Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 3: Nhà Đau Đớn
Cái ghế tả tơi trong văn phòng kêu lên kèn kẹt phản đối trong lúc anh chàng sĩ quan cảnh sát Halvorsen ngả ra sau và nhìn người đồng nghiệp hơn mình chín tuổi, thanh tra Harry Hole, khuôn mặt non choẹt lộ vẻ sửng sốt.
“Rồi,” Harry nói, vuốt ngón trỏ và ngón cái dọc sống mũi để lộ bọng bên dưới đôi mắt vằn đỏ.
“Hết cả cuối tuần?”
“Từ sáng thứ Bảy đến tối Chủ nhật.”
“Ừm, ít ra thì tối thứ Sáu anh cũng được vui vẻ,” Halvorsen nói.
“Ừ.” Harry lôi cặp tài liệu màu xanh nước biển từ trong túi áo khoác ra và đặt lên cái bàn đối diện với bàn của Halvorsen. “Tôi đã đọc bản sao của các cuộc thẩm vấn.”
Anh lại lôi từ túi áo bên kia một gói cà phê nhãn hiệu French Colonial màu xám. Anh và Halvorsen ở chung một văn phòng gần cuối hành lang trong khu vực cấm trên tầng sáu của Sở Cảnh sát ở Gronland. Hai tháng trước, họ đã đi mua một máy pha cà phê đen hiệu Rancilio Silvia, đặt nó trên vị trí cao quý của cái tủ đựng hồ sơ bên dưới tấm hình đóng khung chụp một cô gái ngồi gác hai chân lên mặt bàn. Khuôn mặt lấm tấm tàn nhang của cô nom có vẻ như đang nhăn nhó, nhưng thật ra cô đang cười sằng sặc. Nền cảnh chính là bức tường của văn phòng trên đó treo tấm hình.
“Cậu có biết là cứ bốn cảnh sát thì có ba người không thể đánh vần đúng từ ‘uninteresting’ không?” Harry vừa nói vừa treo cái áo khoác lên móc. “Họ hoặc là bỏ qua chữ ‘e’ giữa chữ ‘t’ và chữ ‘r’ hoặc…”
“Interesting.”[1]
“Cuối tuần cậu làm gì?”
“Thứ Sáu, nhờ cuộc gọi nặc danh của một thằng điên nào đó cảnh báo về một quả bom đặt trong xe mà tôi được ngồi bên ngoài nhà đại sứ Mỹ. Đương nhiên là báo động giả, nhưng bây giờ mọi chuyện đang phức tạp quá mức nên chúng tôi đã phải ngồi lại đó suốt đêm. Đến thứ Bảy thì tôi cố gắng lần nữa đi tìm người phụ nữ của đời mình. Tới Chủ nhật, tôi quyết định rằng nàng không tồn tại. Anh thu được gì từ những thẩm vấn nhân chứng của vụ cướp?” Halvorsen đong cà phê đổ vào cái phin hai đáy.
“Chả gì cả,” Harry đáp, cởi áo len ra. Bên trong, anh mặc một chiếc áo phông màu lông chuột - nó từng có màu đen nhưng giờ đến cả hàng chữ Violent Femmes cũng đã phai. Anh đổ người xuống chiếc ghế văn phòng, miệng rên lên. “Chưa thấy ai báo cáo là đã thấy kẻ tình nghi lảng vảng gần ngân hàng trước khi vụ cướp xảy ra. Có người ra khỏi siêu thị 7-Eleven ở phía bên kia phố Bogstadveien và thấy tên cướp chạy lên phố Industrigata. Chính cái mũ len trùm đầu làm anh ta chú ý. Camera giám sát bên ngoài ngân hàng ghi hình cả hai khi tên cướp chạy qua nhân chứng trước cái thùng rác để trước siêu thị. Điều thú vị duy nhất không có trên đoạn phim mà anh ta có thể nói cho chúng ta biết là tên cướp đã băng qua đường hai lần ở trên phố Industrigata.”
“Có kẻ không quyết định được nên đi trên vỉa hè nào. Chuyện đó nghe có vẻ uninteresting đối với tôi.” Halvorsen đặt cái phin đôi vào vành rổ lọc. “Với hai chữ ‘e’, một chữ ‘r’ và một chữ ‘s’.”
“Cậu không biết nhiều lắm về cướp ngân hàng phải không, Halvorsen.”
“Sao tôi phải biết? Chúng ta phải đi bắt bọn sát nhân cơ mà. Để mấy gã bên Hedmark lo chuyện cướp đi.”
“Bên Hedmark?”
“Anh không thấy khi đi qua Đơn vị Chống Cướp ư? Giọng nhà quê, những chiếc áo khoác len đan cài cúc. Nhưng vấn đề anh đang nói tới là gì vậy?”
“Vấn đề là Victor.”
“Tay huấn luyện chó nghiệp vụ ư?”
