You can never get a cup of tea large enough or a book long enough to suit me.

C.S. Lewis

 
 
 
 
 
Tác giả: Minette Walters
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Vu Duy
Upload bìa: Vu Duy
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
hờ sự trợ giúp của một cảnh sát, Roz tìm được đường đến trường dòng địa phương.
“Chắc là trường dòng Thánh Angela,” anh ta nói với cô. “Rẽ trái chỗ cột đèn giao thông rồi lại rẽ trái tiếp. Có một tòa nhà lớn xây bằng gạch đỏ, nằm lùi vào phía trong so với đường cái. Cô sẽ dẽ dàng nhận ra thôi. Đó là công trình kiến trúc tử tế duy nhất còn sót lại ở vùng này.”
Tòa nhà theo phong cách Victoria nhô cao với vẻ tráng lệ, vững chãi, và nổi bật giữa những căn hộ lộn xộn cũ kĩ xây bằng bê tông rẻ tiền xung quanh. Một công trình mang đậm chất sư phạm mà không trường học hiện đại nào có được. Roz đi vào cổng trước, cảm thấy khá thân thuộc vì đã được đào tạo ở nền giáo dục kiểu này. Nhìn lướt qua những cánh cửa phòng học để ngỏ, cô trông thấy bàn ghế, bảng đen, giá sách, và cả những cô nữ sinh mặc đồng phục gọn gàng đang chăm chú nghe giảng. Một môi trường học tập yên tĩnh, nơi phụ huynh có thể kiểm soát phương pháp giáo dục mà nhà trường dạy cho con cái họ, bằng cách cực kì đơn giản là dọa dẫm sẽ chuyển học sinh tới nơi khác và không trả học phí. Và bất cứ khi nào có được quyền hành ấy, yêu cầu của phụ huynh sẽ luôn là như nhau: kỉ luật, chương trình học, và kết quả. Cô nhòm qua cửa sổ và nhìn vào một căn phòng. Rõ ràng đó là thư viện. Chà chà, chẳng trách Gwen cứ khăng khăng gửi con gái đến đây học. Roz dám cá trường trung học Parkway kia chẳng khác nào một nhà thương điên, nơi tiếng Anh, lịch sử, tôn giáo và địa lý được dạy như các môn đơn lẻ trong chương trình học cơ bản, chính tả trở thành thứ lỗi thời, Tiếng Pháp thành hoạt động ngoại khóa, chưa bao giờ nghe nói đến tiếng La tinh, và khoa học chỉ đơn thuần là chuyện phiếm về hiệu ứng nhà kính…
“Tôi có thể giúp gì cho cô không?”
Roz quay người lại, nở nụ cười, “Được vậy thì tốt quá.”
Một phụ nữ sắc sảo gần sáu mươi tuổi vừa dừng bước trước cánh cửa dán biển “Thư kí”.
“Cô là phụ huynh muốn gửi con vào đây học sao?”
“Ước gì được như thế ạ. Ngôi trường này tuyệt quá. Nhưng tôi chưa có con,” cô giải thích trước ánh nhìn tò mò pha chút bối rối của người phụ nữ kia.
“À, ra vậy. Và giờ thì tôi giúp gì được cho cô?”
Roz lấy tấm danh thiếp ra. “Rosalind Leigh,” cô tự giới thiệu. “Tôi muốn nói chuyện với hiệu trưởng?”
“Bây giờ sao?” Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
“Vâng, nếu bà ấy rảnh. Không thì tôi xin đặt lịch hẹn và quay lại sau.”
Người phụ nữ cầm tấm danh thiếp và chăm chú đọc, “Tôi có thể biết cô muốn nói với hiệu trưởng về chuyện gì không?”
Roz nhún vai, “Chi là một số thông tin cơ bản về ngôi trường cũng như đối tượng học sinh đến nhập học thôi.”
“Cô là Rosalind Leigh, tác giả của cuốn sách Qua tấm gương soi phải không?”
Roz gật đầu. Qua tấm gương soi là cuốn sách mới nhất, và cũng khá nhất của cô. Sách bán tương đối chạy và nhận được nhiều lời khen ngợi, với chủ đề xoáy sâu vào việc thay đổi nhận thức về sự phai tàn nhan sắc của phụ nữ qua năm tháng. Giờ cô tự hỏi không biết mình đã lấy đâu ra bấy nhiêu sức lực để viết được cuốn sách đó. Là vì đam mê, cô nghĩ. Chủ đề khá cuốn hút cô.
“Tôi vừa đọc xong.” Người phụ nữ mỉm cười, “Tôi đồng ý với một số kết luận của cô, tuy nhiên nó thực sự bắt người đọc phải động não khiếp quá. Tác phẩm của cô rất đáng yêu, mà chắc cô cũng ý thức được điều đó.”
Roz cười, ngay lập tức thấy có thiện cảm với người phụ nữ này. “Ít nhất thì bà cũng thẳng thắn.”
Người kia nhìn đồng hồ đeo tay, “Vào văn phòng của tôi đi. Nửa tiếng nữa, tôi phải đi gặp vài phụ huynh, nhưng cho tới lúc đó, tôi rất sẵn lòng cho cô biết một số thông tin cơ bản về trường. Lối này…” Bà mở cánh cửa có tấm biển Thư ký, bước tới căn phòng liền kề với nó, và chỉ vào một chiếc ghế, “Mời ngồi. Cô dùng cà phê nhé?”
“Vâng.” Roz ngồi xuống, chăm chú dõi theo người phụ nữ bận bịu lấy siêu nước và vài chiếc cốc. “Bà là hiệu trưởng ạ?”
“À, đúng rồi.”
“Ở thời của tôi thì hiệu trưởng thường là các bà xơ.”
“Trước đây cô cũng học trường dòng à? Cô dùng sữa không?”
“Cà phê đen không đường ạ.”
Bà đặt một chiếc cốc bốc hơi nghi ngút trước mặt Roz và ngồi xuống đối diện cô. “Thật ra tôi vẫn là một bà xơ. Xơ Bridget. Chúng tôi thôi mặc tu phục khá lâu rồi, vì thấy nó đã vô hình tạo nên một bức tường ngăn cách nữ tu và xã hội.” Bà cười khúc khích, “Tôi không biết mặc như thế thì có vấn đề gì, nhưng mọi người luôn cố tránh chúng tôi nếu có thể. Tôi cho rằng có lẽ họ cảm thấy nếu không tránh mặt, họ sẽ phải gồng mình lên để ứng xử chuẩn mực. Mà như thế thì rất khó chịu. Cuộc nói chuyện thường gượng gạo.”
Roz bắt tréo chân và vô thức ngồi thư giãn trên chiếc ghế bành. Đôi mắt cô đong đầy sự ấm áp và hài hước. Mới một năm trước thôi, chúng vẫn là cửa sổ tâm hồn, thể hiện tính cách hài hòa của cô. Nhưng nỗi đắng cay đã gặm mòn quá nhiều điều. “Có thể đó là cảm giác tội lỗi. Chúng ta cần giữ mồm giữ miệng nếu không muốn khơi ra những bài thuyết giáo mà mình xứng đáng phải nhận.” Cô nhấp một ngụm cà phê, “Điều gì làm xơ nghĩ tôi cũng từng học trường dòng?”
