Nguyên tác: Living Dead In Dallas
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:54:37 +0700
Chương 4
T
hời tiết ở Dallas nóng như ở sáu tầng địa ngục, đặc biệt là trên vỉa hè sân bay. Những ngày thu mới chớm của chúng tôi đã quay ngược trở lại mùa hè. Những đợt gió nóng ran thổi qua mang theo toàn bộ âm thanh và mùi vị của sân bay Dallas-Fort Worth - tiếng động cơ xe cộ và máy bay, mùi xăng dầu, mùi hàng hóa - tất cả dường như dồn hết lại quanh chân băng chuyền hành lý của chuyến bay mà tôi đợi nãy giờ. Tôi bay chuyến phổ thông, nhưng Bill thì phải được chuyển đi theo chuyến đặc biệt.
Tôi đang cố phe phẩy chiếc áo khoác gió, cố giữ cho nách mình khô ráo, thì một cha đạo tiến đến chỗ tôi.
Lúc đầu, vì quá tôn trọng chiếc áo chùng của ông ta nên tôi không phản đối việc ông ta lại gần, dù rằng tôi thực chẳng muốn nói chuyện với ai. Tôi vừa mới kinh qua một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ, và trước mắt tôi còn nhiều khó khăn như thế nữa.
“Cha có thể giúp gì con không? Ta không thể phớt lờ tình trạng của con được,” người đàn ông nhỏ thó cất tiếng.
Ông ta mặc một bộ áo chùng cha xứ nhã nhặn màu đen, và giọng nói của ông ta thì nghe nghèn nghẹn thương cảm. Ngoài ra, ông ta mang vẻ tự tin của một người quen thói bắt chuyện với người lạ mà luôn được lịch sự đáp lời. Mặc dù thế, ông ta có kiểu tóc mà theo tôi nghĩ là khá bất thường đối với một cha xứ; mái tóc nâu hơi dài, rối, và ông ta còn có cả ria mép nữa. Nhưng tôi cũng chỉ lơ đãng quan tâm đến điều này.
“Tình trạng của con ư?” tôi hỏi lại, không thực sự lắng nghe lời ông. Tôi vừa nhác thấy chiếc quan tài bằng gỗ bóng xuất hiện ở đầu băng chuyền. Bill truyền thống quá đi mất; kim loại chắc chắn sẽ thực tế cho việc di chuyển hơn. Những tiếp viên bận đồng phục đang cố lăn cỗ quan tài đến đầu băng chuyền, vậy chắc hẳn họ đã xoay sở sao đó để lắp bánh xe dưới cỗ quan tài. Họ đã hứa với Bill rằng cỗ quan tài sẽ được đưa đến nơi mà không bị trầy xước gì cả. Và những tay vệ sĩ được trang bị súng ống phía sau tôi đảm bảo rằng sẽ không có bất kỳ kẻ cuồng tín nào có thể lao đến mà lật nắp quan tài lên được. Đó là một trong những dịch vụ phụ mà hãng hàng không Anubis Air đã đưa vào quảng cáo của mình. Theo chỉ dẫn của Bill, tôi cũng đã yêu cầu rõ ràng là anh phải là người đầu tiên xuống máy bay.
Đến giờ thì mọi chuyện vẫn tốt đẹp.
Tôi ngước nhìn bầu trời lờ mờ tối. Đèn trên đường băng đã được bật lên vài phút trước. Cái đầu chó rừng màu đen ở đuôi máy bay hiện lên hung dữ dưới ánh sáng chói lòa đó, tạo nên những cái bóng thật sâu trước đấy chẳng hề có. Tôi kiểm tra đồng hồ lần nữa.
“Phải, cha rất tiếc.”
Tôi liếc sang nhìn người bạn đồng hành không mời của mình. Có phải ông ta đã lên máy bay ở Baton Rouge không nhỉ? Tôi chẳng thể nhớ được khuôn mặt đó, nhưng mà này, tôi đã khá căng thẳng trong suốt cả chuyến bay còn gì. “Xin lỗi,” tôi đáp. “Sao lại tiếc chứ? Có vấn đề gì sao?”
Vẻ mặt ông ta trông ngỡ ngàng đến điệu đà. “À,” ông ta nói, hất đầu về phía quan tài, lúc này đang được dỡ xuống băng chuyền từ hệ thống bánh lăn. “Người con mất đó. Phải đó là người thân của con không?” Ông ta nhích lại gần tôi hơn.
“À, vâng,” tôi đáp, vừa bực mình vừa bối rối. Sao ông ta lại ở đây cơ chứ? Chắc chắn chẳng có hãng hàng không nào trả tiền để một viên cha xứ tiếp cận từng hành khách có đi kèm theo một cỗ quan tài đâu nhỉ? Nhất là cái cỗ quan tài đang được chuyển xuống từ máy bay hãng Anubis Air. “Chứ không thì con đứng đây làm gì?”
Tôi bắt đầu lo lắng.
Thật chậm rãi và cẩn thận, tôi bắt đầu hạ rào chắn tâm trí của mình xuống để bắt đầu kiểm tra người đàn ông bên cạnh mình. Tôi biết, tôi biết mà: làm thế là xâm phạm sự riêng tư của ông ta. Nhưng tôi không chỉ có trách nhiệm cho riêng mình, mà còn cho cả Bill nữa.
Viên cha xứ, tình cờ lại là một trạm phát sóng cực mạnh, đang chủ tâm nghĩ đến màn đêm buông xuống như tôi đang nghĩ vậy, nhưng với tâm trạng sợ hãi hơn nhiều. Ông ta đang mong bạn bè của mình đã ở nơi mà họ phải có mặt.
Cố gắng không thể hiện nỗi lo lắng mỗi lúc một tăng của mình, tôi lại ngước mắt lên. Trên bầu trời Texas nhá nhem, chỉ còn sót lại chút vệt sáng lờ mờ.
“Có lẽ là chồng con chăng?” Ông ta nắm lấy tay tôi.
Thằng cha này ghê ghê hay sao ấy nhỉ? Tôi liếc sang ông ta. Đôi mắt ông ta đang dính chặt vào mấy người điều tiết hành lý, có thể rõ ràng nhìn thấy mấy người này trong khoang hành lý của máy bay. Họ mặc đồng phục áo liền quần màu đen và bạc cùng logo hãng Anubis trên ngực trái. Rồi ánh mắt ông ta lướt xuống nhân viên mặt đất, những người này đang chuẩn bị hướng dẫn hạ cỗ quan tài xuống chiếc xe đẩy hành lý đáy phẳng có bọc nệm. Cha xứ này muốn… ông ta muốn gì nhỉ? Ông ta đang cố canh đến lúc mấy người đó quay đi, bận tâm đến chuyện khác. Ông ta không muốn họ nhìn thấy. Trong khi ông ta… cái gì cơ?
“Không, chỉ là bạn trai của tôi thôi,” tôi đáp, chỉ để giả vờ cùng ông ta. Bà tôi đã dạy tôi phải lịch sự, nhưng bà không dạy tôi phải ngu ngốc. Tôi len lén mở túi xách khoác vai bằng một tay và lôi ra bình xịt ớt mà Bill đã đưa cho tôi phòng trường hợp nguy cấp. Tôi giấu bình xịt trong lòng bàn tay xuôi theo đùi. Khi tôi đang nhích xa khỏi tay cha xứ giả mạo cùng những dự định ám muội của hắn, và bàn tay hắn giữ chặt lấy tay tôi, thì nắp quan tài bật mở.
Hai người điều tiết hành lý trong máy bay đu xuống mặt đất. Giờ thì họ cúi sát xuống đất. Người đang điều khiển cỗ quan tài hạ xuống dưới xe thốt lên, “Cứt thật!” rồi cũng lúi húi cúi xuống theo (nhân viên mới, chắc vậy). Cái khoản cúi lóp ngóp này cũng là một trong những dịch vụ phụ của hãng hàng không, nhưng tôi thấy trò này thật quá đáng.
Viên cha xứ thốt lên, “Xin Chúa cứu giúp!” Nhưng thay vì khom người quỳ xuống, hắn nhảy qua bên phải tôi, kéo cánh tay đang cầm bình xịt của tôi, bắt đầu lôi tôi đi.
Thoạt tiên, tôi nghĩ hắn đang cố giúp tôi thoát khỏi nguy hiểm do chiếc quan tài bật nắp bày ra, bằng cách kéo tôi đến nơi an toàn. Tôi cũng đoán đó là suy nghĩ của đám điều tiết hành lý, họ đang toàn tâm toàn ý diễn cái hoạt cảnh của nhân viên hãng hàng không Anubis. Kết quả là, họ không giúp đỡ gì tôi, kể cả khi tôi hét lên, “Thả tôi ra!” bằng hết sức bình sinh. Viên “Cha xứ” cứ giằng lấy cánh tay tôi và cố chạy đi, còn tôi thì cố tì gót giày năm phân của mình xuống để trụ lại. Tôi dùng tay kia đập vào hắn. Tôi sẽ chẳng để bất cứ ai lôi mình đi khi tôi không muốn, không bao giờ đi khi chưa đánh nhau ra trò.
“Bill ơi!” Tôi thực sự sợ hãi. Tên cha xứ đó không to lớn gì, nhưng hắn cao và nặng hơn tôi, mà cũng lì như tôi nữa. Mặc dù tôi đã vật lộn hết sức mình, nhưng hắn vẫn đang kéo tôi từng phân từng phân một về phía cửa dành cho nhân viên vào sảnh đón khách. Chẳng biết từ đâu một cơn gió thốc đến, và nếu tôi xịt thứ hóa chất đó thì sẽ bị thổi ngược lại ngay vào mặt.
Người đàn ông trong cỗ quan tài từ từ ngồi thẳng dậy, đôi mắt to đen của anh nhìn quanh quan sát toàn cảnh. Tôi nhác thấy bàn tay anh đưa lên vuốt mái tóc nâu mượt.
Cánh cửa nhân viên bật mở và tôi biết rằng có ai đó ở ngay bên trong hỗ trợ cho tên cha xứ.
“Bill ơi!”
Một luồng khí thổi vù đến quanh tôi, và ngay lập tức tên cha xứ giả mạo bỏ tay tôi ra lỉnh thật nhanh qua khe cửa như một con thỏ trốn đi trên đường đua nước rút. Tôi chới với, suýt nữa thì ngã dập mông xuống đất nếu Bill không giảm tốc lại để đỡ lấy tôi.
“Ê cưng,” tôi bảo, nhẹ hết cả người. Tôi chỉnh sửa lại chiếc áo khoác của bộ vest mới màu xám, và mừng là mình đã thoa thêm chút son trước khi máy bay hạ cánh. Tôi nhìn về hướng tên cha xứ đã bỏ chạy. “Chuyện này quái lạ thật.” Tôi nhét bình xịt ớt trở lại túi xách.
“Sookie à,” Bill hỏi, “em ổn chứ?” Anh cúi xuống hôn tôi mà chẳng thèm để tâm đến tiếng xì xầm kính sợ từ những tay nhân viên điều tiết hành lý đang làm việc trên chiếc máy bay thuê ngay cạnh cổng dành cho hãng Anubis. Cho dù từ hai năm trước cả thế giới này đã biết ma cà rồng không chỉ là mấy thứ trong truyền thuyết hay trên phim ảnh kinh dị mà thực sự đã tồn tại cùng chúng ta trong hàng mấy thế kỷ, nhưng nhiều người vẫn chưa từng thấy ma cà rồng bằng xương bằng thịt bao giờ.
Bill phớt lờ họ. Anh rất giỏi trong việc lờ đi những thứ mà anh thấy không đáng quan tâm.
“Vâng, em ổn,” tôi đáp, vẫn còn hơi choáng một chút. “Em không biết tại sao gã cố lôi em đi.”
“Hắn hiểu nhầm mối quan hệ của hai đứa mình?”
“Em không nghĩ vậy. Em nghĩ hắn biết em đang đợi anh, nên cố lôi em đi trước khi anh thức dậy.”
“Mình sẽ phải xem xét chuyện này,” Bill nói, anh là chuyên gia nói giảm nói tránh. “Ngoài sự cố kỳ quặc đó ra, cả buổi tối của em thế nào?”
“Chuyến bay ổn cả,” tôi nói, cố không trề môi ra.
“Có điều gì không hay đã xảy ra à?” Giọng anh thoáng chút khô khốc. Anh biết quá rõ là tôi thấy mình như bị bạc đãi ấy.
