Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Chương 3 - Ngài Bluberys
B
ầu trời khép lại, và một cơn mưa đất đá nữa trút xuống đầu tôi.
“Bố ơi!”, tôi gào thét. “BỐ ƠIIIIIIIII! Này, khổng lồ! Tới đây mà bắt ta theo! Các ngươi không muốn cả ta nữa hay sao? Ta là Jack! Các ngươi nhất định phải bắt ta.”
Tôi cứ nhảy lên, nhảy lên mãi. Tôi trèo lên gác xép của cái chuồng mất nóc mà nhảy cao hết mức có thể, nhưng vẫn chưa đủ cao.
Dây thừng. Nếu bọn khổng lồ có thể xuống dưới này bằng dây thừng, thì có lẽ tôi cũng sẽ lên được trên trời bằng cách đó.
Tôi thấp thỏm bới xuyên qua cơ man rơm rạ và mảnh vụn của cái chuồng cho đến khi tìm được một sợi dây thừng. Tôi còn vớ được cả một cái móc lớn trong đống dụng cụ của bố, và buộc nó vào một đầu dây. Tôi trèo trở lại lên gác xép, vung sợi dây thừng đầu buộc cái móc, và ném nó lên cao hết mức có thể. Nó bay vút lên trên nền trời đêm. Tôi ngỡ nó có thể bay đến tận mặt trăng kia, nhưng rồi nó lại rơi đánh bịch xuống mặt đất. Tôi cố thử lại lần nữa. Tôi vung nhanh hơn và ném mạnh hơn. Tôi cứ làm hết lần này đến lần khác cho đến khi đôi cánh tay rã rời đến mức không thể nào ném được nữa.
Tôi không thể nào chạm tới đỉnh bầu trời. Tôi không thể nào đến chỗ bố được.
“Cứu với!”, một tiếng kêu nhỏ xíu, thảm thiết vang lên. Annabella! Tôi suýt nữa thì quên béng mất mẹ và Annabella. Họ vẫn đang bị kẹt trong nhà, với cái cây cắm xuyên một bên. Tôi chạy về phía họ. Cái cây đã đè nát một góc mái nhà và đâm xuyên qua bức tường cạnh cửa ra vào. Tôi bò qua lỗ hổng giữa những cành cây. Annabella đang ngồi bệt dưới sàn nhà, khóc nức nở bên cạnh mẹ đang bị đè dưới một đống củi và gạch vụn.
“Jack,” mẹ kêu lên. “Ôi, con trai tôi! Tạ ơn trời con vẫn bình an.” Mẹ cố nhấc người dậy nhưng rồi lại ngã sụp xuống. “Bố đâu con? Henry đâu? Con tìm bố giúp mẹ được không?”
Tôi lắc đầu và dán mắt xuống sàn nhà. “Bố đi rồi ạ.”
Mẹ im bặt, và rồi đôi mắt lấp lánh nước, cằm bắt đầu run lên bần bật.
“Bố đi rồi ư? Đi đâu?” Annabella hỏi dồn.
“Bọn khổng lồ đã bắt mất bố,” tôi đáp. “Và cả con bê mới đẻ nữa.”
“Jack, làm ơn đi. Không phải bây giờ,” mẹ khẩn nài.
“Nhưng... Lẽ nào mẹ không nhìn thấy ư? Chính bọn khổng lồ đã ném cái cây đó!” Tôi chỉ về phía cái lỗ trên thân nhà. “Chúng từ trên trời trèo xuống lấy đi tất cả gia súc, lương thực và... và... cả bố nữa!”
Bàn tay Annabella bụm lấy miệng. “Bọn khổng lồ có ăn thịt bố không?”
“Không! Anh sẽ tìm thấy bố trước!”
“Em sẽ giúp anh. Em cũng muốn đi tìm bố,” Annabella nói.
“Mày chưa đủ lớn,” tôi nói.
“Em hoàn toàn đủ lớn!”, con bé gào lên.