“Theo nguyên tắc thì lũ chó phải có mặt ở hiện trường trước tiên, và một tên cướp ngân hàng dày dạn biết điều đó. Một con chó giỏi có thể lần theo một tên cướp đi bộ, nhưng nếu hắn băng qua đường, sau đó xe ô tô chạy qua thì con chó sẽ bị mất dấu.”
“Thì sao?” Halvorsen dùng cái đầm nén bột cà phê và kết thúc bằng việc xoay cái đầm để làm phẳng lớp bột, thao tác mà anh ta khẳng định là điểm phân biệt người chuyên nghiệp với kẻ nghiệp dư.
“Nó chứng thực cho nghi ngờ rằng chúng ta đang đối phó với một tên cướp có kinh nghiệm. Và riêng chuyện đó cũng có nghĩa là chúng ta có thể tập trung vào một số lượng ít hơn đáng kể so với con số mà lẽ ra chúng ta phải xử lý. Trưởng Đơn vị Chống Cướp đã bảo tôi…”
“Ivarsson ư? Tôi tưởng anh với ông ta không nói chuyện với nhau?”
“Đúng thế. Nhưng ông ta nói với cả đội điều tra. Ông ta bảo ở Oslo có chưa tới một trăm tên cướp ngân hàng. Năm mươi tên rất ngu, phê thuốc hoặc loạn trí nên hầu như lần nào cũng bị tóm. Một nửa số đó đang bóc lịch, vì thế chúng ta có thể quên bọn đó được. Bốn mươi tên khá điêu luyện, có thể lọt lưới dễ dàng nếu có kẻ tiếp tay. Còn lại là mười tên chuyên nghiệp, những kẻ tấn công các xe tải an ninh và các trung tâm xử lý tiền tệ. Phải may mắn lắm mới tóm được chúng, và chúng ta luôn cố gắng theo dõi chúng sát sao. Bọn chúng đang bị yêu cầu phải cung cấp chứng cứ ngoại phạm.” Harry liếc nhìn Silvia đang ríu rít trên tủ hồ sơ. “Và tôi đã trao đổi với Weber bên Pháp y hôm thứ Bảy.”
“Tưởng tháng này Weber nghỉ hưu rồi.”
“Có ai đó dính phốt. Ông ấy sẽ vẫn làm tiếp tới hè.”
Halvorsen cười khùng khục. “Hẳn là ông ấy còn gắt gỏng hơn bình thường nhỉ.”
“Ừ, nhưng đó không phải là lý do,” Harry nói. “Bên đó chẳng tìm được gì sất.”
“Không gì ư?”
“Không một dấu vân tay. Không một cọng tóc. Thậm chí không một sợi vải. Và đương nhiên, qua dấu chân cậu có thể thấy hắn đi một đôi mới toanh.”
“Vậy thì đâu thể kiểm tra được vết mòn so với những đôi giày khác?”
“Chính xác,” Harry nói, kéo dài chữ “i”.
“Thế còn vũ khí của tên cướp thì sao?” Halvorsen nói và cầm một cốc cà phê tới bàn Harry. Khi ngước lên, anh ta nhận thấy lông mày bên trái của Harry đã nhướng lên sát lớp tóc mái màu vàng cắt ngắn. “Xin lỗi. Còn vũ khí giết người?”
“Cảm ơn cậu. Vẫn chưa tìm thấy.”
Halvorsen ngồi bên bàn mình nhấm nháp cà phê. “Vậy tóm lại là có một gã đi vào một ngân hàng tấp nập giữa ban ngày ban mặt, lấy đi hai triệu krone, giết chết một phụ nữ rồi ung dung đi ra, rẽ lên một con phố khá vắng người nhưng lại đầy xe cộ giữa thủ đô Na Uy, chỉ cách đồn cảnh sát vài trăm mét và chúng ta, những quân nhân chuyên nghiệp ăn lương nhà nước lại chẳng có manh mối nào mà điều tra tiếp?”
Harry chậm rãi gật đầu. “Hầu như không có gì. Chúng ta có cuộn băng ghi hình đó thôi.”
“Mà theo như tôi biết thì anh sẽ có thể mường tượng ra từng giây từng phút diễn biến trong đó.”
“Không, một phần mười giây thì đúng hơn.”
“Và anh có thể trích dẫn nguyên văn lời khai của nhân chứng?”
“Chỉ của August Schulz thôi. Ông ta đã kể lại với tôi rất nhiều điều vị về Thế Chiến. Kể vanh vách tên của các đối thủ trong ngành may mặc, những người Na Uy được gọi là tử tế đã ủng hộ việc sung công tài sản của gia đình ông ta hồi Thế Chiến. Ông ta biết rõ những người đó bây giờ đang làm gì. Nhưng ông ta không hề nhận ra rằng có một vụ cướp ngân hàng đã xảy ra.”
Họ lặng lẽ uống cà phê. Mưa đang táp vào cửa sổ.
