Nguyên tác: Decent Interval
Số lần đọc/download: 0 / 23
Cập nhật: 2023-03-26 21:48:56 +0700
Chương 4
TRÁCH NHIỆM ĐẦU TIÊN
Trong khi Nam Việt Nam tơi tả như áo rách thì Campuchia đi vào sụp đổ.
Ngày Đà Nẵng thất thủ, sứ quán Phnôm Pênh báo tin tổng thống Lon Nol sắp đi “thăm hữu nghị” Indonesia và Hoa Kỳ. Bốn ngày sau, tổng thống Campuchia rũ rưỡi và nửa tê liệt lên một máy bay vận tải Mỹ và bay đi Thái Lan, chặng đầu của chuyến đi. Ông ta không bao giờ trở về nữa. Giờ sau đó, pháo binh cộng sản điều khiển súng, bắn vào trung tâm Phnôm Pênh, như họ muốn báo cho người Mỹ và người nước ngoài ở khu vực các sứ quán biết rằng đã đến lúc phải rút đi. Chập tối, vị trí tiền tiêu cuối cùng của chính phủ trên sông Cửu Long phía Đông Nam thủ đô, bị tiêu diệt và mười nghìn quân Khmer đỏ tiến về phía Bắc, tiếp cận với 30 nghìn đồng đội đã toả ra chung quanh Phnôm Pênh có quân chính phủ số lượng chỉ bằng một nửa, bảo vệ.
Sau hơn một năm phản đối, cuối cùng Kissinger đã đồng ý với thoả hiệp chính trị do Martin, đại sứ Dean và người Pháp dự tính từ lâu. Hoa Kỳ đồng ý cho Norodom Sihanouk trở về để bắc một cái cầu giữa những người quốc gia ở Phnôm Pênh và quân Khmer đỏ trong rừng.
Trong khi đó, một bi kịch diễn ra ở Sài Gòn. Cuối tháng 3, tướng Weyand và Graham Martin nghĩ nát óc để cố cứu Nam Việt Nam. Số phận mỉa mai, lúc họ trở lại Sài Gòn thì cũng là lúc Quân khu I và Quân khu II sụp đổ. Họ có biết bao nhiêu việc phải tìm hiểu mà thì giờ chỉ có hạn, họ không thấy rằng giờ cáo chung đã đến gần.
Ở sứ quán, hai phái đối lập nhau. Một bên là CIA và phái bộ quân sự, lần đầu tiên, thống nhất nhận định rằng tình hình quân sự đã bi đát. Một bên, đại diện là Lehmann và nhiều quan chức cao cấp bộ ngoại giao to tiếng bác bỏ tư tưởng thất bại chủ nghĩa ấy. Họ ủng hộ nhận định: có thêm một ít vũ khí, đạn dược, quân Nam Việt Nam có thể “thoát” được! Ít nhất, quân Nam Việt Nam có thể bảo vệ được nửa phía Nam của nước này và đi đến cuộc đàm phán “công bằng” với Hà Nội. Đúng là âm vang luận thuyết thất vọng của Martin.
Đúng lúc ông rời Hoa Thịnh Đốn, Weyand đã biết rằng Nam Việt Nam đang nguy to. Nhưng tính chất nhiệm vụ của ông không cho phép ông có sự bi quan đến thế. Ông được cử đến Sài Gòn để tìm giải pháp không phải là không thực hiện được.
Ông cũng không phải là một nhà quan sát hoàn toàn khách quan. Chẳng phải ông là vị tổng tư lệnh cuối cùng ở Nam Việt Nam cho đến ngày thực hiện chính sách Việt Nam hoá và ngày ngừng bắn đó sao? Cũng như Kissinger, ông nghĩ rằng Hoa kỳ có nghĩa vụ tinh thần giúp Nam Việt Nam đứng được cho đến phút chót, vũ khí trong tay.
Giới thân cận Weyand bị lệ thuộc vào những cam kết trước kia, Erich Von Marbod, người chịu trách nhiệm về chính sách tài chính của Lầu Năm Góc đối với Nam Việt Nam từ ngày ngừng bắn, muốn chính sách ấy được thực hiện George, Carver, nhân viên CIA được Kissinger coi là chuyên gia chính về Việt Nam, không được chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận rằng những chương trình của Mỹ như “xây dựng đất nước” hay “bình định nông thôn”, lại không đi đến đâu. Đồng nghiệp của ông, Ted Shackley có những lý lẽ riêng để mong muốn sự sống còn của Thiệu. Là giám đốc chi nhánh CIA ở Sài Gòn cuối những năm 60 và đầu những năm 70, và từ một năm nay là giám đốc CIA ở cả khu vực Viễn Đông, ông đã bỏ nhiều công sức để làm cho chế độ Thiệu được như ngày nay.
Đi vắng nhiều tuần qua, Martin đã lạc hậu với những sự việc vừa xảy ra và dù sao ông cũng không sẵn sàng chấp nhận những điều dự tính buồn thảm của CIA và phái bộ quân sự ở Sài Gòn. Không nên quên, ông đã mất một người con ở Việt Nam và từ 18 tháng nay, ông bỏ tất cả uy tín của mình ra để phục vụ chế độ Thiệu.
Ngoài ra, quyết định của Kissinger cử tướng Weyand đến điều tra tại chỗ là một thách thức đối với năng lực và quyền hạn của đại sứ. Martin phải tỏ rõ ông có lý để tin vào việc đứng lên được của chế độ Sài Gòn. Dù chỉ là để ngăn cản ông tướng dẫm chân lên địa hạt của ông.
Những cuộc đấu tranh kiên trì bắt đầu từ lúc máy bay chở Weyand hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Lúc ông tướng và những người thân cận chuẩn bị xuống máy bay, Martin đòi xuống đầu tiên để những quan chức Việt Nam ra đón ông ở chân cầu thang. Điều đó làm cho họ không nghi ngờ gì về vai trò của ông, vẫn là người đại diện tổng thống Hoa Kỳ ở đây. Khi Martin về tới sứ quán, theo lệnh của Polgar, tôi đến báo cáo tóm tắt tình hình cho ông ta nghe. Tôi vào phòng ông làm việc, đem theo sơ đồ và bản đồ hành quân, nói với ông: “Thưa ông, ông Polgar bảo tôi đến trình bày tình hình với ông”. Martin sẽ gật đầu, gọi George Carver đang ngồi ở phòng bên sang cùng nghe.
Martin có nghệ thuật làm điên đầu mọi nhân viên dưới quyền đến báo cáo. Lúc nào cũng sẵn sàng cắt ngang, chữa lại và thậm chí làm nhục nếu cần. Do đó, ông không chuẩn bị chấp nhận bản báo cáo xám xịt của tôi, nhất là lại có George Carver ngồi cạnh. Bản báo cáo làm ngày nào? Nguồn tin ở đâu? Ông luôn luôn hỏi như vậy. Làm sao anh chắc được rằng tướng này, tướng nọ không nắm được quân?
Sau một giờ, tôi mệt lả, chịu thua. Carver sau này an ủi tôi rằng tôi đã thuyết phục được Martin. Anh đã lầm. Cho đến giữa tháng tư, Martin vẫn tin rằng các lõm ở Sài Gòn có thể bảo vệ được.
Không riêng gì Polgar và tôi thấy Martin xa lạ với tình hình. Mấy giờ sau khi rời tàu HQ-5, Al Francis, mặt gầy, mắt dại, râu đen kịt, đến sứ quán để tường trình với đại sứ cuộc rút lui thảm hại ở Đà Nẵng. Ông vừa ngồi xuống ghế dài kê ở góc phòng Martin, vừa nói: “Thưa đại sứ, Đà Nẵng đã mất rồi. Đạo quân của tướng Trưởng không còn nữa!”
Martin tủm tỉm cười và lắc đầu. Chả là ông vừa được biết kế hoạch của Thiệu định đánh chiếm lại Quân khu I. Ông chưa sẵn sàng chịu tang cái chết của Đà Nẵng. Ông nói trầm rất khó nghe: “Không, Quân khu I sẽ không mất. Những nguồn tin của tôi khẳng định như vậy”.
Thái độ dịu dàng và nhã nhặn, tự tin ấy làm cho Francis bật khỏi sự dè dặt hàng ngày. Ông kêu lên: “Nhưng, thưa đại sứ, tôi vừa ở trên tàu hàng ngày trời với bọn tàn quân của Trưởng. Quân khu I đã thất thủ. Tôi cam đoan với ngài như thế”.
Martin ngồi yên một lúc, không nói gì. Ông đổi hướng nói chuyện, hỏi thăm sức khoẻ của Francis trước khi tiễn Francis ra cửa phòng làm việc.
Từ đó, Francis không còn là đứa con cưng nữa. Tỏ sự bất đồng của mình với người đỡ đầu, trong lúc bối rối này, Francis đã mất quyền được ưu tiên cộng tác với đại sứ. Sau đó, Francis phải ngồi làm việc ở một phòng nhỏ gần cửa ra vào, không được phép vào phòng Martin nữa.
Trong tám ngày bận rộn túi bụi làm việc với Weyand nhiều chuyên gia của Hoa Thịnh Đốn ngồi lỳ ở sứ quán kiểm tra lại những tin tức mà ông tướng nhận được. Trong số các chuyên gia này có hai người là bạn thân lâu ngày của tôi: Dick Moose và Chuck Miessner, đại diện Ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Đó là những con người liêm khiết, có học. Tôi quyết định làm mọi việc để giúp họ.
Tôi có may mắn gặp ngay họ lúc mới đến. Hai câu nói mở đầu làm họ chú ý. Tôi nói: “Tình hình quân sự không thể đảo ngược được. Quân Nam Việt Nam sẽ thua trận quyết định trong những tuần tới, nếu quân Mỹ không nhảy vào! Phần còn lại sẽ nói sau”.
Miesser cảm ơn về sự thành thật của tôi và cho tôi biết anh và Moose sẽ gặp tôi trước khi trở về Hoa Thịnh Đốn. Đó là mở đầu sự cộng tác của chúng tôi, sự cộng tác mà một tuần rưỡi sau có những ảnh hưởng đến thái độ của quốc hội về cuộc khủng hoảng ở Việt Nam, đến kết luận của cuộc điều tra của Weyand.
Từ lúc đặt chân lên đất Sài Gòn, Weyand dành tất cả nghị lực ra để tìm một chiến thuật mới để có thể cứu Nam Việt Nam. Một thay đổi về “chiếc lược cố thủ” của Thiệu. Thoạt đầu, Thiệu định đặt phòng tuyến bảo vệ Sài Gòn từ Tây Ninh ở phía Tây đến Nha Trang ở bờ biển. Nhưng nay, do quân thù đã thâm nhập quá sâu vào phía Nam Quân khu II, nhất thiết phải thay đổi phòng tuyến ấy. Weyand đề nghị phòng tuyến mới chạy từ thị xã Phan Rang, bên bờ biển, đến Xuân Lộc. Vì không còn giải pháp nào nên Thiệu chấp nhận ngay ý kiến ấy. Ông ta chỉ yêu cầu Mỹ một việc: cho máy bay B-52 đến tham gia việc bảo vệ Sài Gòn. Lấy làm lạ về việc Thiệu còn ảo tưởng có thể nhờ vào những trận ném bom của Mỹ, Von Marbod giải thích cho ông ta rõ không thể được. Nhưng để an ủi Thiệu, Marbod sẽ gửi cho quân Nam Việt Nam một số phương tiện, vũ khí có hiệu lực cao như Daisy Custer (dùng để san bằng rừng làm chỗ đổ cho máy bay lên thẳng) hay bom CBU, để tăng cường hiệu lực cho không quân.
Biện pháp đầu tiên của Thiệu là đặt Phan Rang dưới quyền kiểm soát của tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III. Toàn lại ra lệnh cho người bạn cũ là tướng Nguyễn Vĩnh Nghị, nguyên tư lệnh Quân khu IV (bị thải hồi mùa Thu trước vì tham nhũng) thiết lập ở Phan Rang một cơ sở chỉ huy tiền phương với một phần sư đoàn dù.
Tiếp đó phải thu thập tàn quân những sư đoàn đã bị đánh tơi bời ở Quân khu I và Quân khu II. Tổ chức này rất ô hợp không thể chống lại quân thù. Việc chuyên chở thiết bị quân sự gặp nhiều khó khăn. Phải nhờ phái bộ quân sự Mỹ mới thực hiện được. Nhưng việc đó sẽ bị Bắc Việt Nam tố cáo là Mỹ lại vi phạm lệnh ngưng bắn vì đã cho cố vấn quân sự đến giúp quân Nam Việt Nam.
Tướng Weyand cũng đòi phải thay đổi chính phủ. Không phải là bỏ Thiệu (như cộng sản đòi) nhưng phải mở rộng nội các để có thể đại diện cho nhiều xu hướng chính trị trong trường hợp có đàm phám với cộng sản.
Sau đó, vào ngày thứ hai hay thứ ba, họ ở Sài Gòn Shackley và Carver đến dinh tổng thống để thăm dò phản ứng của thủ tướng Khiêm về ý kiến trên. Cũng như mọi lần, Khiêm hoan nghênh những đề nghị của Hoa Kỳ. Ông ta nhận sẽ gây ảnh hưởng với Thiệu. Nếu tổng thống phản đối, Khiêm sẽ doạ từ chức để buộc Thiệu phải chấp nhận.
Trong lúc đó, phong trào đối lập ở trong nước phát triển. Một ngày sau cuộc tản cư ở Nha Trang, thượng nghị viện Nam Việt Nam nhất trí thông qua một kiến nghị đòi thay đổi thủ tướng chính phủ. Nguyễn Cao Kỳ, nói đến cuộc đảo chính và mong giới quân sự ủng hộ.
Trưa ngày 2 tháng 4, Kỳ gặp Viên, tổng tham mưu trưởng, Viên xin nghĩ hai ngày, sẽ trả lời. Ngay chiều hôm ấy, Viên báo cho thủ tướng Khiêm và đề nghị Khiêm thăm dò người Mỹ xem có phải Hoa Thịnh Đốn đứng đằng sau âm mưu của Kỳ không. Trong giờ sau, Khiêm hỏi Polgar. Polgar trả lời không úp mở. Người Mỹ không ủng hộ một cuộc đảo chính do Kỳ và bạn bè ông ta tiến hành vì không có ai trong bọn họ có đủ tính ôn hoà hay trung lập để có thể thương lượng với cộng sản.
Trong lúc ấy, Thiệu nghe nói âm mưu của Kỳ. Để đề phòng, ông ta quyết định thay đổi chính phủ. Thiệu rất giận Khiêm, nghi Khiêm biết nhiều về âm mưu đảo chính mà không cho Thiệu biết. Do đó, chiều ngày 3 tháng 4, khi Khiêm xin từ chức, Thiệu chấp nhận ngay. Hôm sau, Thiệu báo tin trên đài vô tuyến truyền hình việc thay đổi chính phủ. Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch quốc hội kiêm thủ tướng chính phủ “chiến đấu và đoàn kết dân tộc”.
Các giới chính trị ở Sài Gòn thờ ơ với những thay đổi ấy vì Thiệu tiếp tục cầm quyền. Đại sứ Martin bằng lòng, tin rằng chính phủ mới sẽ giúp Thiệu tập hợp được chung quanh ông ta toàn thể nước này. Còn Polgar không phải là không đồng ý vì một trong những bộ trưởng quan trọng nhất, từ lâu, là nhân viên CIA.
Phần lớn đồng nghiệp của tôi tưởng rằng những sự thay đổi ấy sẽ có thể cứu được Nam Việt Nam và thuận lợi cho cuộc đàm phán công bằng với cộng sản. Ngày 1 tháng 4, tôi quyết định kiểm tra lại luận điểm ấy qua một thông tín viên rất tin cậy. Theo anh ta, không có gì ngăn cản Hà Nội tìm cách giành thắng lợi hoàn toàn.
Buổi trưa, Shackley, Polgar và phó của ông, John Pittman cùng chúng tôi ăn cơm. Trước những con tôm hùm và rau xà lách, tôi nhắc lại ý kiến của thông tín viên. Shackley, bực mình bảo tôi thảo ngay một bản tường trình cuộc nói chuyện để ông đưa đến cho Weyand. Polgar tỏ vẻ nghi ngờ hơn. Ông không tin rằng cộng sản lại muốn phá huỷ tất cả trong khi đó họ có thể thương lượng giành thắng lợi mà không đổ máu.
Luận điểm của Polgar gây ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách của Hoa Kỳ trong những tuần sau. Lạ lùng là luận điểm ấy không phải xuất phát từ hy vọng hão huyền cứu Nam Việt Nam, mà trái lại. Việc rút chạy khỏi Nha Trang sẽ làm cho Polgar khẳng định rằng không còn cách nào để khôi phục lại tình hình quân sự. Như thế phải cố gắng ngay để đi đến một sự thoả thuận với cộng sản với bất cứ điều kiện nào. Ông quá tin vào giải pháp này và không hề nghĩ rằng ngay cả giải pháp ấy cũng không thể thực hiện được.
Ngoài tình hình quân sự, một yếu tố khác làm cho Polgar càng tin rằng thương lượng là con đường duy nhất. Đó là sự lo sợ gần như chắc chắn về một cuộc trả thù của dân chúng đối với kiều dân Mỹ ở Sài Gòn. Nếu cuộc tản cư những người Mỹ trở nên cần thiết thì quân đội và dân chúng Nam Việt Nam có đứng dậy chống lại họ không.
