Số lần đọc/download: 4482 / 183
Cập nhật: 2017-03-31 13:27:56 +0700
Chương 4: Truyện Đổng Thiên Vương
H
ùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận
Bắc phương. Vua nhà ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương
nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng:
sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp! Vua nghe lời, bèn lập
đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày.
Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt
vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca
múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua
thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng
không nói năng. Vua nhân hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua
được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp". Cụ già ngồi im một lúc, rút
thẻ ra bồi, bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm
chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài
trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền
hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".
Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau,
người biên giới cấp báo có giặc ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai
sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc
Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai
vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa
không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng:
"Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy
thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm". Người con nghe thấy mẹ
nói, đột nhiên bảo: "Mẹ gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh
ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ
giả hỏi: "Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: "Mau về tâu với vua rèn một ngựa
sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và
một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải
lo gì nữa?". Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói
rằng: "Ta không lo nữa". Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh
bại được giặc?". Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trướckhông phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi
cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón". Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ
hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng:
"Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo".
Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn
không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con
ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín
thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân
nhà ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy
cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi liền hơn
mười tiếng, rút kiếm thét lớn: "Ta là thiên tướng đây!" rồi đội nón cưỡi
ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy máy đã tới
trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn
giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy thiên tướng rồi
cùng đến hàng phục. ân vương bị chết ở trong trận. Đi đến đất Sóc Sơn
huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày
mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công
ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong
làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà ân đời
đời, 644 năm không dám ra quân. Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên
Thần Vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng
ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ. Tới đời vua Thuần Đế nhà Lê, ở xã
Phù Lỗ có người con gái tên là Ngô Chi Lan chăm đọc sách, rành văn
chương, thơ ca điêu luyện, nhân đi dạo chơi tới núi này có đề bài thơ
rằng: Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn, Vạn tía muôn hồng rỡ thế gian. Ngựa
sắt bay rồi tên vẫn đó, Anh hùng sống mãi với giang san.