“Em không biết một chuyến bay bình thường là như thế nào, em đã bay bao giờ đâu,” tôi chua chát đáp, “nhưng trước khi tay cha xứ đó xuất hiện, theo em thì mọi việc khá suôn sẻ.” Bill nhướn một bên mày lên theo cách trịch thượng, nên tôi phải nói thêm. “Em nghĩ hắn chẳng phải là cha xứ gì sất. Sao hắn phải đứng chờ máy bay làm gì? Sao lại đến bắt chuyện với em? Hắn chỉ rình đợi mấy người làm việc trên máy bay nhìn theo hướng khác.”
“Mình bàn chuyện ở nơi riêng tư hơn đi,” chàng ma cà rồng của tôi nói, liếc nhìn sang mọi người đang bắt đầu vây quanh máy bay tò mò xem vụ lộn xộn. Anh bước đến chỗ đám nhân viên mặc đồng phục của hãng Anubis, và với giọng thấp trầm anh quở trách họ đã không chạy đến giúp tôi. Ít ra thì, tôi đoán đấy là nội dung cuộc đối thoại, qua sắc mặt dần trắng bệch và thái độ lắp ba lắp bắp của họ. Bill vòng tay qua eo tôi rồi cả hai đứa rảo bước về phía phòng chờ.
“Đưa cỗ quan tài này về địa chỉ ghi trên nắp cho tôi,” Bill nói với lại sau lưng. “Khách sạn Silent Shore.” Silent Shore là khách sạn duy nhất ở khu vực Dallas đã được cải tạo triệt để để nhận khách ma cà rồng. Theo như quyển hướng dẫn, đó là một trong những khách sạn cổ giữa trung tâm thành phố, nói thế thôi chứ không phải trước kia tôi đã thấy trung tâm Dallas hay mấy khách sạn cổ gì đâu nhé.
Chúng tôi dừng ở chân cầu thang bụi bặm dẫn lên phòng chờ chính của hành khách. “Bây giờ kể anh nghe đi nào,” anh yêu cầu. Tôi ngước lên nhìn anh khi kể lại vụ việc kỳ quặc nho nhỏ đó từ đầu đến cuối. Mặt anh trắng bệch. Tôi biết anh đang đói lắm. Đôi lông mày của anh lại càng đen hơn khi tương phản với nước da trắng tái, đôi mắt nâu của anh cũng sẫm màu hơn mọi khi.
Anh mở cửa đưa tôi vào không gian hối hả hỗn tạp của một trong những sân bay lớn nhất thế giới.
“Em không lắng nghe hắn sao?” Tôi hiểu ý Bill là không phải chuyện lắng nghe bằng tai thông thường.
“Em vẫn còn đang che chắn từ lúc bước xuống máy bay mà,” tôi đáp. “Cho đến khi em thấy lo lắng, bắt đầu đọc tâm trí hắn, thì anh đã bật khỏi quan tài và hắn chuồn mất. Em có cảm giác rất kỳ khôi thế này, rằng trước khi hắn chạy đi…” Tôi trù trừ, biết rằng ý tưởng này là suy diễn quá đáng.
Bill chỉ chờ thôi. Anh không phải là kiểu người nói năng thừa thãi. Anh luôn để cho tôi nói hết ý của mình. Chúng tôi ngừng bước trong một giây, đối diện bức tường.
“Em có cảm tưởng như hắn ta ở đấy để bắt cóc em vậy,” tôi nói. “Em biết điều đó nghe thật điên rồ. Ở Dallas này, có ai biết em là ai cơ chứ? Ai mà biết để đón chuyến bay? Nhưng dứt khoát đây là cảm giác của em.” Bill nắm chặt đôi tay ấm áp của tôi trong bàn tay lạnh giá của anh.
Tôi ngước lên nhìn vào mắt Bill. Tôi vốn không thấp lắm, và anh cũng không phải là quá cao, nhưng tôi vẫn phải ngước nhìn lên anh. Và đây là chút rắc rối cho lòng kiêu hãnh của tôi đây, rằng tôi có thể nhìn thẳng vào mắt anh mà không bị mê hoặc gì cả. Đôi lúc, tôi ước rằng Bill có thể mang lại cho tôi một loạt ký ức khác - ví dụ như, tôi chẳng phiền nếu được quên đi chuyện về ả maenad - nhưng anh lại không thể mang lại cho tôi điều ấy.
Bill đang cân nhắc những gì tôi vừa nói, ghi nhớ để sau này có khi dùng đến. “Vậy chuyến bay nhàm chán lắm hả em?” anh hỏi.
“Thực ra thì cũng khá thú vị,” tôi thừa nhận. “Sau khi chắc chắn rằng mấy người của hãng Anubis đã đưa anh lên máy bay, em lên chuyến bay của em, một cô thao tác cho mọi người biết phải làm gì khi máy bay gặp tai nạn. Em ngồi tại hàng ghế ngay lối thoát hiểm. Cô ta bảo mọi người đổi chỗ cho nhau nếu ai thấy mình không đủ sức xử lý. Nhưng em nghĩ là em làm được mà, phải không anh? Xử lý những tình huống nguy kịch ấy? Cô ta mang cho em ly rượu và một tờ tạp chí.” Tôi chẳng mấy khi được người ta phục vụ, vì nghề của tôi là phục vụ bàn mà, nên tôi khá thích thú khi được người khác phục vụ mình.
“Anh chắc chắn em có thể xử lý chuyện gì cũng được hết, Sookie à. Khi máy bay cất cánh em có sợ không?”
“Không, em chỉ hơi lo một chút về những chuyện sẽ xảy ra tối nay thôi. Ngoài chuyện đó ra thì mọi thứ đều tuyệt cả.”
“Anh xin lỗi vì không thể ở cạnh em được,” anh thủ thỉ, giọng nói dịu dàng êm ái của anh bao phủ tôi. Anh siết tôi vào ngực.
“Không sao đâu anh,” tôi rúc mặt vào ngực anh mà đáp, gần như thực tâm bảo thế. “Lần đầu tiên bay, anh biết mà, hơi quá căng thẳng. Nhưng mọi thứ đều ổn. Cho đến khi hạ cánh.”
Tôi có thể rên rỉ cằn nhằn, nhưng thực sự mà nói thì tôi mừng là Bill đã tỉnh dậy kịp lúc để đưa tôi đi qua sân bay. Càng lúc tôi càng có cảm giác mình là một cô bé nhà quê ra tỉnh.
Chúng tôi không đả động thêm gì về gã cha xứ đó, nhưng tôi biết rằng Bill không quên đâu. Anh đi cùng tôi lấy hành lý và tìm xe. Lẽ ra anh đã có thể để tôi ngồi yên đâu đó còn anh tự mình thu xếp hết mọi chuyện, nhưng như anh cứ hay nhắc, rồi có lúc tôi sẽ phải tự mình làm tất thôi, nếu công việc đòi hỏi chúng tôi bay đi đâu đó ngay giữa ban ngày.
Mặc dù sân bay có vẻ như đông đúc đến không tưởng, đầy nhóc những người cau có với tâm can trĩu nặng, tôi vẫn cố gắng theo kịp các biển báo với chút khích lệ từ Bill, sau khi đã củng cố lại một lần nữa rào chắn tâm lý của mình. Không cần nghe ra chính xác những lời ta thán của đám hành khách, nội nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi khổ sở của họ không thôi là đã mệt lắm rồi. Tôi hướng dẫn người vận chuyển hành lý (Bill có thể dễ dàng xách đống đồ đó chỉ bằng một tay thôi) đến chỗ đợi taxi, rồi Bill và tôi chỉ có bốn mươi phút để tới khách sạn trước khi Bill cần được tiếp máu. Mấy tay nhân viên của Anubis đã hứa lên hứa xuống rằng cỗ quan tài của anh sẽ được chuyển đến khách sạn trong vòng ba tiếng nữa.
Để xem sao. Nếu họ không chuyển được đến đúng giờ, thì chúng tôi sẽ có chuyến bay miễn phí.
Tôi đã quên bẵng mất sự đồ sộ của Dallas, sau bảy năm từ khi tốt nghiệp trung học. Những ánh đèn của thành phố thật hào nhoáng, và cả sự náo nhiệt đó nữa. Tôi nhìn chăm chăm vào mọi hình ảnh đang lướt qua bên ngoài cửa sổ, còn Bill thì mỉm cười với tôi, vẻ say mê bứt rứt.
“Trông em xinh quá, Sookie à. Bộ đồ em mặc rất hợp.”
“Cảm ơn anh,” tôi trả lời, nhẹ nhõm và hài lòng. Bill đã nhắc đi nhắc lại rằng tôi phải trông thật “chuyên nghiệp”, và sau khi tôi hỏi lại, “chuyên nghiệp như thế nào cơ?” thì anh nhìn tôi bằng ánh mắt khó chịu. Thế là tôi mặc một bộ vest xám, bên trong là một chiếc áo sơ mi xếp nếp trắng, đeo khuyên tai ngọc trai cùng túi xách tay đen và giày cao gót. Tôi còn vuốt phẳng hết tóc ra sau đầu xoắn lại thành búi bằng mấy cọng xoắn tóc Hairagamis tôi đặt mua trên ti vi. Arlene đã giúp tôi. Được thôi, theo tôi thấy, tôi trông thật chuyên nghiệp - một nhân viên chuyên nghiệp của nhà tang lễ - nhưng Bill có vẻ ủng hộ. Tôi tính tiền tất cả bộ đồ của mình tại cửa hàng Taras Togs vào anh, vì đây là chi phí công tác hợp thức mà. Vì vậy nên tôi chẳng phải phàn nàn gì về giá cả của bộ đồ cả.
Tôi thấy thoải mái hơn nhiều khi mặc đồ phục vụ bàn. Bất cứ khi nào cũng vậy, thà đưa cho tôi áo phông và quần soóc còn hơn là váy áo và giày vớ. Và với đồng phục phục vụ bàn tôi có thể đi kèm đôi Adidas, chứ không phải đôi cao gót mắc dịch này. Tôi thở dài.
Chiếc taxi dừng lại trước cửa khách sạn, viên tài xế mở cốp xe để dỡ hành lý xuống. Hành lý sẽ đủ dùng cho ba ngày. Nếu những ma cà rồng ở Dallas nghe theo lời tôi, tôi có thể giải quyết hết mọi thứ và chúng tôi sẽ về lại Bon Temps ngay tối mai, sống cuộc sống không bị quấy rối, không hề vướng bận những trò chính trị của đám ma cà rồng - ít nhất là cho đến khi Bill nhận được cú điện khác. Nhưng cứ mang theo thêm ít quần áo còn hay hơn là trông chờ phụ thuộc vào việc “nếu” đó xảy ra.
Tôi chuồi qua băng ghế để bước ra khỏi xe theo sau Bill, lúc này đang trả tiền taxi. Một cậu nhân viên trực cửa mặc đồng phục khách sạn đang dỡ hành lý đặt lên xe đẩy. Rồi cậu quay gương mặt nhọn hóp lại về phía Bill và nói, “Chào mừng ngài đến với khách sạn Silent Shore! Tên tôi là Barry, và tôi sẽ là…” Lúc đó Bill bước tới, ánh sáng từ sảnh soi rọi khuôn mặt anh. “Tôi sẽ là người khuân vác hành lý cho ngài,” Barry yếu ớt nói cho hết câu.
“Cảm ơn,” tôi nói, để cậu phục vụ trông không quá mười tám tuổi có vài giây trấn tĩnh. Tay cậu ta run run. Tôi quăng ra một màn lưới tâm trí để tìm hiểu nguyên nhân của sự căng thẳng đó.
Thật vui sướng đến ngạc nhiên làm sao, tôi nhận ra (sau một thoáng sục sạo trong tâm trí của Barry) rằng cậu ta cũng là một người có khả năng ngoại cảm, như tôi vậy! Nhưng cậu ta chỉ ở trình độ hình thành và phát triển như lúc tôi, có lẽ vậy, khoảng mười hai tuổi mà thôi. Cậu chàng đang rối như canh hẹ. Cậu không thể tự kiểm soát gì cả, và rào chắn tâm trí của cậu ta thì lóng ngóng vụng về. Cậu bé đang rất muốn chối bỏ. Tôi chẳng biết mình nên ôm chầm lấy, hay là bợp cho cậu ta một cái vào đầu. Nhưng rồi tôi nhận ra đó không phải bí mật của mình để mà tiết lộ. Tôi liếc nhìn đi nơi khác, đổi từ chân này sang chân kia, như thể đang chán ốm.