Ngày 2 tháng 4, Polgar nhận được câu trả lời đáng lo ngại câu hỏi của ông. Sĩ quan Nam Việt Nam định bắt người Mỹ ở Sài Gòn làm con tin, để bảo đảm sự an ninh của họ trong trường hợp quân cộng sản chiếm thành phố. Cho rằng Thiệu không phải là người có thể tiến hành tốt cuộc đàm phán với cộng sản. Polgar quyết định đặt Hoa Thịnh Đốn trước trách nhiệm của mình và không hỏi ý kiến đại sứ, Polgar bảo tôi giúp ông làm một bản báo cáo theo hướng đó.
Trong hai giờ, chúng tôi soạn xong một tài liệu, chưa bao giờ lọt ra ngoài sứ quán kể từ ngày ngừng bắn và có lẽ mãi mãi cũng không có như thế. Chúng tôi viết: “Sự tồn tại của Thiệu được tính từng ngày. Thiệu mất lòng tin của phần lớn sĩ quan. Rất có thể có cuộc đảo chính chống lại ông ta sắp xảy ra, chưa biết chừng”. Chúng tôi không xin phép thay Thiệu. Chúng tôi chỉ phát hiện có những lực lượng thuận lợi cho cuộc thương lượng và sẵn sàng chống lại Thiệu. Tiếp theo là việc phân tích ý đồ quân sự của Hà Nội để củng cố cho lý lẽ đòi Thiệu phải rút lui. “Chúng tôi nghĩ rằng quân Bắc Việt Nam không định giành thắng lợi quân sự hoàn toàn. Họ bao vây Sài Gòn. Họ phá huỷ tiềm năng quân sự của Nam Việt Nam rồi đàm phán. Điều kiện của họ? Đó là việc đi đến một chính phủ liên hiệp nghiêng về phía cộng sản - cái cầu bật lý tưởng nhảy đến thống nhất, theo con mắt của Hà Nội”.
Tóm lại, Polgar và tôi đưa ra nhận định rằng Hà Nội chú trọng giành thắng lợi qua đàm phán chứ không phải giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự. Đó rõ ràng là một nhận định đầu cơ, ngược hẳn lại với tin tức tôi nhận được hôm trước của thông tín viên. Nhưng Polgar quyết định đi đến cùng. Ông cho là nếu chính phủ biết rõ ý đồ thực sự muốn thương lượng của Hà Nội, thì chính phủ sẽ cho phép thay Thiệu, cho phép mở cuộc đàm phám với cộng sản và có nhiều biện phát triệt để khác để tránh cho Sài Gòn mọi sự uy hiếp đang đè lên thành phố này.
Tôi nhắc cho Polgar biết là những kết luận của ông trái với tin tức của thông tín viên gửi cho tôi là Hà Nội muốn đổ máu! Nhưng Polgar vẫn giữ ý kiến: Bắc Việt Nam nghiêng về đàm phán. Một thắng lợi do đàm phán lợi nhiều cho họ hơn.
Sau khi đọc lại lần cuối cùng bản báo cáo, Polgar viết thêm một câu ngắn bằng bút chì: Những khía cạnh tích cực của một giải pháp chính trị không cho phép chúng ta được quên một trong những trách nhiệm chính của chính phủ Hoa Kỳ. Đó là việc tản cư trong trật tự kiều dân Mỹ và hằng nghìn người Việt Nam đã sẵn sàng hy sinh tính mạng bên cạnh chúng ta, đã tin tưởng vào những lời hứa hẹn của chúng ta và chữ ký của chúng ta dưới hiệp định Paris. Tiếp đó, ông ký vào bức điện và gửi thẳng đi Hoa Thịnh Đốn.
Bức điện có hiệu lực. Ngày 4 tháng 4, CIA và các bộ ngoại giao, quốc phòng tuyên bố chung trong một thông báo. Trong khi một cuộc tiến công quân sự nhanh chóng và quyết định có lẽ đang diễn ra, chúng tôi lại nghĩ rằng Hà Nội có thể chọn một con đường đỡ tốn kém hơn và cao giá hơn về mặt chính trị hơn là tính đến sự sụp đổ sắp tới của Nam Việt Nam.
Nhưng vấn đề quan trọng nhất - việc Thiệu ra đi mà Polgar cố làm cho đồng nghiệp hiểu, bị rơi tõm như câu chuyện nói với người điếc. Hai ngày sau, Colby, giám đốc CIA gửi cho chúng tôi một điện tối mật. Ông nói rõ rằng chi nhánh Sài Gòn không được làm gì để gây cho Thiệu đổ. Những chỉ thị ấy không nói gì đến cuộc đảo chính vì Colby không bình luận gì về vấn đề này, nhưng đề cập đến những xáo trộn chính trị ở Hoa Kỳ và ở nước ngoài, nếu một lần nữa, người ta lại khám phá ra việc CIA, nhúng tay vào việc lật đổ chính phủ. Colby viết: “Đó sẽ là một thảm hoạ đối với Hiến pháp và Nhà nước nếu chúng ta nhận được một bản báo cáo nào đó về sự kiện ấy”. Ông nói rõ: đối với con mắt các nhà chính trị Sài Gòn, chi nhánh phải tỏ rõ là cơ quan bảo vệ đời sống và giữ gìn hiện trạng”. Ông kết luận: Nếu sự việc rắc rối, công việc của các anh là làm cố vấn. Còn tôi, tôi sẽ thu xếp mọi mặt để Thiệu và gia đình ông ta có thể yên ổn thoát khỏi và đến nơi mới tốt đẹp.
Huấn thị của Colby làm cho Polgar hết sức thất vọng. Những điều căn dặn ấy có nghĩa là nếu chính phủ Sài Gòn thay đổi theo con đường hợp pháp như hiến pháp Nam Việt Nam qui định. Từ nay đến ngày ấy, giải pháp thương lượng hay cuộc đàm phán cũng không thể có được.
THẢM KỊCH GIỮA TRỜI
Tháng 4 năm 1975. Tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Ở sứ quán Sài Gòn, chưa có một kế hoạch tản cư đầy đủ sát thực tế, mà là một lế hoạch tản cư làm sẵn hàng loạt từ trước đã phân phát cho tất cả các cơ quan ngoại giao Mỹ trên thế giới. Đại sứ Martin không muốn làm một kế hoạch riêng cho Sài Gòn và Việt Nam, sợ việc đó sẽ bị coi là thiếu lòng tin vào tương lai và làm giảm sút tinh thần người Việt Nam. Trong các cơ quan của sứ quán, mỗi bộ phận chuẩn bị riêng, bí mật được đến đâu hay đến đó, một kế hoạch tản cư cho mình. Người ta giấu nhau, ngay cả đồng nghiệp và người quen biết, cả với Hoa Thịnh Đốn, Honolulu, Bangkok và Manila. Nhưng không ai chấp nhận hoàn toàn thảm hoạ cuối cùng sắp tới. Những bài học rút ra từ những sự kiện bi thảm khi thất thủ Đà Nẵng và Nha Trang, không được ai nhớ cả.
Nhưng những con số còn kia. Tổng số người Mỹ, cả quân nhân và dân thường còn sáu nghìn người. Nhân viên người Việt Nam làm việc trong các cơ quan khác nhau do sứ quán chịu trách nhiệm lên đến 17.000 người. Cộng với gia đình họ (mỗi gia đình mười người) là 170.000 người. Còn phải cộng thêm 93.000 người Việt Nam cộng tác lúc trước với người Mỹ và gia đình họ như vậy là 930.000 người. Tổng cộng hơn một triệu người tị nạn phải đưa đi. Một nhiệm vụ hết sức nặng nề nếu so sánh với cuộc di tản năm 1954, sau chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất: Phải hơn ba tháng mới chở hết 80 vạn người.
Ở Chi nhánh CIA, bắt đầu nghiên cứu khả năng sử dụng người tị nạn sắp rời Việt Nam để làm tình báo sau này. Những người này sẽ hợp thành những mạng lưới tình báo sống trà trộn với nhân dân sau khi Việt Nam bị cộng sản chiếm đóng. Một tổ chức người tị nạn sẽ được thành lập ở Bangkok nhằm mục đích đo theo mẫu tổ chức của CIA đã thành lập cho những người di cư ở Đông Âu. Ngay ở Việt Nam, một quan chức CIA phụ trách phản gián cho rằng phải xây dựng tức thì một mạng lưới tại chỗ để cung cấp cho CIA tin tức về hoạt động của chế độ cộng sản.
Ở Sài Gòn, tình cảnh bi đát của những người tị nạn sống chen chúc trong trại đón tiếp hay trong những nhà ổ chuột ở ngoại ô bắt đầu làm cho Martin suy nghĩ. Thảm kịch này có thể làm nổ ra những hoạt động chính trị sôi nổi.
Trước đây, Graham Martin là đại diện bộ ngoại giao bên cạnh Ủy ban tị nạn của Liên hiệp quốc. Ông biết rõ sự thất vọng của những kẻ phải lìa bỏ quê hương. Giám đốc hãng Hàng không thế giới Ed Daly khuyên ông nên làm một việc gì đó đối với người tị nạn. Daly đã không tiếc tiền để tản cư những người tị nạn ở Đà Nẵng. Nhiều ngày qua, xúc động trước những đau khổ diễn ra trước mắt, ông đang tìm cách tổ chức một cầu hàng không để chở những đứa trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ. Được tin ấy, Martin xin phép ngay Nhà Trắng tổ chức những chuyến bay như thế. Như trong thư gửi cho bộ trưởng Nam Việt Nam phụ trách vấn đề tị nạn, ông mong rằng cái cảnh hàng trăm em bé Việt Nam được người Mỹ nhận nuôi sẽ gây được cảm tình của toàn thế giới đối với người Nam Việt Nam.
Nhà Trắng bật đèn xanh. Và ngày 2 tháng 4, những viên chức chi nhánh cơ quan CIA báo tin mở cầu hàng không Trẻ em, một công việc “cứu giúp từ thiện” để hai nghìn em bé Việt Nam trở thành con nuôi ở Hoa Kỳ. Việc này đã được một luật mới về nhập cư cho phép.
Về mặt nào đó, cầu hàng không Trẻ em là một mưu đồ. Trong số những em được hưởng, rất ít em là người tị nạn. Phần lớn là những trẻ em sống buồn tủi hàng năm nay trong trại mồ côi ở Sài gòn và chưa hề bị cuộc tiến công của cộng sản đe doạ. Nhưng sứ quán không đếm xỉa gì đến chi tiết nhỏ nhặt ấy. Công việc này tốt, nó được tiến hành đúng hướng.
Tướng Smith, tuỳ viên quân sự tỏ ra đặc biệt vui. Vì ông hiểu nhanh rằng ông sẽ lợi như thế nào trong việc tản cư trẻ em mồ côi. Đó là một dịp rất tốt để cho về Hoa Kỳ một số đông nhân viên của phái bộ quân sự sẽ cải trang đóng giả làm nữ y tá, người giặt giũ. Chỉ sau mấy giờ Hoa Thịnh Đốn chấp nhận, ông đã ra lệnh cho các bà vợ, các nữ thư ký chuẩn bị lên đường.
Trong khi đó, chiến tranh đến cửa ngõ Sài Gòn như một làn sóng. Trong những ngày đầu tháng tư, ba sư đoàn Bắc Việt Nam đã thâm nhập sâu vào tỉnh Tây Ninh, giữ đường tiến về thủ đô ở phía Nam. Ngày 3 tháng 4, sư đoàn 341 Bắc Việt Nam, đánh chiếm Chơn Thành, cách Sài Gòn 70 kilômét về phía Bắc, vị trí tiền tiêu cuối cùng của quân đội Sài Gòn ở vùng này.
Khi tin ấy về tới thủ đô, kiều dân phương Tây nóng lòng muốn đi du lịch ngay. Chỉ một đêm, số người giữ chỗ trên chuyến máy bay quốc tế, một tuần hai kỳ, của hãng Pan Am tăng gấp hai lần. Hãng hàng không China Airlines không còn chỗ cho đến ngày 9 tháng 4. Phần lớn sáu trăm người trong ủy ban kiểm soát, giám sát quốc tế chuẩn bị hành lý.
Đại sứ Martin tìm cách ổn định tình hình này. Ông nói với một nhà báo ngày 3 tháng 4: “Sài Gòn không có gì nguy hiểm”. Nhưng nhận định của ông đã làm nhiều người Sài Gòn và nhiều người Mỹ tức giận. Các cơ quan tình báo của bộ tổng tư lệnh của đô đốc Gayler ở Honolulu, cùng ngày ấy đã gửi điện cho Lầu Năm Góc, phủ nhận những ý kiến của Martin cho rằng Sài Gòn là vùng phụ cận có thể bảo vệ được.
Ở Hoa Thịnh Đốn, các viên chức bộ ngoại giao tuy nhiên, cũng đã đòi có một chương trình rộng lớn tản cư để cứu ít nhất khoảng hai trăm nghìn người Việt Nam. Sau khi Nha Trang thất thủ, họ đạt được nhượng bộ đầu tiên: thành lập một “lực lượng can thiệp” để điều hoà các kế hoạch tản cư những cơ quan thuộc bộ.
Về phía mình, Nhà Trắng tránh bất cứ bình luận trực tiếp nào về cuộc khủng hoảng Đông Dương. Nhưng những trận tiến công mở rộng. Ngày 3 tháng 4, tổng thống Ford đang nghỉ hè ở Palm Springs. Không im tiếng nữa, ông tuyên bố với các nhà báo: Thiệu vội vàng rút lui khỏi Tây Nguyên nên việc tản cư sáu nghìn người Mỹ ở Việt Nam đã được đề ra. Nói đến một trong những vấn đề hắc búa, ông cũng giải thích rằng, theo sự hiểu biết của ông về đạo luật qui định quyền hạn của tổng thống trong chiến tranh, ông được phép dùng lực lượng vũ trang để giúp vào việc tản cư công dân Mỹ ở bất cứ vùng nào trên thế giới.
Những ý kiến của ông về điểm này không có cơ sở. Thật vậy, ngoài tình hình bi đát ở vùng phụ cận Sài Gòn, chính phủ còn phải lo đối phó với thảm họa sắp xảy ra ở Campuchia. Tình hình quân sự ở Phnôm Pênh tồi tệ hết mức trong những ngày qua. Nhà Trắng cuối cùng đã phải quyết định bắt đầu tản cư kiều dân Mỹ ở đây.
Sáng ngày 4 tháng 4, đại sứ Dean họp tất cả các nhân viên thông báo quyết định này. Ông nói cuộc tản cư tất cả những người Mỹ ở Campuchia hai ngày nữa bắt đầu. Quyết định ấy, đối với Dean, là một thắng lợi riêng của ông. Bởi vì tính đã nhiều ngày qua, ông đề nghị Hoa Thịnh Đốn không được hy sinh tính mạng người Mỹ, trong khi đó những cuộc bàn cãi về một thỏa hiệp chính trị tiếp diễn.
Nhưng ông không nhận được ngay sự thoả thuận. Mấy giờ sau, Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho ông hoãn cuộc tản cư cuối cùng. Đến phút chót, Kissinger mới quyết định sự có mặt của người Mỹ ở Phnôm Pênh là cần thiết. Nó giữ vai trò thăng bằng trong khi Kissinger cố thương lượng một thoả hiệp với Sihanouk và những kẻ bảo trợ ông ta là người Trung Quốc.
Trưa ngày 4 tháng 4, chung quanh ngôi nhà của phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, có một sự náo nhiệt đặc biệt. Nhiều thợ mộc và thợ khác đã hạ cánh cửa, lấy béc ga để chuẩn bị cho một trung tâm tiếp đón người tị nạn.
Buổi sáng hôm ấy, một Galaxy C-5A của không quân, máy bay vận tải lớn nhất thế giới, hạ cánh. Đó là máy bay chở vật liệu chiến tranh cho quân đội Sài Gòn. Trong khi người ta chở hàng, nhân viên phái bộ quân sự tập hợp 243 trẻ mồ côi. Các em được máy bay này chở ngay đi Philippines cùng với 44 nhân viên phái bộ quân sự và một số người Mỹ khác. Đó là chuyến bay đầu tiên của cầu hàng không Trẻ em. Việc xảy ra mấy giờ sau đó, in sâu mãi mãi vào trí nhớ những người được chứng kiến chuyến bay này.
Chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C-5A chở 243 trẻ em và một số người lớn, rời Sài Gòn, đang bay ra bờ biển, chợt người lái trông thấy ánh sáng đỏ nhấp nháy trên bảng, báo hiệu một cửa bị hỏng. Anh báo tin cho trạm kiểm soát sân bay, máy bay sẽ quay lại. Nó đang hạ xuống cánh đường băng, một tiếng nổ vang dội. Một phần máy bay bị phá huỷ, làm cho cabin bên trong thiếu không khí. Phần lớn 50 trẻ em và người lớn ngồi trong đó chết ngay vì ngạt thở, một số bị hất tung ra ngoài, qua cửa không đóng được. Máy bay bị nạn rơi xuống và trượt xa tám trăm mét đến một phía thửa ruộng phía Nam Tân Sơn Nhất. Cần dưới bị gãy, nước tràn vào. Phần lớn những người thoát chết lúc máy bay nổ và rơi nay lại bị chết đuối.