“Anh thích cuộc sống này, phải không?” Halvorsen đột nhiên hỏi. “Cuối tuần nào cũng ngồi một mình đuổi theo những bóng ma.”
Harry mỉm cười, không đáp.
“Tôi cứ tưởng bây giờ đã có bổn phận với gia đình thì anh sẽ từ bỏ lối sống một mình chứ”.
Harry nhăn mặt cảnh cáo người đồng nghiệp trẻ. “Không biết liệu tôi có nhìn nhận theo cách đó không,” anh nói chậm rãi. “Cậu biết là chúng tôi thậm chí còn không sống cùng nhau mà.”
“Đúng thế, nhưng Rakel có một đứa con trai và điều đó khiến mọi chuyện khác đi, phải không?”
“Oleg,” Harry nói, lách qua bàn đi ra chỗ tủ hồ sơ. “Họ bay tới Moscow từ thứ Sáu rồi.”
“Hả?”
“Xử ở tòa. Bố thằng bé muốn nhận nuôi con.”
“À, phải rồi. Ông ta là người thế nào?”
“Ừm.” Harry chỉnh lại tấm hình bị lệch trên cái máy pha cà phê. “Ông ta là một giáo sư mà Rakel gặp rồi cưới hồi còn làm việc ở đó. Ông ta xuất thân từ một gia tộc lâu đời và giàu có, với ảnh hưởng lớn trong chính trường, Rakel bảo vậy.”
“Tức là họ quen biết vài thẩm phán chứ gì?”
“Chắc là có, nhưng chúng tôi nghĩ sẽ ổn thôi. Ông bố là người chẳng ra gì, chuyện này thì ai cũng biết. Nghiện rượu nặng và thiếu tự chủ, cậu biết kiểu người đó rồi đấy.”
“Tôi nghĩ vậy.”
Harry nhanh mắt ngước lên kịp thấy nụ cười Halvorsen tắt lịm.
Ở Sở Cảnh sát này hầu như ai cũng biết Harry có tật uống rượu. Ngày nay, uống rượu không phải là căn cứ để sa thải một công chức nhà nước, nhưng say rượu trong giờ làm thì có. Lần gần đây nhất Harry tái phạm, có người ở tầng trên tán thành chuyện cho anh ra khỏi ngành, nhưng người đứng đầu Đội Hình sự, Bjarne Møller, đã xòe cánh che chở cho Harry bằng cách đưa ra tình tiết giảm nhẹ. Tình tiết đó là người phụ nữ trong tấm hình bên trên máy pha cà phê - Ellen Gjelten, từng là cộng sự và người bạn thân thiết của Harry - đã bị đánh chết bằng gậy bóng chày trên một con đường mòn ven sông Akerselva. Harry phải chật vật lắm mới gượng dậy được, nhưng vết thương lòng vẫn còn nhức nhối. Nhất là vì, theo Harry, vụ đó chưa bao giờ được làm sáng tỏ. Khi Harry và Halvorsen tìm thấy chứng cứ pháp y buộc tội Sverre Olsen, một kẻ theo chủ nghĩa phát xít mới, thì thanh tra Tom Waaler đã lập tức lao tới nhà Olsen để bắt hắn. Hình như Olsen đã bắn Waaler và anh ta đã bắn trả để tự vệ rồi giết chết hắn. Theo báo cáo của Waaler là vậy. Cả những báo cáo điều tra tại hiện trường vụ xả súng hay những điều tra của Đội Điều tra Đặc biệt, cơ quan điều tra có thẩm quyền độc lập của cảnh sát, đều không chỉ ra điều gì khác. Tuy nhiên, động cơ khiến Olsen giết Ellen lại không hề được lý giải, ngoài những dấu hiệu cho thấy hắn dính líu vào đường dây buôn lậu vũ khí đã khiến Oslo tràn ngập súng trong những năm gần đây, và Ellen đã mò ra dấu vết của hắn. Tuy nhiên, Olsen chỉ là con tốt thí mà thôi; cảnh sát vẫn chưa truy ra kẻ nào đứng sau vụ thanh toán.
Sau khi được đưa lên làm ở Cục An ninh trên tầng thượng một thời gian ngắn, Harry đã đệ đơn xin được quay lại Đội Hình sự để tiếp tục điều tra vụ sát hại Ellen Gjelten. Tất cả bọn họ đều mừng húm vì thoát được anh. Còn Møller thì hài lòng khi nhận anh trở lại tầng sáu.
“Tôi vừa chạy ào lên tầng trên để đưa cho Ivarsson cái này,” Harry lẩm bẩm, vẫy cuốn băng video. “Ông ta muốn xem cùng với một thần đồng đang ở trên đó.”
“Ồ, ai thế?”
“Một sinh viên đã bỏ Trường Cảnh sát vào mùa hè này và hình như đã điều tra ra ba vụ cướp chỉ bằng cách xem băng video.”