“Tôi sẽ mang hành lý theo ông bà đây ạ,” Barry lí nhí, Bill quay lại mỉm cười mềm mỏng với cậu ta. Barry mỉm cười lại với vẻ căng thẳng, rồi quay lại bận bịu lôi chiếc xe đẩy vào. Chắc hẳn vẻ ngoài của Bill làm Barry sợ, vì cậu ta không thể đọc được tâm trí của Bill, sự hấp dẫn cùng cực từ những kẻ bất tử đối với những người như tôi. Barry phải học cách thư giãn khi ở quanh ma cà rồng thôi, vì cậu ta đã chấp nhận làm việc ở một khách sạn phục vụ loại người này mà.
Vài người nghĩ rằng tất cả ma cà rồng trông đều đáng sợ. Với tôi thì tùy từng ma cà rồng một. Tôi nhớ mình đã nghĩ, lúc gặp Bill lần đầu tiên, rằng anh trông mới khác biệt làm sao; nhưng tôi đã không hề hoảng sợ.
Nhưng cái người đang đợi chúng tôi ở trong tiền sảnh khách sạn Silent Shore, người này này, mới là đáng sợ. Tôi dám cá rằng cô này làm cậu nhóc Barry sợ vãi cả ra quần. Ả tiến đến sau khi chúng tôi làm thủ tục nhận phòng, khi Bill nhét thẻ tín dụng vào lại ví (bạn cứ thử làm hồ sơ xin cấp thẻ tín dụng khi bạn một trăm sáu mươi tuổi xem; cái quy trình ấy gian nan muốn chết), tôi rụt rè nhích lại gần Bill hơn một chút khi anh đang boa cho Barry, hy vọng rằng ả sẽ không chú ý đến mình.
“Bill Compton phải không? Điều tra viên từ Louisiana?” Giọng của ả cũng nhẹ nhàng lạnh lẽo như của Bill, nhưng ngữ điệu kém uyển chuyển hơn nhiều. Cô này chắc đã chết lâu lắm rồi đây. Cô ả trắng như giấy và phẳng như một tấm bảng vậy, và chiếc váy xanh vàng dài đến mắt cá chân mỏng dính chỉ nhấn mạnh thêm vẻ trắng bệch và phẳng phiu ấy mà thôi. Mái tóc màu nâu nhạt (được tết thành bím dài đến mông) và đôi mắt màu xanh lá mạ lấp lánh càng tô đậm thêm vẻ dị biệt của ả.
“Phải.” Ma cà rồng không bắt tay, nhưng hai người họ đưa mắt nhìn nhau và gật đầu cụt lủn.
“Đây là cô nàng đó à?” Chắc là cô ả đã ra dấu về phía tôi nhanh như chớp bởi tôi chỉ thoáng thấy mờ mờ qua khóe mắt.
“Đây là bạn đồng hành và cũng là đồng nghiệp của tôi, Sookie Stackhouse,” Bill đáp.
Sau một lúc, ả gật đầu tỏ ra đã hiểu được hàm ý. “Tôi là Isabel Beaumont,” cô ả nói, “sau khi mang hành lý lên phòng rồi giải quyết xong các nhu cầu cá nhân, hai người phải đi theo tôi.”
“Tôi phải nạp đã,” Bill nói.
Isabel đảo mắt về phía tôi đầy ngụ ý, không nghi ngờ gì rằng ả đang băn khoăn không biết tại sao tôi không cung cấp máu cho người vệ sĩ của mình, nhưng đây không phải là việc của ả. Ả bảo, “Cứ việc nhấn nút điện thoại để gọi phục vụ phòng nhé.”
Cái con bé chẳng biết bất tử già nua vô tích sự là tôi đây chỉ cần phải gọi đồ ăn từ thực đơn. Nhưng sau khi xem lại giờ giấc, tôi nhận thấy mình sẽ khỏe hơn nhiều nếu đợi cho đến khi công chuyện tối nay xong xuôi rồi hẵng dùng bữa.
Sau khi hành lý đã được chuyển hết vào phòng ngủ (đủ rộng cho một cỗ quan tài và một chiếc giường), sự im lặng trong căn phòng khách nhỏ bắt đầu trở nên khó chịu. Có một tủ lạnh nhỏ trong phòng chứa đầy Máu Tinh Khiết, nhưng tối nay, Bill sẽ muốn đồ thật.
“Anh phải gọi thôi, Sookie à,” Bill nói. Chúng tôi đã bàn đến chuyện này từ trước khi khởi hành rồi.
“Tất nhiên rồi.” Không hề nhìn về phía anh, tôi rút vào phòng ngủ và đóng cửa lại. Anh sẽ phải hút máu ai đó khác để tôi có thể giữ sức cho những gì sắp tới, nhưng tôi không cần phải chứng kiến hay thích thú gì chuyện đó cả. Sau vài phút, tôi nghe có tiếng gõ cửa từ ngoài hành lang và tôi nghe thấy tiếng Bill để người nào đó vào - Bữa Ăn Cấp Tốc của anh đây mà. Vài tiếng rì rầm vang lên, và rồi là một tiếng rên nho nhỏ.
Thật không may cho mức độ căng thẳng của tôi, tôi thừa hiểu rằng mình không nên làm gì đó như ném lược hay liệng đôi giày cao gót chết tiệt qua bên kia phòng. Có lẽ tôi vẫn còn chút tự trọng trong mình, và biết quá rõ Bill sẽ phát cáu đến dường nào nếu tôi làm thế. Nên tôi dỡ đồ đạc khỏi va li và bày đống đồ trang điểm ra trong phòng tắm, rồi đi vệ sinh dù chẳng mắc chút nào. Trong thế giới ma cà rồng thì phòng vệ sinh chỉ là tùy chọn thôi, tôi đã học được điều đó, và thậm chí nếu trong nhà của ma cà rồng có phòng vệ sinh đi chăng nữa thì thi thoảng họ vẫn quên bỏ giấy vào đó.
Chỉ một lúc sau tôi nghe thấy tiếng cửa phòng ngoài mở ra đóng lại, và Bill gõ nhẹ cửa phòng ngủ trước khi bước vào. Anh trông hồng hào, và gương mặt anh đầy đặn hơn nhiều.
“Em sẵn sàng chưa?” anh hỏi. Đột nhiên, chuyện tôi sắp đi thi hành nhiệm vụ đầu tiên cho ma cà rồng làm tôi choáng ngợp, và tôi lại thấy sợ hãi. Nếu tôi không làm được việc, cuộc đời tôi sẽ hết sức nguy khốn, và Bill có lẽ sẽ còn sống dở chết dở hơn cả bây giờ nữa. Tôi gật đầu, cổ họng khô khốc vì sợ.
“Đừng mang theo ví.”
“Tại sao lại không?” Tôi liếc nhìn xuống ví, ngạc nhiên hết sức. Ai lại không cho tôi mang ví cơ chứ?
“Đồ đạc có thể được giấu trong ví.” Những thứ kiểu như cọc nhọn ấy nhỉ, tôi đoán vậy. “Cứ nhét chìa khóa phòng vào trong… Cái váy em mặc có túi không nhỉ?”
“Không.”
“Vậy thì cứ luồn nó vào đồ trong của em đi.”
Tôi liền vén váy lên để Bill có thể thấy chính xác loại đồ trong mà tôi sẽ nhét chìa khóa vào. Tôi cực kỳ thích thú với vẻ mặt nói không nên lời của anh.
“Đấy là… có phải là… quần lót dây không?” Đột nhiên Bill có vẻ như hơi quan tâm quá đáng.
“Phải rồi. Em nghĩ đâu cần phải chuyên nghiệp đến sát tận da đâu.”
“Và làn da ấy thật là,” Bill lẩm bẩm. “Thật rám nắng, thật… láng mịn.”
“Ừa, em nghĩ mình cũng chẳng đi tất chân dài làm gì đâu.” Tôi nhét miếng nhựa hình chữ nhật - miếng “chìa khóa” - vào một trong những sợi kẹp tất.
“Ôi, anh không nghĩ nó sẽ ở yên đó đâu,” anh bảo, đôi mắt anh mở to sáng lóng lánh. “Chúng ta có thể không đi cùng nhau, nên nhất định em cần phải mang chìa khóa theo người. Thử cất vào chỗ khác đi.”
Tôi chuyển nó ra chỗ khác.
“Ôi, Sookie à. Lúc vội thì làm sao em cho tay vào chỗ đấy được chứ. Chúng ta có… à, chúng ta phải đi thôi.” Bill có vẻ cố thoát khỏi cơn bần thần.
“Được thôi, nếu anh cứ khăng khăng như vậy,” tôi nói, vuốt phẳng váy phủ lên “đồ trong” của mình.
Anh nhìn tôi sa sầm, rồi vuốt túi quần như mọi người đàn ông khác vẫn thường làm, để chắc chắn rằng mình mang theo mọi thứ. Cử chỉ đó mới người làm sao, làm tôi cảm động đến nỗi chính tôi cũng không biết diễn tả ra sao nữa. Hai đứa gật đầu dứt khoát với nhau rồi cùng rảo bước dọc hành lang đến thang máy. Isabel Beaumont chắc hẳn đang đợi, và tôi cảm nhận rõ rằng cô ả không quen với việc chờ đợi này lắm.
Ả ma cà rồng cổ xưa đó, trông thì không quá ba mươi lăm tuổi, vẫn đang đứng ở đúng cái chỗ mà chúng tôi đã bỏ ả lại lúc chúng tôi lên phòng. Ở khách sạn Silent Shore này, Isabel được phép tự do thoải mái thể hiện chất ma cà rồng của mình, kể cả việc đứng chết trân bất động. Con người khi nào cũng không ở yên một chỗ. Con người bị buộc phải tỏ ra đang bận rộn, hay là chú tâm vào gì đấy. Còn ma cà rồng thì có thể chỉ choán lấy chỗ mà không thấy cần thiết phải biện minh cho việc đấy. Khi chúng tôi bước ra khỏi thang máy, Isabel trông hệt một bức tượng. Đến nỗi bạn có thể treo cả nón lên cô ả, mặc dù rồi bạn sẽ phải hối tiếc là đã làm thế.
Hệ thống cảnh báo từ xa nào đấy bắt đầu kích hoạt khi chúng tôi cách ả khoảng hai mét. Đôi mắt của Isabel đảo về phía chúng tôi và bàn tay phải nhúc nhích, cứ như thể có ai đó vừa nhấn nút “khởi động” cô ả vậy. “Đi theo tôi,” cô ta nói, đoạn lướt ra khỏi cửa chính. Barry gần như chẳng thể mở cửa nhanh kịp với tốc độ của ả. Tôi để ý thấy thằng bé đã được huấn luyện đầy đủ để cụp mắt xuống khi ả đi qua.
Những tin đồn mà bạn từng nghe về việc nhìn thẳng mắt ma cà rồng là thật đấy.
Chẳng bất ngờ gì, ô tô của Isabel là một chiếc Lexus đen đầy đủ tiện nghi. Ma cà rồng sẽ chẳng đời nào đi lại bằng một chiếc Geo cả. Isabel đợi đến lúc tôi cài xong dây an toàn (cả ả và Bill thì không thèm dùng đến nó) rồi mới bắt đầu lăn bánh xe khỏi lề đường, điều này làm tôi khá ngạc nhiên. Sau đó chúng tôi lái xe xuyên qua thành phố Dallas, chạy vào phố chính. Isabel có vẻ là loại người thích câm lặng, nhưng chỉ năm phút sau khi chúng tôi lên xe, cô ả dường như rũ bỏ bản chất mình đi, như thể vừa được nhắc cho nhớ là mình đang mang nhiệm vụ.
Chúng tôi bắt đầu rẽ trái. Tôi có thể nhìn thấy vài vùng rậm cỏ xanh rì, và hình bóng lờ mờ của cột đánh dấu di tích lịch sử thì phải. Isabel chỉ ngón tay dài xương xẩu sang phía bên phải. “Kho Chứa Sách Giáo Khoa Bang Texas,” ả nói, và tôi hiểu là cô ta bị buộc phải thông báo cho tôi. Có nghĩa là ả được lệnh phải làm vậy, chuyện này cũng thú vị đấy chứ. Tôi hăm hở nhìn theo hướng ngón tay cô ả, ráng nhìn cho hết toàn ngôi nhà bằng gạch. Tôi ngạc nhiên là tòa nhà trông chẳng đáng chú ý lắm.