Máy bay lên thẳng của hàng Hàng không Mỹ đến ngay, chở những người sống sót và hấp hối về trạm cứu thương đặt trên đường băng. Một nữ nhân viên CIA ra tiễn các em tả lại: không thể biết chắc được những em đưa từ máy bay lên thẳng sang trạm cứu thương còn sống hay chết. Hầu hết đều phủ đầy bùn từ đầu tới chân. Mãi đến lúc đưa các em từ trạm cứu thương đến bệnh viện mới phân biệt được đứa sống, đứa chết. Các nữ y tá đặt các em dưới vòi nước hoa sen, rửa người các em rồi nói: “em này còn sống, em này đã chết”. Một lát sau được mấy người Mỹ giúp đỡ, tôi xếp các em còn sống lên xe gíp và xe hơi đem trả các em về các trại mồ côi. Nhiều em sợ quá không còn khóc được nữa; nhiều em khác giống như những giẻ rách trong tay chúng tôi.
Tai nạn làm mọi người xúc động. Những người trong chúng tôi ở lại phòng làm việc của CIA buổi chiều và buổi tối hôm ấy, đều buồn rầu, lặng lặng ngồi nghe đọc tên theo thứ tự A,B,C những người Mỹ chết từ sân bay Tân Sơn Nhất gọi về. Con số người chết lên đến mức làm cho tai nạn này trở thành tại nạn máy bay lớn thứ hai trong lịch sử ngành hàng không. Hơn hai trăm trẻ em qua đời! Sống sót có một người, còn tất cả nữ nhân viên của phái bộ quân sự đều bỏ mạng. Và những cái chết ấy là do một cái cửa không được đóng kín. Nếu một chuyến bay tổ chức vội vàng gây ra tai nạn tầy đình như thế này thì một cầu hàng không khổng lồ, tổ chức trong thời chiến sẽ nguy hiểm biết chừng nào!
Tướng Smith rất đau buồn về thảm kịch này. Chính ông là người thiết tha yêu cầu cho nữ nhân viên người Mỹ đi với các em. Nhưng ông từ chối không chịu bỏ nhiệm vụ đã ấn định. Hôm sau, trong lúc những kíp của phái bộ quân sự bới tìm xác chết giữa những đống sắt thép của máy bay, ông lại cho hàng trăm trẻ mồ côi và những nhân viên không cần thiết lắm lên những máy bay vận tải khác để tiếp tục di tản.
Đại sứ Martin không còn biết làm gì để có thể ổn định được tinh thần của nhân viên sứ quán về tai nạn xảy ra. Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin Mỹ, là người được ông giao việc đầu tiên. Hôm sau ngày xảy ra tai nạn, Carter viết một điện gửi Hoa Thịnh Đốn để báo tin: lộn xộn ngày càng lớn, ở Sài Gòn sắp dẫn tới hoảng hoạn. Đọc bản sao bức điện ấy, Martin nổi giận, ông hét vào mặt Carter: “Ở đây không có hoảng loạn! Chúng ta phải làm mọi cái để không gây hoảng sợ cho Hoa Thịnh Đốn”. Ông nói thêm: “Nếu Hoa Thịnh Đốn hỏi tôi trước khi cho sử dụng chiếc máy bay C-5A này, thì tôi không cho phép. Và những trẻ em đó sẽ vẫn còn sống”. Carter muốn nôn mửa khi đi từ phòng Martin ra. Đầu ông ta bối rối. Sao đại sứ lại khốn nạn thế, không những để trút trách nhiệm của mình về tai nạn này mà còn làm cho mọi người hiểu rằng chính những người như Carter, vội vàng, hấp tấp, cho là tình trạng đã khẩn cấp, phải chịu trách nhiệm về cái chết của các em! Từ đó, giám đốc cơ quan thông tin chỉ gọi dây nói thẳng cho Hoa Thịnh Đốn để trao đổi tình hình. Anh không đếm xỉa đến phép tắc của đại sứ.
NÉM BOM
Sau ngày máy bay C-5A bị tai nạn, tướng Weyand và êkíp của ông đến Palm Springs, bang California để tường trình với tổng thống Ford và Henry Kissinger về cuộc khủng hoảng ở Đông Dương. Bản báo cáo của ông bao gồm một phần trích những nhận định của tôi về tình hình quân sự. Phần này nêu rõ sự chênh lệch ghê gớm giữa hai lực lượng và khả năng một cuộc thất bại quân sự của Sài Gòn.
Ngoài ra, bản báo cáo tập hợp những điều bình thường và chung chung. Các tác giả công nhận những cuộc thất trận mới đây đã làm suy yếu cơ cấu xã hội và chính trị của nước này và viết thêm: rất khó đánh giá suy yếu đến mức nào. Họ cũng không vạch rõ ý đồ của Bắc Việt Nam. Họ viết: quân cộng sản có hai khả năng: chinh phục bằng quân sự hoặc củng cố thành quả mới đạt rồi thương lượng thoả hiệp nửa vời. Họ cũng không muốn dự đoán Hà Nội sẽ chọn khả năng nào, mà cho rằng bản thân Bộ Chính trị Bắc Việt Nam cũng có thì giờ để tiêu hoá những sự kiện xảy ra trong những tuần trước, cả những thắng lợi trong mấy ngày tới đây.
Tránh né những vấn đề quan trọng này, Weyand và đồng nghiệp ông được tự do bảo vệ chính sách của chính phủ. Họ hiểu rằng ngay cả bản thân Kissinger cũng muốn viện trợ ồ ạt thêm cho Nam Việt Nam để Hoa Kỳ khỏi bị buộc phải chịu trách nhiệm về sự thất thủ Sài Gòn, nếu chuyện ấy xảy ra. Thật vậy, Weyand đã xin viện trợ quân sự khẩn cấp bảy trăm hai mươi hai triệu đôla.
Họ cố bảo vệ cho sự rộng rãi ấy bằng những luận điểm của Kissinger. Họ viết: “Các chính phủ trên toàn thế giới đều nhớ đến quá khứ, nhưng chắc chắn, họ sẽ đánh giá việc Hoa Kỳ không giúp đỡ Việt Nam lúc này là sự phá sản của ý chí và tính quyết định của người Mỹ. Việc duy trì uy tín của Hoa Kỳ trên thế giới phụ thuộc vào những nỗ lực của chúng ta chớ không phải vào một thắng lợi hay thất bại nào”.
Họ còn cho rằng tiền sẽ nâng cao tinh thần Nam Việt Nam nên sau khi trình bày những ý kiến nói trên, họ nói thêm: Tiền sẽ khôi phục được hiệu lực của quân đội, tiền ấy cần có ngay để đáp ứng những nhu cầu quân sự cơ bản, để Việt Nam Cộng Hòa có thể chiến đấu ngang sức cho sự sống còn của mình.
Trong một bản tường trình, Weyand và đồng nghiệp ông có nêu lên vấn đề tế nhị là vấn đề di tản. Họ viết: “Một sự can thiệp ồ ạt của lực lượng Hoa Kỳ có không quân chiến thuật yểm hộ, rất cần để bảo đảm cho việc tản cư sáu nghìn người Mỹ, hàng chục nghìn người Việt Nam và dân nước Việt Nam thứ ba, đối với những người này, chúng ta có một cái nợ phải trả. Tuy nhiên, họ không đi đến mức yêu cầu một cuộc tản cư khẩn cấp cũng như không nói rằng việc giảm bớt sự có mặt của người Mỹ ở Sài Gòn sẽ được thực hiện song song với việc giúp đỡ tài chính. Họ chỉ nói đến việc tản cư như là một dự kiến, chỉ được tổ chức trong trường hợp quốc hội không cung cấp 722 triệu đôla.
Chính phủ chấp nhận ý kiến của họ, chỉ bàn vấn đề di tản khi cuộc thảo luận về vấn đề viện trợ cho Việt Nam ngã ngũ. Có nghĩa là, những người Mỹ ở Việt Nam gần như trở thành những con tin chỉ được thả ra khi có đủ 722 triệu đôla, số tiền, như Weyand nói, may ra chỉ có thể giúp Sài Gòn tồn tại mà thôi.
Cuộc gặp mặt giữa Weyand và tổng thống Ford kéo dài 90 phút. Kissinger đã đọc bản báo cáo khi ông ngồi bên cạnh Shackley, Carver, Von Marbod và tổng thống.
Vì quan điểm của họ giống như quan điểm của ông ta, nên Kissinger không gặp khó khăn gì để ủng hộ. Cũng như họ, ông nghĩ rằng tình hình quân sự có thể cứu vãn được, cứu vãn một cách chắc chắn. Muốn thế, viện trợ cho Nam Việt Nam phải rõ ràng, dù chỉ là để bảo vệ uy tín của người Mỹ ở nước ngoài Kissinger tuyên bố với các nhà báo sau buổi gặp Weyand: “Hoa Kỳ đứng trước một vấn đề đạo lý. Việc cần biết là một đồng minh đã hợp tác với chúng ta mười năm nay muốn tự bảo vệ một mình, thì Hoa Kỳ có quyết định đình chỉ việc cung cấp phương tiện chiến tranh hay không?”.
Trong khi có những cuộc thảo luận ấy, thì người duy nhất trong chính phủ có thể phản đối có hiệu quả những luận điểm của Kissinger và những ý kiến của Weyand, lại ở Hoa Thịnh Đốn để chữa những vết thương của lòng tự ái. Đó là bộ trưởng quốc phòng Schlesinger. Một lần nữa, ông bị loại ra khỏi hàng ngũ cố vấn thân cận của tổng thống. Chủ nghĩa tiêu cực của Schlesinger là một trong những nguyên nhân khiến Kissinger đẩy ông ta.
Một mặt, bộ trưởng quốc phòng nghi ngờ sự lạc quan của Weyand, mặt khác, ông phản đối kịch liệt mọi viện trợ mới cho Sài Gòn. Ông cho rằng uy tín của người Mỹ cũng như nhu cầu của Sài Gòn đã được viện trợ bổ sung 322 triệu đôla cung cấp hai tháng trước đây, bảo vệ và thoả mãn. Mọi sự giúp đỡ quan trọng khác đều là lãng phí và không đi đến đâu cả. Nhất là ông nghĩ rằng Nam Việt Nam không thể nào có hy vọng thoát khỏi tình trạng hiện nay.
Kissinger chống lại dữ dội quan điểm của Schlesinger. Ông cho rằng không thể coi thường sự sống còn của Sài Gòn, vì đó là hình ảnh cao quí của người Mỹ trên thế giới. Kissinger tin rằng viện trợ tối thiểu 722 triệu đôla là đủ để Nam Việt Nam chấp nhận việc tản cư người Mỹ, nên việc đó cần làm. Sau này, ông giải thích với quốc hội: “Mục tiêu của chúng tôi là thiết lập một thế quân sự ngang bằng, nếu việc đó thất bại và đi đến chỗ bi đát thì viện trợ 722 triệu đôla sẽ là phương tiện có hiệu quả làm cho Nam Việt nam bằng lòng cho di tản người Mỹ và người Việt Nam mà chúng ta chịu trách nhiệm về tinh thần. Nói khác đi, Kissinger cho là nếu cần phải trả tiền chuộc để đổi lấy tính mạng những người Mỹ ở Sài Gòn thì số tiền ấy phải khá”.
Ở Sài Gòn, chúng tôi đang đứng trước cảnh hấp hối của Nam Việt Nam. Trong ba tuần qua, từ ngày bỏ Pleiku, hơn sáu trăm bản báo cáo gửi tới CIA. Lúc ấy cứ hai ngày tôi làm một bản tường trình công việc, một kỷ lục chưa từng có. Mười người trong ê kíp phân tích tin của phái bộ quân sự và hầu hết bạn đồng nghiệp của tôi ở bộ ngoại giao đều làm việc với nhịp độ ấy. Không còn giải trí ở tất cả các cơ quan của sứ quán. Không còn ai ngoài bể bơi. Sau này, nhiều vợ viên chức ở sứ quán nói với tôi: họ biết ngày kết thúc sắp đến, ngày có một biển ghi: Mike, huấn luyện viên bơi lội, đã bị thải hồi vì không còn người học bơi nữa!
Chúng tôi cũng khám phá ra rằng chúng tôi có nhiều bạn Việt Nam hơn là chúng tôi tưởng. Họ đến hỏi vào bất cứ giờ nào. Họ đứng ngay ngưỡng cửa, trong đêm để không bỏ lỡ một chỗ trống trong những chuyến máy bay lên thẳng đến bất ngờ.
Tôi có trên lưng một việc riêng. Tư Hà, là một nữ chiêu đãi viên “được cải tạo” ở bar Mimi. Hai mươi mốt tuổi, chân ngắn. Hợp tác lâu ngày với người Mỹ, cô sợ bị đứng đầu trong danh sách những người phải hạ sát của cộng sản. Ngớ ngẩn! Anh cho là như thế ư! Thật ra: lúc ấy, không ai phân biệt được cái gì ngớ ngẩn, cái gì không. Người giúp việc tôi đi từ sáng sớm, tôi để Tư Hà trông chừng làm những việc lặt vặt và thổi cơm chiều. Thêm một gánh nặng phải mang. Ngày 7 tháng 4, tôi ghi trong sổ tay: mọi người đều thiếu ngủ, buồn man mác. Thức dậy bất thình lình vào ba giờ sáng vì tiếng đại bác nổ đằng xa. Tiếp đó là tiếng xích sắt chiến xa chạy ngoài đường báo hiệu dinh Độc Lập bị chiếm, một cuộc đảo chính chăng?
Pat Johnson hôm qua nêu ra ý kiến có thể chúng tôi không thể vượt qua thử thách này và lần đầu tiên, tôi thông cảm với người Việt Nam. Pat và Bill, chồng bà đã ký giao kèo với nhau: Nếu quân Bắc Việt Nam chiếm thành phố mà họ không chạy trốn được thì chồng sẽ bắn một phát đạn 38 vào gáy vợ rồi quay súng lại bắn vào mình.
Mỗi ngày, người xếp hàng trước lãnh sự quán càng dài thêm. Nhưng ở sứ quán, tiếp tục coi là không có chuyện gì thay đổi cả. Hình như, tiếng súng gầm ở ngoại ô chỉ là báo hiệu cơn giông mùa Xuân!
Mặc dù có truyền thống bình tĩnh, hầu hết các nhân viên hai giới ở CIA đều lo ngại. Nữ thư ký có vẻ bình tĩnh hơn đồng nghiệp nam giới. Họ nói ít về sự nguy hiểm, công nhận sẽ có nhiều tai biến nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Nam giới tỏ ra quyết tâm đối phó với thử thách. Họ nói năng với một vẻ quan trọng, trao đổi vũ khí vừa kể cho nhau nghe những chuyện chiến tranh, vừa vỗ vào lưng nhau đồm độp,vừa ngậm những viên valium và uống cốc tai ngay từ trưa.
Cuối tuần thứ nhất tháng tư, một số bạn và đồng nghiệp tôi phản kháng: có hai sự thật, một cái họ thấy và một cái do đại sứ và quan chức cao cấp tìm cách bắt họ phải chấp nhận qua những tin tức có vẻ tốt lành. Ngay cả sau tai hoạ của máy bay C-5A, đại biểu lâm thời Lehmann còn cố tình tuyên bố trước một nhóm nhà kinh doanh Mỹ rằng không có gì phải sợ cho Sài Gòn. Ông nói: “Thành phố cũng vững chắc như đồng đôla Mỹ. Các ông cứ đầu tư vào!”
Ngay Polgar cũng giúp vào việc củng cố ảo tưởng ấy, mặc dù lý lẽ ông đưa ra khác lý lẽ của Lehmann. Ít lâu sau tai họa máy bay C-5A, ông yêu cầu những người giúp việc không nói trước vợ, con hay thư ký tình hình quân sự bi đát. Ông ra lệnh cho Pat và Jeo bắt đầu chuẩn bị bản tường trình tình hình hàng ngày, trong đó đương nhiên là đánh giá thấp sự uy hiếp của cộng sản và đề cao lực lượng của chính phủ. những tin tức ấy sau khi được sửa đi sửa lại, được điện cho tất cả các sứ quán trên thế giới với hy vọng khơi lên những bài bình luận ủng hộ sự sống còn của Sài Gòn trong giới báo chí quốc tế và ở quốc hội.
Nhưng những nỗ lực ấy không được trả giá, nhất là ở cơ quan CIA, ở đây nhận được quá nhiều tin tức bi quan, Polgar không thể giấu giếm được. Thêm nữa, người ta lại biết, ngày 7 hay 8 tháng 4, ông đã gửi về Mỹ không những hành lý tiền và cả hành lý của vợ nữa. Người ta nói: Polgar làm như thế có nghĩa là tình hình nghiêm trọng hơn điều ông nói.
Những ngày sau, Pat, Jeo và tôi làm mọi cái để các bạn và người thân của chúng tôi có thể hiểu rõ cái gì sẽ xảy ra. Thỉnh thoảng, một trong ba chúng tôi lại tạt vào một phòng giấy trỗng rỗng để báo cho một anh bạn sự phát triển của tình hình quân sự. Tôi phân phát cho đồng nghiệp tôi bản sao bản báo cáo mới nhất. Chúng rất được hoan nghênh mặc dù không được phép luân chuyển chúng.