“Cuốn sách của cô. Cô tỏ ra bất mãn với những tôn giáo đã được chính thức hóa. Tôi đoán trước kia cô từng là tín đồ Do thái hoặc Công giáo, nhưng nay đã bỏ đạo. Nhưng chắc chắn không phải tín đồ Tin lành. Vì tư tưởng của tôn giáo này ngay từ đầu đã nặng nề hơn rất nhiều rồi.”
“Thực tế tôi không hề quay lưng lại với bất kì tôn giáo nào khi viết tác phẩm đó.” Roz từ tốn nói, “Bấy giờ tôi vẫn là một con chiên Công giáo ngoan đạo.”
Xơ Bridget nhận ra giọng điệu châm biếm của cô, “Nhưng bây giờ thì không phải nữa.”
“Không. Trong lòng tôi Chúa đã chết rồi.” Cô khẽ mỉm cười trước ánh nhìn đầy cảm thông của người phụ nữ đối diện. “Tôi đoán xơ đã đọc về chuyện đó. Thật khó lòng khen ngợi gu đọc báo của xơ đấy.”
“Tôi là một nhà giáo, quý cô ạ. Chúng tôi mang về đây cả báo chính luận lẫn tạp chí tiếp thị.” Bà không hề cụp mắt xuống hay tỏ ra xấu hổ, và Roz thấy lòng đầy cảm kích. “Phải, tôi đã đọc, và nếu rơi vào hoàn cảnh của cô, hẳn tôi cũng sẽ quay lưng lại với Chúa. Người tàn nhẫn quá.”
Roz gật đầu và quay lại chủ đề cuốn sách của mình, “Nếu tôi nhớ không nhầm, tôn giáo chỉ được nhắc đến duy nhất ở một chương. Sao xơ lại thấy khó lòng đồng tình với kết luận của tôi?”
“Bởi chúng được rút ra từ một câu châm ngôn duy nhất. Và vì tôi không thể chấp nhận được câu châm ngôn ấy, nên tôi không đồng tình với những kết luận của cô.”
Roz nhướng mày, “Câu châm ngôn nào vậy?”
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.”
Roz ngạc nhiên, “Xơ cảm thấy câu ấy không đúng sao?”
“Đúng vậy, không phải lúc nào nó cũng đúng.”
“Tôi không biết nói gì nữa. Và xơ còn là một nữ tu cơ đấy.”
“Việc là nữ tu không liên quan gì ở đây cả. Tôi chỉ thức thời thôi.”
Những điều bà xơ nói vô thức gợi cô nhớ về Olive. “Xơ thực sự tin rằng những người có vẻ ngoài ưa nhìn sẽ tốt đẹp cả hay sao? Tôi không thể đồng ý với quan điểm đó. Thế cũng chẳng khác nào khẳng định cứ ai xấu người thì xấu cả nết.”
“Tôi không hề nói vậy. Cô đang quy chụp suy nghĩ của tôi đấy, cô gái ạ.” Xơ Bridget tỏ vẻ ngạc nhiên, “Đơn giản, tôi chỉ đang nghi ngờ về ý niệm cho rằng sắc đẹp là một giá trị bề nổi mà thôi.” Bà giữ tách cà phê bằng cả hai tay và nói tiếp, “Tất nhiên, đó là một suy nghĩ dễ chịu, tất cả chúng ta đều có thể hài lòng với bản thân. Nhưng sắc đẹp, cũng giống như sự giàu có, cũng là một loại tài sản thuộc về giá trị đạo đức. Tại sao ư? Những người sống dư dả có thể đảm bảo được việc tôn trọng phép tắc luật lệ, hào phóng và nhân hậu. Còn người nghèo thì không. Khi con người ta rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, thì chuyện giữ được lòng tốt hay phẩm giá đâu phải là dễ. Mỗi lần muốn làm điều tốt thực sự là mỗi lần phải giằng xé bản thân. Cô có chịu cho đi một xu không, khi đó là đồng cuối cùng trong túi, và thậm chí cô còn không biết sẽ phải kiếm đồng tiếp theo ở đâu?” Bà nở một nụ cười tinh quái, “Nếu được chọn thì chẳng ai muốn mình nghèo hèn hết.”
“Tôi sẽ không phản đối quan điểm đó, nhưng tôi không thấy mối liên hệ giữa cái đẹp và tiền tài.”
“Cái đẹp nâng đỡ con người ta tránh xa khỏi những cảm xúc tiêu cực gây ra bởi nỗi cô đơn và sự ruồng rẫy. Những người có vẻ ngoài ưa nhìn thực chất đã luôn may mắn hơn người khác. Thực sự là như vậy, và chính cô cũng đã thừa nhận điều này. Thế nên, họ có ít lý do hơn để hằn học, để ghen tị và để thèm muốn những thứ mình không thể có. Họ thường có xu hướng trở thành tầm ngắm của những cảm xúc ấy, chứ không phải căn nguyên của chúng.” Bà nhún vai, “Tất nhiên sẽ luôn có ngoại lệ, hầu hết những trường hợp ấy đã được cô nhắc tới trong cuốn sách. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, nếu ai đó hấp dẫn, thì nét quyến rũ hẳn phải thể hiện từ trong ra ngoài. Tất nhiên vẫn có những tranh luận về việc vẻ đẹp ấy toát ra từ nội tâm hay hình thức trước, nhưng cả hai luôn có xu hướng song hành.”
“Vậy nếu người ta đẹp và giàu có thì cánh cổng thiên đàng sẽ rộng mở đón chào hay sao?” Cô mỉm cười ranh mãnh, “Đó là một triết lý căn bản đối với tín đồ Công giáo, đúng không? Tôi nghĩ Chúa Jesus khuyên răn điều ngược lại đúng chứ. Kiểu như việc một con lạc đà lọt qua lỗ kim xâu còn dễ hơn một người giàu có bước được lên thiên đàng.”
Xơ Bridget cười hóm hỉnh, “Cô quả là một nữ tu kín đáng nể.” Bà lơ đãng dùng cây bút bi khuấy tách cà phê của mình, “Đúng, Người đã nói vậy, nhưng nếu đặt vào đúng ngữ cảnh, tôi nghĩ triết lý ấy sẽ bổ sung cho quan điểm của tôi chứ không phải phản bác lại. Cô nhớ chứ, một anh chàng giàu có đã hỏi người làm cách nào để được bất tử. Người đáp: Hãy nghe theo lời răn của Chúa. Anh ta trả lời: Từ nhỏ, con vẫn luôn giữ trọn đạo, nhưng con còn có thể làm gì hơn nữa không. Chúa trả lời: Nếu con muốn trở nên hoàn hảo, và tôi xin nhấn mạnh từ ‘hoàn hảo’, thì hãy bán hết tất cả những gì con có và chia tiền cho người nghèo, rồi đi theo ta. Người thanh niên liền bỏ đi, buồn rầu vì anh ta có quá nhiều của cải và không nỡ bán hết. Sau đó, Chúa Jesus đã đưa ra một ví dụ minh họa bằng con lạc đà và lỗ kim xâu. Như cô thấy đấy, anh ta đang nói về sự hoàn hảo, chứ không phải chỉ là lòng tốt.” Bà mút đầu bút bi, “Xét một cách công bằng, tôi luôn cho rằng bán hết của cải có nghĩa là bán hết nhà cửa và việc kinh doanh buôn bán cùng toàn bộ những người ở đợ hay làm thuê trong đó, vậy vấn đề đạo đức này quả thật khiến người ta khó xử. Nhưng tôi nghĩ điều Chúa muốn nói là: Cho đến thời điểm này con là người tốt, nhưng để đánh giá xem con thực sự tốt đến đâu, thì hãy đặt mình vào hoàn cảnh không một xu dính túi. Hoàn hảo là đi theo Chúa và giữ gìn đức hạnh khi con nghèo khó đến nỗi trộm cắp và lừa gạt là lựa chọn duy nhất nếu còn muốn thức dậy vào sáng hôm sau. Một mục tiêu không tưởng.” Bà nhấp cà phê và nháy mắt, “Tất nhiên, có thể tôi đã nhầm.”