“Chà. Xinh không?”
Harry thở dài. “Thanh niên các cậu dễ đoán đến phát chán lên được. Tôi chỉ mong là cô ta có năng lực. Còn những thứ khác tôi chẳng bận tâm.”
“Chắc chắn đó là phụ nữ chứ?”
“Tôi nghĩ ông bà Lønn có thể đặt tên thằng con trai của họ là Beate để đùa.”
“Tôi có cảm giác là cô ta vừa mắt đây.”
“Hy vọng là không,” Harry nói, cúi xuống theo thói quen đã ăn sâu vào máu, để chiều cao một mét chín hai của anh chui lọt qua khung cửa.
“Vậy ư?”
Câu trả lời từ hành lang vọng lại: “Sĩ quan cảnh sát giỏi thì chẳng đẹp đâu.”
○○○
Thoạt nhìn, Beate Lønn không hẳn đẹp, cũng chẳng hẳn xấu. Cô không xấu; thậm chí có thể nói là trông cô như búp bê. Nhưng có lẽ chủ yếu là bởi cái gì của cô cũng nhỏ: mặt, mũi, tai - và thân hình. Điểm nổi bật ở cô là vẻ nhợt nhạt. Da và tóc cô trắng bệch đến mức khiến Harry nhớ tới một thi thể mà Ellen và anh đã vớt từ dưới hồ Bunnefjord lên. Tuy nhiên, khác với thân hình của cô gái đó, Harry có cảm giác rằng chỉ cần ngoảnh đi một giây thôi là anh quên mất ngay Beate Lønn trông thế nào. Chuyện đó có vẻ không làm cô bận tâm khi cô lí nhí giới thiệu tên, để Harry bắt bàn tay nhỏ nhắn, ươn ướt của cô rồi buông ra rất nhanh.
“Thanh tra Hole gần như là một huyền thoại ở Sở Cảnh sát này đấy,” Rune Ivarsson nói, quay lưng về phía họ và nghịch một chùm chìa khóa. Bên trên cánh cửa sắt màu xám trước mặt họ treo một tấm biển đề chữ kiểu gothic: NHÀ ĐAU ĐỚN. Và bên dưới ghi: PHÒNG HỌP 508. “Không đúng sao, Hole?”
Harry không đáp. Anh không mảy may nghi ngờ về cái kiểu huyền thoại mà Ivarsson nghĩ tới; ông ta chưa bao giờ cố gắng che giấu quan điểm cho rằng Harry là một vết nhơ của ngành và đáng lẽ phải bị khai trừ từ mấy năm trước.
Ivarsson cuối cùng cũng mở được khóa cửa và cả ba cùng bước vào. Nhà Đau đớn là phòng chuyên dụng phục vụ việc nghiên cứu, biên tập và sao chụp các cuốn băng ghi hình của Đơn vị Chống Cướp. Giữa phòng bày một cái bàn lớn có ba chỗ ngồi làm việc; không có cửa sổ. Tường kê kín những cái giá để băng video, treo hơn một chục tấm áp phích in hình những tên cướp bị truy nã, một màn chiếu rộng chiếm nguyên một bức tường khác, một bản đồ Oslo và rất nhiều chiến lợi phẩm thu được trong những vụ bắt giữ, ví dụ như: bên cạnh cửa treo hai ống tay áo bằng vải len đã bị mấy lỗ dành cho mắt và miệng. Ngoài ra, trong phòng còn có những máy tính cá nhân màu xám, màn hình ti vi đen ngòm, đầu băng từ và DVD cùng đủ thứ máy móc khác mà Harry không nhận biết nổi.
“Đội Hình sự đã thu được gì từ cuốn băng rồi?” Ivarsson hỏi và ngồi phịch xuống một cái ghế. Ông ta kéo dài nguyên âm “i” với vẻ cường điệu.
“Vài thứ,” Harry đáp và bước tới chỗ một giá để băng video.
“Vài thứ ư?”
“Không nhiều lắm.”
“Thật xấu hổ là các anh đã không tới nghe tôi giảng trong căng tin hồi tháng Chín. Tất cả các đơn vị đều có mặt trừ đơn vị của anh, nếu tôi nhớ không nhầm.”