Trước bình minh ngày 8 tháng 4, chiến tranh nổ ra bất ngờ chung quanh Sài gòn. Lực lượng cộng sản bắn phá một huyện lỵ phía Nam Biên Hoà, đặc công tiến cổng trường sĩ quan phía Đông. Liên tiếp ba ngày liền, ở phía Bắc đồng bằng, nhiều đơn vị thuộc ba sư đoàn Bắc Việt Nam đánh phá quốc lộ số 4 và cắt đường này một thời gian ở cách Sài Gòn 25 kilômét về phía Nam.
Tôi đến sứ quán lúc 6 giờ sáng, như mọi ngày. Tôi liếc đọc những bản tường trình đầu tiên và tự hỏi thủ đô còn đứng được bao lâu nữa.
Gần hai giờ sau, câu trả lời đã đến. Tôi đang gọi một người bạn ở cơ quan USAID để nói về những sự kiến tản cư. Tôi vừa nói hết một câu thì tiếng động cơ phản lực ầm vang xé tường của sứ quán như một cơn sóng dữ. Một tiếng nổ dữ dội làm rung cửa kính gắn plastique. Anh bạn tôi hét lên hỏi ở đầu dây nói: Trời ơi, cái gì thế? Tôi bỏ rời ống nghe không trả lời. Tôi cắm cúi sau bàn tìm khẩu súng 45 trong cặp. Một lúc sau, cầm vũ khí trong tay, tôi chạy qua hành lang đến phòng Polgar. Tôi thấy ông đứng trước cửa sổ, cố nhìn xem cái gì xảy ra qua những ô cửa nhỏ của tường bảo vệ bằng bê tông. Ông nói nhỏ, giọng đanh: “Hình như có người ném bom dinh tổng thống. Anh thử trèo lên nóc nhà xem thiệt hại thế nào”.
Dinh tổng thống ở đầu đường Thống Nhất, ở sứ quán dễ trông thấy. Thật ra, mái nhà trụ sở chúng tôi là nơi cuối cùng tôi muốn lên lúc bây giờ, nhưng lệnh là lệnh; là người dưới phải tuân lệnh, tôi đi ngay đến cầu thang trong nhà để làm cái việc mà Polgar bảo tôi làm.
Khi đặt chân lên mái nhà, tôi trông thấy một cột khói bốc cao ở một góc dinh Độc Lập, cách chỗ tôi 1500 mét. Nhiều người trèo lên theo tôi. Thư ký và các nhân viên trong sứ quán đều nhanh nhẹn muốn chứng kiến cảnh vừa xảy ra. Một người kêu lên: “một máy bay phản lực A-37 bay lượn ba lần và ném trúng dinh trong lần bay cuối cùng”. Tôi nghe lõm bõm rồi căng mắt nhìn lên bầu trời buổi sáng, về phía Đông, nơi máy bay đến. Tôi tìm một chấm đen trong ánh sáng, lắng nghe tiếng kêu báo hiệu máy bay trở lại. Không có gì. Chấm đen biến mất. Yên lặng tràn ngập cả phố. Tiếp đó là tiếng kêu ồ ồ, tiếng còi rối rít. Mọi người đã dứng dậy, ra khỏi nơi trú ẩn.
Khi tôi trở lại phòng làm việc của Polgar, ông đang ngồi trước máy chữ, làm một bản báo cáo gửi về Hoa Thịnh Đốn. Ông ngừng lại, nghe dây nói. Một thông tín viên gọi ông từ dịnh Độc Lập. Một người không quan trọng lắm bị thương. Thiệu không việc gì.
Một lúc sau, một nữ thư ký chạy tới, đem đến một báo cáo của một nhân viên tình báo, từ hôm qua đã nằm trong hòm tin. Báo cáo cho biết chiều hôm ấy, người chỉ huy phi đội thứ 23 ở Tân Sơn Nhất nói chuyện với hai sĩ quan, vụ họ ném bom dinh Độc Lập. Nhân viên tình báo cho là người chỉ huy này hành động theo lệnh của tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ.
Tướng Times được cử ngay đi gặp Kỳ ở Tân Sơn Nhất để kiểm tra lại. Tướng Kỳ nói không biết gì về việc ném bom cả. Buổi chiều, đài phát thanh giải phóng, đài bí mật của cộng sản tuyên bố một sĩ quan không quân Nam Việt Nam, tên là Nguyễn Thành Trung là người ném bom. Theo đài này, đã từ lâu, Trung là một cán bộ cộng sản và chuẩn bị việc này mấy tháng nay. Nhưng những thông tín viên của CIA lại giải thích một cách khác. Theo họ, Trung chỉ là một phi công đang say rượu, muốn làm vừa lòng Kỳ. Kỳ không biết gì cả và không tán thành việc này.
Sự thật thế nào không biết nhưng có một điểm tôi thấy rõ là Sài gòn có thể bị ném bom. Mặc dù có nhiều súng phòng không, nhiều hệ thống báo động do người Mỹ sắp đặt ở khắp nơi, chính phủ cũng bất lực không thể ngăn cản được phi công bay vào không phận thành phố và hoàn thành nhiệm vụ.
Lòng kiêu hãnh của sứ quán bị động chạm. Rõ ràng là ít người trong chúng ta biết cách đối xử trước một trận tiến công trực tiếp như thế.
Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin, cho là tai hoạ này đặc biệt khiếp đảm. Ngay sau khi máy bay bay đi, ông đề nghị tất cả các cơ quan hành chính trong sứ quán cho biết kế hoạch đối phó. Các phòng làm việc của cơ quan thông tin nằm gần dinh Độc Lập, ông có ký do chính đáng để lo ngại. một nhân viên sơ cấp vội vàng trả lời Carter: “Ông hãy dùng trí tuệ của ông”. Carter nổi giận thét lên: “Đồ khốn khiếp, tôi dùng trí tuệ của tôi thế nào được nếu tôi không biết cái gì đang xảy ra! Ở đây chúng ta cần những lời khuyên”.
Hôm sau, đặt một đài radiô mới trong phòng làm việc của cơ quan thông tin để Carter có thể nói chuyện với sứ quán trong những trường hợp khẩn cấp. Đó là câu trả lời duy nhất cho yêu cầu của Carter. Ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, Carter và các nhân viên của ông lại bị bỏ rơi một lần nữa. Người ta đã quên họ!
Trong khi Sài Gòn đang phục hồi sau trận đánh đầu tiên ấy, các bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở Phnôm Pênh, cách Sài Gòn một giờ bay, đang chờ đòn cuối cùng. Ngày 8 tháng 4, chỉ còn 58 nhân viên người Mỹ ở thủ đô Campuchia và 35 nhà ngoại giao nước ngoài. Phần lớn đã chuẩn bị. Hôm trước, đại sứ Dean yêu cầu ba trăm nhân viên giúp việc tản cư nhưng rất ít người chấp nhận. Người theo đạo Phật tiểu thừa (đạo thịnh hành ở Campuchia), rất sợ chết tha hương.
Trong khi đó, quân Khmer đỏ ngày càng tiến gần đến thành phố! Chiều ngày 8 tháng 4, họ chiếm vị trí tiền tiêu của chính phủ cách sân bay 6 kilômét. Họ liên tục bắn phá sân bay. Nhưng trung tâm thủ đô chưa việc gì.
RỌI ĐÈN CHIẾU
Trận ném bom dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng 4 buộc tôi phải bỏ buổi nói chuyện về tình hình quân sự thường được tổ chức hàng tuần cho đoàn ngoại giao và nhân viên cao cấp của Martin nghe. Sau này, tôi cũng không phải nói nữa. Một phần do Polgar sợ làm cho cấp trên lo ngại, nhưng cái chính là Martin và Polgar quá tin rằng đàm phán là chìa khoá của tương lai. Do đó cần gì phải nói đến hoạt động quân sự!
Hai người đều đi đến kết luận ấy nhưng xuất phát từ quan điểm khác nhau. Sự bi quan về tình hình quân sự làm cho Polgar nghĩ đến giải pháp chính trị là giải pháp duy nhất có thể cứu Sài Gòn. Còn Martin nghiêng về phía thương lượng vì ông tin rằng chính phủ Thiệu ở thế mạnh. Polgar sẵn sàng gạt Thiệu để có đàm phán. Martin cho rằng chính phủ phải được bảo vệ, củng cố để bước vài thảo luận chính trị. Hai quan điểm khác nhau ấy chẳng mấy chốc gây nên sự bất hoà giữa hai người.
Hy vọng chung của họ về một giải pháp chính trị dựa trên cơ sở mỏng manh. Ngày 2 tháng 4, có tin bộ trưởng ngoại giao chính phủ Cách mạng lâm thời nói: chính phủ Cách mạng sẵn sàng nói chuyện với Sài Gòn với điều kiện Thiệu rút lui. Nhiều người phát ngôn của chính phủ ở Stockholm và nhiều nơi khác ở châu Âu cũng nhắc lại đề nghị ấy.
Nhưng những tin tức trên chỉ được tung ra và chưa được kiểm tra kỹ.
Ngày 7 tháng 4, Khiêm thủ tướng vừa từ chức, gặp thủ tướng Trần Văn Đôn mới thay ông ta, nói về việc buộc Thiệu từ chức để cứu nước. Không cần phải thuyết phục Đôn. Bản chất Đôn là một tên đầu cơ, thói quen của ông ta là lật đổ. Đôn đã chuẩn bị lật Thiệu nếu có sự can thiệp của bên ngoài. Ngày 1 tháng 4, Đôn dừng chân ở Paris sau khi nghỉ hè ở nước ngoài. Ông gặp đại diện của thủ tướng Pháp, Jacques Chirac, xin tiếp kiến. Như Đôn thuật lại, trong cuộc gặp mặt này, Chirac bảo ông ta: Nam Việt Nam không còn nữa. “Ba cường quốc” đã thoả thuận là Sài Gòn trở về với Hà Nội. Bắc Việt Nam sẵn lòng chấp nhận giải pháp ấy, với điều kiện là mọi việc được giải quyết xong trong tám ngày qua sự trung gian của người Pháp. Trước khi rời Paris, Đôn lấy danh nghĩa cá nhân, gặp đoàn đại biểu chính phủ Cách mạng lâm thời và hoàng đế Bảo Đại đang sống lưu vong mà nhiều người muốn sử dụng làm môi giới giữa hai kẻ thù. Một vài ngày sau khi trở về Sài Gòn, Đôn đề nghị với một người bạn cũ cho tiếp xúc bí mật với đại diện cộng sản ở địa phương. Sau đó, thuật lại với Thiệu những điều Chirac nói với ông ta.
Lẽ dĩ nhiên, Thiệu phớt lờ và cho rằng người Pháp nói dối. Sau đó, chiều ngày 5 tháng 4, Đôn nhận được điện thoại từ phòng làm việc của Chirac ở Paris, nhắc cho ông ta biết chỉ còn ba ngày nữa để thảo luận dứt khoát với cộng sản. Bất lực, không thuyết phục được Thiệu, Đôn không dám bảo đảm thời hạn ấy. Đó là tình hình đưa đến cuộc gặp mặt giữa Đôn và Khiêm ngày 7 tháng 4. Vì Đôn không tìm được con đường nào khác để đem lại hoà bình, ông dễ dàng ngả theo quan điểm của Khiêm: Thiệu phải ra đi.
Hai người cho rằng người thay Thiệu không ai bằng người chiến hữu già là tướng Dương Văn Minh. Năm 1963, họ đã thành lập nhóm ba người để lật đổ Diệm. Họ chắc rằng sự liên minh cũ có thể nối lại để giải phóng đất nước khỏi một tên độc tài không còn tác dụng gì nữa.
Từ nhiều năm nay, ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, người ta coi Minh như một Hamlet già cỗi của nền chính trị Việt Nam, một người do dự đến mức tê liệt. Sau cuộc đảo chính năm 1963. Minh bị các tướng trẻ loại bỏ một cách tàn nhẫn. Người Mỹ cũng đi tìm một đồng minh khác. Chỉ có tướng Timmes ở cơ quan CIA là cần tiếp xúc với Minh. họ thường đánh quần vợt với nhau ở câu lạc bộ thể thao.
Nhưng sự sụp đổ của Quân khu I và Quân khu II lại nâng hình ảnh của Minh lên. Trong một đêm, ông được nhiều người đánh giá là người của tình hình có thể đứng ra thương lượng. Minh có vẻ là nhân vật chính trị duy nhất không đứng về phía Sài gòn mà cộng sản có phần chú ý đến.
Về phần Minh, ông nghĩ rằng sinh ra là để giữ vai trò người ta yêu cầu. Minh coi mình là người trung lập, hy vọng được nhiều nhân vật chính trị không còn nắm chính quyền ủng hộ nếu ông nhận trách nhiệm điều khiển quốc gia. Minh cũng cho rằng Chính phủ Cách mạng lâm thời và những người đứng đầu chính phủ này là những người miền Nam hơn là cộng sản. Giữa một nước Việt Nam thống nhất do Hà Nội chỉ huy và một liên minh với phái trung lập ở Sài Gòn thì họ sẽ chọn giải pháp thứ hai.
Cuối tháng 3, ít lâu sau ngày Huế thất thủ, Minh bắt đầu chơi bài. Ông tiếp xúc với Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng và Thủ tướng Chính phủ Cách mạng lâm thời. Em của Minh là một nhân vật cao cấp của chính phủ này. Những cuộc gặp mặt không chính thức, không cam kết, rất dễ dàng. Khi Minh biết có cuộc hội kiến giữa Đôn và Chirac, ông cố gắng công khai làm cho người Pháp chú ý đến ván bài của mình; Minh tuyên bố rõ với mọi người là người Pháp có một vai trò quan trọng trong việc tiếp tục tìm kiếm hoà bình. Người Pháp cắn câu ngay. Ngày Khiêm và Đôn quyết định thuyết phục Thiệu từ chức cũng là ngày đại sứ Pháp ở Sài Gòn bí mật đến nói chuyện với Minh.
Hai ngày sau, Minh mời Khiêm đến nói chuyện ở nhà riêng. Minh công nhận đã có những cuộc thảo luận bí mật với Chính phủ Cách mạng lâm thời và nói với Khiêm rằng người Pháp coi ông là một người thay Thiệu rất tốt để đi đến thỏa hiệp với cộng sản. Cuối buổi nói chuyện, Khiêm bảo đảm với Minh ông ta hoàn toàn ủng hộ Minh.
Nhân viên CIA báo cho sứ quán diễn biến của những hoạt động ấy, việc đó càng làm cho Polgar và Martin tin rằng sẽ có thương lượng.
Tuy nhiên, người nuôi nhiêu hy vọng nhất vào đàm phán không phải là Khiêm hay Minh mà là người Pháp. Ngay sau khi Chirac gặp Đôn, người Pháp đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tìm kiếm một thoả hiệp chính trị; cho đến phút cuối cùng, mặc dù không muốn, họ đã góp phần đưa Sài Gòn đến ven bờ sự huỷ diệt.
Tại sao họ tham gia sâu đến thế vào trò chơi hòa bình, tham gia một cách đáng xấu hổ? Người ta chỉ có thể đặt ra những giả thuyết. Có thể chỉ là phản ứng của việc báo thù. Những người gô-lít già. (Những cán bộ kỳ cựu của Đảng tướng Đờ-gôn. Nxb) trong bộ ngoại giao không bao giờ quên, không bao giờ tha thứ việc Hoa Thịnh Đốn, trong giữa những năm 60, đã từ chối không cho họ can thiệp để chấm dứt chiến tranh. Thất bại của việc ngừng bắn được nhiều người trong bọn họ coi đúng là đòn đánh trả lại. Đối với họ đó là một dịp có một không hai để nước Pháp dành lại một phần ảnh hưởng đã mất ở Đông Dương.
Có lẽ họ cũng chẳng hiểu gì về người cộng sản Việt Nam. Những chuyên gia về Đông Dương ở bộ ngoại giao Pháp từ lâu cho rằng phong trào cách mạng ở Việt Nam chia sẽ nhiều hơn là người Mỹ đánh giá. Cũng như Minh, họ nhận định là nửa phía Nam của bộ máy cộng sản đội lốt Chính phủ Cách mạng lâm thời, không phải là một trá hình của Hà Nội mà là một lực lượng tự thân, có thể có hành động độc lập. Dựa vào kinh nghiệm lịch sử, họ cũng nghĩ rằng Hà Nội không bao giờ định công khai nắm chính quyền, mà là giấu ý đồ của mình dưới một thoả hiệp liên hợp.
Cuối tháng ba, đầu tháng tư, làn sóng tuyên bố úp mở về triển vọng hòa bình, càng làm cho người Pháp củng cố thêm luận điểm can thiệp của họ. Cuối cùng họ tưởng rằng những sự tranh chấp cũ giữa những người cách mạng ở miền Nam và ở miền Bắc sẽ công khai nổ ra. Nếu nền ngoại giao Pháp nhanh chóng xen được vào cuộc tranh chấp ấy thì có khả năng kết thúc chiến tranh với nhiều lợi ích cho Pháp.
Mục tiêu người Pháp đặt ra là trở lại quá khứ, sự hồi sinh của ba Việt Nam như ba xứ đã tồn tại trong thời kỳ đô hộ của Pháp ở đây. Bên cạnh Bắc Kỳ cổ xưa (nay là miền Bắc do cộng sản điều khiển), sẽ thiết lập một chế độ liên hợp ở miền Trung (Quân khu I và Quân khu II), ở đây, trước kia người Pháp cai trị qua bàn tay trung gian của Bảo Đại. Còn phía Nam, trong xứ Nam Kỳ lục tỉnh (Quân khu III và Quân khu IV), chế độ Thiệu nhường chỗ cho một chính phủ mở rộng có thể thương lượng với Hà Nội và nhà cầm quyền mới ở phía Bắc.