“Nó là cái đồi cỏ đấy à?” Tôi hít thở, cảm giác phấn khích và thật ấn tượng. Kiểu như là tôi vừa tình cờ tìm thấy khinh khí cầu Hindenburg hay những mẫu vật truyền thuyết khác.
Isabel gật đầu, khẽ đến nỗi tôi chỉ nhận ra được khi thấy bím tóc cô ả rung nhẹ. “Ở trong phòng chứa cũ đó còn có một bảo tàng nữa,” ả nói tiếp.
Hay nhỉ, đó chính là nơi tôi muốn tham quan vào ban ngày. Nếu chúng tôi còn ở đây dài ngày, tôi sẽ đi bộ hoặc có lẽ tìm cách bắt taxi khi Bill yên giấc trong cỗ quan tài của anh.
Bill mỉm cười với tôi qua vai mình. Anh luôn bắt được những tâm trạng phơn phớt nhất của tôi, điều này thật tuyệt trong khoảng tám phần mười trường hợp.
Chúng tôi chạy xe thêm ít nhất khoảng hai mươi phút nữa, chạy ra khỏi những khu vực kinh doanh buôn bán và tiến vào khu dân cư. Lúc đầu, kiến trúc xung quanh chỉ đơn giản theo hình khối hộp; tuy nhiên dần dần, dù những mảnh đất có vẻ như chẳng to hơn là mấy, nhưng những ngôi nhà bắt đầu phình ra như thể chúng sử dụng steroid vậy. Điểm đến cuối cùng của chúng tôi là một ngôi nhà khổng lồ được nhét vào một mảnh đất bé tẹo. Khối nhà với tí rẻo đất bao quanh trông thật lố lăng, kể cả trong bóng tối.
Tôi chắc chắn chịu nổi một chuyến đi dài hơn với nhiều lần bị trì hoãn hơn nữa.
Chúng tôi đỗ xe trên đường trước cửa tòa biệt thự, vì với tôi thì tòa nhà trông như biệt thự thật. Bill mở cửa cho tôi. Tôi đứng đó một lúc, chần chừ không muốn bắt đầu dự án này. Tôi biết rằng trong ngôi nhà đó có rất, rất nhiều ma cà rồng khác. Tôi cảm nhận được điều này cũng tương tự như khi tôi có thể nhận ra có người đang chờ mình. Nhưng thay vì những dòng cảm xúc và suy nghĩ rõ ràng, thứ cảm nhận mà tôi có được để chỉ ra cho tôi đấy là con người, thì tôi chỉ nhận được trong tâm trí những hình ảnh của… miêu tả sao ấy nhỉ? Bên trong ngôi nhà ấy có những lỗ hổng trong không khí. Mỗi lỗ hổng đó đại diện cho một ma cà rồng. Tôi bước vài bước xuống lối đi ven vườn để đến cửa trước, và ở đó, rốt cuộc, tôi cũng bắt được một luồng tâm tưởng của con người.
Đèn trên cửa bật sáng, nên tôi có thể nhận ra ngôi nhà được xây từ những viên gạch màu be với rìa màu trắng. Ánh đèn bật lên cũng chỉ vì tôi mà thôi; bất cứ ma cà rồng nào cũng có thể nhìn rõ hơn những đôi mắt tinh anh nhất của con người nhiều. Isabel dẫn lối qua cửa trước, cánh cửa được tạo hình vòng cung xây bằng gạch. Trên cánh cửa là một vòng hoa khô duyên dáng, gần như che mất mắt cửa: một cách hòa nhập với con người thật thông minh. Tôi nhận ra bề ngoài căn nhà này không có điểm gì nổi bật làm nó khác biệt với những căn nhà quá khổ khác mà chúng tôi vừa chạy qua, vẻ bề ngoài chẳng chỉ ra được là bên trong có ma cà rồng sinh sống.
Nhưng bọn họ đều ở đây, rất đông đúc. Khi theo chân Isabel vào trong, tôi đếm được bốn ma cà rồng ở trong căn phòng chính có lối dẫn vào từ cửa trước, thêm hai nữa ở hành lang và ít nhất là sáu ma cà rồng khác trong căn bếp rộng thênh thang trông như được thiết kế để sửa soạn đồ ăn cho hai mươi người cùng một lúc. Tôi biết ngay căn nhà này được một ma cà rồng mua chứ không phải xây vì ma cà rồng luôn thiết kế những căn bếp tí hon, hoặc bỏ hoàn toàn căn bếp. Tất cả những gì họ cần là một chiếc tủ lạnh để chứa máu nhân tạo, và lò vi sóng để hâm nóng máu. Chứ bọn họ thì nấu nướng cái gì?
Bên bồn rửa chén, một gã người, gầy gò và cao lêu nghêu, đang đứng rửa vài ba cái đĩa, nên chắc hẳn cũng có vài con người sống ở đây. Gã ta xoay nửa người sang khi chúng tôi bước qua, và gật đầu chào tôi. Gã ta đeo kính và tay áo sơ mi được xắn lên. Tôi chẳng có cơ hội để hỏi chuyện, bởi Isabel đang hối thúc chúng tôi vào một căn phòng trông giống phòng ăn.
Bill căng thẳng. Tôi có thể không đọc được suy nghĩ của anh, nhưng tôi biết anh quá rõ nên có thể hiểu được dáng vẻ của đôi vai kia. Chẳng ma cà rồng nào cảm thấy dễ chịu khi đặt chân vào lãnh địa của ma cà rồng khác cả. Thế giới của ma cà rồng cũng có nhiều quy tắc và luật lệ như bất kỳ một xã hội nào khác; chỉ có điều họ luôn muốn giữ bí mật những quy tắc đó. Nhưng tôi đang ngày càng hiểu rõ mọi thứ hơn.
Trong số những ma cà rồng ở trong nhà, tôi nhận ra tay chỉ huy ngay. Hắn là một trong những tên đang ngồi bên bàn ăn dài trong căn phòng ăn rộng lớn. Hắn lập dị toàn tập. Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi. Nhưng rồi tôi nhận ra hắn đã cẩn thận cải trang thành một tay lập dị: hắn thật hoàn toàn… khác. Mái tóc hung hung đo đỏ của hắn được chải bóng bẩy hất ngược ra đằng sau, vóc người hom hem tầm thường, cặp kính gọng đen kia chỉ là đồ cải trang, chiếc sơ mi vải bông sọc nhuyễn được nhét vào trong cái quần lưng thun lùng bùng bằng vải dù. Hắn trông nhợt nhạt - hừ, giờ mới biết sao - và đầy tàn nhang, lông mi trụi lủi, lông mày lèo tèo thưa thớt.
“Bill Compton,” tay lập dị cất tiếng.
“Stan Davis,” Bill đáp.
“Phải, chào mừng đến thành phố này.” Giọng tên lập dị này thoáng chút âm sắc nước ngoài. Hắn đã từng là Stanislaus Davidowitz, tôi thầm nghĩ, rồi ngay lập tức xóa sạch tâm trí. Nếu bất kỳ ai trong số những người ở đây nhận ra rằng tôi thỉnh thoảng lại góp nhặt được một dòng suy nghĩ trong tâm trí câm lặng của bọn họ, thì tôi sẽ cạn máu trước cả khi thân xác tôi chạm đất.
Thậm chí cả Bill cũng không hề biết điều đó.
Tôi gói ghém sự sợ hãi của mình nhét vào hầm tối khi đôi mắt nhợt nhạt kia chằm chặp nhìn tôi, săm soi từng chút một.
“Cô ta đến đây với hình thức chấp nhận được đấy chứ,” hắn nói với Bill, và tôi coi đó như một lời khen tặng, một sự khích lệ, dành cho Bill.
Bill cúi đầu xuống.
Ma cà rồng chẳng tốn thời gian để nói nhiều thứ như con người thường nói trong những hoàn cảnh tương tự. Một tay lãnh đạo là con người sẽ hỏi Bill rằng dạo này Eric, sếp của anh, ra sao rồi; sẽ dọa Bill một chút trong trường hợp tôi không chịu hợp tác; có lẽ sẽ giới thiệu Bill và tôi với ít nhất vài người quan trọng trong căn phòng đó. Stan Davis, lãnh đạo ma cà rồng, thì không. Hắn giơ tay lên, và một tay ma cà rồng trẻ tuổi gốc Mễ với mái tóc đen dựng đứng rời khỏi phòng rồi trở lại mang theo một cô gái là con người. Khi nhìn thấy tôi, cô ta rít lên thật lớn, vùng vẫy cố thoát ra khỏi bàn tay của tay ma cà rồng đang nắm lấy cánh tay mình.
“Giúp tôi với,” cô ta hét. “Cô phải giúp tôi!”
Tôi biết ngay rằng cô nàng này thật ngu ngốc. Dẫu sao thì, liệu tôi có thể làm gì để chống lại một đống ma cà rồng trong phòng thế này chứ? Lời van nài của cô ta thật nực cười. Tôi tự nhủ điều này thật nhiều lần, thật nhanh, để có thể làm nốt những việc mà tôi phải làm.
Tôi chạm mắt cô ta, và giơ một ngón tay lên để bảo cô ta im lặng. Một khi đã nhìn về phía tôi, dán mắt vào tôi, cô ta liền nghe lời. Tôi không sở hữu đôi mắt có khả năng thôi miên như ma cà rồng, nhưng tôi trông chẳng đáng sợ chút nào. Tôi trông hệt như những cô nàng chuyên làm các công việc lương thấp mà bạn bắt gặp ở bất cứ đâu trong bất cứ thị trấn nào thuộc miền Nam: tóc vàng, ngực bự, da rám nắng và còn trẻ. Và có thể, trông tôi chẳng thông minh sáng láng gì cho lắm. Nhưng tôi nghĩ rằng phần nhiều là do con người (và cả ma cà rồng) đều cho rằng nếu bạn xinh xắn với mái tóc vàng hoe và làm một công việc lương thấp, thì bạn ngu bẩm sinh.
Tôi quay về phía Stan Davis, lòng rất biết ơn rằng Bill đứng ngay đằng sau mình. “Thưa ông Davis, ông phải hiểu rằng tôi cần thêm chút riêng tư khi tra hỏi cô gái này. Và tôi cần phải biết ông cần gì ở cô ta.”
Cô gái kia bắt đầu khóc nức. Ở trong hoàn cảnh này thì thật là nặng lòng, đau khổ và khó chịu không tưởng tượng được.
Đôi mắt nhợt nhạt của Davis nhìn chăm chăm vào tôi. Không phải hắn đang cố quyến rũ hay chinh phục gì tôi; hắn chỉ đang thẩm định tôi thôi. “Tôi hiểu rằng ma cà rồng hộ tống cô biết rõ những điều khoản trong thỏa thuận giữa tôi và lãnh đạo của anh ta,” Stan Davis cất tiếng. Được thôi, tôi hiểu ý rồi. Tôi hoàn toàn đáng khinh vì tôi là một con người. Việc tôi nói chuyện với Stan giống như việc một con gà nói với thực khách trong quán gà KFC vậy. Nhưng dù sao thì, tôi cũng vẫn cần được biết mục tiêu của chúng tôi là gì. “Tôi biết rằng ông đã đáp ứng những điều kiện của Khu vực số Năm,” tôi đáp, cố giữ giọng mình hết sức vững vàng, “và tôi sẽ cố gắng hết sức. Nhưng nếu không có mục đích thì tôi chẳng thể bắt đầu được đâu.”
“Chúng tôi cần biết người anh em của chúng tôi đang ở đâu,” hắn đáp, sau một thoáng lặng.
Tôi cố không tỏ vẻ kinh ngạc như trong lòng đang cảm thấy.
Như tôi đã nói, một vài ma cà rồng, như Bill, thích sống một mình. Những kẻ khác lại thấy an toàn hơn khi tụ tập nhau thành từng nhóm, gọi là tổ. Họ gọi nhau là anh chị em sau một khoảng thời gian sống cùng tổ, và có một vài tổ duy trì hàng thập kỷ liền. (Một tổ ở New Orleans đã tồn tại hai thế kỷ rồi.) Tôi biết được từ những gì Bill tóm lược trước khi rời Louisiana rằng những ma cà rồng ở Dallas sống trong một tổ cực kỳ lớn.