Roz thẳng thừng đáp, “Chà, tôi sẽ không phản bác xơ về vấn đề ấy. Tôi ngờ rằng làm thế thật chẳng khác nào cố đấm ăn xôi. Nhưng tôi cho ràng xơ đang tranh luận dựa trên luận điểm không mấy vững vàng rằng sắc đẹp là một tài sản thuộc về phạm trù đạo đức. Vậy còn những cạm bẫy của tính kiêu ngạo và chuộng hư vinh thì sao? Và xơ sẽ giải thích thế nào về việc một vài trong số những người tốt nhất tôi biết, lại không hề xinh đẹp?”
Xơ Bridget cười sảng khoái, “Cô lại bẻ cong những gì tôi nói rồi. Tôi chưa bao giờ nói rằng muốn làm người tốt thì phải xinh đẹp. Tôi chỉ phản bác khi cô nhất mực khẳng định những người tốt nước sơn thì không tốt gỗ. Theo quan sát của tôi, thường những người xinh đẹp cũng rất tốt bụng. Nói ngắn gọn, những người xinh đẹp thì đủ sức để trở nên tốt bụng.”
“Quay lại với câu hỏi ban nãy của tôi, vậy điều đó có nghĩa, những người xấu xí thì thường không tử tế sao?”
“Tất nhiên là không. Cũng giống như chẳng còn gì tệ hơn khi khẳng định người nghèo luôn luôn xấu xa. Thật ra chi là họ phải chịu thử thách khắc nghiệt hơn mà thôi.” Bà khẽ nghiêng đầu, “Lấy Olive và Amber làm ví dụ. Vì rốt cuộc đó cũng là mục đích thực sự của chuyến viếng thăm này. Amber khá may mắn. Con bé là một trong những đứa trẻ đáng yêu nhất tôi từng biết. Mọi người đều yêu quý con bé. Olive thì ngược lại, hầu như không được ai biết đến. Hơn nữa, con bé lại không có nhiều tính tốt. Nó tham lam, hay dối trá và thi thoảng tỏ ra khá dữ dằn. Tôi thấy thật khó mà thích nổi Olive.”
Roz không định phản đối việc chuyển chủ đề. Dù sao cuộc trò chuyện này ngay từ đầu đã hướng tới vấn đề đó mà. “Và xơ cũng phải trải qua thử thách hệt như Olive. Xơ đã thất bại sao? Xơ không thể ưa cô ta sao?”
“Khó mà yêu quý Olive, cho tới khi Amber nhập học. Tính cách tốt đẹp nhất của Olive là tình yêu vô bờ bến dành cho cô em gái, không hề toan tính ích kỉ. Con bé quan tâm tới Amber như gà mẹ chăm con, và thường đặt lợi ích của Amber lên trên lợi ích của mình. Tôi chưa từng chứng kiến thứ tình cảm sâu đậm nào như thế giữa chị em gái với nhau.”
“Vậy tại sao cô ta lại giết em gái mình?”
“Thực sự thì vì sao? Lần này câu hỏi đó rất cần lời đáp.” Bà xơ già nóng ruột gõ ngón tay lên mặt bàn, “Tôi vào thăm con bé mỗi khi có thể. Nó không định nói cho tôi biết. Lời giải thích duy nhất tôi nghĩ ra được, là tình yêu đến ám ảnh của người chị đã chuyển thành sự thù ghét đến mức ám ảnh tương đương. Cô gặp Olive chưa?”
Roz gật đầu.
“Cô nghĩ sao về con bé?”
“Cô ta có vẻ thông minh.”
“Đúng vậy. Con bé đã có thể vào đại học nếu cô hiệu trưởng thời đó thành công trong việc thuyết phục bà mẹ về những lợi ích của việc này. Ngày ấy, tôi chỉ là giáo viên quèn.” Bà thở dài, “Nhưng bà Martin là một phụ nữ bảo thủ, và Olive lại rất sợ mẹ. Với tư cách nhà trường, chúng tôi đã không thể làm gì để bà ta thay đổi quyết định. Hai đứa ra trường, Olive tốt nghiệp với ba điểm A và Amber với bốn điểm O xoàng xoàng.” Bà lại thở dài lần nữa, “Tội nghiệp Olive. Con bé đi làm thu ngân trong siêu thị trong khi Amber thử đi học làm tóc, hình như là vậy.”
“Siêu thị nào vậy?”
“Siêu thị của Pettit trên đại lộ. Nhưng chỗ đó đóng cửa được vài năm rồi, giờ đã thành cửa hàng bán rượu.”
“Vào thời điểm xảy ra vụ án, cô ta đang làm việc ở Phòng Y tế và An ninh Xã hội đúng không?”
“Phải, và tôi tin con bé đang làm rất tốt. Tất nhiên là chỗ làm do bà mẹ chọn.” Xơ Bridget ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp, “Thật khôi hài, tôi tình cờ gặp Olive chỉ chừng một tuần trước vụ án mạng. Tôi rất mừng khi gặp lại con bé. Trông Olive có vẻ…” Bà ngừng lại, “…rất hạnh phúc. Đúng, tôi nghĩ dùng từ ‘hạnh phúc’ là chuẩn xác.”
Roz để mặc không gian rơi vào thinh lặng và chìm đắm trong dòng suy tưởng của riêng mình. Có quá nhiều điểm vô lý trong câu chuyện này. “Cô ta có hòa hợp với bà mẹ không?” Cuối cùng cô hỏi.
“Tôi không biết. Tôi luôn có ấn tượng rằng con bé hợp với bố hơn. Tất nhiên, bà Martin mới là người có tiếng nói trong gia đình. Chắc chắn bà ta là người quyết định mọi chuyện. Bà ta rất độc đoán, nhưng tôi không có ấn tượng gì về việc Olive chống đối mẹ. Đúng là kiểu phụ nữ khó nói chuyện, và luôn luôn chừng mực. Bà ta luôn cẩn trọng lựa chọn từng từ mình nói, như muốn che giấu con người thật. Nhưng tôi không hiểu bà ta cần che giấu điều gì.”
