớ đang gọi cậu nhé.”
"ừ," tôi nói, "nếu cậu nghe tớ thổi sáo, cậu sẽ biết ngay là tớ đang gọi cậu nhé."
"ừ," Pompoo đáp, và tôi biết nó là người bạn tốt nhất của tôi. Tất nhiên là ngoại trừ Đức Vua cha tôi. Tôi yêu Đức Vua cha tôi hơn bất cứ ai trên đời. Nhưng Pompoo là một thằng bé giống tôi và bây giờ nó là đứa bạn thân nhất của tôi vì tôi không sao gặp Ben được nữa.“
Bạn thử nghĩ xem, tôi có Đức Vua cha tôi, Pompoo và con Miramis, tôi đang phi ngựa nhanh như cơn gió qua những ngọn đồi và những đồng cỏ xanh, chẳng có gì lạ là tôi lại vui sướng đến thế.
"Vậy làm sao đến được Vùng Đất Bên Kia Biển và Bên Kia Núi?" tôi hỏi.
"Qua Cầu Ánh Ban Mai," Pompoo đáp.
"Cầu Ánh Ban Mai ở đâu?" tôi hỏi.
"Bọn mình sẽ thấy ngay thôi," Pompoo nói. Và chúng tôi bắt gặp cây cầu thật. Cây cầu rất cao và rất dài, đến nỗi chẳng thấy đầu cầu bên kia đâu cả. Nó lấp lánh trong ánh ban mai như thể được đúc bằng vàng ròng.
"Cây cầu dài nhất thế gian đấy," Pompoo nói. "Nó vắt ngang từ Đảo Đồng Xanh qua Vùng Đất Bên Kia Biển. Nhưng ban đêm thì Đức Vua ra lệnh kéo cây cầu lên để chúng ta được ngủ yên lành trên Đảo Đồng Xanh."
"Tại sao thế?" tôi hỏi. "Ban đêm có ai đến à?"
"Nam tước Kato," Pompoo đáp.
Nó vừa nói dứt lời, lập tức trên cánh đồng nổi lên một cơn gió lạnh như băng, và con Miramis bắt đầu run rẩy.
Đó là lần đầu tiên tôi nghe tên Nam tước Kato. "Nam tước Kato ư," tôi thì thầm, cái tên khiến tôi rùng mình.
"ừ, Nam tước Kato hung ác," Pompoo nói.
Con Miramis hí lên bồn chồn, gần như lạc giọng, nên chúng tôi im bặt, không nhắc đến Nam tước Kato nữa.
Dĩ nhiên là tôi rất muốn được cưỡi ngựa qua Cầu Ánh Ban Mai, nhưng tôi lại chưa xin phép Đức Vua cha tôi. Vì vậy chúng tôi quay về Vườn Hoa Hồng và cuộc thám hiểm đầu tiên của chúng tôi chấm dút. Suốt ngày hôm ấy chúng tôi không cưỡi ngựa nữa. Thay vào đó, chúng tôi chải lông và bộ bờm vàng óng cho con Miramis, chúng tôi vỗ về nó, cho nó ăn đường cục và vỏ bánh mì xin của mẹ Pompoo.
Sau đó tôi cùng Pompoo dựng một cái lều trong vườn Hoa Hồng rồi chui vào đó đánh chén đủ thứ ngon tuyệt trần, chúng tôi ăn những chiếc bánh kếp mỏng tang rắc đường cát. Thật là những chiếc bánh ngon tuyệt trần mà tôi bao giờ được ăn cả. Mẹ của Ben cũng hay nướng bánh kếp, và thỉnh thoảng tôi được nếm thử. Nhưng những chiếc bánh kếp mẹ Pompoo nướng vẫn ngon hơn nhiều.
Dựng lều rất là vui. Tôi vốn đã mê dựng lều từ lâu rồi. Vì Ben vẫn hay kể cho tôi nghe nó dựng lều như thế nào ở nhà nghỉ mùa hè của gia đình nó tại Vaxholm. Ước gì tôi có thể viết thư cho nó và kể với nó về cái lều của tôi với Pompoo nhỉ!
"Đẹp cực!" tôi sẽ viết. "Cái lều tớ đã tự dựng cho tớ ở đây, ở Xứ sở Xa Xăm ấy mà, đẹp cực nhé!"