Tôi chẳng phải là bác sĩ não khoa, nhưng ngay cả tôi còn nhận ra rằng với một ma cà rồng quyền lực như Stan đây thì việc để lạc mất một người em trai trong tổ của mình không chỉ bất thường, mà còn là nhục nhã nữa.
Con người cảm thấy nhục nhã chừng nào thì ma cà rồng cũng cảm thấy nhục nhã chừng ấy.
“Làm ơn giải thích kỹ càng tình huống,” tôi nói bằng giọng chung chung nhất có thể.
“Em trai Farrell của tôi đã không quay lại tổ năm đêm rồi,” Stan Davis đáp.
Tôi biết là hẳn họ đã kiểm tra khắp các địa điểm săn mồi yêu thích của Farrell, đã hỏi thăm mọi ma cà rồng trong tổ Dallas xem có nhìn thấy Farrell đâu không. Dù sao đi nữa, tôi mở miệng định hỏi, như con người thường buộc phải làm vậy. Nhưng Bill khẽ chạm vai tôi, tôi liếc ra sau nhận ra một cái lắc đầu khe khẽ. Những câu hỏi của tôi sẽ bị xem như lời thóa mạ nặng nề.
“Còn cô gái này thì sao?” tôi lấp liếm. Cô ta vẫn im lặng, nhưng run rẩy co giật. Tay ma cà rồng Mễ có vẻ như là thứ duy nhất đang giữ cô ta đứng thẳng.
“Làm việc ở câu lạc bộ nơi người ta nhìn thấy Farrell lần cuối. Đó là một trong những câu lạc bộ chúng tôi sở hữu, quán Bat’s Wing.” Thói thường, quán bar là loại hình kinh doanh được ưa chuộng của ma cà rồng, bởi lượng khách đông nhất là về đêm. Như thế nào đấy mà những tiệm giặt ủi mở cửa qua đêm của giới yêu thích ma cà rồng lại không có được sức hút như những quán bar có dính ma cà rồng chính hiệu.
Trong vòng hai năm trở lại đây, quán bar ma cà rồng đã trở thành một loại hình giải trí về đêm thu hút nhất mà một thành phố có thể lấy làm tự hào. Những con người đáng thương bị ám ảnh bởi ma cà rồng - hội nhân tình - thường la cà trong mấy quán bar ma cà rồng, thường mặc trang phục hóa trang, với hy vọng lôi kéo được sự chú ý của đám ma cà rồng thứ thiệt. Các du khách vào quán thì cứ há hốc cả mồm khi nhìn thấy những kẻ bất tử và đám răng nanh. Những quán bar này không phải là nơi làm việc an toàn nhất.
Tôi đảo mắt qua tay ma cà rồng gốc Mễ, hướng mắt ra hiệu về chiếc ghế phía bên này cái bàn dài cạnh tôi. Hắn đặt cô ta vào ghế. Tôi nhìn xuống, chuẩn bị luồn mình vào tâm trí cô ta. Đầu óc cô nàng chẳng có lấy một sự bảo vệ nào cả. Tôi nhắm mắt lại.
Tên cô gái là Bethany. Cô hai mươi mốt tuổi, từng tự cho mình là một đứa con nổi loạn, một cô gái hư hỏng. Từ trước tới nay cô chẳng hề lường trước được mình có thể dính vào rắc rối kiểu này. Việc nhận một công việc ở quán Bat’s Wing được coi như một hành động nổi loạn trong cuộc đời cô, và việc ấy hóa ra có thể gây mất mạng.
Tôi hướng ánh nhìn trở lại phía Stan Davis. “Ông biết là,” tôi nói liều, “nếu cô ấy cung cấp thông tin ông cần, thì cô ấy sẽ tự do ra về, không bị làm hại gì cả.” Hắn đã nói rằng hắn hiểu mọi điều khoản, nhưng tôi phải đảm bảo cho chắc.
Bill thở dài sườn sượt sau lưng tôi. Chẳng phải dấu hiệu vui vẻ gì. Ánh mắt của Stan Davis lóe lên trong vài giây, hắn đang thực sự tức giận rồi. “Được,” hắn đáp, giọng nhả ra từng chữ, hai răng nanh đã một nửa lòi ra, “tôi đồng ý.” Mắt chúng tôi gặp nhau trong một giây. Cả hai chúng tôi đều biết rằng chỉ mới hai năm trước đây thôi, hẳn đám ma cà rồng ở Dallas đã có thể bắt cóc Bethany và tra tấn cô ta cho đến khi họ moi ra mọi mẩu tin dù là nhỏ nhất trong đầu cô ta, cộng thêm vài thông tin được cô ta bịa đặt thêm thắt nữa.
Sống hòa nhập với con người, công khai dư luận về sự hiện hữu của ma cà rồng, có rất nhiều lợi ích - nhưng cũng có cái giá của nó. Trong trường hợp này, cái giá đó là sự phục vụ của tôi.
“Farrell trông như thế nào?”
“Như một tay cao bồi vậy,” Stan đáp không một chút cợt giễu. “Nó đeo một trong mấy cái thứ cà vạt dây, quần jean, áo sơ mi cài cúc giả ngọc trai.”
Những ma cà rồng ở Dallas dường như không chú trọng lắm đến thời trang cao cấp thì phải. Có khi tôi mặc bộ đồ phục vụ bàn cũng chẳng sao ấy chứ. “Tóc và mắt màu gì?”
“Tòc màu nâu ngả xám. Mắt nâu. Cằm bạnh. Cao khoảng chừng… mét tám.” Stan đang quy đổi từ một đại lượng cân đo nào đó khác. “Với cô thì nó trông khoảng ba mươi tám tuổi,” Stan tiếp lời. “Mày râu nhẵn nhụi, và gầy gò.”
“Ông có muốn tôi dẫn Bethany ra đâu đó khác không? Ông có căn phòng nào nhỏ và vắng vẻ hơn không?” Tôi cố tỏ vẻ dễ chịu, vì dù sao đó có vẻ là một ý tưởng không tồi.
Stan vẫy nhẹ tay, hầu như là nhanh quá nên tôi chẳng thể nhận ra, và chỉ trong một giây - đúng một giây - mọi ma cà rồng khác, trừ Stan và Bill, đã rời khỏi bếp. Khỏi cần quay lại, tôi cũng biết Bill đang đứng dựa vào tường, sẵn sàng cho bất kể chuyện gì sắp xảy ra. Tôi hít một hơi thật sâu. Đến lúc bắt đầu làm việc rồi.
“Bethany à, cô thế nào rồi?” tôi dịu dàng hỏi.
“Làm sao cô biết tên tôi,” cô ta hỏi lại, đổ phịch xuống ghế. Đó là loại ghế xoay dùng trong phòng ăn nhỏ, tôi kéo nó ra khỏi bàn và quay ghế sang đối mặt với phía chiếc ghế tôi vừa ngồi xuống. Stan vẫn ngồi ở đầu bàn, phía sau tôi, hơi chếch về bên trái.
“Tôi có thể kể ra rất nhiều chuyện về cô,” tôi nói, cô tỏ vẻ thân thiện và thông thái. Tôi bắt đầu bắt từng ý nghĩ ra khỏi không trung, như hái táo trên một tán cây nặng trĩu quả. “Hồi nhỏ cô có một chú cún tên Woof và mẹ cô làm được món bánh dừa ngon nhất thế giới. Bố cô một lần chơi bài đã thua quá nhiều tiền, nên cô phải bán đầu máy video của mình giúp ông ấy trả nợ, để mẹ cô không biết.”
Miệng cô nàng há hốc. Cô ta đã hoàn toàn quên đi một thực tế là mình đang trong cơn nguy khốn cực cùng. “Hay quá, cô giỏi ngang bà đồng trên ti vi, trong các mục quảng cáo ấy!”
“À, Bethany này, tôi không phải bà đồng,” tôi đáp, giọng hơi đanh lại. “Tôi là người có khả năng ngoại cảm, và những gì tôi làm là đọc lấy suy nghĩ của cô, kể cả những suy nghĩ mà cô không biết là mình có. Trước hết, tôi sẽ làm cô thư giãn, và sau đó chúng ta sẽ cùng nhau nhớ lại buổi tối cô làm việc ở quán bar - không phải tối hôm nay, mà năm hôm về trước.” Tôi liếc nhìn về phía Stan, hắn gật đầu.
“Nhưng tôi đâu có nghĩ về bánh của mẹ tôi đâu!” Bethany thốt lên, vẫn còn vướng mắc về những điều đã làm mình choáng.
Tôi cố nén tiếng thở dài.
“Cô không biết, nhưng cô có nghĩ như thế thật. Nó trượt nhẹ qua dòng tâm trí cô khi cô nhìn thấy tay ma cà rồng nhợt nhạt nhất - Isabel - vì mặt cô ta trắng như lớp kem phủ trên bánh. Và cô thấy nhớ chú cún con của mình khi cô đang nghĩ về việc bố mẹ mình sẽ nhớ mình đến dường nào.”
Vừa dứt lời, tôi biết ngay rằng đó là một sai lầm và ngay tức thì, cô ta bắt đầu khóc nấc lên lần nữa, khi nhớ về hoàn cảnh hiện tại của mình.
“Vậy cô ở đây làm gì?” cô ta hỏi giữa những tiếng nấc.
“Tôi ở đây để giúp cô nhớ lại.”
“Nhưng cô bảo mình đâu phải bà đồng.”
“Tôi không phải thật.” Hay tôi là bà đồng nhỉ? Đôi khi tôi nghĩ mình vẫn còn vài gợn gợn gì đó lẫn trong “tài năng” của mình, những khả năng được ma cà rồng công nhận. Trong thâm tâm, tôi luôn coi nó như một lời nguyền, cho đến ngày gặp Bill. “Bà đồng có thể chạm vào các đồ vật và thu thập thông tin của người đã từng đeo chúng. Có bà đồng dự cảm được quá khứ hoặc tương lai. Lại có bà đồng có thể trò chuyện cùng người đã khuất. Tôi là người có khả năng ngoại cảm. Tôi có thể đọc được suy nghĩ của người khác. Tôi đoán mình cũng có thể gửi suy nghĩ đi được nữa kìa, nhưng tôi chưa từng thử làm vậy bao giờ.” Giờ đây khi tôi đã gặp được một người ngoại cảm khác, thật phấn khích khi nghĩ đến khả năng thử việc này, nhưng tôi xếp ý tưởng đó sang một bên để dành khi rỗi mới khám phá. Tôi phải tập trung vào công việc trước mắt đã.
Tôi ngồi gối chạm gối với Bethany, tôi đang đưa ra một số quyết định. Ý tưởng sử dụng khả năng “lắng nghe” để đạt một mục đích nào đó vẫn còn quá mới mẻ với tôi. Gần như cả đời tôi đã tranh đấu để không phải lắng nghe. Còn bây giờ, lắng nghe lại là công việc của tôi, và chắc chắn vận mệnh của Bethany phụ thuộc vào điều đó. Chắc chắn vận mệnh của tôi cũng gần như vậy.
“Nghe này, Bethany, đây là những gì chúng ta sẽ làm. Cô sẽ cố gắng nhớ lại buổi tối hôm đó, và tôi sẽ cùng cô làm điều đó. Trong tâm trí của cô.”
“Có đau không?”
“Không, không đau chút nào.”
“Và sau đó?”
“Sao chứ, cô sẽ ra về chứ sao.”
“Về nhà hả?”
“Chắc chắn rồi.” Với một trí nhớ được sửa đổi mà trong đó sẽ không có tôi, không có buổi tối nay, nhờ ơn của một ma cà rồng.
“Họ sẽ không giết tôi chứ?”
“Không đời nào.”
“Cô hứa chứ?”
“Hứa mà.” Tôi cố gắng mỉm cười với cô ta.
“Được rồi,” cô nàng chần chừ đáp. Tôi dịch chuyển cô ta một chút, để cô ta không nhìn thấy Stan qua vai tôi. Tôi chẳng biết hắn sẽ làm gì nữa. Nhưng cô ta không cần phải nhìn thấy gương mặt trắng bệch ấy khi tôi cố làm cô ta thư giãn.
“Cô rất xinh,” cô ta đột nhiên nói.