Tiếng gõ cửa vang lên và một phụ nữ thò đầu vào, “Thưa xơ, ông bà Barker đang đợi ạ. Xơ đã sẵn sàng gặp họ chưa?”
“Hai phút nữa nhé, Betty.” Bà mỉm cười với Roz, “Tôi xin lỗi. Tôi không chắc mình có giúp được gì cho cô không nữa. À, khi còn học ở đây, Olive có một người bạn, không phải kiểu bạn bè như cô và tôi hay nghĩ tới đâu, nhưng con bé nói chuyện với cô gái này nhiều hơn bất kì ai. Họ của con bé sau khi kết hôn là Wright, Geraldine Wright, và con bé sống ở một ngôi làng tên là Wooling, cách nơi này khoảng mười sáu cây số về phía Bắc. Nếu con bé sẵn lòng nói chuyện với cô, tôi chắc rằng nó sẽ cung cấp cho cô nhiều thông tin hơn tôi. Tên ngôi nhà con bé đang ở là Cây Sồi.”
Roz ghi chép ngắn gọn các chi tiết vào quyển sổ ghi chép. “Tại sao tôi lại có cảm giác xơ đang đặt hi vọng vào tôi nhỉ?”
“Olive cho tôi xem lá thư của cô vào lần cuối tôi gặp con bé.”
Roz đứng dậy, cầm cặp táp và túi xách lên. Cô trầm ngâm nhìn bà xơ, “Biết đâu tôi chỉ có thể viết ra những thứ tàn nhẫn.”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Vâng, tôi cũng không nghĩ thế.” Cô dừng lại trước cánh cửa, “Rất vui vì được gặp xơ hôm nay.”
“Hi vọng gặp lại cô,” xơ Bridget nói. “Tôi rất mong được biết những tiến triển trong quá trình điều tra của cô.”
Roz gật đầu, “Liệu Olive có thực sự là hung thủ không?”
“Tôi thật lòng không biết.” Bà xơ chậm rãi đáp, “Tất nhiên, tôi cũng băn khoăn. Toàn bộ sự việc quá kinh khủng, đến nỗi khó lòng chấp nhận được.” Rồi bà kết luận, “Cẩn thận nhé, cô gái yêu quý. Điều duy nhất tôi có thể quả quyết về Olive là con bé nói dối về gần như tất cả mọi điều.”
Roz ghi lại tên của viên cảnh sát chịu trách nhiệm bắt giữ Olive từ bài báo cắt ra và ghé vào sở cảnh sát trên đường trở về London. “Tôi muốn tìm trung sĩ Hawksley.” Cô nói với viên cảnh sát trực ban, “Anh ta làm việc ở đây năm 1987. Không biết giờ anh ta còn công tác không?”
Trực ban lắc đâu, “Bỏ việc rồi, khoảng mười tám, hai mươi tháng trước gì đó.” Anh ta chống khuỷu tay lên quầy và vui vẻ nhìn cô, “Tôi có thể giúp gì được không?”
Môi cô vô thức cong lên, “Có lẽ anh có thể cho tôi biết giờ anh ta đang ở đâu.”
“Được. Anh ta mở một nhà hàng trên phố Wenceslas, và sống ở căn hộ tầng trên.”
“Và bằng cách nào tôi có thể tìm thấy phố Wenceslas?
“Chà, giờ…” anh ta xoa cằm vẻ suy ngẫm, “… cách dễ nhất là đợi nửa tiếng nữa, hết ca trực tôi sẽ dẫn cô đi.”
Roz cười, “Và bạn gái anh sẽ nói sao đây?”
“Một câu hỏi khá thông minh đấy. Cô ấy có cái lưỡi sắc như lưỡi cưa vậy.” Anh ta nháy mắt, “Nếu cô không nói thì tôi cũng sẽ chẳng hé răng nửa lời.”
“Xin lỗi anh. Đáng tiếc tôi lại đang bị cùm chặt với một lão chồng ghét cảnh sát chẳng kém gì ghét lũ trai bao.” Nói dối bao giờ cũng dễ dàng hơn.
Anh ta cười nhăn nhở, “Ra khỏi đồn rẽ trái và đi chừng một cây rưỡi nữa sẽ thấy phố Wenceslas bên tay trái. Góc phố có một cửa hàng bỏ không. Nhà hàng của Hawksley ở sát bên cạnh, có tên là Xoong Chần Trứng.” Anh ta gõ gõ chiếc bút chì lên mặt bàn, “Cô có định ăn ở đó không?”
“Không,” Roz đáp. “Chỉ đơn thuần là công việc thôi. Tôi không có ý định hưởng thụ.”
Anh ta gật đầu ủng hộ, “Khôn ngoan đấy. Hawksley không phải đầu bếp xuất sắc cho lắm. Anh ta cứ làm cảnh sát thì tốt hơn.”
Xoong Chần Trứng nằm trên trục đường tới London. Roz hơi lưỡng lự khi đưa xe vào bãi đỗ vắng tanh của nhà hàng. Cô thấy hơi mệt và vốn không định nói chuyện với Hawksley vào ngày hôm nay. Màn tán tỉnh của viên cảnh sát trực ban càng khiến cô chán nản và hờ hững.
Nhà hàng Xoong Chần Trứng là một tòa nhà gạch đỏ xinh xắn, nằm cách đường một bãi đỗ xe. Hai cửa sổ lồi nằm hai bên cánh cửa nặng trịch làm bằng gỗ sồi. Cây hoa tử đằng sum sê choán toàn bộ mặt tiền. Hệt như trường dòng Thánh Angela, trông tòa nhà thật lạc lõng với kiến trúc xung quanh. Cửa hàng cửa hiệu hai bên đều bỏ không, các cửa sổ biến thành chỗ dán áp phích quảng cáo. Chúng hòa hợp với nhau theo lối thiết kế thực dụng rẻ tiền sau chiến tranh, nhưng lại chẳng liên kết chút nào với tòa nhà cổ kính đang phôi phai dần ở giữa. Tệ hơn nữa, chính quyền thiển cận đã chấp nhận cho người chủ cũ mở rộng thêm phần gác mái hai tầng đằng sau mặt tiền xây bằng gạch đỏ. Giờ lớp xi măng trát tường đã tối thầm lại bên trên mái ngói của nhà hàng. Người ta cố gắng chỉnh cho tán cây tử đằng vắt chéo qua mái ngói, nhưng phần kiến trúc nhô ra ở bên phải đã chắn hết ánh nắng, và những dây leo của loài cây này chẳng buồn vươn tới tầm cao ảm đạm ấy.