Để đẻ ra nước Việt Nam ban-căng hoá này, người Pháp định ra một chiến lược gồm bốn điểm: Hà Nội thấy rõ lợi ích của họ là đàm phán. Thiệu có lợi trong chịu đựng. Tướng Minh chuẩn bị thay Thiệu. Còn đối với người Mỹ, phải làm cho họ tin rằng họ không có gì lựa chọn, tốt hơn là chính sách do người Pháp đề ra cho họ.
Khi Đà Nẵng thất thủ, người Pháp đã bắt đầu hoạt động. Có những cuộc trao đổi bí mật với Bắc Việt Nam ở cấp cao, với đại diện chính phủ Cách mạng ở Paris. Nhiều sĩ quan đã nghỉ hưu, trước kia phục vụ ở Đông Dương, trở lại Sài Gòn. Họ được giao nhiệm vụ thuyết phục các chiến hữu cũ tin rằng những cuộc thương lượng do Paris tiến hành là cần thiết. Những cuộc tiếp xúc với Trần Văn Đôn ngày 1 tháng 4 được diễn ra với tinh thần ấy. Không nói ra nhưng những cuộc trao đổi được tiến hành với ý thức tốt. Trong những cuộc thảo luận mới nhất với Bắc Việt Nam và đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời, người Pháp nhận được bảo đảm rằng việc thay đổi chính quyền có thể thương lượng ở Sài Gòn trong vòng tám ngày nếu nước Pháp đóng tốt vai trò của mình. Nhưng bộ ngoại giao Pháp cần kiểm tra ngay giá trị của những bảo đảm ấy. Hôm sau hay hôm sau nữa cuộc gặp mặt Chirac - Trần Văn Đôn, các nhà ngoại giao Pháp ở Hà Nội điện khẩn về Paris rằng triển vọng một thỏa hiệp là không có, Bắc Việt Nam có vẻ quyết tâm giành ngay thắng lợi hoàn toàn. Như là để khẳng định điều đó, phái đoàn Bắc Việt Nam ở Paris nói với các nhà chức trách chính thức của Pháp rằng, trong bất cứ trường hợp nào, điều kiện đầu tiên cũng là Thiệu từ chức, quan hệ giữa Sài Gòn và Hoa Kỳ phải chấm dứt. Không có tình hình đó sẽ hạn chế rất nhiều những cuộc thương lượng. Ngày 5 tháng 4, người Pháp chuyển những yêu cầu ấy cho Hoa Thịnh Đốn, tưởng rằng người Mỹ sẽ mất lòng tự trọng và chấp nhận.
Nhưng Kissinger không tỏ ra dễ bảo. Theo nhận xét của ông, giải pháp ba Việt Nam do người Pháp đưa ra, chỉ là một mánh khoé chính trị để nước Pháp lấy lại vai trò điều khiển của mình ở Đông Dương. Hơn thế, đó là một hoạt động không hợp pháp. Để giành chính quyền, tướng Minh sẽ phải vi phạm hiến pháp Nam Việt Nam, về Kissinger lo có sự lộn xộn sau đó và tính mạng người Mỹ sẽ bị uy hiếp. Ngày 7 tháng 4, ông báo cho Paris biết rằng những đòi hỏi của Hà Nội không thể chấp nhận được.
Nhưng hoạt động đó một lần nữa, lại chuyển về Sài Gòn.
Jean Marie Merillon, viên đại sứ nhỏ bé của Pháp ở Nam Việt Nam có hai ham thích lớn: công việc và săn bắn thú rừng. Từ ngày ông đến đây, gần một năm về trước, ông tỏ ra thành thạo ở cả hai mặt. Tôi đã trông thấy bức ảnh ông đi săn ở Buôn Mê Thuột. Ông đứng cạnh một con hươu bắn được đêm trước. Hình như ông rọi đèn chiếu làm cho nó loá mắt rồi bắn trúng mắt nó. Rọi đèn chiếu là một mánh khoé riêng của đại sứ trong ngoại giao cũng như trong săn bắn. Ông cũng dùng kỹ thuật ấy ở Sài Gòn trong những tuần cuối của cuộc chiến tranh, làm bừng sáng những cuộc tiếp xúc chính trị với những lời hứa hẹn và hy vọng quá độ cho đến lúc chúng rơi vào lưới. Và mỉa mai thay lại vào lưới Hà Nội.
Trong tuần đầu tháng tư, Mérillon áp dụng chiến thuật ấy với em họ Thiệu là Hoàng Đức Nhã. Ông cho Nhã biết mấy nét về giải pháp ba Việt Nam và vận động Nhã tham gia thực hiện. Không có ý chế giễu nào, ông kể lại thí dụ quân đội Pháp năm 1940, nhắc lại sự dàn xếp được đề ra đúng lúc với bọn nadi nhờ đó đã cứu được nước Pháp khỏi tan vỡ. Câu trả lời của Nhã thật đau và nặng nề. Ông ta nói với Mérillon: “Ông điên rồi, kế hoạch ấy thật buồn cười!”
Đại sứ Pháp không nản lòng. Những ngày sau, ông rọi đèn vào một con mồi lớn hơn nhiều, Graham Martin.
Nhà riêng của Mérillon và sứ quán Pháp ở ngay cạnh sứ quán Mỹ. Mérillon đến thăm kín đáo Martin rất dễ dàng vào bất cứ giờ nào để nói chuyện chung quanh tách cà phê. Mỗi lần đến thăm đại sứ Mỹ, ông lại nói thêm về cái lợi của cuộc đàn phán. Ông nói: Không, chắc chắn là chưa có gì chứng tỏ Bắc Việt Nam chấp nhận những điều kiện đặt ra. Nhưng ta cứ thử xem, có mất gì đâu.
Phản ứng đầu tiên của Nam Việt Nam là tiêu cực. Cũng như Kissinger, ông cho rằng nếu cứ chuyện thay đổi chính phủ ở Sài Gòn thì việc đó phải được thực hiện đúng hiến pháp để làm cho chế độ thêm vững và tăng thêm triển vọng thương lượng một cách công bằng giữa những người kế tiếp Thiệu và cộng sản. Khó cho Martin chấp nhận nhận định của Mérillon cho rằng hiện nay Sài Gòn yếu đến mức không còn con đường nào khác là con đường hoà bình.
Nhưng Martin chưa sẵn sàng bác bỏ lúc này những ý kiến của người Pháp. Ông là đấu thủ đánh cờ chứ không phải đấu thủ đánh bài. Do đó, đáng lẽ xả láng cho cái ông cho là tốt nhất, ông lại quyết định tiếp tục tiếp xúc với Mérillon như là người ta giữ hai miếng thép trong lửa. Martin cho đục một cái cửa giữa sứ quán Mỹ và sứ quán Pháp, đặt giữa hai sứ quán một đường dây nói trực tiếp cho chắc chắn.
Cho chắc chắn hơn, đường dây chạy mãi vào trong buồng tắm của Mérillon đặt bên phòng làm việc của ông. Những ngày sau đó, thư ký và nhân viên sứ quán pháp bắt đầu lo ngại về sức khỏe của ông vì thấy ông liên tục vào buồng tắm.
Vừa tìm kiếm sự ủng hộ của người Mỹ, Mérillon vừa nhằm một mục tiêu khác. Từ nhiều tháng nay, sứ quán Pháp giao thiệp kín đáo với tướng Minh qua nhiều trung gian. Đầu tháng tư, tướng Minh còn công khai tỏ ý hoan nghênh những nỗ lực của Paris để tìm kiếm hòa bình. Mérillon lợi dụng lời tuyên bố ấy để nhảy vào. Trong cuộc gặp đầu tiên ngày 7 tháng 4 với Minh, Mérillon kể lại những cuộc tiếp xúc giữa chính phủ Pháp với Bắc Việt Nam, nói thêm rằng, theo ông, Minh giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề này. Tuy không nói ra, hay là nói quá rõ rồi điều đó có nghĩa là Paris đã chọn Minh làm người thay Thiệu.
Mấy ngày sau, tổng thống Pháp Valery Giscard d’Estaing, đích thân kêu gọi Thiệu tỏ rõ thiện chí cho một sự hòa hợp. Sự phản ứng của Thiệu khác hẳn điều Paris mong muốn hay chờ đợi, Không chút sợ hãi những lời đe doạ, tổng thống Nam Việt Nam ra lệnh cắt ngay mọi quan hệ với sứ quán Pháp cho đến lúc Giscard rút lui ý kiến của ông. Do đó, Mérillon không được đến dinh Độc Lập ngay cả lúc ông hy vọng được tiếp kiến Thiệu để thuyết phục ông ta từ chức vì lợi ích của một xứ Nam Kỳ không cộng sản.
Để giành lại quyền chủ động, Mérillon dùng một chiến thuật nguy hiểm. Nhờ những cuộc tiếp xúc với người Việt Nam, ông cho loan truyền trong thành phố tin quân cộng sản sắp tiến công ngay Sài Gòn. Những lời dự đoán kinh hãi ấy có tức dụng làn cho sứ quán Mỹ hoảng sợ và trong một lúc, không chú ý đến ý đồ thật sự của Hà Nội. Sau cùng, Mérillon thú nhận đã phao tin. Mưu mẹo của ông dù sao cũng tiếp tục gây ra những hậu quả tai hại. Sau đó, mỗi lần có một bản báo cáo nói về cuộc tiến công của cộng sản, những người lạc quan nhất trong chúng tôi đều lắc đầu và nói: “Lại người Pháp định làm cho Thiệu sợ để ông ta từ chức”...Ngày càng bị ám ảnh về một cuộc thương lượng, Polgar mất dần khả năng xét đoán. Quyết tâm thuyết phục đại sứ Martin về triển vọng cuộc đình chiến, Polgar không còn biết đến bất cứ tin tức nào nói ngược lại.
Nhưng những bản tin tới tấp được gởi về CIA đều nói về việc chuẩn bị quân sự của Bắc Việt Nam đang khẩn trương. Quân đội của họ đã uy hiếp chung quanh Sài Gòn, nhất là ở Xuân Lộc, phía Đông thủ đô, Polgar và đại sứ tiếp tục cho là những tin tức ấy quá bi quan. Khi những sự kiện nổ ra chứng tỏ những người bi quan đúng, người ta mới thấy rõ rằng tất cả những gì quay chung quanh giải pháp thương lượng đều là để che mắt. Bắc Việt Nam lợi dụng tình hình này để chuẩn bị về mặt quân sự. Trong đêm 8 tháng 4, CIA nhận được tin của một nhân viên là: “Bộ tư lệnh tối cao Bắc Việt Nam vừa quyết định giải phóng toàn bộ vùng phía Bắc Sài Gòn trong tháng tư. Tiếp đó, họ tiến thẳng vào Sài Gòn không có một tý gì là giải pháp thương lượng. Hôm sau, một điện khác báo tin cộng sản sẽ tiến công vào Sài Gòn muộn nhất là ngày 15 tháng 4. Trong điện của tôi viết gởi Hoa Thịnh Đốn, Polgar tẩy chữ vào thay vào bằng chữ chung quanh.
CHIẾN DỊCH PHƯỢNG HOÀNG BAY
Ngày 9 tháng 4, những người phân tích tin của phái bộ quân sự Mỹ đi đến kết luận là chiến tranh sẽ kết thúc vào tháng 6, bằng chiến thắng của cộng sản. Martin chối tai về những dự đoán đó. Khi có người hỏi: vì sao, đại sứ trả lời đơn giản: “Những yếu tố chính trị”. Người ta không dành cho chúng đủ sức nặng. “chính sách rọi đèn chiếu” của Mérillon đạt hiệu quả. Tôi chưa kịp gửi bản báo cáo cuối cùng của tôi đi thì Martin đã điện cho Nhà Trắng một tài liệu do cố vấn kinh tế của ông là Dan Ellerman nghiên cứu và soạn thảo. Ý ông muốn chứng tỏ cho Hoa Thịnh Đốn biết nửa phía Nam nước này có thể tự bảo vệ lấy mình.
Tiếp đó, ông định chỉ huy chặt chẽ Alan Carter, người phụ trách cơ quan thông tin. Carter đề nghị với đại sứ mọi cuộc tiếp xúc với giới báo chí đều do cơ quan thông tin đảm nhận làm trung gian. Martin không muốn như thế vì ông biết nếu Carter làm việc này sẽ gây bi quan cho giới báo chí đã quá sốt ruột. Ngày 9 tháng 4, ông gọi Carter vào phòng làm việc.
Ông nói: “tất cả các cơ quan ở sứ quán đều dưới quyền điền khiển của tôi, do tôi quyết định cần phải làm gì”.
Carter trả lời: “Thưa ông, tôi nghĩ đơn giản là nên điều hoà quan hệ giữa chúng ta với giới báo chí thì hơn”.
- Làm cho tôi một kế hoạch về vấn đề này.
- Thưa ông đại sứ, chúng ta đã cùng đường rồi. Làm gì còn thì giờ để làm những việc quan liêu không thiết thực ấy.
Thấy thế, Martin thay đổi chiến thuật.
Ông nói: “Này anh bạn Alan ạ, anh biết không, các đồng nghiệp cho là anh đã xa rời hàng ngũ rồi đấy. Anh không đi kịp cùng đoàn”
Carter hỏi ông tên những người lên án anh, Martin chỉ nhín vai và tiếp tục: “Tôi không nói là anh hành động một mình. Tôi chỉ nhắc lại những điều một số đồng nghiệp nói”. Ông ra lệnh cho Carter làm một dự thảo tổ chức lại bộ thông tin Việt Nam. Carter kêu lên: “Trời ơi! việc đó không thể thực hiện được. Chúng ta không còn thì giờ để làm việc đó”.
Martin thở dài: “Thế thì tôi cho là các đồng nghiệp đã có lý. Khi tôi bảo anh làm việc gì dù là hết sức quan trọng, anh đều xử sự như có một mình anh”.
Sau cuộc nói chuyện một lúc, Martin ra lệnh cho Carter nhân danh sứ quán, nói trên vô tuyến truyền hình rằng Sài Gòn không có nguy cơ bị cộng sản làm đảo chính, người Mỹ vẫn ở lại. Carter bất đắc dĩ phải thực hiện việc đó. Bài nói của anh được ghi trên vidéo, kèm theo bản dịch ra tiếng Việt Nam được phân phát mấy ngày sau đó cho hệ thống truyền hình của chính phủ. Những người Việt Nam xem vô tuyến đều nhìn rõ hình ảnh Carter trẻ khoẻ báo tin mọi sự đều tốt đẹp, trong khi đó lực lượng Bắc Việt Nam chỉ cách Sài Gòn hai kilômét!
Lúc ấy, ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ đã có bản báo cáo của phái đoàn tướng Weyand. Ủy ban an ninh quốc gia phải họp kín 48 giờ để nghiên cứu những kết luận và đề nghị của phái đoàn. Cùng lúc ấy, nhiều nhân vật chính thức bắt đầu đòi phải chú ý đến vấn đề tản cư. Giám đốc CIA, Colby, mỗi lúc càng thêm nghi ngờ về sự sống còn của Sài Gòn. Ông đề nghị tản cư nhanh người Mỹ và người Việt Nam mà tính mạng đang bị uy hiếp. Ông phản đối Martin đã cho rằng một quyết định như thế sẽ gây hoang mang trong kiều dân Mỹ. Schlesinger và chủ tịch hội đồng tham mưu liên quan, tướng George Brown, tán thành việc tản cư nhanh. Nhưng khác với Colby, các ông muốn tản cư người Mỹ và phương tiện chiến tranh hơn là cứu người Việt Nam: Phải phớt tỉnh trước những thực tế đau buồn ấy!
Kissinger phản đối cả hai thái cực. Ông ủng hộ lòng tin vào tương lai của Martin và cho là chưa cần thiết phải tổ chức ngay cuộc tản cư. Nó chỉ làm yếu thêm vị trí của Thiệu, giữa lúc có thêm viện trợ tài chính của Hoa Kỳ để cứu ông ta.
Quan điểm của Kissinger cuối cùng đã thắng. Tuy nhiên, phải chuẩn bị một cuộc tản cư toàn bộ, nhưng cần chờ giải quyết tối hậu. Đô đốc Gayler và đại sứ Martin sẽ làm xong kế hoạch tản cư ngày 19 tháng 4, ngày mà quốc hội (người ta hy vọng) sẽ quyết định về viện trợ tài chính và về sử dụng lực lượng quân đội để bảo vệ cuộc tản cư theo đề nghị của tướng Weyand. Trong khi chờ đợi, Martin phải giảm nhanh số nhân viên để có kiều dân Mỹ chỉ còn 1100 người. Con số này chỉ cần một phi đội nhỏ máy bay lên thẳng là có thể tản cư được nếu việc đó xảy ra.
Chính quyền cũng cần giảm nhẹ điều kiện nhập cư để người Mỹ có thể đem theo vợ, con và cha mẹ là người Việt Nam. Trái với Schesinger. Kissinger cho là nhất thiết phải cứu càng được nhiều người Việt Nam càng tốt, đó là danh dự và uy tín của Hoa Kỳ.