Ivarsson cao, chân tay dài, tóc mái vàng lượn sóng phía trên cặp mắt màu xanh. Khuôn mặt ông ta mang những nét đặc trưng nam tính mà người mẫu của các hãng thời trang Đức như Boss thường có, và làn da vẫn còn rám nắng sau nhiều chiều hè trên sân tennis, và có thể là cả vài buổi nằm trong nhà tắm nắng tại một trung tâm thể hình nữa. Tóm lại, Rune Ivarsson là kiểu người mà hầu như ai cũng công nhận là đẹp trai, và vì thế nên ông ta càng củng cố cho giả thiết của Harry về mối tương quan giữa ngoại hình và năng lực trong nghề cảnh sát. Tuy nhiên, cái mà Rune Ivarsson thiếu trong năng lực điều tra phá án thì ông ta bù lại bằng sự nhạy bén về chính trị và khả năng tạo quan hệ trong hệ thống cấp bậc của Sở Cảnh sát. Hơn nữa, Ivarsson có một sự tự tin bẩm sinh mà nhiều người nhầm tưởng là phẩm chất lãnh đạo. Trong trường hợp của ông ta, sự tự tin đó may mắn có được chỉ là do hoàn toàn không hề hay biết về những thiếu sót của mình, một phẩm chất tất yếu sẽ đưa ông ta lên tới đỉnh cao, và một ngày nào đó sẽ khiến cho ông ta trở thành thượng cấp của Harry - theo cách này hay cách khác. Ban đầu, Harry thấy không có lý do gì phải than phiền về chuyện con người xoàng xĩnh đó được tâng lên cao gọn đường cho việc điều tra phá án, nhưng sự nguy hại của những kẻ như Ivarsson nằm ở chỗ họ có thể dễ dàng nghĩ rằng họ nên can thiệp và ra lệnh cho những người thật sự hiểu về công việc điều tra.
“Chúng tôi có bỏ lỡ điều gì không?” Harry hỏi, lướt một ngón tay dọc các nhãn dán cỡ nhỏ ghi bằng tay trên những cuốn băng.
“Có lẽ không,” Ivarsson đáp. “Trừ phi, anh quan tâm tới những chi tiết nhỏ giúp phá các vụ án hình sự.”
Harry đã cưỡng lại được nỗi thôi thúc nói toẹt ra rằng anh không tới nghe ông ta giảng vì những người đã tham gia các buổi nói chuyện trước đó bảo anh rằng, mục đích duy nhất của màn biểu diễn này là tuyên bố với tất cả mọi người rằng sau khi ông ta đảm trách vị trí Trưởng Đơn vị Chống Cướp thì tỷ lệ phá án thành công trong các vụ cướp ngân hàng đã tăng từ ba mươi lăm lên năm mươi phần trăm. Không hề đả động đến chuyện ông ta được bổ nhiệm đúng lúc quân số trong đơn vị của ông ta tăng gấp đôi, một đợt mở rộng tổng thể lực lượng điều tra viên của họ cùng lúc điều tra viên kém cỏi nhất - Rune Ivarsson - rời khỏi vị trí đó.
“Tôi tự coi là mình khá quan tâm,” Harry đáp. “Vậy, hãy cho tôi biết ông đã phá vụ này thế nào.” Anh lấy một cuốn băng ra khỏi giá và đọc to dòng chữ ghi trên nhãn: “20.11.94, Ngân hàng Tiền gửi NOR, Manglerud.”
Ivarsson bật cười. “Rất sẵn lòng. Chúng tôi đã bắt chúng theo cách cổ điển. Chúng đổi xe chạy trốn ở một bãi rác tại Alnabru và đốt cái xe chúng bỏ lại. Nhưng nó không cháy hết. Chúng tôi tìm thấy đôi găng tay của một tên còn dính chút ADN. Chúng tôi so sánh chúng với ADN của những tên cướp có tiền án đã bị các điều tra viên khoanh vùng là nghi phạm sau khi xem cuốn băng, và một trong số bọn chúng khớp. Thằng ngu đó đã từng bắn một phát lên trần nhà và lĩnh bốn năm tù. Anh còn thắc mắc gì nữa không, thanh tra Hole?”
“Ừm.” Harry nghịch nghịch cuốn băng. “ADN kiểu gì?”
“Tôi đã bảo anh rồi, ADN trùng khớp.” Khóe mắt bên trái của Ivarsson bắt đầu giật giật.
“Phải rồi, nhưng nó là gì? Da chết? Hay móng tay? Hay là vết máu?”
“Chuyện đó có quan trọng không?” Giọng Ivarsson trở nên gay gắt và bực bội.
Harry tự nhủ phải ngậm miệng lại. Anh nên kệ xác những câu công kích kiểu Đôn Kihôtê này. Kiểu gì thì những người như Ivarsson cũng sẽ không bao giờ chịu học hỏi.
“Có lẽ là không,” Harry nghe thấy tiếng mình nói. “Trừ phi ông quan tâm đến những chi tiết nhỏ giúp phá những vụ án hình sự.”
Ivarsson nhìn Harry với ánh mắt hình viên đạn. Trong căn phòng cách ly đặc biệt, sự im lặng tưởng như áp suất vật lý tác động lên tai mọi người. Ivarsson mở miệng định nói.
“Lông ở đốt ngón tay.”
Cả hai người đàn ông cùng quay sang nhìn Beate Lønn. Harry hầu như quên mất có cô ở đó. Cô nhìn qua nhìn lại hai người đàn ông và nhắc lại gần như thì thầm: “Lông ở đốt ngón tay. Lông trên những ngón tay của mọi người ấy… có phải nó được gọi như thế không…?”