“Đủ rồi, cả hai đứa,” mẹ rên rỉ. “Làm ơn, đừng nói gì nữa. Mẹ cần các con giúp đỡ. Mẹ cần bỏ đống củi này ra khỏi chân.” Mẹ nghiến chặt hai hàm răng và cố gắng ngồi dậy, mặt trắng bệch như tờ giấy.
Tôi cố gắng nâng đống củi khỏi người mẹ, nhưng hai cánh tay đã mềm nhũn ra và yếu xìu sau nỗ lực quăng dây thừng. “Nặng quá.”
“Mỗi lần một thanh thôi, Jack,” mẹ nói. “Bắt đầu từ trên xuống.”
Tôi nhấc một thanh gỗ và dỡ nó khỏi đỉnh đống củi. Tôi nhấc hết thanh này đến thanh khác cho đến khi mồ hôi toát ra đầm đìa và đôi tay run rẩy, nhưng cuối cùng tôi cũng đưa được mẹ ra ngoài. Chân mẹ tím bầm và sưng vù, một vết rách lớn rỉ máu chạy dọc từ bắp vế xuống đến mắt cá. Annabella và tôi đều bất giác nhăn mặt và nín thở.
“Giúp mẹ đứng dậy nào, Jack.”
Tôi chìa tay ra, nhưng khi mẹ cố gắng di chuyển cái chân, bà la lên.
Mẹ buông tay tôi ra và hít vào những hơi thở thật chậm, thật sâu qua kẽ răng. “Mẹ nghĩ chân mẹ gãy mất rồi,” mẹ nói. “Annabella, mẹ cần con trở thành một cô gái mạnh mẽ và giúp đỡ mẹ.”
Annabella bước tới bên kia, hai đứa chúng tôi hợp sức nâng mẹ dậy và đỡ mẹ về giường. Mẹ rên rỉ khi chúng tôi kê cao chân bà lên trên mấy cái gối. Annabella xem xét cẳng chân mẹ như thể nó là một thầy thuốc. “Con không nghĩ nó bị gãy quá nghiêm trọng đâu mẹ ạ. Con sẽ đun nước sôi để chúng ta có thể lau sạch các vết cắt.” Annabella mau mắn bắt tay vào việc. Con bé nhóm một ngọn lửa, nấu nước và chăm lo cho cái chân của mẹ, trong khi tôi chỉ biết đứng đó, đờ đẫn, yếu đuối và trống rỗng. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là bố.
“Chúng ta phải đi tìm bố các con,” mẹ nói. “Bố có thể ở đâu đó quanh đây, bị thương. Ông ấy có thể bị kẹt dưới cành cây, hoặc gió có thể thổi ông ấy bay tuốt lên cây. Có lẽ ông ấy không thể trèo xuống được.”
Điều này thì rất đúng. Thật là khó để trèo từ trên trời xuống.
“Jack này,” mẹ nói, “con phải đi vào trong làng và tìm kiếm sự giúp đỡ. Lập một đội tìm kiếm. Tất cả mọi người, và bất cứ một ai sẵn lòng giúp đỡ.”
Annabella và tôi nhìn nhau. Con bé lắc đầu với tôi, và tôi hiểu nó muốn ngụ ý rằng đừng nên tranh cãi với mẹ. Tôi không nên kể với mẹ rằng bố đã bị bắt đi bởi bọn khổng lồ, bởi vì mẹ sẽ chẳng đời nào tin. Mẹ luôn nghĩ những câu chuyện như thế là nhảm nhí, và kể cho bà ngược lại thì cũng có tác dụng gì đâu cơ chứ? Mẹ chẳng biết gì nhiều hơn tôi về cách đi tới chỗ bọn khổng lồ.
Thế là tôi đi vào làng. Con đường bị cày xới bởi những dấu chân khổng lồ, và tôi phải trèo qua những thân cây bị nhổ bật rễ nằm la liệt. Khi vào đến làng, thì những gì tôi thấy là:
Không còn thứ gì, không còn bất cứ một ai.