Trước sự ngạc nhiên của đồng nghiệp (và người Pháp), Kissinger tiếp tục bỏ ngỏ cửa chính trị về phía Bắc Việt Nam. Ông cho rằng họ đã nắm mọi chủ bài. Nhưng ông cũng chấp nhận những sáng kiến gián tiếp nhất là một thông điệp ngoại giao gửi cho Liên Xô và Trung Quốc mời họ dự một hội nghị ở Glơnevơ như hiệp định Paris qui định. Ông cũng tán thành việc nhờ Pháp làm trung gian để khôi phục hoà bình ở Campuchia. Nhưng ông từ chối không ra lệnh tản cư tất cả người Mỹ ở Phnôm Pênh.
Chưa bao giờ Kissinger tỏ ra không khoan nhượng, bảo thủ như thế trong các cuộc thảo luận. Không còn chú ý gì đến phép lịch sự, ông tỏ ra thô lỗ đối với Colby và Schlesinger, hai đối thủ chủ yếu của ông. Ông lên án họ: liên tục báo động và xin tản cư với mục đích duy nhất chỉ là để bảo vệ “cái quần” của họ.
Ở Sài Gòn, tướng Smith, tuỳ viên quân sự, được giao trách nhiệm xúc tiến việc chuẩn bị di tản cho sứ quán. Việc này được thực hiện không phải là êm đẹp mà gây ra xung đột giữa các bộ phận. Một cuộc chiến tranh nhỏ bằng điện tín giữa Hoa Thịnh Đốn và nhiều nhân vật có trách nhiệm. Người Mỹ biến nóc nhà thành sân cho máy bay lên thẳng đỗ. Một đội tàu sẵn sàng đậu trong sân. Và Martin tiếp tục lo ngại rằng những công việc ấy làm cho người Việt Nam hoảng sợ và làm mờ hình ảnh Hoa Kỳ. Trong khi đó ở Manila (Philippines), đại sứ than phiền về số người di tản không hợp pháp quá đông đến căn cứ không quân Clark.
Trong khi ở sứ quán Sài Gòn, người ta đấu tranh chống những hạn chế do Martin đề ra, ba sư đoàn Bắc Việt Nam tiếp tục tiến công Xuân Lộc, cách Sài Gòn 60 kilômét về phía Đông Bắc. Trong hai ngày đánh nhau, ngày 9 và 10 tháng 4, hơn một nghìn quả đạn rốc kết và đại bác bắn xuống đây và một trung đoàn Bắc Việt Nam đã vượt qua được hàng rào vào thị xã. Đêm sau, lực lượng chính phủ gồm 25.000 người, gần một phần ba quân đội Nam Việt Nam, phản công, đuổi quân Bắc Việt Nam ra ngoài nhưng họ bắn phá liên tục. Không quân Nam Việt Nam, ném bom từ trên cao, vu vơ, giết hại thêm nhiều người. Đó là một thói quen.
Trước tình hình ấy, Polgar quyết định một lần nữa đề nghị Hoa Thịnh Đốn mở một cuộc vận động chính trị. Sáng ngày 10 tháng 4, John Pittman, người phó của Polgar, gọi tôi đến phòng làm việc, nói với tôi những nét đại cương kế hoạch của ông: lần này, tôi phải làm một bản đề nghị trong đó ghi rõ với tất cả các phương tiện có thể sử dụng được, cũng không thể nào tản cư hết người. Pittman nói khi thấy tôi hết sức ngạc nhiên: “Polgar muốn thuyết phục Hoa Thịnh Đốn là không có con đường nào khác là sự can thiệp chính trị”. Tôi trở về phòng làm việc, bối rối và nản chí. Hoạt động quân sự chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng ngược hẳn lại với ý Polgar. Đáng lẽ phải chú trọng đến việc xin tản cư gấp, ông lại muốn có một sự dàn xếp. Trách nhiệm của tôi là trình bày rõ không còn giải pháp nào khác.
Không cần phải suy nghĩ nhiều để tìm ra lý lẽ hùng hồn ủng hộ quan điểm của Polgar. Trong tình thế hiện nay, không thể nào tản cư được mười vạn người dù bằng đường biển hay bằng máy bay. Bản đề nghị của tôi được gửi về Hoa Thịnh Đốn không qua phòng đánh tin của sứ quán. Nhưng Martin cũng đọc được. Ông bảo tôi ông không hoàn toàn tán thành kết luận của tôi. Ông công nhận có những khó khăn trong việc tản cư, nhất là đối với số đông người Việt Nam, nhưng việc đó không phải là không thực hiện được.
Khi bản đề nghị của tôi tới trụ sở CIA, tôi gần như thất vọng. Suy nghĩ về sự rộng lớn của vấn đề tản cư, tôi lo ngại cho sự thiếu chuẩn bị của chúng tôi và tôi muốn báo cho đồng nghiệp ở Mỹ biết. May quá, tôi không phải tìm xa mới thấy phương tiện. Chiều ngày 10 tháng 4, hai anh bạn Moose và Miessner gọi dây nói cho tôi. Họ còn ở Sài Gòn điều tra cho ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Họ yêu cầu tôi cung cấp thêm tin tức để làm bản báo cáo cuối cùng trình quốc hội.
Tối hôm ấy, ba chúng tôi gặp nhau ở quán cà phê khách sạn Majestic, gần cảng. Uống xong cốc rượu, tôi trình bày với các bạn những nét lớn của tình hình. Quân Bắc Việt Nam tiến công Xuân Lộc. Tin tức mới nhất cho biết cuộc tiến công vào Sài Gòn sẽ nổ ra vào ngày gần nhất là giữa tháng tư. Kế hoạch tản cư của sứ quán, không kể phần của phái bộ quân sự, khá vu vơ, viển vông.
Moose vừa lắng nghe vừa vuốt râu mép. Hai lần, Miessner suýt nghẹn vì miếng thịt trâu. Họ vừa ở Phnôm Pênh hai ngày. Do đó họ chưa biết rõ sự suy sụp của tình hình Nam Việt Nam.
Sau cuộc nói chuyện, họ đến sứ quán, gửi một điện cho cấp trên của họ ở thượng nghị viện, báo tin họ sẽ trở về ngay với nhiều tin xấu. Họ cũng thảo một báo cáo sơ lược về những điều tồi tệ mà nhiều người khác nói với họ. Họ sắp gửi đi qua phòng truyền tin của sứ quán thì Moose, sau khi duy nghĩ thay đổi ý kiến, anh muốn gửi bản báo cáo vào hôm sau, qua sứ quán Manilla để Martin không điểm duyệt được.
Mấy giờ sau khi tôi gặp hai anh bạn, tổng thống Ford nói trước quốc hội phải giảm nhanh số dân Mỹ ở Sài gòn và đề nghị được quyền sử dụng lực lượng vũ trang trong trường hợp tản cư ồ ạt. Ông cũng đề nghị viện trợ tài chính thêm 722 triệu đôla cho Nam Việt Nam. Ông giải thích: số tiền này cho Sài Gòn còn dịp may để tự cứu và cho phép có thì giờ để đi đến một thỏa hiệp chính trị.
Phản ứng của quốc hội rất nhanh và nói chung là không tán thành. Những đề nghị của tổng thống được sử dụng lực lượng vũ trang làm bùng ngọn lửa tranh luận. Nhiều đại biểu quốc hội phản đối về nguyên tắc đề nghị của ông. Nhiều người khác đồng ý dùng lực lượng vũ trang để bảo vệ người Mỹ nhưng họ phản đối nếu lực lượng ấy tham gia vào việc tản cư người Việt Nam. Những điều không rõ của chính phủ là nguyên nhân đẻ ra những ý kiến trái ngược ấy. Bản tường trình của tổng thống Ford đưa ra quốc hội cũng mơ hồ như nghị quyết giả tạo về sự kiện vịnh Bắc bộ năm 1964 đã làm cho Hoa Kỳ mắc nghẽn vào cuộc chiến tranh Việt Nam mà quốc hội không thể làm gì được.
Quốc hội sợ bị bó tay, nhưng những sự kiện diễn ra ở Campuchia sau đó làm cho những điều lo ngại ấy không đáng kể nữa. Sáng ngày 11 tháng 4, quân Khmer đỏ chiếm ba làng phía Bắc Phnôm Pênh và tăng cường bắn phá sân bay. Trước đó, đại sứ Dean điện cho Kissinger, một lần nữa, xin phép được tản cư số nhân viên còn lại. Kissinger lại không đồng ý, cho rằng, cuộc tản cư ấy chưa cần thiết. Một đại diện Hoa Thịnh Đốn lúc ấy đang ở Bắc Kinh để chiều hôm ấy, thảo luận với một nhân vật của chính phủ lưu vong Sihanouk.
Cuộc gặp ấy diễn ra lúc 17 giờ, giờ Bắc Kinh. Người phát ngôn Mỹ, một quan chức bộ ngoại giao, John Holdridge báo cho đại diện Sihanouk biết Hoa Kỳ nay sẵn sàng ủng hộ những nỗ lực của thủ tướng lưu vong để đi đến một cuộc dàn xếp. Vì mục đích đó, sự có mặt của người Mỹ ở Phnôm Pênh vẫn được duy trì. Người Campuchia trả lời Sihanouk sẽ bay đi Phnôm Pênh ngay. Nhưng trong những giờ sau, những cuộc bắn phá của cộng sản đã đóng cửa sân bay Phnôm Pênh. Một lẫn nữa, đại sứ Dean lại van nài Kissinger cho tản cư triệt để. Thấy không còn lối thoát nào khác, Kissinger chấp nhận. Cũng đúng lúc bình minh ngày 12 tháng 4, Sihanouk được tin tình hình quân sự chung quanh Phnôm Pênh rất bi đát, sứ quán phải đóng cửa. Ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ nhanh chóng báo tin cho các vị thủ lãnh ở quốc hội biết: tổng thống, với tư cách là tổng tư lệnh tối cao quân đội, đã cho phép sử dụng máy bay lên thẳng và lực lượng an ninh thủy quân để tản cư những người Mỹ còn lại ở Phnôm Pênh. Chiến dịch “Phượng hoàng bay”, tên mật mã cuộc tản cư ở Campuchia trở thành sự thật.
Phòng lãnh sự quán Phnôm Pênh giữ nhiều chỗ hơn thực tế, dự tính đến hơn ba trăm người đi, kể cả người Mỹ và người nước thứ ba, những ngày trước chưa báo kịp, có thể đến phút chót sẽ đến. Như thế có đủ chỗ để tản cư tất cả.
Máy bay Phantom đầu tiên bảo vệ chuyến đi, bay vào bầu trời Campuchia lúc 8 giờ 34 phút. Một giờ rưỡi sau, những máy bay lên thẳng cỡ lớn CH-53, bắt đầu đến từng đợt, ba chiếc một. Mỗi chiếc đều chở đơn vị an ninh thuỷ quân.
Khoảng trăm người Campuchia đến tập hợp trước cửa sắt chính của sứ quán và trên sân bay gần đấy. Họ không hề sợ hãi. Ở ngoài phố cũng vậy. Phần lớn cho là những máy bay lên thẳng chở quân lính Mỹ đến để bảo vệ thành phố. Họ giúp cảnh binh Khmer điều khiển xe cộ đi lại và kiểm soát đám đông ở gần nơi máy bay đỗ. Đúng trước 12 giờ, đại sứ Dean cuốn tấm cờ Mỹ, cắp dưới nách lên máy bay lên thẳng cuối cùng. Tướng Saukham Khoy, tổng thống lâm thời Campuchia theo sát gót đại sứ. Ngược lại, nhiều nhân vật Campuchia, từ chối không đi. Một người là Sirak Matak nguyên thủ tướng của chính phủ Lon Nol, gửi cho Dean một bức thư giải thích việc từ chối của ông ta: “Thưa đại nhân và thân hữu, tôi cảm ơn về bức thư và về việc ngài dành cho tôi chỗ để đến nơi tự do. Tôi rất tiếc không đi được trong những điều kiện hèn nhát như vậy. Còn về ngài và đại cứu quốc, tôi không bao giờ nghĩ rằng các ngài đã từ chối không bảo vệ chúng tôi nữa. Chúng tôi không có thể làm gì được. Các ngài lên đường, tôi chúc ngài và quí quốc tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời...Tôi đã mắc một sai lầm duy nhất là đã tin vào những người Mỹ!”
Khi máy bay lên thẳng chở đại sứ bay lên, lính thuỷ bắt đầu siết chặt hàng ngũ chung quanh nơi cất cánh. Cũng ngay lúc ấy, pháo binh Khmer đỏ nổ súng vào những ngôi nhà của sứ quán, họ bắn nhiều đạn rốc kết, đại bác, súng cối hơn hai tuần qua. Lính thuỷ vội vàng trèo lên máy bay lên thẳng còn đám đông thì tản ra.
Trong những ngày sau, máy bay vận tải Mỹ thả dù thực phẩm xuống thành phố bị bao vây. Cuối cùng ngày 17 tháng 4, quân cộng sản, đã đánh dọc sông Cửu Long vào chiếm ngoại ô phía Nam thành phố. Ủy ban tướng tá được thành lập để chiến đấu trong những phút cuối, xin ngừng bắn. Đề nghị của họ bị bác. Đài phát thanh bí mật của Khmer đỏ tuyên bố: “Chúng ta đòi tất cả sĩ quan và nhân vật của chế độ bù nhìn Phnôm Pênh mang cờ trằng ra hàng”.
Hôm sau, ở Phnôm Pênh và những tỉnh khác, hằng trăm nghìn người dân nhận được lệnh phải đi ngay và sống ở nông thôn. Cuộc di cư bắt buộc này được tiến hành theo kế hoạch làm từ lâu của Khmer đỏ, đã phá vỡ màng lưới tình báo của Mỹ đặt khắp nước này. Mặc dù đã có dự tính đến sự tan rã của xã hội, nhưng cơ quan CIA ở Phnôm Pênh chỉ lấy thành phố, thị xã làm địa bàn hoạt động sau khi người Mỹ ra đi, đặt ở đấy những đài phát thanh tin bí mật và tổ chức ở đây những nhóm tình báo nhỏ. Khi các thành phố và thị xã bị càn quét, mạng lưới bị hoàn toàn phá vỡ, CIA không còn nhận được tin gì ở Campuchia sau chiến tranh.
Sau khi cộng sản nắm chính quyền, một số người nước ngoài kể cả nhà báo, đều vào sứ quán Pháp trú ẩn. Họ ở đây mấy tuần, giành nhau từng khẩu phần, còn cửa sứ quán Mỹ thì đóng kín không cho người Campuchia vào. Khi Sirak Matak và nguyên thủ tướng Long Boret đến xin cư trú, họ bị từ chối không được vào. Sau này, cả hai đều bị cộng sản hành hình.
Tháng 5 năm 1975, những người ở trong sứ quán Pháp mới đi được Thái Lan. Những nhà báo đi theo họ đã kể lại những chuyện tàn sát và chết đói dã man, rùng rợn.
Bức ảnh đăng trên trang đầu ở Pacific Stars and Stripes mấy ngày sau chiến dịch “Phượng hoàng bay” là ảnh đại sứ Gunther Dean, nét mặt đăm đăm, lá cờ dưới nách, chuẩn bị bước lên máy bay lên thẳng sắp rời Phnôm Pênh. Tôi nhìn bức ảnh một lúc, tự hỏi xem xét mặt ông biểu hiện cái gì: nhục nhã, tức giận hay an ủi. Nếu không có ảnh một lính thuỷ đứng đàng sau thì có thể sẽ là bức ảnh một tư bản ngân hàng giàu có hoặc một kỹ nghệ gia Mỹ, nét mặt nghiêm trang với bộ quần áo xám, sắp lên máy bay riêng để đi dự một buổi họp của những nhà kinh doanh.
Bức ảnh không có vẻ gì bi thảm, không có gì báo trước một nguy cơ sắp xảy ra. Vì cuộc ra đi ấy quá đơn giản nên chúng tôi ở Sài Gòn, thấy không có gì đáng ngại nữa.
Nhưng tình hình hai nơi khác nhau, không thể so sánh được, 1.200 người Campuchia rời nước họ trong ba tuần trước khi có chiến dịch “Phượng hoàng bay”. Còn ở Sài Gòn, số người Việt Nam cần ưu tiên di tản lên tới hàng chục nghìn.
LỊCH SỰ VÔ ÍCH
"TIME" Cover Story on Saigon
Hôm sau ngày Phnôm Pênh thất thủ, nhiều đội đặc công Bắc Việt Nam đi lên phía Bắc, vòng qua Xuân Lộc, theo đường phía Tây, tiến về Biên Hòa và Sài Gòn. Ở đồng bằng, lực lượng cộng sản chọc thủng nhanh chóng tuyến phòng thủ của chính phủ ở phía Bắc và Tây Bắc Cần Thơ, nơi đóng trụ sở lãnh sự quán Mỹ ở Quân khu IV. Song song với chiến thắng ấy, cộng sản đưa ra một lời cảnh cáo cứng rắn, một người phát ngôn Chính phủ Cách mạng ở Tân Sơn Nhất tuyên bố sẽ có tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn nếu Thiệu không từ chức và những cố vấn quân sự Mỹ đóng giả làm dân thường không rút đi ngay.