Ivarsson hắng giọng. “Cô nói đúng rồi, là sợi lông đó. Nhưng tôi nghĩ - mặc dù chúng ta không cần phải đi sâu thêm vào chuyện đó nữa - một sợi lông trên mu bàn tay. Phải không cô Beate?” Không đợi cô trả lời, ông ta gõ lên mặt kính chiếc đồng hồ đeo tay. “Tôi phải đi đây. Chúc vui vẻ với cuốn băng.”
Khi cánh cửa sập lại sau lưng Ivarsson, Beate cầm cuốn băng từ tay Harry và liền sau đó, cái đầu video nuốt lấy nó với một tiếng ro ro.
“Hai sợi lông,” cô nói. “Trong găng tay trái. Trên đốt ngón. Và cái bãi rác nằm ở Karihaugen chứ không phải Alnabru. Còn chi tiết bốn năm tù thì đúng.”
Harry sửng sốt nhìn cô gái. “Chẳng phải vụ này xảy ra trước khi cô vào trường sao?”
Cô nhún vai, bấm nút PLAY trên điều khiển từ xa. “Vấn đề chỉ là đọc báo cáo thôi mà.”
“Ừm,” Harry đáp và ngắm kỹ khuôn mặt nhìn nghiêng của cô. Rồi anh ngồi xuống ghế cho thoải mái. “Để xem gã này có để lại vài cái lông trên đốt ngón tay không.”
Cái đầu video rên rỉ và Beate tắt đèn đi. Trong vài phút sau đó, trong khi màn hình xanh lúc khởi động chiếu sáng cho họ thì một cuốn phim khác lại đang chạy trong đầu Harry. Nó chỉ diễn ra vài giây ngắn ngủi, một cảnh tượng tắm trong ánh đèn xanh nhấp nháy ở khu bờ sông, một câu lạc bộ ở Aker Brygge đã từ lâu không còn hoạt động. Anh không biết tên cô, người đàn bà với cặp mắt nâu biết đang cố hét lên điều gì đó với anh trên nền nhạc. Một bản nhạc rock cuồng loạn cuối thập niên bảy mươi. Green on Red, do nhóm Jason and Schorchers hát. Anh đổ rượu Jim Beam vào ly Coca của mình và chẳng thèm biết tên cô gái đó nữa. Nhưng đêm hôm sau thì anh biết. Khi họ nằm trên chiếc giường được trang trí bằng một hình chạm trổ trên mũi tàu, một con ngựa không đầu, đã vứt hết những dây nhợ trói buộc và khởi hành chuyến vượt biển đầu tiên. Harry lại cảm thấy luồng hơi ấm giống tối hôm trước khi nghe thấy giọng cô trên điện thoại.
Rồi cuốn phim thật thế chỗ.
Ông lão bắt đầu chuyến đi vất vả qua sàn nhà về phía quầy cứ cách năm giây lại được quay từ một cái máy quay khác.
“Thorkildsen ở TV2,” Beate nói.
“Không, đó là August Schulz,” Harry nói.
“Ý tôi là người biên tập,” cô đáp. “Có vẻ như Thorkildsen ở TV2 đã mó tay vào. Có vài tích tắc bị mất ở chỗ này chỗ khác…”
“Mất ư? Làm sao cô có thể nhìn ra…?”
“Số lượng vật thể. Theo dõi hậu cảnh. Cái xe Mazda đỏ anh có thể nhìn thấy ngoài phố ở trung tâm màn hình của cả hai máy quay khi hình ảnh dịch chuyển. Một vật không thể ở cả hai nơi vào cùng một thời điểm.”
“Ý cô là có ai đó đã tự ý sửa cuốn băng ghi hình?”
“Không phải thế. Mọi hình ảnh của cả sáu cái máy quay cả trong lẫn ngoài được ghi vào cùng một cuốn băng. Ở cuốn băng lúc đầu, hình ảnh nhảy rất nhanh từ máy quay này sang máy quay khác và anh chỉ nhìn thấy nó thoáng qua thôi. Vì thế cuốn băng phải được biên tập lại để có những chuỗi hình ảnh mạch lạc kéo dài hơn. Thỉnh thoảng chúng tôi gọi người từ đài truyền hình tới nếu chúng tôi không có khả năng làm việc đó. Những biên tập viên của đài như Thorkildsen sẽ xử lý mã thời gian để cải thiện chất lượng của cuốn băng ghi hình, để nó không lộn xộn như trước. Tôi đoán là thói quen chuyên môn.”
“Thói quen chuyên môn,” Harry nhắc lại. Anh lấy làm lạ, vì đó là cách nói của một người ở độ tuổi trung niên chứ không phải của một cô gái trẻ măng như vậy. Hoặc có lẽ cô ta không trẻ như lúc đầu anh đã nghĩ? Có chuyện gì đó đã xảy ra với cô ngay khi đèn vụt tắt. Ngôn ngữ thân thể qua cái bóng hắt ra có vẻ thoải mái hơn, giọng cô trở nên chắc chắn hơn.