Không còn ngựa, la, gà hay dê. Không còn bò hay cừu. Không còn cối xay gió. Không còn tiệm giày, xưởng rèn hay hiệu bánh. Tất cả hàng quán và nhà cửa đều bị lôi bật lên và mang đi, để lại những cái hố toang hoác trên mặt đất.
“Xin chào...?” Tôi gọi to, nhưng chẳng ai đáp lời. Ông thợ giày không, ông thợ khóa không và ông thợ bánh Baker cũng không nốt. Không cả bà góa Francis và mười ba đứa con của bà ta, hay Horace và con lợn cảnh của bác ta. Tôi hình dung bác ta cũng bám chặt lấy Cindy như cái cách bố ôm cứng con bê của chúng tôi, và lũ khổng lồ đã mang họ đi.
Tôi ngồi thụp xuống cái hố nơi từng là hiệu bánh. Một làn gió thổi đến. Nó xoay tròn những đám bụi, phảng phất hương thơm của đường và bánh mì mới nướng. Tôi biết nói gì với mẹ bây giờ? Không những không có ai trong làng có thể giúp đỡ, mà ngay đến ngôi làng cũng chẳng còn nữa rồi.
Trong lúc này, có thể bố đã bị tống giam vào một cái chuồng hoặc một nhà ngục nào đó - chờ tới khi bọn khổng lồ thấy đói bụng...
Te tò te tò te! Te tò te tò te tí tò te!
Một hồi còi vang lên phía xa xa. Nghe có gì đó thật trang nghiêm, giống như một người rất quan trọng đang tới. Tôi nhìn xuôi xuống phía cuối con đường, thấy một lá cờ bay phấp phới, và một hiệp sĩ đang đi về phía ngôi làng!
Trong những câu chuyện kể về cụ tổ bảy đời Jack, cụ đã kết bạn với một hiệp sĩ dũng cảm, người đã giúp cụ đánh bại bọn khổng lồ. Có vẻ thật là trùng hợp khi một hiệp sĩ giáp trụ sáng ngời, cưỡi trên lưng một con chiến mã cao quý, cũng đang xuất hiện để trợ giúp cho tôi, ngoại trừ việc khi hiệp sĩ tới gần hơn, tôi nhận ra rằng giáp trụ của ngài không hoàn toàn sáng bóng - nó cáu bẩn và gỉ sét. Còn con ngựa cao quý ngài đang cưỡi thực chất là một con la lưng võng, chốc chốc lại khuỵu cả bốn vó và đi chệch đường.
“Ô kìa! Bớ con vật hèn mọn này!”, hiệp sĩ hô vang. “Hãy nghe lệnh ta!” Con la rống lên, khuỵu xuống mạnh đến nỗi hiệp sĩ gần như ngã lăn quay ra đất với những tiếng xủng xoẻng. Hiệp sĩ nhanh nhẹn đứng dậy và cúi chào tôi. Cỗ giáp trụ hoen gỉ của ngài kêu kèn kẹt theo mỗi cử động.
“Bớ lũ dân đen tầm thường!” Ngài cất giọng sang sảng như thể cả làng đang có mặt để lắng nghe ngài. “Ta, Hiệp sĩ Bluberys, tới đây để bảo vệ các người khỏi lũ khổng lồ lang thang khắp các vùng miền, tấn công đàn ông, đàn bà, trẻ con. Hãy cẩn thận, bọn chúng sẽ cướp bóc trang trại, cướp đi gia súc của các người, gây ra cảnh tàn phá hủy diệt, nhưng chớ có sợ hãi! Ta sẽ bảo vệ các người bằng sức mạnh và lòng quả cảm này!” Ngài nâng cánh tay kêu cót két của mình lên như thể đang trông đợi một tiếng hô vang tán thưởng.
“Bọn khổng lồ đã tới đây rồi,” tôi lặng lẽ nói.