Khi nghe tin ấy, tôi nói với Polgar: “Có thể Hà Nội muốn ra một tối hậu thư cho bản thân sứ quán. Vì từ lâu, cộng sản đã cho chúng ta là cố vấn quân sự, cho nên, có thể lúc này họ muốn bảo chúng ta, không úp mở “Đi đi nếu không...!” Polgar không hiểu như tôi.
Mấy giờ sau, Hà Nội có vẻ giải thích cho chúng tôi biết. Trong một thông báo, bộ trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam nói rõ: người Mỹ có thể tản cư không cần đến lính thuỷ và máy bay lên thẳng nếu họ đi ngay. Rõ ràng Bộ Chính trị lo ngại về sự có mặt ngày càng nhiều của hạm đội Mỹ ở biển Đông và họ muốn chúng tôi đi càng nhanh càng tốt.
Không đếm xỉa đến những trò ấy, tướng Dũng và Bộ tham mưu của ông, trong một buổi họp vào ngày 14 tháng 4 tại Sở chỉ huy ở Lộc Ninh, đã đề ra nhiều quyết định chính trị quan trọng. Đó là việc nghiên cứu hàng loạt phương hướng mới của Hà Nội, mà cái quan trọng nhất là thay đổi thời gian chiến dịch để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Ít lâu sau cuộc tiến công đầu tiên vào Xuân Lộc, tướng Dũng đề nghị Bộ Chính trị dành cho ông nhiều thì giờ để chuẩn bị tiến công Sài Gòn.Theo hồi ký của ông, lý do hoàn toàn thuộc về chiến thuật. Sư đoàn 18 Nam Việt Nam ở Xuân Lộc đã chống cự mãnh liệt hơn dự kiến, việc chuyển quân từ Quân khu II vào miền Nam đang bị quân của tướng Nghi chặn lại ở Phan Rang. Mặt khác, việc vận chuyển vũ khí, đạn dược vào chưa được nhanh như tướng Dũng mong đợi, và những đơn vị cuối cùng của quân đoàn Bắc Việt Nam chỉ có thể đứng vào vị trí ở Quân khu III sau hơn tuần nữa, nghĩa là không thể đến trước ngày 25/4.
Đứng trước những khó khăn ấy - có lẽ cũng vì lực lượng Mỹ nữa - Bộ Chính trị chấp nhận đề nghị của tướng Dũng. Ông được phép hoãn mấy ngày cuộc tiến công cuối cùng. Theo nguồn tin của chúng tôi, dự kiến là từ ngày 15 đến 19 tháng 4. Ông Lê Đức Thọ trong buổi họp ngày 14 tháng 4, nhắc cho đồng nghiệp biết mùa mưa sắp đến: Chúng ta phải hành động nhanh để hoàn thành nhiệm vụ. Một vài ngày sau, ông Phạm Hùng đề nghị một ngày cuối cùng để giành thắng lợi hoàn toàn: chúng ta phải tiến đánh để giải phóng Sài gòn đúng ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch, ngày 19 tháng 5.
Tướng Dũng không để mất thì giờ vào trận Xuân Lộc, mà đánh vòng thị trấn này. Ông cũng đề nghị Hà Nội dành cho trận đánh Sài Gòn một cái tên lịch sử. Ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng ký vào bức điện gửi cho tướng Dũng: “Đồng ý, chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Sáng ngày 15 tháng 4, pháo binh Bắc Việt Nam bắn phá sân bay Biên Hòa, lần đầu tiên trong chiến tranh, bằng súng tầm xa. Ở phía Đông, sư đoàn thứ tư, tức sư đoàn 325 ở Huế, tham gia mặt trận Xuân Lộc lúc những đơn vị khác bắt đầu tràn qua phòng tuyến bảo vệ của quân chính phủ, ở phía Bắc và phía Nam thị trấn.
Trong khi chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra thì ở Sài Gòn, những người muốn giải quyết bằng thương lượng ra sức hoạt động. Bộ trưởng quốc phòng mới, Trần Văn Đôn, bí mật gặp bạn đồng nghiệp trong chính phủ Cẩn sắp ra đời và thuyết phục họ phải ngừng bắn với bất cứ giá nào. Trong lúc ấy, người Pháp lại thăm dò người Mỹ. Lần này, Merillon nói chuyện với Polgar chứ không nói với Martin vì ông biết trùm CIA ở Sài Gòn rất muốn đi đến một cuộc dàn xếp.
Cuộc thảo luận được tiến hành ngay bên bể bơi câu lạc bộ thể thao, chiều ngày 13 tháng 4, Polgar, mặc áo tắm màu xanh lơ nhạt, đang ngắm nhìn những phụ nữ bơi mặc bikini qua tờ báo Sài Gòn Post thì Pierre Brochand, quan chức ở sứ quán Pháp, lên tới. Ngồi trên một ghế đẩu, Brochand trình bày rõ ràng bằng những nét lớn, quan điểm của chính phủ ông: Người Pháp không cho rằng những phòng tuyến của Sài Gòn sụp đổ trong những tuần tới nhưng họ thấy tình hình quân sự chắc chắn là mất. Cần làm ngay một việc gì để đảm bảo cho một xứ Nam kỳ độc lập sống lại ít nhất trong một thời gian. Người Pháp có những lý lẽ để tin rằng Bắc Việt Nam “không vội vàng” và sẽ chấp nhận việc thành lập một chính phủ hoà bình hoàn toàn trung lập. Một loại cầu bắc tới trật tự cộng sản. Có vẻ họ chấp nhận Minh lớn làm tổng thống, Brochand còn hứa là sứ quán Pháp sẽ bảo đảm tản cư năm vạn người Việt Nam, nếu việc đó cần. Một lời hứa chưa bao giờ thực hiện.
Những lời nói đó lại gây cho Polgar thêm hy vọng. Ông hứa sẽ làm hết sức mình để người Pháp đạt được mục tiêu. Ông và Brochand đều hiểu là phải thuyết phục Martin để đại sứ tin rằng Thiệu là cản trở lớn cho hòa bình và phải thay ngay chính phủ.
Một giờ sau cuộc nói chuyện bên bể bơi, Polgar trở về sứ quán. Ông gọi tôi vào phòng làm việc và bảo tôi làm một bản tường trình, lần này để vạch rõ Thiệu là một trở ngại không thể cho qua được.
Đó không khác nào lời đề trên tấm bia mộ chính trị của Thiệu. Tôi viết: “Những trận thất bại kinh khủng bắt đầu ở Quân khu I và Quân khu II đã chứng tỏ cho hầu hết người Nam Việt Nam, dân cũng như lính, rằng tổng thống nước cộng hòa này không còn được trời phù hộ nữa. Nhiều sĩ quan cao cấp và nhân vật chính trị mong tổng thống từ chức nếu muốn tránh một thất bại quân sự hoàn toàn. Phần lớn họ đứng về phía người ủng hộ một sự thay đổi quyền lực theo hiến pháp. Tuy nhiên, một số người sẵn sàng tìm bất cứ con đường nào khác để có thể đạt được mục đích ấy. Nếu có một cuộc đảo chính thì chính phủ mới sẽ không thể kiểm soát được quân đội và sẽ không có phương tiện để duy trì luật pháp và trật tự”.
Sáng hôm sau, ngày 14 tháng 4, Trần Văn Đôn nói cho những người lạc quan biết thêm những lý lẽ bổ sung để họ hy vọng. Trong một buổi viếng thăm sứ quán, với tư cách cá nhân, ông báo cho Martin biết ông ta vừa gặp đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời, người này khẳng định rằng một sự dàn xếp thương lượng có thể được thực hiện. Người này nói ba vấn đề: 1) Đôn thay Thiệu rất tốt. 2) Cộng sản không phản đối việc tản cư người Việt Nam. 3) Hoa Kỳ có thể duy trì một sứ quán nhỏ ở Sài Gòn với điều kiện tất cả những nhân viên không chính thức khác phải ra đi.
Những lời ấy làm tôi thắc mắc. Chúng được tung ra quá đúng lúc và phục vụ quyền lợi của Đôn quá nhiều. Chúng làm cho tôi nhớ lại những điều người Pháp muốn làm cho chúng tôi tin. Tôi nghi Merillon chứ không nghi cộng sản đã mớm những lời ấy.
Polgar không tán thành ý kiến tôi. Martin cũng thế. Tuy nhiên, những tin tức của Đôn, cộng với những lời nói của Brochand và những vấn đề tôi nêu trong báo cáo đã làm cho đại sứ rất chú ý. Chiều 14 tháng 4, đại sứ quyết định đề nghị với Hoa Thịnh Đốn cái việc mà cho đến nay, tưởng như không thể nào có được: Thiệu phải ra đi, đó là bước đầu đi đến ngừng bắn.
Nhưng sáng hôm sau, ông lại gửi cho Nhà Trắng một bức điện, trong đó ông trình bày một ý rất lạ. Nhắc lại nhiều đoạn trong bản báo cáo của tôi, ông nhấn mạnh sự yếu kém của Thiệu và báo rằng sự phản đối có thể nhanh chóng nổ ra chống lại ông nếu viện trợ tài chính bổ sung không đến ngay. Rõ ràng ông không đòi Thiệu phải đi ngay, nhưng ông muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiệu không còn ích gì cho chính sách của Hoa Kỳ.
Trong phần cuối bức điện, Martin cố gắng làm yên lòng Hoa Thịnh Đốn về tiến triển của kế hoạch tản cư. Ông khẳng định đã sẵn sàng tản cư hai trăm nghìn người bằng tàu biển, máy bay và đường bộ và ông giảm bớt những khó khăn của tình hình chung. Một lần nữa, đề cập đến tiềm lực kinh tế của Quân khu III và Quân khu IV, ông quên không viết về sự sụp đổ hoàn toàn của quân đội, tuy nhiên, ông công nhận người Mỹ sẽ có những ngày khó khăn trong một thời gian. Điều đó không ngăn cản ông đề nghị chính phủ Hoa Kỳ cấp cho Nam Việt Nam một viện trợ năm năm, làm như nước này còn có thể sống được nhiều năm nữa! Mặc dù có những điểm ngoắt ngoéo ấy, bức điện cũng thể hiện một bước ngoặt đáng kể của Martin và vị trí tương lai của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng bức điện không gây cho Hoa Thịnh Đốn phản ứng mà Martin và Polgar mong muốn. Vì dự thảo luật viện trợ 722 triệu đôla vẫn còn đang được bàn cãi ở quốc hội, chính phủ hoãn một, hai ngày nữa mới có quyết định về số phận Thiệu.
Tuy có những bảo đảm của Martin đối với Nhà Trắng, sự chuẩn bị của chúng tôi cho một cuộc tản cư triệt để tiếp tục kéo dài lê thê. Đến ngày 15 tháng 4, mới có 1.500 người Mỹ đến được căn cứ không quân Clack nhờ quân đội chuyên chở từ Sài Gòn đến Philippines. Họ rất ít đi máy bay dân dụng.
Những thể lệ hành chính kéo dài việc tản cư nhất là những điều hạn chế người Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ. Người Mỹ đã lập nghiệp lâu ở Việt Nam không muốn đi nếu họ không được phép đưa vợ, những cô bạn nhỏ và con bất hợp pháp của họ về.
Chính phủ đang tìm một giải pháp. Chiều 14 tháng 4, sứ quán được báo tin, cơ quan nhập cư Hoa Kỳ đã cho phép mọi người Việt Nam vào Mỹ nếu người Mỹ lấy danh dự thề rằng có một người thân là người Mỹ ở Việt Nam. Trong mấy giờ, Al Francis, làm việc kín đáo một mình, đã thuyết phục được bộ trưởng nội vụ Sài Gòn, giảm nhẹ điều kiện để di cư. Đáng lẽ phải có dấu xuất cảnh hay hộ chiếu, người Việt Nam chỉ cần chứng minh có một người Mỹ đỡ đầu là nhận được giấy phép ra đi.
Khi tướng Smith biết tin ấy, ông triệu tập ngay những nhân viên giúp việc không cần thiết và làm hợp đồng, khuyên họ nên lợi dụng thời cơ ra đi ngay. Đáng tiếc không ai nghe ông cả. Phần lớn nhân viên của ông cho là một khi thể lệ được giảm nhẹ thì rồi sẽ có những quyết định quan trọng hơn. Họ ở lại định chờ cho đến khi việc tản cư ồ ạt người Việt Nam không còn gặp trở ngại gì mới ra đi. Điều bất hạnh đã xảy ra. Lời thề danh dự do cơ quan nhập cư yêu cầu cấm người Mỹ ở ngoài Việt Nam không được đứng ra bảo lãnh người Việt Nam. Hạn chế ấy gây một làn sóng bất ngờ. Chỉ một, hai ngày, hàng trăm công dân Mỹ sống ở Hồng Kông, Bangkok, Singapour kéo đến Sài Gòn để kết hôn hay sống hợp pháp với những cô bạn nhỏ hoặc nhận nuôi những trẻ em Việt Nam. Bên cạnh những người tốt bụng, có khá nhiều kẻ lợi dụng việc “nhận nuôi” người Việt Nam để làm tiền, lấy vàng. Phải mất hàng nghìn đôla, mươi lạng vàng mới được họ bảo lãnh như thế. Lại còn nhiều binh lính trong quân đội Mỹ, đào ngũ nhiều năm qua, nay bất ngờ xuất hiện trước sứ quán với những người phải nuôi, xin ghi tên tản cư. Kết quả, chỉ trong một, hai ngày, danh sách người Mỹ xin ra đi lên tới hơn một nghìn người.
Để mong chấm dứt tình hình trên, tướng Smith đề nghị với Martin nói với chính quyền Thiệu ra tuyên bố: tất cả những người Mỹ không nỗ lực tham gia vào chiến tranh, đều không đủ tư cách “nhận nuôi” người Việt Nam, nhưng Martin bác đi, sợ quốc hội hiểu lầm.
Ít lâu sau chiến dịch “Phượng hoàng bay” ở Campuchia, Martin nói với một nhà báo: không khi nào ông để cho người Mỹ tản cư nếu những người Việt Nam giúp việc ở sứ quán chưa được đi. Nhưng lúc bấy giờ, kế hoạch tản cư người Việt Nam do chúng tôi thảo chưa làm xong. Họ quá đông, Martincho rằng một cầu hàng không xuất phát từ Tân Sơn Nhất không thể nào chở hết. Do đó, ông sự kiến đến ngày E, sẽ cho những người Việt Nam đi Vũng Tàu, một thanh phố bên bờ biển, ở đó, tàu và máy bay lên thẳng của Hoa Kỳ sẽ đón họ. Nhưng giải pháp ấy cũng không chắc chắn. Như tôi đã nhấn mạnh trong bản nghiên cứu mới đây của tôi về triển vọng cuộc tản cư, không có nhiều hy vọng đi được con đường ấy vì khi tiến đánh Sài Gòn, cộng sản hay quân đội họ sẽ chặn quốc lộ Sài Gòn - Vũng Tàu.
Trong những ngày qua, tướng Smith và nhân viên của ông bắt đầu cho tản cư không ồn ào những người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy hiếp nhất.
Chiều 15 tháng 4, tuỳ viên không quân đại tá Mc Cardy đã làm một lịch tối mật những “chuyến bay đen”, nghĩa là ông đã thương lượng được với nhân viên an ninh Việt Nam ở Tân Sơn Nhất cho người Việt Nam bí mật lén vào đường băng càng nhiều càng tốt. Để trả công, ông sẽ dành cho gia đình các sĩ quan những chỗ trên máy bay.
Giữa lúc đó, hai nhân viên sứ quán Bob Lanigan và Mel Chatman, lúc trước làm việc ở Nha Trang và Đà Nẵng, đưa một đoàn sà lan cũ đến đậu ở cảng mới, bên ngoài Sài Gòn đề phòng khi tới ngày E, lại thiếu những phương tiện vận tải khác. Smith và cộng tác viên của ông chế nhạo họ, cho rằng sà lan và tàu kéo không thể nào chạy được trên sông khi cuôc tản cư diễn ra lộn xộn và ồ ạt.
Lanigan và Chatman không phải là những người duy nhất trong sứ quán tìm cách cải thiện kế hoạch tản cư. Marvin Garrett, sĩ quan an ninh và nhiều đồng nghiệp của anh cùng tham gia việc này, một việc mà giới quân sự không biết: thu xếp, dọn dẹp những ngôi nhà trong sứ quán để đón được nhiều người tản cư trong ngày E. Họ dựng một hàng rào sát trên đường từ sứ quán đến sân chơi và mắc dây thép gai lên tường chung quanh sứ quán.
Rồi Garrett và đồng nghiệp anh duyệt lại kế hoạch tản cư không cho phái bộ quân sự biết. Công việc ấy đáng tiếc không có kết quả. Sáng 15, tôi nhận được nhiều tờ giấy stencils đánh máy kế hoạch của họ đặt trong phòng họp. Tôi nhặt một tờ, đọc kỹ thì thấy hỏng, Garrett đã sửa đổi kế hoạch đến mức nếu sáng đó là ngày E thì hàng trăm người Mỹ bị bỏ lại.
Tôi chạy lên phòng làm việc của đại sứ và quăng bản kế hoạch cho Brunson Mc Kinley, một viên chức trẻ của bộ ngoại giao từ Quân khu I về, nay được làm thư ký riêng cho Martin. Tôi nói nghẹn ngào: Ai cho phép phân phát cái này? Tái mặt, Kinley trả lời anh không biết gì cả.