Roz đẩy cửa bước vào. Nơi này tối tăm và vắng vẻ. Những bàn ăn trống không trong một căn phòng hiu quạnh. Giống như cô. Giống như cuộc đời cô. Cô định lên tiếng gọi, rồi lại đổi ý. Ở đây, mọi thứ đều quá yên bình, và cô không cần phải vội. Cô nhón chân bước trên sàn và ngồi lên một chiếc ghế đẩu ở quầy bar trong góc. Không khí bảng lảng mùi thức ăn và mùi tỏi phi lôi cuốn, nhắc cô nhớ rằng cả ngày nay mình chưa ăn gì. Roz đợi một lúc lâu, nhưng không nhìn thấy, cũng không nghe thấy gì. Cô thấy mình như một kẻ xâm phạm vào cõi tĩnh lặng của người khác. Cô đã định rời đi, cũng lẳng lặng như lúc đến, nhưng không gian an yên lạ thường khiến đầu cô gục xuống hai tay từ lúc nào chẳng rõ. Sự kiệt quệ, kẻ đồng hành bấy nay, lại dang tay vây chặt lấy cô, và hướng tâm trí cô tới cái chết như nhiều lần trước đó.
Có khi cô sẽ làm thế thật. Thuốc ngủ, hoặc tai nạn ô tô. Ô tô, luôn luôn là ô tô. Một mình, trong đêm mưa. Thật dễ dàng, chỉ việc quay bánh lái và tìm một sự giải thoát yên bình. Đó cũng là một kiểu công lý. Nỗi căm ghét bành trướng và khuấy đảo tâm trí, khiến đầu cô đau nhức. Chúa ơi, cô đã trở nên thật tệ hại. Ước gì có ai băm vằm cơn giận dữ hủy diệt trong lòng cô và để chất độc thoát ra. Lẽ nào Iris đã đúng? Liệu cô có nên đi trị liệu tâm lý hay không? Cơn sầu muộn ghê gớm bất thình lình cuộn lên trong lòng cô như một con sóng dữ, và có nguy cơ tuôn trào ra ngoài qua hàng mi thành những giọt nước mắt.
“Ôi, chết tiệt!” Cô lầm bầm giận dữ, vội lấy hai tay bưng mặt. Cô lục tìm chìa khóa xe trong túi xách, “Chết tiệt! Chết tiệt thật! Đi đâu rồi không biết?”
Một cử động nhẹ khiến cô ngẩng phắt lên. Một người lạ mặt đang dựa vào quầy rượu trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, yên lặng đánh bóng một chiếc cốc và quan sát cô.
Roz đỏ bừng mặt vì giận dữ rồi nhìn đi chỗ khác, “Anh đã ở đó bao lâu?” Cô cáu kinh hỏi.
“Đủ lâu.”
Roz tìm thấy chùm chìa khóa kẹp trong cuốn sổ ghi chép và thoáng nhìn anh ta, “Anh nói vậy là sao?”
Anh ta nhún vai, “Đủ lâu.”
“À đúng, rõ ràng nhà hàng chưa mở cửa, thôi tôi đành đi vậy.” Cô tụt khỏi chiếc ghế đẩu.
“Tùy cô,” anh ta thờ ơ đáp. “Tôi chỉ đang định rót cho mình một ly rượu thôi. Cô có thể ở lại uống cùng tôi hoặc rời đi. Thế nào cũng được cả.” Anh ta quay lưng lại phía cô và khui một chai rượu. Đôi má cô đã phai dần sắc đỏ.
“Anh có phải trung sĩ Hawksley không?”
Anh ta đưa cái nút chai lên mũi và hít hà tán thưởng, “Đã từng. Giờ tôi chỉ là Hal thôi.” Anh ta quay lại và rót rượu vào hai chiếc ly, “Cô là ai?”
Cô lại mở túi xách lần nữa, “Tôi có danh thiếp ở đâu đấy.”
“Nói ra luôn cũng có mất gì đâu.” Anh ta đẩy một trong hai ly rượu về phía cô.
“Rosalind Leigh,” cô nói ngắn gọn, dựng tấm danh thiếp bên chiếc điện thoại trên quầy bar.
Cô nhìn người đàn ông trong ánh sáng lờ mờ, phút chốc quên đi sự xấu hổ của mình. Trông anh ta chẳng có vẻ gì là chủ một nhà hàng. Cô nghĩ thầm, nếu thấy nguy, cô có thể sử dụng giày cao gót. Anh ta đã lâu chưa cạo râu và bộ áo quần màu đen nhăn nhúm như thể cứ mặc thế đi ngủ. Anh ta không đeo cà vạt và chiếc áo sơ mi đã mất tới nửa hàng cúc, làm lộ ra đám lông đen xoăn tít trên ngực. Vết sưng phồng phía trên má trái khiến con mắt híp lại. Vệt máu khô bệt trong hai lỗ mũi. Anh ta nâng ly lên và nở nụ cười châm biếm, “Chúc sức khỏe, cô Rosalind. Chào mừng tới nhà hàng Xoong Chần Trứng.” Giọng anh ta uyển chuyển nhịp nhàng, phảng phất phương ngữ Geordie của phương Bắc, dù đã thay đổi nhiều sau một thời gian dài gắn bó với phương Nam.
“Hợp lý hơn nhiều nếu chúng ta uống vì sức khỏe của anh,” cô thẳng thừng đáp. “Trông anh không được khỏe lắm.”
“Vậy chúc sức khỏe cho cả hai. Chúc chúng ta sớm thoát khỏi những gì khiến mình đau đớn.”
“Những gì là gì, trong trường hợp của anh?”
Anh ta chỉ vào chỗ thâm tím trên mặt, “Đây chứ đâu. Còn cô? Điều gì khiến cô khổ sở?”
“Không gì cả. Tôi ổn,” cô khẽ nói.
“Chắc rồi.” Đôi mắt đen láy của anh ta dịu dàng hướng về phía cô, “Một nửa trong cô còn sống. Nửa kia thì đã chết.” Anh ta nốc cạn ly và rót thêm rượu, “Cô muốn gì từ trung sĩ Hawksley?”
Cô nhìn quanh căn phòng, “Anh không mở cửa sao?”
“Để làm gì?”
“Đón khách hàng,” cô nhún vai.
“Khách hàng,” anh ta trầm ngâm nhắc lại. “Có một cách diễn đạt hay hơn đấy.” Anh ta cười khùng khục, “Phải gọi họ là một giống loài quý hiếm. Cô chưa nghe thấy bao giờ à? Lần cuối cùng tôi thấy một khách hàng là ba ngày trước. Đó là một gã còi cọc nhỏ thó, đeo ba lô trên lưng và chăm chăm kiếm món trứng tráng chay và cà phê không chứa caffeine.” Anh ta đột nhiên im lặng.
“Thật thất vọng.”
“Đúng vậy.”
Cô lại ngồi xuống cái ghế đẩu, “Đó không phải lỗi của anh,” cô an ủi. “Đang thời kì suy thoái, ai cũng khó khăn. Hàng xóm của anh có vẻ cũng thế.” Cô phác một cử chỉ hướng về phía cửa chính.
Hawksley với tay bật một công tắc bên quầy bar. Ánh đèn tỏa rạng khắp các bức tường, khiến những chiếc ly trên bàn ánh lên lấp lánh. Vết sưng nơi má trái hẳn là chỗ nhẹ nhất. Máu tươi rỉ ra từ vết thương phía trên tai và chảy xuống cổ. Anh ta có vẻ không hề hay biết. “Cô vừa nói tên cô là gì nhỉ?” Đôi mắt đen láy của anh ta ngắm nghía cô một chốc rồi nhìn ra phía sau xem xét toàn bộ căn phòng.