“Cảm ơn, cô cũng vậy.” Ít nhất, trong hoàn cảnh dễ chịu hơn thì cô ta có lẽ cũng xinh xắn. Bethany có khuôn miệng đặc biệt nhỏ so với gương mặt, nhưng nhiều đàn ông có thể bị nó cuốn hút, vì cô ta có vẻ lúc nào cũng chúm chím. Cô ta có mái tóc nâu dày rậm, thân hình mảnh dẻ với bộ ngực nhỏ. Bây giờ khi có một phụ nữ khác đang nhìn vào mình, Bethany thấy lo lắng về bộ trang phục nhăn nheo và lớp trang điểm nhạt nhẽo.
“Cô trông ổn mà,” tôi khẽ nói, nắm lấy hai bàn tay cô ta. “Bây giờ, chúng ta sẽ nắm tay khoảng một phút - tôi thề là mình không có ý đồ tán tỉnh cô đâu nhé.” Cô ta khúc khích cười, và những ngón tay thả lỏng thêm chút nữa. Và tôi bắt đầu câu chuyện của mình.
Đây là trò mới đối với tôi. Thay vì cố gắng tránh sử dụng khả năng ngoại cảm của mình, tôi đã cố gắng để phát triển nó, cùng với sự động viên của Bill. Đám nhân viên con người ở quán Fangtasia được sử dụng như những chú chuột bạch thí nghiệm. Tôi đã nhận ra, gần như là tình cờ, rằng mình có thể thôi miên người khác trong chốc lát. Thôi miên không phải để bỏ bùa gì họ đâu, mà để cho phép tôi xâm nhập vào tâm trí họ cực kỳ dễ dàng. Khi biết những gì có thể làm ai đó thư giãn, bằng cách đọc tâm trí họ, thì bạn có thể dễ dàng xoa dịu người ấy vào trạng thái giống như bị thôi miên vậy.
“Cô thích gì nhất hả Bethany?” tôi hỏi. “Cô có thỉnh thoảng đi mát xa không? Hay cô thích đi làm móng?” Tôi công phu thăm dò tâm trí Bethany. Tôi chọn ra một kênh cảm xúc thích hợp nhất với mục đích của mình.
“Cô đang đi làm tóc,” tôi nói, cố giữ giọng mình bình thản nhẹ nhàng, “chỗ anh thợ làm tóc yêu thích của mình… anh Jerry. Anh ta cứ chải, chẳng còn rối chút nào. Anh ta chia tóc thành từng phần, thật cẩn thận, bởi tóc cô quá dày. Anh ta sẽ tốn rất nhiều thời gian để cắt, nhưng anh ta mong được làm việc ấy, bởi mái tóc của cô thật khỏe và bóng mượt. Jerry nhấc một mớ tóc lên, và tỉa dần đi… cây kéo khứa nhẹ một đường. Một chút tóc rơi xuống tấm áo trùm bằng nhựa và trượt xuống sàn. Cô lại cảm thấy những ngón tay anh ta đan vào tóc mình. Cứ như vậy mãi, những ngón tay luồn vào mái tóc, nâng nhẹ tóc lên mà tỉa. Đôi lúc anh ta chải thật nhẹ một lần nữa, để xem mình tỉa đã đều chưa. Cảm giác đó thật tuyệt, chỉ việc ngồi đó và có người khác sửa tóc cho mình. Chẳng có ai khác cả…” Không, đợi đã. Tôi đã khơi lên chút khó chịu. “Chỉ có một vài người ở trong cửa hàng, và tất cả đều bận rộn như Jerry. Có ai đó đang sấy tóc cho khách. Cô có thể thoáng nghe thấy vài lời thầm thì từ ghế bên cạnh. Những ngón tay anh ta lại lướt qua, nâng lên, cắt, chải, cứ thế mãi…”
Tôi không biết một nhà thôi miên được đào tạo bài bản sẽ nói gì về kỹ thuật của tôi, nhưng ít ra lần này thì nó có tác dụng. Trí óc của Bethany đã bước vào trạng thái nghỉ ngơi, không hoạt động, chỉ chờ được giao nhiệm vụ. Vẫn bằng giọng đều đều đó tôi nói, “Khi anh thợ vẫn đang sửa tóc cho cô, chúng ta sẽ cùng nhớ lại đêm hôm đó ở chỗ làm. Anh ta sẽ không ngừng cắt đâu, được không nào? Bắt đầu từ lúc cô chuẩn bị sẵn sàng để đến quán bar nhé. Đừng bận tâm đến tôi, tôi chỉ như một làn không khí ngay sau vai cô thôi. Cô có thể nghe thấy giọng tôi, nhưng nó phát ra từ ghế bên cạnh ở cửa tiệm làm đẹp đó. Cô thậm chí không thể nghe thấy tôi nói gì trừ khi tôi gọi tên cô.” Tôi vừa thông báo với Stan, vừa trấn an Bethany. Và rồi tôi chìm sâu hơn nữa vào ký ức của cô gái.
Bethany đang nhìn vào căn hộ của mình. Căn hộ rất nhỏ, khá gọn gàng, cô chia sẻ căn phòng với một đồng nghiệp khác ở quán Bat’s Wing tên là Desiree Dumas. Desiree Dumas, trong con mắt của Bethany, trông hệt như tên gọi tự tạo của mình: một cô nàng tự cho mình là quyến rũ, hơi quá phúng phính, tóc hơi quá hoe vàng, và tự nhận mình là người đàn bà dâm loàn.
Đưa cô hầu bàn qua những trải nghiệm này giống như đang theo dõi một bộ phim vậy, một bộ phim chán ngắt. Trí nhớ của Bethany gần như hoàn hảo. Bỏ qua những phần tẻ nhạt, như cuộc tranh cãi của Bethany và Desiree về những điểm tương đồng của hai nhãn hiệu mascara, đây là những gì mà Bethany nhớ được: cô ta chuẩn bị đi làm như mọi khi, cô và Desiree đi chung xe đến chỗ làm. Desiree làm ở quầy hàng lưu niệm tại quán Bat’s Wings. Khoác lên mình bộ áo chẽn nâng ngực màu đỏ cùng đôi bốt màu đen, cô nàng bán những thứ đồ lưu niệm ma cà rồng với giá cắt cổ. Đeo thêm đôi răng nanh giả, cô ta tạo dáng chụp ảnh cùng du khách để kiếm tiền boa hậu hĩnh. Còn Bethany gầy gò và hay e thẹn lại là một cô phục vụ bàn hèn mọn; suốt một năm rồi cô đã chờ đợi một cửa hàng quà tặng phù hợp hơn mở cửa, nơi tiền boa có thể không hậu bằng nhưng lương cơ bản sẽ cao hơn, và cô có thể ngồi xuống mỗi khi thưa khách. Bethany vẫn chưa thể đạt được điều đó. Sự đố kỵ với Desiree, ngay đấy, trong tâm trí của Bethany; chẳng liên quan gì, nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng mình kể lại cho Stan nghe như thể thông tin ấy cực kỳ quan trọng.
Tôi chưa bao giờ vào sâu tâm trí của người khác đến thế. Tôi cố gắng gạt những thông tin không quan trọng sang một bên mà tiếp tục đi sâu vào tâm trí, nhưng bất lực. Cuối cùng, tôi cứ để mọi thứ ùa đến. Bethany đang hoàn toàn thư giãn, vẫn đang làm tóc. Cô có một trí nhớ hình ảnh xuất sắc, và cô cũng như tôi đang thật bận tâm suy tưởng vào cái đêm cô làm việc.
Bethany nhớ đã phục vụ máu nhân tạo cho bốn vị khách ma cà rồng: một nữ ma cà rồng tóc đỏ; một mụ ma cà rồng gốc Mễ lùn tịt, to bè, mắt đen đặc như dầu hắc ín; một tên thiếu niên ma cà rồng tóc vàng với những hình xăm cổ xưa; và một người đàn ông tóc nâu quai hàm bành bành, đeo cà vạt dây. Đúng rồi! Hình ảnh của Farrell đã được gắn vào trí nhớ của Bethany. Tôi phải cố kìm sự bất ngờ và phát giác của mình, để lái Bethany theo ý mình.
“Chính là người đó đấy, Bethany à,” tôi thì thầm. “Cô nhớ gì về tay đó?”
“Ồ, hắn đấy à,” Bethany nói to, làm tôi giật bắn cả mình đến nỗi suýt nhảy ra khỏi ghế. Trong tâm trí của Bethany, cô quay nhìn về phía Farrell, nghĩ về anh ta. Anh ta đã dùng hai chai máu nhân tạo loại O cộng, và để lại cho cô một chút tiền boa.
Bethany thoáng nhíu mày khi tập trung vào yêu cầu của tôi. Giờ thì cô ta đang cố gắng hết sức lục lọi trong trí nhớ của mình. Từng phần của đêm ấy bắt đầu gom lại, để cô có thể tìm được những phần có chứa ký ức về tay ma cà rồng tóc nâu. “Anh ta vào phòng vệ sinh với cậu tóc vàng,” cô nói, và tôi nhìn thấy trong tâm trí của cô ta hình ảnh tên ma cà rồng tóc vàng xăm trổ, trông còn rất trẻ. Nếu là họa sĩ, có lẽ tôi đã có thể phác lại được hình ảnh của hắn ta.
“Một ma cà rồng còn trẻ, có lẽ tầm mười sáu tuổi. Tóc vàng, có xăm hình,” tôi thì thầm với Stan, và hắn trông có vẻ ngạc nhiên. Tôi gần như không nhận ra điều đó, vì có quá nhiều thứ để tập trung - giống như đang cố tập trò tung hứng vậy - nhưng tôi quả thực đã nghĩ mặt Stan thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. Thật khó hiểu.
“Đó chắc chắn là một ma cà rồng chứ?” tôi hỏi Bethany.
“Hắn uống máu,” cô ta đáp thẳng thừng. “Hắn có nước da nhợt nhạt. Hắn làm tôi khiếp đảm. Vâng, tôi chắc chắn mà.”
Và hắn vào phòng vệ sinh cùng với Farrell. Tôi bối rối. Lý do duy nhất để một ma cà rồng vào phòng vệ sinh là khi có một con người ở trong đấy mà hắn ta muốn làm tình, hay hút máu từ người ấy, hay (như sở thích của bất kỳ ma cà rồng nào) làm cả hai thứ cùng một lúc. Nhập mình trở lại vào ký ức của Bethany, tôi quan sát cô phục vụ thêm vài khách hàng nữa, chẳng ai trong số đó tôi nhận ra cả, mặc dù tôi đã nhìn thật kỹ những vị khách khác. Hầu hết bọn họ có vẻ là du khách vô hại. Một trong số đó, một người đàn ông với nước da sậm màu và bộ râu rậm rạp, trông quen, nên tôi cố để ý tay bạn đi cùng ông ta: một người đàn ông gầy gò, khẳng khiu, tóc vàng dài ngang vai và một ả mập lùn với bộ tóc xấu nhất mà tôi từng nhìn thấy.
Tôi cần hỏi Stan vài thứ, nhưng lại muốn xong việc với Bethany trước. “Tay ma cà rồng giống cao bồi có quay trở ra lần nào không, Bethany?”
“Không,” cô ta đáp sau một hồi ngẫm nghĩ. “Tôi không thấy hắn thêm lần nào nữa.” Tôi kiểm tra cô ta thật cẩn thận để tìm những khoảng trống trong tâm trí; tôi chẳng thể nào thay thế được những ký ức bị xóa, nhưng tôi có thể biết được nếu trí nhớ cô bị can thiệp. Tôi chẳng tìm ra điều gì cả. Và cô đang cố gắng nhớ lại, tôi có thể nhận biết điều đó. Tôi cảm nhận được sự căng thẳng của cô khi cô nhớ lại có thoáng nhìn thấy Farrell lần nào nữa không. Cảm giác căng thẳng đó khiến tôi cảm thấy mình đang để mất dần sự kiểm soát với suy nghĩ và ký ức của Bethany.
“Thế còn tay tóc vàng trẻ tuổi kia thì sao? Tay có hình xăm ấy?”
Bethany cân nhắc điều đó một chút. Cô đang lưng chừng thoát ra khỏi trạng thái thôi miên. “Tôi cũng không thấy hắn ta,” cô đáp. Một cái tên thoáng qua tâm trí.
“Gì thế?” tôi hỏi, cố giữ giọng mình bình tĩnh nhẹ nhàng.