Tên cướp bước vào ngân hàng và hét lên bằng tiếng Anh. Giọng hắn nghe xa xôi và không rõ tiếng, như thể bị quấn trong một cái chăn lông.
“Cô nghĩ sao về chi tiết này?” Harry hỏi.
“Người Na Uy. Hắn nói tiếng Anh để chúng ta không nhận ra giọng địa phương hay phương ngữ của hắn hoặc bất kỳ từ ngữ đặc trưng nào mà chúng ta có thể liên hệ tới những vụ cướp trước đó. Hắn mặc quần áo nhẵn nhụi để không sợi vải nào rớt lại khiến chúng ta có thể lần ra trong những chiếc xe bỏ trốn, nơi ẩn náu hay tại nhà của hắn.”
“Ừm. Gì nữa?”
“Mọi khe hở trên quần áo của hắn đều được bịt kín lại sao cho không để rơi rớt bất cứ một dấu vết ADN nào. Như là lông tóc hay mồ hôi. Anh có thể thấy ống quần của hắn quấn quanh ủng, còn ống tay áo thì quấn quanh găng tay. Tôi đoán là hắn còn quấn cả đầu và bôi sáp lên lông mày nữa.”
“Vậy là một tên cướp chuyên nghiệp?”
Cô nhún vai. “Tám mươi phần trăm số vụ cướp ngân hàng được lên kế hoạch từ trước đó chưa tới một tuần và được tiến hành bởi những kẻ đang say rượu hay phê thuốc. Vụ này thì đã được tính toán kỹ lưỡng và tên cướp có vẻ như không hề dùng bất kỳ chất kích thích nào.”
“Làm sao cô biết được?”
“Nếu chúng ta có đèn và máy quay tốt hơn thì chúng ta đã có thể phóng to màn hình và nhìn thấy đồng tử mắt hắn. Nhưng chúng ta không có nên tôi phán đoán dựa vào ngôn ngữ cơ thể của hắn. Những động tác bình tĩnh, thận trọng, anh thấy chứ? Nếu hắn đang say hay phê thuốc thì đó không phải là speed hay bất cứ loại amphetamine nào. Có lẽ là Rohypnol. Đó là loại đang thịnh hành.”
“Tại sao lại là loại đó?”
“Cướp ngân hàng là một trải nghiệm rất phấn khích. Anh không cần đến speed, mà phải là loại trái ngược với nó. Năm ngoái có kẻ vào ngân hàng Den Norske ở quảng trường Solli với một khẩu súng tự động, bắn như vãi lên lên trần và tường nhà rồi chạy ra mà không lấy xu nào. Hắn khai với thẩm phán rằng hắn đã nốc nhiều amphetamine đến mức phải tống bớt ra khỏi cơ thể. Tôi thích những tên tội phạm dùng Rohypnol hơn, nếu như có thể nói như vậy.”
Harry hất đầu ra hiệu về phía màn hình. “Nhìn vào vai Stine Grette ở quầy số 1 xem; cô ta đang bấm chuông báo động. Và âm thanh trên băng ghi hình đột nhiên trở nên tốt hơn. Tại sao?”
“Chuông báo động được kết nối với thiết bị ghi hình, và khi nó được kích hoạt thì phim bắt đầu chạy nhanh hơn nhiều. Nhờ thế chúng ta có được hình ảnh và âm thanh rõ nét hơn. Đủ để chúng ta phân tích giọng nói của tên cướp. Và vì thế mà việc nói tiếng Anh cũng không ích gì cho hắn.”
“Nó có đáng tin như người ta nói không?”
“Âm của các dây thanh quản trong họng chúng ta giống như dấu vân tay vậy. Nếu chúng ta có thể cung cấp cho chuyên gia phân tích giọng nói của trường đại học ở Trondheim mười từ trong cuốn băng, anh ta sẽ có thể khớp hai giọng nói với độ tin cậy lên tới chín mươi lăm phần trăm.”
“Ừm. Nhưng theo tôi hiểu thì chất lượng của âm thanh chúng ta thu được trước khi chuông báo động kêu thì không được?”
“Độ tin cậy thấp hơn thôi.”
“Vì thế hắn hét lên bằng tiếng Anh trước, rồi sau đó khi đoán là chuông báo động đã được kích hoạt thì hắn lại sử dụng Stine Grette làm người nói thay cho mình.”
“Chính xác.”
Họ im lặng quan sát gã đàn ông trùm kín trong bộ đồ màu đen khéo léo nhảy qua quầy giao dịch tới kề súng vào cổ Stine Grette và thì thầm vào tai cô.
“Cô nghĩ gì về phản ứng của cô gái đó?” Harry hỏi.