“Rosalind Leigh. Tôi nghĩ mình nên gọi xe cứu thương.” Cô bất lực nói, “Anh đang chảy máu kìa.”
Cô có cảm giác lạ lùng rằng mình đang hành xử dạn dĩ hơn nhiều so với mọi ngày, nhất là trong tình huống đặc biệt này. Đây là ai? Rõ ràng cô chẳng có trách nhiệm gì. Rõ ràng cô chỉ là người dưng, tình cờ gặp mặt anh ta, “Tôi sẽ gọi vợ anh.”
Hawksley nở nụ cười méo mó, “Sao lại không nhỉ? Cô ta thích cười nhạo lắm. Có lẽ giờ vẫn vậy.” Anh ta với lấy một cái khăn rồi chườm lên đầu, “Đừng lo, tôi sẽ không chết khi cô ở đây đâu. Những vết thương trên đầu thường trông có vẻ tệ hơn thực tế. Cô thật xinh đẹp. ‘Khắp miền Ind, từ Tây sang Đông. Ngọc nào sánh nổi bóng hồng Rosalind*.’”
“Cứ gọi tôi là Roz và tôi mong anh đừng trích dẫn lung tung,” cô thẳng thừng đáp. “Nó khiến tôi khó chịu.”
Anh ta nhún vai, “‘Như em muốn.’”
Cô bực bội thở hắt ra, “Hẳn anh thấy như thế thú vị lắm.”
“Cô nhạy cảm quá, tôi hiểu rồi. Vậy cái người khiến cô khổ sở là ai vậy nhỉ?” Anh ta nhìn vào ngón áp út của cô, “Chồng? Chồng cũ? Bạn trai?”
Cô phớt lờ mấy câu hỏi, “Có ai khác ở đây không? Ai đó trong bếp chẳng hạn? Anh nên làm sạch vết thương đi đã.” Cô chun mũi, “Thật ra, anh nên làm sạch cả chỗ này nữa. Bốc mùi cá mú tanh ngòm.” Một khi đã ngửi thấy, cái thứ mùi khó chịu này càng lúc càng khiến người ta thấy kinh tởm.
“Cô luôn thô lỗ như vậy sao?” Hawksley tò mò hỏi và giũ cái khăn dưới vòi nước, nhìn máu phai dần. “Tại tôi đấy,” anh ta nói khô khốc. “Tôi phải bơi giữa cả tấn cá thu. Thật không phải một trải nghiệm dễ chịu gì.” Anh ta tì tay vào thành bồn rửa và nhìn chằm chằm xuống đáy bồn, đầu cúi xuống kiệt sức như thể một con bò đực trước đòn tấn công chí mạng của người đấu sĩ.
“Anh không sao chứ?” Roz nhìn anh ta, trán cô nhăn lại vì lúng túng. Cô không biết phải làm gì. Việc này không liên quan đến cô, Roz thầm nhắc đi nhắc lại trong đầu như vậy, nhưng cô không thể cứ thế mà bỏ đi. Lỡ anh ta ngất ra đấy thì sao? “Phải có ai đó để tôi nhờ giúp đỡ chú? Một người bạn hay hàng xóm chẳng hạn. Anh sống ở đâu?” Nhưng cô biết câu trả lời. Anh ta sống ở căn hộ phía trên, viên cảnh sát trẻ đã cho cô biết.
“Trời đất, cô kia,” Hawksley gầm gừ, “Thôi ngay đi được không, vì Chúa.”
“Tôi chỉ cố giúp anh thôi mà.”
“Cô gọi đó là giúp đỡ sao? Với tôi thì chẳng khác nào những lời cằn nhằn.” Bỗng anh ta trở nên cảnh giác, như đang lắng nghe âm thanh gì đó cô không hề nghe thấy.
“Có vấn đề gì sao?” Roz hỏi, thoáng lo sợ trước biểu cảm của anh ta.
“Cô có khóa cửa sau khi vào không?”
Cô nhìn chằm chằm vào người đàn ông trước mặt, “Không, tất nhiên là không.”
Anh ta đi theo ánh đèn, tới cửa ra vào, rồi gần như khuất dạng trong bóng tối. Cô nghe tiếng then cửa sập xuống.
“Nghe này…” Cô nói, đứng xuống khỏi ghế.
Anh ta bất thần xuất hiện bên cạnh cô, vòng cánh tay qua vai và đưa ngón tay lên môi cô, “Yên nào, cô gái.” Anh ta giữ cô đứng im.
“Nhưng…”
“Suỵt!’
Đèn pha ô tô loang loáng quét qua cửa sổ, cắt bóng tối bằng một khoảng ánh sáng trắng. Động cơ xình xịch ở số không một lát, rồi xe sang số và phóng đi. Roz cố gắng thoát ra nhưng vòng tay Hawksley chỉ càng siết chặt. “Chưa được,” anh ta thì thầm.
Họ đứng yên không nhúc nhích giữa những dãy bàn, y như những bức tượng trong một dạ tiệc ma quỷ. Roz giận dữ vùng ra, “Thật ngớ ngẩn.” Cô rít lên qua kẽ răng, “Tôi không biết chuyện quái quỷ gì đang diễn ra nhưng thật không thể chịu nổi nữa. Ai ở trong chiếc xe đó?”
“Khách hàng,” anh ta buồn rầu đáp.
“Anh điên rồi.”
Anh ta cầm tay cô và thì thầm, “Tới đây, lên gác xem xem.”
“Không có chuyện đó đâu,” cô vùng tay mình ra. “Chúa ơi, không ai nghĩ được gì khác hơn gạ tình hay sao?”
Một tiếng cười ngạc nhiên cất lên, “Ai nói gì về chuyện gạ tình?”
“Tôi đang chuẩn bị nói đây.”
“Thôi, để tôi tiễn cô về.”
Roz hít một hơi thật sâu, “Vậy tại sao anh muốn tôi lên gác?”
“Tôi sống ở căn hộ trên đó và tôi cần đi tắm.”
“Anh muốn tôi đi theo để làm gì?”
Hawksley thở dài, “Nếu cô còn nhớ, thì chính cô là người tới đây để tìm gặp tôi, Rosalind ạ. Tôi chưa gặp người phụ nữ nào gai góc khó chịu thế này.”
“Gai góc!” Cô nhại lại, “Trời đất, thật nực cười hết sức. Anh bốc mùi như cá ươn, rõ ràng vừa mới đánh lộn, rồi náu mình trong bóng tối, than thở về việc ế khách, rồi lại đuổi khéo họ đi khi họ xuất hiện. Anh bắt tôi ngồi đây năm phút liền không được cử động, rồi lại cố lôi kéo tôi lên trên tầng…” Cô dừng lại lấy hơi, “Tôi nghĩ chắc mình điên mất.”
“Ồ, tuyệt vời! Tôi cũng chỉ cần có thế thôi.” Anh ta lại tóm lấy tay cô, “Đi nào, tôi sẽ không làm gì cô đâu. Vì thật lòng, tôi nghĩ hiện mình không đủ sức. Sao vậy?”