“Không có gì! Không có gì!” Đôi mắt của Bethany bây giờ đã mở to. Buổi chăm sóc tóc của cô đã kết thúc: tôi đã để mất cô. Sự kiểm soát của tôi còn lâu mới đạt đến sự hoàn hảo.
Cô muốn bảo vệ ai đó; cô không muốn hắn phải trải qua những gì mà mình đang phải chịu. Nhưng cô lại chẳng thể ngăn mình đừng nghĩ đến cái tên đó, và tôi đã chộp được nó. Tôi thật chẳng thể hiểu tại sao cô nghĩ người đàn ông này có thể biết được điều gì đó khác, nhưng cô thực đã nghĩ vậy. Tôi biết rằng nếu để cho cô biết mình đã nắm bắt được bí mật của cô thì cũng chẳng đạt được mục đích gì, nên tôi mỉm cười với cô và nói với Stan, mà không quay về phía hắn, “Cô ta có thể đi được rồi. Tôi đã biết được tất cả.”
Tôi nhìn cho hết vẻ nhẹ nhỏm trên gương mặt của Bethany rồi mới quay về phía Stan. Tôi biết chắc hắn đã nhận ra tôi còn che giấu điều gì đó, nhưng tôi không muốn hắn nói gì cả. Ai có thể biết được ma cà rồng nghĩ gì khi con ma ấy đang bị canh giữ cơ chứ? Nhưng tôi có một cảm xúc rõ rệt là Stan hiểu được ý tôi.
Hắn ta chẳng thốt ra thành tiếng, nhưng một ma cà rồng khác đã bước vào, một cô nàng xấp xỉ tuổi của Bethany khi bắt đầu chuyển hóa. Stan đã lựa chọn sáng suốt. Cô gái cúi người đối diện với Bethany, cầm tay cô ta lên, rồi mỉm cười với răng nanh đã thụt hết lại, và nói, “Giờ chúng tôi sẽ đưa bạn về nhà, nhé?”
“Ôi, tuyệt quá!” Bethany nhẹ nhõm ra mặt. “Ôi, tuyệt thật đấy,” cô lặp lại một lần nữa, với vẻ thiếu quả quyết hơn. “À mà, bạn sẽ theo tôi về tận nhà à? Bạn…”
Nhưng ả ma cà rồng đã nhìn thẳng vào mắt của Bethany và nói, “Cô sẽ không nhớ bất kể điều gì về ngày hôm nay hay những gì xảy ra vào buổi tối này ngoại trừ bữa tiệc.”
“Bữa tiệc ư?” giọng của Bethany nghe lờ đờ. Chỉ hơi hơi tò mò.
“Cô đến dự một bữa tiệc,” ả ma cà rồng vừa nói vừa dẫn Bethany ra khỏi căn phòng. “Cô đã đến một bữa tiệc tuyệt vời, và gặp được một chàng trai rất dễ thương ở đấy. Cô đã ở cùng anh ấy.” Cô ta vẫn tiếp tục thầm thì với Bethany khi cả hai bước ra ngoài. Tôi hy vọng rằng cô ta sẽ cho Bethany một ký ức đẹp.
“Có chuyện gì?” Stan hỏi, khi cánh cửa vừa đóng sập lại sau lưng hai cô.
“Bethany nghĩ rằng tay bảo vệ ở câu lạc bộ có thể biết nhiều hơn. Cô ta đã nhìn thấy hắn vào phòng vệ sinh ngay sau gót em trai Farrell của ông và tay ma cà rồng mà ông không biết ấy.” Điều mà tôi không biết, và chẳng muốn hỏi Stan, là liệu ma cà rồng có bao giờ làm tình với nhau không. Tình dục và việc ăn uống kết nối chặt chẽ với nhau trong quy trình tồn tại của ma cà rồng đến nỗi tôi không thể tưởng tượng được việc ma cà rồng sẽ quan hệ với một kẻ không phải là người, nghĩa là, một kẻ mà ma cà rồng sẽ không thể hút máu được. Liệu ma cà rồng có bao giờ hút máu lẫn nhau trong những tình huống không cấp bách không? Tôi biết rằng khi sự sống của ma cà rồng bị đe dọa (ha ha) thì một ma cà rồng khác có thể hiến máu để cứu tay ma cà rồng kia, nhưng tôi chưa từng nghe kể về tình huống nào khác liên quan đến việc trao đổi máu cho nhau. Tôi không thích hỏi Stan. Có lẽ, tôi sẽ khơi lại chuyện này với Bill, khi hai đứa thoát ra khỏi ngôi nhà này.
“Những điều mà cô khám phá được từ tâm trí con bé đó, là Farrell đã ở quán bar, rồi nó vào trong phòng vệ sinh với một ma cà rồng khác, một thằng trẻ tuổi tóc dài màu vàng có rất nhiều hình xăm,” Stan tóm tắt lại. “Tay bảo vệ cũng vào phòng vệ sinh khi cả hai vẫn còn ở trong đó.”
“Chính xác.”
Một khoảng lặng dài ập đến trong khi Stan quyết định xem nên làm gì tiếp theo. Tôi chờ đợi, thấy mừng rằng mình không nghe được một chữ trong cuộc tranh đấu nội tâm của hắn. Không lóe ra, không liếc vào.
Ít nhất thì cực kỳ hiếm cơ hội ngắn ngủi liếc vào trong tâm trí của một ma cà rồng. Và tôi chưa từng làm thế được với Bill; mãi sau khi được giới thiệu vào trong thế giới của ma cà rồng, tôi mới biết điều đó có lúc cũng khả thi. Nên việc có anh ở bên chỉ đơn thuần là vui vẻ. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, tôi có thể có một mối quan hệ bình thường với một người đàn ông. Tất nhiên, anh ấy không phải là một người đàn ông còn sống, nhưng bạn chẳng thể có tất cả mọi thứ được.
Cứ như thể Bill biết tôi đang nghĩ đến anh, tôi cảm thấy được bàn tay anh đặt lên vai mình. Tôi đặt tay mình lên bàn tay đó, ước sao có thể đứng dậy mà ôm anh thật lâu. Chẳng phải là một ý tưởng hay ho gì trước mặt Stan. Có thể làm hắn khát mất.
“Chúng tôi không biết tay ma cà rồng vào phòng vệ sinh với Farrell là ai,” Stan nói, có vẻ như đó là câu trả lời sơ sài sau khi cân nhắc ngược xuôi. Có lẽ hắn đang mường tượng tới việc giải thích rõ ràng hơn cho tôi biết, nhưng rồi quyết định rằng tôi chẳng đủ thông minh để hiểu được câu trả lời. Tôi thà bị coi thường còn hơn được đánh giá cao trong mọi lúc. Thêm vào đó, thế thì có gì khác biệt chứ? Nhưng tôi xếp câu hỏi của mình sang một bên trước những vấn đề tôi cần biết.
“Vậy, tay bảo vệ ở quán Bat’s Wings là ai?”
“Một thằng tên là Re-Bar,” Stan đáp. Có một thoáng khinh miệt trong cách hắn trả lời. “Hắn là một tay nhân tình răng nanh đấy.”
Vậy là Re-Bar đã có được công việc trong mơ. Làm việc với ma cà rồng, làm việc cho ma cà rồng, và quanh quẩn bên ma cà rồng hằng đêm. Đối với những người đã đam mê giống loài bất tử, Re-Bar đã đào trúng kho vàng rồi. “Anh ta có thể làm gì khi một ma cà rồng quậy chứ?” tôi hỏi, chỉ là tò mò thôi.
“Hắn chỉ ở đó để chăm sóc những người say rượu thôi. Chúng tôi nhận thấy một tay bảo vệ là ma cà rồng thường có xu hướng hơi quá tay một chút.”
Tôi chẳng muốn nghĩ quá nhiều về chuyện đó. “Vậy Re-Bar có ở đây không?”
“Mất chút thời gian,” Stan nói, không cần phải hỏi han bất cứ tên tùy tùng nào. Gần như chắc chắn là hắn có cách nào đấy liên lạc được qua tâm trí với tất cả bọn họ. Tôi chưa từng thấy điều này trước đây, và tôi cũng chắc chắn rằng Eric không thể tiếp cận với Bill thông qua tâm trí được. Chắc hẳn đó là khả năng đặc biệt của Stan.
Trong khi chúng tôi chờ đợi, Bill ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi. Anh vươn tới nắm lấy tay tôi. Tôi cảm thấy thật dễ chịu, và yêu Bill về điều đó. Tôi giữ đầu óc thư thái, cố duy trì năng lượng cho cuộc thẩm vấn tiếp theo. Nhưng tôi đã bắt đầu hình thành lo lắng, những lo lắng rất nghiêm trọng, về tình hình của các ma cà rồng tại Dallas. Tôi băn khoăn về những hình ảnh thoáng qua của mấy tay khách hàng ở quán, đặc biệt là người đàn ông tôi nghĩ đã gặp trước đây.
“Ôi, không,” tôi thốt lên, đột nhiên nhớ ra tôi đã từng gặp hắn ở đâu.
Mọi ma cà rồng cảnh giác cao độ. “Có chuyện gì vậy Sookie?” Bill hỏi.
Trông Stan như thể được tạc nên từ đá lạnh vậy. Đôi mắt hắn sáng quắc lên một màu xanh lá cây, tôi không chỉ là đang tưởng tượng ra đâu.
Tôi cố lục tìm từ ngữ để diễn tả nhanh chóng những gì mà mình đang nghĩ. “Tay cha xứ,” tôi nói với Bill. “Người đàn ông bỏ chạy ở sân bay, kẻ đã từng cố bắt cóc em ấy. Hắn đã ở trong quán bar.” Một bộ quần áo và bối cảnh hoàn toàn khác đã đánh lừa cảm giác của tôi khi tôi ở trong sâu thẳm tâm trí của Bethany, nhưng giờ thì tôi đã chắc chắn.
“Anh hiểu rồi,” Bill đáp chậm rãi. Bill có vẻ gần như đã nhớ lại hoàn toàn, và tôi có thể tin tưởng anh về việc ghi nhớ gương mặt gã đàn ông ấy.
“Lúc ấy em nghĩ hắn không phải là cha xứ, và giờ đây em biết thêm rằng hắn có mặt ở quán bar vào cái đêm Farrell biến mất,” tôi nói. “Mặc một bộ quần áo bình thường. Không, à, áo sơ mi đen cổ trắng.”
Một sự im lặng đầy ẩn ý.
Stan nói nhẹ nhàng, “Nhưng người đàn ông ở quán, tay cha xứ giả mạo này, thậm chí với cả hai người khác đi chăng nữa, cũng chẳng thể lôi Farrell đi nếu Farrell không muốn.”
Tôi nhìn chăm chăm xuống hai bàn tay mình và chẳng nói gì cả. Tôi không muốn là người nói điều đó. Thật thông minh làm sao, Bill cũng chẳng nói lời nào. Cuối cùng, Stan Davis, lãnh đạo của ma cà rồng ở Dallas, nói, “Có ai đó bước vào phòng vệ sinh với Farrell, Bethany đã nhớ như vậy. Một ma cà rồng mà ta không biết mặt.”
Tôi gật đầu, giữ cho ánh nhìn hướng về một nơi khác.
“Vậy thì chắc hẳn tay ma cà rồng đó đã giúp đỡ bọn kia bắt cóc Farrell đi.”
“Farrell có đồng tính không nhỉ?” tôi hỏi, cố gắng sao cho câu hỏi đó nghe như thể chỉ là bộc phát thôi vậy.
“Nó thích đàn ông hơn, phải. Cô nghĩ là…”
“Tôi chẳng nghĩ gì cả.” Tôi lắc đầu quả quyết, để cho hắn ta biết tôi chẳng nghĩ gì nhiều đến thế nào. Bill siết chặt ngón tay tôi. Oái.
Sự im lặng căng thẳng bao trùm cho đến khi ả ma cà rồng trông như thiếu nữ ấy trở về cùng với một người đàn ông lực lưỡng, người mà tôi đã thấy trong những ký ức của Bethany. Dù vậy, trông hắn không giống những gì mà Bethany nhìn thấy; qua đôi mắt của cô hắn cường tráng, ít béo hơn; quyến rũ hơn, và đỡ nhếch nhác hơn nhiều. Tuy vậy, vẫn có thể nhận ra hắn là Re-Bar.