Hiệp sĩ kinh ngạc nhìn xuống. “Mi vừa nói gì? Nói to lên, thằng bé quê mùa kia! Đôi tai cao quý của ta cần một giọng nói dõng dạc!”
Tôi gần như hét vào tai ông ta. “Bọn khổng lồ đã tới đây rồi! Chúng cướp đi ngôi làng, mang theo hết lương thực và gia súc, bắt luôn cả bố tôi đi nữa.”
“Có thể là thật sao?” Hiệp sĩ chớp chớp mắt và nhìn quanh, tìm kiếm bằng chứng chứng tỏ rằng lũ khổng lồ đã thực sự càn quét qua làng của chúng tôi. Ông ta buông thõng hai tay. “Chết tiệt! Ta cứ ngỡ chúng ta đi trước chúng ít nhất cũng năm mươi dặm chứ.”
“Ngài đã giao chiến với tên khổng lồ nào chưa ạ?” Tôi hỏi. “Ngài đã từng nhìn thấy chúng chưa?”
“Ồ có chứ, vô số!” Ngài Bluberys đáp. “Tên khổng lồ cuối cùng ta gặp cố gắng cắn lìa đầu ta, nhưng ta đã chặt đầu hắn trước.” Ngài rút ra một thanh kiếm han gỉ nhìn chẳng đủ sắc để cắt pho-mát. “Bọn khổng lồ thật sự sẽ cuốn gói ngay khi nghe đến tên ta! Có lẽ đó chính là lý do tại sao ta bắt hụt chúng. Chúng biết Hiệp Sĩ Bluberys đã tới gần và tháo chạy mất dạng để giữ cái mạng quèn!”
“Chúng sống ở đâu ạ?” Tôi hỏi.
“Ồ... đâu đó.” Rành rành là ông ta chả biết cóc khô gì. “Gần đây có chỗ nào có thể dùng bữa không? Súp? Bánh nướng? Chút bánh mì bơ ấm lòng người hiệp sĩ và con tuấn mã cao quý của ngài? Ta đói ngấu rồi!” Ngài Bluberys đấm đấm cái bụng kim loại và nhìn khắp chung quanh, như thể đang trông đợi một bữa tiệc thịnh soạn thình lình xuất hiện. Đúng là một lão đầu đất. Tôi phải tránh kẻ ngốc này càng xa càng tốt.
“Có một ngôi làng khác cách đây không xa về hướng đó.” Tôi trỏ phía cuối đường. “Có lẽ họ có nhiều lương thực. Có thể ngài sẽ bắt kịp bọn khổng lồ trước khi bọn chúng tấn công đấy.”
“Ồ phải, tất nhiên!” Ngài Bluberys cố gắng trèo lên lưng con la, nhưng nó không ngừng cựa quậy, nên lúc leo được lên rồi thì ngài lại ngồi ngược. “Vĩnh biệt, những kẻ quê mùa tầm thường!” Ông ta vẫy tay như thể đang chào tạm biệt một đám đông đang hò reo hoan hô chứ không phải một thằng bé con đang thất vọng. “Ta là Hiệp sĩ Bluberys, ta thề sẽ bảo vệ và chở che cho những con dân hiền lành và yếu đuối. Ta sẽ bảo vệ các người khỏi lũ khổng lồ!”
“Ồ! Và ngài sẽ giúp tôi tìm cả cha tôi nữa chứ?” Tôi hét với theo ông ta. “Tên ông ấy là Henry!”
“Dĩ nhiên! Dĩ nhiên!” Ngài Bluberys đáp. “Ta luôn luôn giải cứu những nàng trinh nữ đẹp!”