Roz loạng choạng bước theo anh ta, “Cả ngày nay tôi chưa ăn gì.”
“Ồ, tôi cũng chẳng khá hơn.” Hawksley dẫn cô qua căn bếp tù mù và mở cánh cửa phụ, vươn qua người cô để bật vài bóng đèn. “Lên lầu đi,” anh ta nói với cô. “Và nhà tắm ở bên phải.”
Tiếng cửa khóa vang lên hai lần sau lưng Roz, nhưng cô không để tâm được nữa. Cô ngồi sụp xuống bồn cầu, kẹp đầu mình giữa hai gối cho qua cơn buồn nôn.
Đèn sáng. “Đây. Uống đi. Nước đấy.” Hawksley ngồi xổm trên sàn ngay phía trước Roz và quan sát gương mặt trắng bệch của cô. Lúc này, làn da cô trông như thạch cao màu kem và đôi mắt sẫm lại như trái mận gai. Một vẻ đẹp băng giá, Hawksley nghĩ. “Cô có muốn nói về chuyện đó không?”
“Chuyện gì?”
“Bất kể chuyện gì làm cô buồn đến thế.”
Cô nhấp một chút nước, “Tôi không buồn. Tôi đói.”
Hawksley đặt tay lên đầu gối và đẩy người đứng dậy, “Được thôi. Đi ăn nào. Bít tết thăn bò thì sao?”
Roz mỉm cười yếu ớt, “Tuyệt vời.”
“Tạ ơn Chúa! Tủ lạnh nhà tôi chật cứng mấy thứ đó. Cô thích ăn kiểu gì?”
“Tái hồng, nhưng…”
“Nhưng sao?”
Cô nhăn mặt, “Tôi nghĩ cái mùi này khiến tôi phát ốm mất.” Cô đưa tay lên che miệng, “Tôi xin lỗi nhưng thực sự tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu anh đi tắm trước đi. Thăn bò vị cá thu sẽ chẳng hấp dẫn hơn đâu.”
Anh ta ngửi ống tay áo, “Thường người ta sẽ chẳng nhận ra mùi khó chịu sau một lúc làm bạn với nó.” Anh ta cho vòi chảy hết cỡ và đổ xà phòng tắm vào dòng nước. “Tôi e rằng chỉ có một nhà tắm thôi, nên nếu cô định nôn tiếp, cô nên ở lại đây.” Anh ta bắt đầu cởi quần áo.
Cô đứng bật dậy, “Tôi sẽ đợi ở ngoài.”
Anh ta vứt áo khoác xuống nền nhà tắm và cởi cúc sơ mi, “Nhớ đừng làm bẩn thảm của tôi đấy nhé!” Anh ta gọi với theo, “Có một cái bồn trong bếp. Dùng nó đi.” Anh ta cẩn thận vén chiếc áo qua vai, không để ý rằng Roz vẫn ở phía sau. Cô hãi hùng nhìn chăm chăm vào những vết thương đen bầm trải khắp trên lưng anh.
“Anh bị làm sao vậy?”
Anh ta lại kéo áo lên, “Không có gì. Ra ngoài đi. Làm tạm một cái sandwich mà ăn. Có bánh mì và pho mát trong tủ lạnh.” Anh ta nhìn vẻ mặt của cô và bình thản nói, “Bề ngoài nhìn ghê thế thôi. Các vết thương lúc nào chẳng vậy.”
“Chuyện gì đã xảy ra thế?”
Anh ta nhìn thẳng vào mắt cô, “Cứ cho rằng tôi ngã xe đạp đi.”
Olive nở nụ cười khinh khỉnh. Cô ta lấy cây nến ra khỏi chỗ giấu bí mật. Họ đã bỏ phần khám người sau khi một phụ nữ xuất huyết vì bị dùng que khua khoắng một cách thô bạo trong âm đạo để tìm thuốc cấm. Cảnh tượng này diễn ra trước mặt thanh tra của cục, và thanh tra đó là một người ĐÀN ÔNG (Olive luôn luôn nghĩ về đàn ông ở dạng in hoa).
Cây nến mềm ra dưới hơi ấm của cơ thể. Olive kéo một đầu rồi bắt đầu nặn. Trí nhớ của cô ta khá tốt. Cô ta tin khả năng thổi hồn vào bức tượng nhỏ xíu này của mình. Lần này sẽ là một người ĐÀN ÔNG.
Roz làm sandwich trong bếp, mắt vẫn liếc về phía cửa phòng tắm. Đột nhiên viễn cảnh dò hỏi Hawksley về vụ án của Olive Martin làm cô nhụt chí. Crew đã trở nên vô cùng khó chịu khi cô hỏi, dù Crew là một người rất lịch sự. Chí ít, ông ta không có bộ dạng như bị Arnold Schwarzenegger* đánh cho hộc máu suốt nửa giờ đồng hồ trong con ngõ tối tăm. Cô băn khoăn về Hawksley. Liệu anh ta có phát hỏa không khi biết rằng cô đang cố tìm hiểu về một vụ án anh ta từng liên quan? Ý nghĩ này thật chẳng mấy dễ chịu.
Có một chai champagne trong tủ lạnh. Roz hồn nhiên nghĩ có thể việc tiếp thêm cồn vào người sẽ khiến Hawksley thuần tính hơn. Cô bỏ chai rượu lên cái khay đặt bánh sandwich cùng hai cái ly.
“Anh đang để dành champagne hả?” Cô hỏi, giọng tươi vui, có lẽ là hơi quá tươi vui, rồi đặt cái khay lên nắp bồn cầu và xoay người lại.
Hawksley đang nằm dài trong bồn tắm đầy xà phòng, mái tóc đen vuốt mượt ra sau, gương mặt sạch sẽ và thư thái, hai mắt nhắm nghiền. “E là thế,” anh ta nói.
“Ồ,” Roz áy náy đáp. “Tôi sẽ trả nó lại tủ lạnh.”
Hawksley mở mắt, “Tôi định để dành đến hôm sinh nhật.”
“Ngày nào vậy?”
“Tối nay.”
Roz bật cười, “Tôi không tin. Là ngày nào thế?”
“16.”
Mắt cô ánh lên tinh quái, “Tôi vẫn không tin đâu. Anh bao nhiêu tuổi rồi?” Bất ngờ trước vẻ mặt đầy thích thú của anh ta, cô không thể ngăn đôi má mình ửng đỏ. Hawksley hẳn sẽ nghĩ cô đang tán tỉnh. Chà, mẹ kiếp! Có khi thế thật. Cô đã chán ngấy việc phải oằn mình xuống dưới sức nặng của những nỗi sầu muộn rồi.
“Số bốn đằng trước và số không to đùng đằng sau.” Anh ta đẩy mình ngồi dậy và ra hiệu lấy chai rượu, môi cong lên một cách hài hước. “Chà chà, thật dễ chịu. Tôi không nghĩ mình sẽ có bạn cùng mừng sinh nhật, không thì đã ăn diện chỉnh tề rồi.” Anh ta tháo sợi dây và mở nút. Chai rượu chỉ sủi lên chút xíu bọt trước khi được rót vào hai chiếc ly Roz đang giơ ra. Hawksley đặt chai rượu xuống sàn và lấy một ly. “Uống vì cuộc sống,” anh ta nói rồi cụng ly với cô.