“Ý anh là sao?”
“Vẻ mặt cô ta. Có vẻ như cô ta khá bình tĩnh, cô có nghĩ thế không?”
“Tôi chẳng nghĩ gì cả. Thông thường, anh không thể thu được gì nhiều từ vẻ mặt ai đó đâu. Tôi thì nghĩ là mạch cô ta phải gần 180.”
Họ quan sát Helge Klementsen luýnh quýnh trên sàn nhà phía trước khay đựng tiền.
“Hy vọng là ông ta được điều trị hậu tâm chấn đúng cách,” Beate khẽ lẩm bẩm và lắc đầu. “Tôi đã từng thấy nhiều người bị suy sụp tâm lý nặng sau khi trải qua những vụ cướp như thế này.”
Harry không nói gì, nhưng nghĩ rằng câu đó hẳn là do cô lấy lại từ các đồng nghiệp lớn tuổi hơn.
Tên cướp quay lại và giơ sáu ngón tay lên.
“Thú vị thật,” Beate lẩm bẩm và, không nhìn xuống, cô viết gì đó lên tập giấy trước mặt. Harry theo dõi cô cảnh sát trẻ từ khóe mắt và thấy cô giật mình khi súng nổ. Trong lúc tên cướp trên màn hình chộp lấy cái túi, nhảy qua quầy giao dịch và chạy ra khỏi cửa thì cái cằm nhỏ nhắn của Beate hếch lên và chiếc bút rơi khỏi tay cô.
“Chúng ta vẫn chưa đưa phần cuối lên mạng, hoặc là cho phát trên bất cứ kênh truyền hình nào,” Harry nói. “Nhìn xem, giờ thì hắn đang ở trên camera bên ngoài ngân hàng.”
Họ quan sát tên cướp băng qua đường trên lối dành cho người đi bộ ở phố Bogstadveien rồi mới đi lên phố Industrigata. Rồi hắn biến mất khỏi máy quay.
“Thế còn cảnh sát?” Beate hỏi.
“Đồn cảnh sát gần nhất ở Sørkedalsveien, ngay phía sau trạm thu phí đường bộ, cách ngân hàng chỉ tám trăm mét. Tuy nhiên, phải mất hơn ba phút từ lúc chuông báo động kêu họ mới tới nơi. Vì thế tên cướp có chưa đầy hai phút để tẩu thoát.”
Beate trầm ngâm nhìn màn hình, quan sát người và xe cộ đi qua như thể không hề có chuyện gì xảy ra.
“Kế hoạch tẩu thoát cũng được tính toán kỹ lưỡng như vụ cướp. Chiếc xe bỏ trốn chắc đậu sau một góc phố nào đó để không lọt vào camera bên ngoài ngân hàng. Hắn gặp may đấy.”
“Có lẽ vậy,” Harry đáp. “Mặt khác, hắn không hề khiến cô nghĩ rằng hắn là một kẻ dựa vào vận may, đúng không?”
Beate nhún vai. “Hầu hết những vụ cướp ngân hàng thành công đều có vẻ như đã được lên kế hoạch tỉ mỉ.”
“OK, nhưng ở đây hắn biết khả năng cao là cảnh sát sẽ đến muộn. Tầm giờ đó vào ngày thứ Sáu tất cả các xe tuần tra đều đang bận bịu ở đâu đó, ở…”
“… nhà đại sứ Mỹ!” Beate kêu lên và vỗ trán. “Cuộc gọi nặc danh báo có bom xe. Hôm đó tôi nghỉ nhưng có xem thời sự trên ti vi. Và nếu tính đến chuyện bây giờ người ta quá khích đến mức nào thì rõ rằng là cảnh sát hẳn sẽ đều phải chạy tới đó hết.”
“Chẳng có quả bom nào cả.”
“Đương nhiên rồi. Đó là thủ đoạn kinh điển hòng làm cho cảnh sát bận rộn ở chỗ khác trước khi vụ cướp xảy ra.”
Họ lặng lẽ ngồi xem kỹ nốt đoạn cuối cuốn băng. August Schulz đứng đợi ở chỗ sang đường cho người đi bộ. Đèn xanh chuyển sang đèn đỏ rồi lại xanh mà ông ta vẫn đứng yên. Ông ta đang đợi gì? Harry tự hỏi. Một điều trái quy tắc? Một chầu đèn xanh thật lâu? Hay một làn sóng xanh[2] dài cả trăm năm? Chắc chắn rồi. Lẽ ra phải tới sớm chứ. Từ xa, anh nghe thấy tiếng còi hụ của xe cảnh sát.
“Có gì đó không ổn lắm.”
Beate Lønn trả lời cùng tiếng thở dài mệt mỏi như là cụ non: “Lúc nào chẳng có điều gì đó không ổn lắm.”
Rồi cuộn phim kết thúc và màn hình chỉ còn toàn những đốm nhiều.