Con la bổ nhào xuống một trong những dấu chân khổng lồ, còn Ngài Bluberys thì lao cắm đầu về phía trước và túm vào mông con vật. Nó lại rống lên và bắt đầu phi nước kiệu dọc con đường với Ngài Bluberys đeo vắt vẻo, vừa ngược chiều vừa vẹo hẳn sang một bên.
o O o
Tôi lê bước về nhà, kiệt quệ và tuyệt vọng. Trong ánh nắng ban ngày, tôi có thể nhìn thấy trang trại của nhà mình rõ ràng hơn. Nó hoàn toàn tan hoang, tệ hơn nhiều so với vườn bắp cải của cô Lettie. Tôi nhìn chằm chằm về phía cái chuồng bò bị phá hủy, ước gì mình là người ở trong đó đêm qua. Người phải đối mặt với lũ khổng lồ là tôi, chứ không phải bố.
“Trông thật sự giống như một cơn bão vừa quét qua,” một giọng nói nhỏ xíu vang lên sau lưng tôi. Tôi quay lại thấy Annabella. Con bé cầm một khoanh bánh mì trong tay và chìa nó cho tôi. Tôi đón lấy, thình lình nhận ra mình đói đến thế nào.
“Lũ khổng lồ làm đấy,” tôi nói. “Anh nhìn thấy chúng.”
“Em tin anh mà, anh Jack,” con bé nói, và điều đó giúp an ủi tôi phần nào, nhưng vẫn chưa đủ. Có ích gì đâu khi cô em gái gầy nhẳng của tôi tin tôi cơ chứ? Nó thì có thể làm gì?
Ruộng đồng nhà tôi bị xới nát và giày xéo. Cây cối, gia súc, vườn tược... của chúng tôi đều bị nhổ trụi và mang đi. Chúng tôi chẳng còn gì nữa. Trước đây chúng tôi đã nghèo xơ nghèo xác, giờ thì chúng tôi ra sao? Không gì hết. Không gì hết, lại còn thiếu mất bố.
BòooooOOOOO!
Tôi và Annabella giật bắn mình.
BòooooOOOOO!
“Nghe như tiếng Trắng Sữa ấy,” con bé nói. Chúng tôi chạy hết tốc lực về phía chuồng bò. Ban đầu, chúng tôi không tìm thấy bất cứ dấu hiệu gì của con bò trong cái chuồng giờ đã tốc mái. Nhưng nó không ngừng rên rỉ và than khóc, và cuối cùng chúng tôi đã tìm thấy nó bị vùi lấp dưới một đống cỏ khô và gạch vụn. Chúng tôi lôi hết các búi cỏ khô, nâng hết các mảnh vụn, cho đến khi Trắng Sữa được tự do. Nó cố nâng mình đứng thẳng dậy.
BòoOOOO!
“Ồ, anh Jack, nó bị đau, Annabella nói khi nó vuốt ve cổ Trắng Sữa.
“Nó vừa sinh bê con,” tôi đáp, “và có lẽ đang cần được vắt sữa.” Tôi kiếm được một cái xô bị móp và vắt sữa con bò, nhưng sau đó nó vẫn tiếp tục rống lên và rên rỉ như thể đang phải chịu đựng một cơn đau khủng khiếp.
“Em nghĩ nó đang nhớ con nó đấy,” Annabella nói. “Tội Trắng Sữa quá.”
Dĩ nhiên rồi. Con nó bị bắt đi cùng với bố. Tôi không muốn nghĩ tới chuyện bọn khổng lồ toan tính làm với bọn họ. Nếu có một chút sự thật nào trong những câu chuyện của cụ tổ Jack, thì viễn cảnh hoàn toàn không tốt đẹp gì.
“Tao rất tiếc, Sữa à.” Tôi vỗ vỗ lên cổ nó. Dù nó chỉ là một con vật, nhưng tôi vẫn hình dung được nó đau đớn ra sao khi mất đi đứa con, không biết nó ở đâu, hay chuyện gì đã xảy ra với nó... Tôi hình dung chúng tôi có chung một cảm nhận - Sữa và tôi.
Tôi có thể ngay lập tức lên đường đi tìm bố, nếu như tôi tìm được đường lên trời.