“Vì cuộc sống. Chúc mừng sinh nhật.”
Hawksley kín đáo ngắm Roz, rồi lại nhắm mắt và trượt mình xuống, tựa đầu vào thành bồn tắm. “Ăn sandwich đi,” anh lẩm bẩm, “Chẳng còn gì tệ hơn khi cứ tống champagne vào một cái dạ dày trống rỗng.”
“Tôi đã ăn ba cái liền rồi. Xin lỗi vì không thể đợi nổi món bít tết. Tôi làm cho anh một cái đấy.” Cô đặt cái khay bên cạnh chai rượu để anh ta tự lấy. “Anh có giỏ giặt hay thứ gì đó tương tự không?” Cô hỏi, mấy ngón chân di di đống quần áo bốc mùi dơ dáy.
“Không cần giữ lại đâu. Tôi sẽ quăng đi ấy mà.”
“Tôi có thể giúp anh.”
Hawksley ngáp, “Túi rác. Ở trong bếp, tủ chén thứ hai bên trái.”
Cô vắt mớ quần áo lên cánh tay rồi cầm đi, bọc kín chúng trong ba lớp túi bóng. Việc này chỉ mất vài phút nhưng khi cô quay lại, Hawksley đã thiu thiu ngủ, ly rượu áp vào ngực.
Cô cẩn thận gỡ ly rượu khỏi những ngón tay nắm hờ của anh ta và đặt nó lên sàn. Giờ thì sao? Cô tự hỏi. Có lẽ cô giống như chị em gái, nên anh ta thấy hoàn toàn thoải mái trước sự có mặt của cô. Đi hay ở? Cô có một ý nghĩ ngớ ngẩn là muốn ở lại, ngồi đó im lặng và ngắm nhìn anh ta ngủ, nhưng cô lại sợ mình đánh thức anh ta. Hawksley có lẽ không bao giờ hiểu nổi việc cô cần được bình yên ngồi bên một người đàn ông đến thế nào, dù chỉ trong thoáng chốc.
Đôi mắt cô dịu lại. Đó là một gương mặt ưa nhìn. Bao nhiêu vết bầm giập hay thâm tím cũng chẳng thể che nổi nét tươi cười trên đó. Và cô biết nếu mở rộng lòng mình, cô sẽ yêu thương gương mặt này và hài lòng mỗi khi nhìn thấy nó. Cô bất thần quay đi. Cô đã nuôi dưỡng sự cay đắng trong lòng quá lâu đến nỗi có thể dễ dàng từ bỏ niềm vui. Chúa chưa nhận được sự trừng phạt thích đáng.
Roz nhặt lấy túi xách ở cạnh nhà tắm và nhón chân bước xuống cầu thang. Nhưng cửa đã khóa và không thấy chìa khóa đâu. Cô thấy mình ngu ngốc hơn là lo lắng. Giờ cô không khác gì một kẻ nghe lén xấu hổ, bị nhốt lại trong phòng với mục tiêu duy nhất là thoát ra ngoài mà không để ai phát hiện. Chắc hẳn Hawksley đã nhét chiếc chìa khóa chết tiệt đó trong túi. Cô rón rén trở lại bếp và lục tung mớ quần áo bẩn thỉu kia nhưng tất cả túi áo túi quần đều trống trơn. Cô bối rối tìm quanh, lục lọi ở các bàn trong phòng khách và phòng ngủ. Nếu mấy chiếc chìa khóa thực sự tồn tại, hẳn chúng đã bị giấu rất kĩ. Roz thở dài chán nản và kéo rèm xem còn cách nào khác để đi khỏi đây không, như lối thoát hiểm phòng cháy ở ban công chẳng hạn. Nhưng cô chỉ thấy khung cửa sổ đầy những chấn song. Cô thử xem xét một cửa sổ khác rồi cửa sổ khác nữa. Tất cả đều được gắn song sắt.
Tất nhiên, cơn giận vây lấy cô.
Roz không buồn dừng lại để cân nhắc xem liệu việc mình định làm có khôn ngoan hay không, mà cứ thế xồng xộc vào nhà tắm và thô bạo lắc Hawksley, “Đồ chết tiệt. Anh nghĩ mình đang chơi trò quái quỷ gì vậy hả? Anh là loại người gì? Yêu râu xanh à? Tôi muốn ra khỏi đây. Ngay bây giờ.”
Anh ta mơ màng tỉnh dậy, đập chai champagne vào tường, túm lấy tóc Roz và gí mảnh thủy tinh lởm chởm vào cổ cô. Đôi mắt vân đỏ của anh ta nhìn chăm chăm vào cô, rồi chợt ý thức được sự việc, anh đẩy cô ra. “Đồ quỷ cái ngu ngốc,” anh ta gầm gừ. “Đừng bao giờ làm thế nữa.” Anh ta xoa mặt thật mạnh cho tỉnh ngủ.
Roz run rẩy, “Tôi muốn đi khỏi đây.”
“Có ai ngăn cô đâu.”
“Anh đã giấu chìa khóa.”
Anh ta nhìn cô, rồi bắt đầu xát xà phòng lên người. “Nó ở trên bậu cửa chính. Xoay hai lần. Đó là khóa kép.”
“Cửa sổ nhà anh chắn song kín mít.”
“Rõ ràng rồi.” Anh ta vỗ nước lên mặt, “Tạm biệt, cô Leigh.”
“Tạm biệt.” Cô yếu ớt đáp lại, “Tôi xin lỗi. Tôi tưởng mình bị nhốt lại.”
Anh ta giật chốt dưới đáy bồn và kéo chiếc khăn tắm khỏi giá, “Thực sự là thế mà.”
“Nhưng… anh nói chìa khóa…”
“Tạm biệt, cô Leigh.” Hawksley vươn tay đẩy mạnh cánh cửa, và đẩy cô ra ngoài.
Mình không nên lái xe. Suy nghĩ ấy rộn lên trong đầu khiến Roz đau đớn. Đó chính là lời nhắc nhở trong tuyệt vọng rằng ý thức tự bảo vệ là bản năng quan trọng nhất của con người. Nhưng anh ta đã đúng. Cô là một tù nhân và ước muốn được giải thoát quá mạnh mẽ. Dễ thôi mà, rất dễ, vô cùng dễ.
Từ một chấm nhỏ xíu xa tít, từng bóng đèn pha lần lượt lớn dần thành vầng mặt trời sáng lóa và đẹp mê hồn, quét qua cửa kính chắn gió của xe cô, rồi hút ánh mắt cô vào trung tâm vẻ rực rỡ ấy. Cô bỗng có ước muốn mãnh liệt được quay bánh lái hướng về phía ánh sáng kia. Sự chuyển tiếp vào thời khắc mắt ta không nhìn thấy gì thật nhẹ nhàng biết bao và sự vĩnh cửu mới rực rỡ nhường nào. Dễ thôi mà…
Kẻ Nặn Sáp Kẻ Nặn Sáp - Minette Walters Kẻ Nặn Sáp