Tôi nhận ra ngay rằng có gì đó không ổn với người đàn ông này. Hắn đi theo ả ma cà rồng kia hoàn toàn tự nguyện, và mỉm cười với tất cả mọi người trong phòng; nhưng thế là hơi quá, phải không nào? Bất kể con người nào khi cảm nhận thấy những rắc rối của ma cà rồng đều sẽ lo lắng, dù tâm can có trong sáng đến đâu. Tôi đứng dậy bước lại phía hắn. Hắn vui vẻ quan sát đón chờ tôi bước đến.
“Chào ông bạn,” tôi nói lịch sự, và bắt tay hắn. Tôi buông tay ngay khi có thể. Rồi lùi lại vài bước. Tôi muốn uống vài viên Advil giảm đau rồi nằm nghỉ.
“Ôi,” tôi nói với Stan, “ông ta chắc chắn có một lỗ trống trong đầu.”
Stan đưa mắt hoài nghi kiểm tra hộp sọ của Re-Bar. “Giải thích đi,” hắn ra lệnh.
“Ngài khỏe chứ, ngài Stan?” Re-Bar hỏi. Tôi sẵn sàng cá rằng chưa từng có ai dám nói bằng giọng đó với Stan Davis cả, ít nhất là trong vòng khoảng năm trăm năm trở lại đây.
“Tôi vẫn ổn, Re-Bar à, còn ông thì sao?” Tôi khá khen cho Stan vì đã giữ được bình tĩnh và ôn hòa.
“Ngài biết đấy, tôi thấy thật sảng khoái,” Re-Bar đáp, lắc lắc đầu mê ly. “Tôi là thằng chó đẻ may mắn nhất quả đất này - thứ lỗi nhé, thưa quý nương.”
“Không sao đâu.” Tôi buộc phải thốt ra những lời đó.
Bill hỏi, “Có chuyện gì xảy ra với hắn thế, Sookie?”
“Ông ta có một cái lỗ cháy rụi trong đầu mình,” tôi đáp. “Em không biết phải giải thích làm sao cho chính xác nữa. Em không xác định được sao mà làm được như vậy, vì trước đây em chưa thấy chuyện này bao giờ, nhưng khi em nhìn vào tâm tưởng của ông ta, ký ức của ông ta, trong đó chỉ là một hố to cũ rích toang hoác. Giống như là Re- Bar cần phải lấy một khối u bé xíu ra, nhưng bác sĩ phẫu thuật lại moi hết lá lách và có lẽ cả ruột thừa của ông ta ra vậy, chỉ để cho chắc chắn hơn đấy mà. Anh biết là khi lấy ký ức của ai đó đi thì anh phải trám vào đó bằng những ký ức khác đúng không?” Tôi vẫy một tay để ám chỉ mình đang nói về đám ma cà rồng. “Thế này, có ai đó đã lấy đi một phần to đùng tâm trí của Re-Bar, và chẳng trám cái gì vào để thay thế hết. Như phẫu thuật thùy não vậy,” tôi phấn khởi thêm. Tôi đọc nhiều lắm. Đi học với tôi hơi khó khăn vì cái rắc rối con con của tôi, nhưng việc đọc sách đã cho tôi phương tiện chạy trốn khỏi tình trạng của mình. Tôi đoán mình là người tự học.
“Vậy thì tất cả những gì Re-Bar biết về sự biến mất của Farrell đều đã bị mất,” Stan bảo.
“Phải, cùng với vài nét tính cách của Re-Bar và rất nhiều ký ức khác nữa.”
“Hắn vẫn còn hoạt động bình thường chứ?”
“Sao lại hỏi thế, vâng, tôi đoán là vẫn bình thường.” Tôi chưa từng chạm trán bất cứ một thứ gì tương tự như vậy, chưa bao giờ nhận ra điều đó mang tính khả thi. “Nhưng tôi không biết ông ta có còn làm bảo vệ được nữa hay không,” tôi nói, cố gắng thành thực.
“Hắn ta bị tổn thương khi đang làm việc cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ chăm sóc hắn. Có thể hắn sẽ quét dọn câu lạc bộ sau khi đóng cửa,” Stan nói. Tôi có thể nhận ra từ giọng nói của Stan là hắn ta đang muốn tôi ghi nhớ điều này vào trong tâm khảm; rằng ma cà rồng cũng có lòng thuơng xót, hay ít nhất là công bằng.
“Chúa ơi, thế thì tuyệt quá!” Re-Bar cười rạng rỡ với ông chủ của mình. “Cảm ơn ngài, thưa ngài Stan.”
“Mang hắn về nhà đi,” ngài Stan ra lệnh cho thuộc hạ của mình. Ả rời đi ngay, mang theo người đàn ông rỗng não.
“Ai có thể tàn nhẫn đến vậy với hắn chứ?” Stan tự hỏi. Bill không đáp lại, vì anh ấy không ở đây để dính vào mọi chuyện, mà chỉ để bảo vệ tôi và tham gia điều tra khi cần thiết. Một ả ma cà rồng cao cao tóc đỏ bước vào, người tôi đã nhìn thấy ở quán bar vào đêm Farrell bị bắt cóc.
“Cô có để ý thấy gì vào đêm Farrell biến mất không?” tôi hỏi ả mà không nghĩ đến nghi thức xã giao. Ả gầm gừ với tôi, hàm răng trắng nhe ra nổi bật trên nền lưỡi thẫm màu và môi son tươi rói.
Stan bảo, “Hợp tác đi.” Ngay lập tức gương mặt ả dịu dần lại, nét mặt dãn ra ngay như những nếp nhăn trên tấm khăn trải giường khi ta vuốt nhẹ tay qua.
“Tôi không nhớ,” cuối cùng ả nói. Vậy thì khả năng nhớ lại mọi việc mình nhìn thấy đến từng chi tiết nhỏ nhất của Bill là một tài năng đặc biệt của riêng anh. “Tôi không nhớ đã nhìn thấy Farrell quá một hai phút gì đấy.”
“Cô có làm được tương tự với Rachel như những gì cô đã làm với con bé hầu bàn không?” Stan hỏi.
“Không,” tôi đáp ngay tắp lự, giọng hình như hơi quá dứt khoát. “Tôi chẳng thể nào đọc được tâm trí của ma cà rồng. Sách đóng kín bưng.”
Bill hỏi, “Cô có nhớ tay tóc vàng - một thành phần của giống loài chúng ta - trông khoảng chừng mười sáu tuổi không? Kẻ có những hình xăm màu xanh trên cánh tay và cả thân mình ấy.”
“A, có,” Rachel tóc đỏ đáp ngay lập tức. “Tay xăm mình đó từ tận thời La Mã cổ đại cơ, tôi nghĩ vậy. Họ hơi thô lỗ nhưng cũng thú vị. Tôi cũng băn khoăn về anh ta, bởi tôi chưa thấy anh ta ghé qua ngôi nhà này hỏi xin Stan quyền săn mồi.”
Vậy ra những ma cà rồng đi ngang qua lãnh địa của ma cà rồng khác đều cần phải đăng ký ở trung tâm du khách, đại loại là vậy. Tôi xếp thông tin này sang bên để sau này có thể cần dùng đến.
“Anh ta đi cùng một con người, hay ít nhất là đã từng nói chuyện với hắn,” ả ma cà rồng tóc đỏ tiếp tục. Ả mặc quần jean xanh và áo len màu xanh lá cây trông cực kỳ nóng nực đối với tôi. Nhưng ma cà rồng chẳng bận tâm gì tới thời tiết thực bên ngoài cả. Ả nhìn Stan, rồi sang Bill, anh vẫy tay ra hiệu anh muốn nghe bất kể ký ức gì mà ả còn nhớ. “Tay người đó tóc sẫm màu, và có ria mép, nếu tôi nhớ không lầm.” Ả múa may hai tay, những ngón tay xòe rộng khoát qua có vẻ như muốn nói, “Bọn người trông giống nhau hết cả lũ!”
Sau khi Rachel rời khỏi căn phòng, Bill hỏi xem liệu trong nhà có máy vi tính hay không. Stan đáp rằng có, và nhìn Bill với vẻ tò mò lồ lộ khi Bill hỏi xem liệu anh có thể dùng một lúc được không, rồi anh xin lỗi vì đã không mang theo máy tính xách tay. Stan gật đầu. Bill sắp sửa rời khỏi phòng thì anh chần chừ rồi nhìn sang tôi. “Em sẽ ổn cả chứ, Sookie?” anh hỏi.
“Ổn mà.” Tôi cố nói sao cho ra vẻ tự tin.
Stan nói, “Cô ấy sẽ không sao đâu. Vẫn còn nhiều người mà cô ấy phải gặp lắm.”
Tôi gật đầu, và Bill rời khỏi đó. Tôi mỉm cười với Stan, hành động tôi thường làm mỗi khi căng thẳng. Chẳng phải nụ cười vui vẻ gì, nhưng thế còn tốt hơn là thét toáng lên.
“Cô và Bill ở bên nhau được bao lâu rồi?” Stan hỏi.
“Vài tháng thôi.” Stan biết càng ít về chúng tôi thì tôi càng vui.
“Cô hài lòng với anh ta chứ?”
“Vâng.”
“Cô yêu anh ta à?” Stan nghe có vẻ thích thú.
“Không phải chuyện của anh,” tôi toét miệng cười. “Không phải anh nói rằng tôi cần kiểm tra thêm nhiều người nữa sao?”
Theo cùng quy trình đã áp dụng với Bethany, tôi đã nắm rất nhiều bàn tay và kiểm tra một đống bộ óc nhàm chán. Bethany chắc chắn là người biết quan sát nhất trong quán. Còn mấy người này - một cô phục vụ khác, một tay pha chế rượu, và một khách quen (một tay nhân tình răng nanh) thực ra đã tình nguyện làm việc này - có những suy nghĩ chán phèo và năng lực kém cỏi khi thu nhặt thông tin. Tôi đã phát hiện ra tay pha chế rượu làm thêm việc buôn bán đồ ăn cắp, và sau khi tay này rời khỏi căn phòng, tôi khuyên Stan nên thuê một tay nhân viên đứng quầy khác, bằng không hắn ta sẽ gặp rắc rối trong các vụ điều tra của cảnh sát. Stan có vẻ ấn tượng bởi điều này hơn tôi tưởng. Tôi không muốn hắn khoái sự phục vụ của tôi đâu.
Bill quay lại đúng lúc tôi xong việc với nhân viên quán cuối cùng, và trông anh hơi hài lòng, nên tôi kết luận rằng anh đã thành công. Bill dạo này dành hầu hết thời gian thức để ngồi trước máy vi tính, chuyện này với tôi thật lạ lẫm.
“Tên ma cà rồng xăm mình đó,” Bill nói khi Stan và tôi là hai người duy nhất còn lại trong phòng, “tên là Godric, dù rằng suốt thế kỷ vừa qua hắn mang tên Godfrey. Hắn là một kẻ từ bỏ.” Tôi không biết Stan thế nào, nhưng tôi thực sự ấn tượng. Vài phút ngồi trước máy tính là Bill đã làm được một vụ điều tra nhanh gọn.
Stan có vẻ kinh tởm, còn tôi nghĩ mình trông có vẻ không hiểu gì.
“Hắn kết giao với những con người cực đoan. Hắn lập kế hoạch tự tử,” Bill thì thầm kể cho tôi nghe, vì Stan đang chìm trong suy nghĩ. “Tay Godfrey này dự định sẽ ra trước ánh sáng mặt trời. Sự tồn tại của hắn làm hắn chán ngán.”
“Vậy hắn sẽ mang theo ai đó với mình à?” Godfrey sẽ phơi bày Farrell ra ánh sáng cùng mình sao?
“Hắn đã phản bội chúng ta vì phe Hội Bằng Hữu,” Stan nói.
Phản bội là một từ bao gồm vô số lời cường điệu thống thiết, nhưng tôi thì chẳng mơ đến chuyện cười nhạo khi Stan nói thế đâu. Tôi đã từng nghe nói tới Hội, mặc dù chưa từng gặp một ai tuyên bố mình là thành viên chính thức cả. Đảng 3K mang ý nghĩa gì với người Mỹ gốc Phi thì Hội Bằng Hữu Mặt Trời cũng mang ý nghĩa đấy với ma cà rồng. Đó là hệ sùng bái phát triển mau lẹ nhất trên nước Mỹ.
Một lần nữa, tôi lại ở trong tình trạng khó khăn vượt khả năng kiểm soát của mình.