Một lúc sau, Garrett được gọi lên phòng làm việc của Martin. Không biết họ nói với nhau những gì. Một giờ sau, lò sưởi đặt trên mái nhà ngốn cháy hàng trăm bức điện.
Giữa mớ bòng bong ấy, Polgar tỏ ra dè dặt một cách lạ lùng. Càng ngày càng bị những hứa hẹn về một giải pháp chính trị ám ảnh, ông không thiết gì đến kế hoạch tản cư của cơ quan ông. Ông biết rằng những người trong chúng tôi muốn cho người Việt Nam di tản nên đã cung cấp cho họ nhiều giấy tờ giả mạo, nhưng không khuyến khích cũng không chê trách gì.
Trong khi người Mỹ chật vật với những vấn đề tản cư thì người Việt Nam mất dần hy vọng và ảo tưởng. Chính phủ mới, chính phủ Cẩn được thành lập ngày 14 tháng 4, nhanh chóng trở thành một trò cười. Người ta nhạo báng: Rượu cũ, bình mới. Còn bản thân Thiệu, ông ta có vẻ xa dần thực tế. Ông chỉ có một quyết định quan trọng từ ngày cộng sản tiến công Xuân Lộc: Ra lệnh đóng cửa - tạm thời - những “bar” và phòng xoa bóp ở Sài Gòn để dành tiền mua vũ khí.
Sự hoang mang của giới chính trị cao cấp dẫn theo ngay chủ nghĩa thất bại ngày càng lớn trong mọi tầng lớp xã hội. Có người nói: “Chiến tranh và thất bại. Mất hết. Kể cả tôn giáo Cộng sản sẽ nắm chính quyền”.
Chiều 15 tháng 4, tôi viết trong sổ tay: khá bận. Luôn luôn căng thẳng. Ngày dài. Tôi gầy đi. Sáng sáng, vào sáu giờ, tôi thấy trên bàn làm việc những bản báo cáo ma đưa đến ban đêm.
Lạ lùng, ảnh hưởng của sự căng thẳng. Tôi thấy có thói quen xấu là thích dùng vũ khí. Mỗi buổi chiều, tôi dành mấy phút để kiểm tra lại súng và xếp lựu đạn ở khắp phòng. Thích điệu rock, thích Joe Cocker, Neil Diamond và nhất là thích điệu nhạc buồn của phim Jonathan Livingston Seagull. Chập tối, tôi mở nhạc thật to để mong đỡ căng thẳng.
Vô ích, mọi cái đều báo hiệu: đã hết. Hôm qua, tôi đi qua bể bơi của sứ quán, mặt nước đầy tro giấy tờ bí mật đốt ở lò sưởi.
Những đồng nghiệp của tôi đã chứng kiến Đà Nẵng hay Phnôm Pênh trong những giờ chót đã thấy xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của sự bao vây mà họ quá biết. Ngoài phố, những đám ăn xin ngày càng tỏ ra hung dữ. Chúng bám lấy khách bộ hành. Bám vào cửa xe hơi. Có cảm tưởng người ta tìm bán đến chiếc áo sơ mi cuối cùng. Chợ kẻ cắp dọc đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi, đầy hàng xa xỉ bán giá rẻ. Tủ lạnh, máy điều hòa không khí, máy thu thanh, truyền hình. Hàng hoá lớn không thể cho vào một chiếc va ly cũng có thể mua được ở đây, bằng một phần ba hoặc một phần tư giá bình thường. Hơi xa một chút, trên đường Pasteur hay Tú Xương những biệt thự cũ, đẹp theo kiểu Pháp không còn ai ở. Chủ nhà đã vội vàng đi rồi.
Đối với những người Việt Nam không có bạn bè, người bảo lãnh là người Mỹ, thì giá chuyến đi đắt kinh khủng. Trong hai tuần, tiền đút lót để có một dấu xuất cảnh hay một hộ chiếu tăng từ năm trăm lên ba nghìn đôla. Giá vàng nhảy vọt 725 đôla một lạng, nhưng rất ít người buôn Trung Quốc ở Chợ Lớn nhận bán vàng. Phần lớn họ giữ vàng lại, cho rằng vàng cũng có giá trị hợp pháp trong xã hội cộng sản. Ít người còn tin tưởng vào đồng đôla Mỹ. Mặc dù lúc này, nó vẫn giá trị hơn đồng bạc. Chỉ trong năm ngày, trên chợ đen, giá một đôla đã tăng từ 1200 lên hai nghìn đồng.
Thiết quân luật từ 21 giờ. Bạn bè và đồng nghiệp người Việt Nam đến làm việc từ sáng. Bữa ăn lót dạ là lúc chào nhau và trao đổi công việc ngoài giờ hành chính. Quan hệ cá nhân trở nên khó khăn. Phải cẩn thận, không được gây cho cô bạn nhỏ hoặc người quen biết sự lo lắng, không được nói rõ sự thật trần truồng cho họ biết, bất cứ ở đâu. Người ta nói xa xôi, bóng gió, úp mở, dùng những ẩn dụ, liên tưởng đến những thời kỳ khó khăn sau này, nói về sự cần thiết phải nhớ đến người Mỹ, đề phòng cái gì sẽ xảy ra v.v...
Người Việt Nam đều khôn ngoan. Không ai đề nghị công khai hay giúp đỡ để di tản mà họ tỏ ra khéo léo hơn. Thoạt đầu họ nói: ông làm ơn đổi cho tôi mấy đồng bạc, giá cả lên, ngân hàng giữ tiền lại. Tôi mong có mấy đôla bỏ túi đề phòng khi cơ nhỡ. Thế là, anh sa vào việc buôn đôla, đổi đồng bạc lúc nào không biết. Anh đã giúp người này, người khác có một số vốn nhỏ có thể cứu người ấy.
Không phải có luật lệ bị vi phạm. Người Việt Nam lúc nào cũng dè chừng, nay bắt đầu tin anh. Họ nói chuyện gia đình, làm ăn, tình yêu và nhất là xu hướng chính trị của họ mà trước đây họ thường giữ kín cẩn thận. Họ nói họ không ghét cộng sản nhưng họ sợ! Họ đã ở lâu với người Pháp, người Mỹ sống quen với chính quyền Thiệu, họ thấy khó chịu khi phải sống dưới một chế độ khác. Có thể sự thay đổi mang lại hạnh phúc cho nông dân nhưng còn họ, thì sẽ ra sao đây?
Dù nghi ngờ hay cứng rắn đến mấy, cũng không thể không nghĩ rằng, họ có lý. Thật vậy, ngày càng dễ có một nhận định xấu đối với người chiến thắng trước những lời phản tuyên truyền của chính phủ. Nhiều nét tỏ rõ khả năng của kẻ thù, tính tự chủ của họ trước khi lựa chọn một công việc. Những người tị nạn từ Quân khu I và Quân khu II đến kể lại rằng Bắc Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quân quản ở những thành phố chiếm đóng.
Những chuyện khủng bố dã man được trí tưởng tượng của đài phát thanh Sài Gòn báo chí địa phương và sứ quán Mỹ thổi phồng lên. Theo lệnh của đại sứ, cố vấn chính trị Joe Bennett đã làm một báo cáo giả nói là của một nhà sư ở Buôn Mê Thuột gửi về để vu khống cộng sản. Bản báo cáo viết: “Ở đây chúng lột móng tay phụ nữ, chặt ủy viên hội đồng thị xã ra từng mảnh...”. Một cộng tác viên trẻ của Bennett sau này kể lại với tôi như thế trong một buổi chiều. Tin ấy sẽ làm cho nhiều đại biểu quốc hội suy nghĩ.
Nhiều người Việt Nam cho những chuyện ấy là đúng, nhất là từ ngày phải chạy trốn khỏi Campuchia. Một buổi chiều, Tư Hà hỏi tôi: có thật cộng sản hành hạ phụ nữ đã đi lại với người Mỹ không? Tôi trả lời không và nói chuyện khác. Sau này tôi trông thấy cô ta, đứng ở cửa sổ, khoái trá nhìn những ánh lửa pháo binh cộng sản bắn vào sân bay Biên Hoà. Từ đó tôi đâm nghi ngờ. Trừ những viên chức trẻ ở văn phòng, Bennett bị nhồi sọ quá nhiều, không ai tin rằng sẽ có một cuộc thanh trừng lớn khi cộng sản nắm chính quyền.
Cộng sản cũng nói rõ chính sách của mình. Từ đầu tháng tư, đài phát thanh Giải phóng tuyên bố sẽ khoan hồng đối với những người hối cải về hoạt động của họ chống chính phủ cách mạng và sẽ nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng.
Tôi không muốn đem tính mạng mình ra chơi với những trò mập mờ ấy. Tôi có quyền chơi bằng tính mạng người khác không? Bạn bè và hàng xóm ở cùng ngôi nhà với tôi đã trang bị vũ khí để chiến đấu tới cùng. Mấy ngày trước, tôi nhận cùng với Joe Kingsley bảo đảm an ninh cho ngôi nhà và đến ngày E, bảo vệ mái nhà làm nơi dành cho máy bay lên thẳng hạ cánh. Nhưng ngay từ bây giờ, buổi tối trở về, chúng tôi đã lên mái nhà để chỉnh lại đường ngắm của súng M-16 và chuẩn bị những nơi trú ẩn đề phòng những kẻ bắn lên. Ngôi nhà được dành làm nơi tập hợp của phái bộ quân sự. Do đó, sự kiện đến ngày E, sẽ có hàng trăm người Việt Nam tức giận đến bám vào cửa sắt ra vào.
Trong khi đó, ở sứ quán, mọi người sống như nhà có đám tang. Người nghiện rượu uống từ lúc bình minh. Nhưng người khác nhai thuốc an thần như nhai kẹo. Riêng tôi, tôi cố không uống nhiều chất cay và không dùng thuốc an thần. Tôi không muốn bối rối hơn những ngày thường.
Joe và tôi, hai đứa cố gắng, nhưng vô ích, tỏ ra bình tĩnh trước mặt đồng nghiệp Pat đã quá bi quan. Nhưng mỗi lần: Joe đến, hai tay ôm đầy vũ khí, đạn dược, bà không thể không chế nhạo anh ta: “Păng, păng, păng. Chiến sĩ chúng ta đã trở lại”. Thường, Joe trả lời bà bằng một nụ cười hay đưa cho bà một mũ sắt hay một trái lựu đạn. Sáng nay, bà đáp lại: “Không, cảm ơn” trong khi đó Joe đặt một khẩu súng liên thanh Thompson lên bàn. Tôi giảng hoà: “Sân bay có thể đóng cửa bất cứ lúc nào. Vũ khí của anh chẳng dùng làm gì cả.”
Chiều 15 tháng 4, lúc tôi ghi những giòng chữ cuối cùng thì tình hình càng tồi tệ. Chập tối, nhiều trận đánh lớn, ác liệt diễn ra trên đường số 14, cách Sài Gòn 38 kilômét về phái Đông Nam. Ở phía đông, máy bay lên thẳng đang chở quân chính phủ rút khỏi Xuân Lộc đã trở thành cái lỗ cho đạn đại bác. Một sư đoàn xe bọc thép đang phòng thủ ở phía Bắc thủ đô, được chuyển đi để giải toả con đường nối Xuân Lộc với Biên Hòa và Sài Gòn. Việc pháo kích sân bay Biên Hòa đã ngăn chặn máy bay còn lại ở đấy không cất cách được.
Sáng hôm sau lực lượng Bắc Việt Nam chuẩn bị một trận đánh mới. Quân của tướng Dũng sau khi chiếm Nha Trang, Cam Ranh, trên bờ biển, đang bao vây sở chỉ huy của tướng Nghi ở Phan Rang, phía Nam Quân khu II.
Mấy ngày trước, CIA điện cho một nhân viên ở Phan Ranh bắt liên lạc với bộ tham mưu của Nghi. Anh ta đang ở trên đường hành quân của 25.000 quân Bắc Việt Nam. Lew James, con người không gặp may ấy, là một tình báo trẻ, 15 ngày trước, đã từ chối không rời Nha Trang trước khi làm hết sức mình để cứu nhân viên CIA người Việt Nam ở địa phương. Polgar quyết định một lần nữa sử dụng lòng dũng cảm của anh và đổi đi công tác ở bộ tham mưu tướng Nghi.
Mọi việc diễn ra nhanh hơn dự kiến. Sáng 16 tháng 4, tôi vừa đọc xong tin tức nhận được ban đêm thì có một tin radiô do James điện về. Tôi vội cùng Joe Kingsley chạy đến phòng nhận tin. Liên lạc rất xấu, nhưng James chỉ biết anh đang trú trong một bunker với Nghi và tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn không quân thứ sáu. Anh cho biết: mọi việc tốt đẹp, xe tăng Bắc Việt Nam đang tiến công vùng ngoại ô. Joe trả lời sẽ cho máy bay lên thẳng đến cứu. James nói: Không cần thiết. Chưa đến lúc phải làm thế. Quân Nam Việt Nam còn cầm cự được. Và Nghi có máy bay lên thẳng riêng
Lúc đó, Howard Archer, nguyên trưởng chi nhánh CIA ở Nha Trang đến. Anh dằng lấy micro và đòi James cho biết rõ tình hình. Anh ra một quyết định làm tôi và Kingsley ngạc nhiên: James phải ở lại, ít nhất lúc này. Nhưng cứ nửa giờ James phải cho chúng tôi biết tình hình. Đó là chuyến liên lạc bằng radiô cuối cùng với Lew James.
Mấy giờ sau, khi quân cộng sản chiếm được Phan Rang, họ bắt James, Nghi và Sang. Đài phát thanh giải phóng báo tin rất nhanh bắt được hai tướng Việt Nam nhưng không nói gì về người Mỹ. Việc đó có nghĩa là có thể James đã trốn thoát, có thể anh bị chết. Thật ra, Bắc Việt Nam muốn giữ yên lặng cho đến khi biết rõ căn cước của anh ta.
Điều đó đối với họ tương đối dễ. Nhưng phần đông chúng tôi, James được cử sang Việt Nam dưới một danh nghĩa khác. Trên thẻ căn cước chính thức của anh có ghi: quan chức bộ ngoại giao bổ sang làm nhân viên sứ quán Mỹ. Danh nghĩa ấy rõ nhất. Các nhà báo, nhà chức trách Việt Nam và những người muốn biết tông tích nhân viên CIA làm việc ở sứ quán từ lâu đã biết rõ bí mật này.
Hôm sau ngày James bị bắt, sĩ quan Bắc Việt Nam bắt đầu hỏi cung anh. James không khai gì, chỉ trả lời: không biết tí gì về tình hình chung. Một tuần sau, James và hai tướng Việt Nam được chuyển ra Hà Nội giam ở Sơn Tây cùng với nhiều phi công Mỹ đã bị giam ở đây hàng năm nay. Bắc Việt Nam tiếp tục hỏi cung James. Họ có cả một hồ sơ lớn về anh, gửi từ Lào sang, nơi trước kia James công tác. Hồ sơ ghi rõ anh là nhân viên tình báo CIA. Từ đó, James không thể trả lời là không biết gì về CIA, về các nhân viên và hoạt động của cục tình báo trung ương Mỹ.
Sáu tháng sau khi Nam Việt Nam thất thủ, Hà nội thả James cùng với mấy người phương Tây bị bắt ở Buôn Mê Thuột nhờ một cuộc “dàn xếp về nghề nghiệp” do CIA phối hợp với một tổ chức tình báo khác ở phương Tây tiến hành. James thật sự là nhân viên tình báo CIA cuối cùng ở Việt Nam.
TRONG TRƯỜNG HỢP BI ĐÁT NHẤT
Khi tin James mất tích loan ra khắp cơ quan CIA ở Sài Gòn, nhiều bạn vội vàng lên máy bay lên thẳng, đi tìm anh dọc bờ biển từ Vũng Tàu đến Phan Rang suốt 48 giờ sau. Cuộc tìm kiếm vừa vô ích vừa nguy hiểm. Lực lượng Bắc Việt Nam lúc này hành quân suốt ngày dọc bờ biển, đặc biệt không thích tiếng gầm rú của máy bay không quân Mỹ. Có một lúc, một máy bay hai động cơ Volgar bay quá thấp trên đầu họ, dọc con đường phía Bắc Phan Thiết, đã bị súng AK-47 của họ bắn thủng. Viên phi công bất chấp nguy hiểm, vội nhảy dù xuống một bãi biển cách đó mấy kilômét. Một máy bay Huey của không quân Mỹ vội đi cứu, cứu được cả nhân viên CIA cùng đi với người lái. Một tiếng nói trên hệ thống radiô Diamant báo tin: không ai việc gì. Từ đó, Polgar từ chối không dám mạnh dạn cho người đi tìm kiếm nữa.
Trong khi đó, ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ gặp thêm nhiều khó khăn. Cuộc vận động hòa bình gián tiếp của Kissinger không có kết quả. Liên Xô và Trung Quốc đều từ chối không triệu tập một hội nghị quốc tế mới bàn vấn đề hoà bình ở Đông Dương như Nhà Trắng yêu cầu.
Chủ nghĩa bi quan, ngay cả chủ trương thất bại nữa đã tràn vào bộ máy cai trị, Habile và Ingersoll, cố vấn chính của Kissinger, đều rất bối rối về sự đánh giá của Martin, hay đúng hơn là về việc đại sứ thiếu sự đánh giá. Bill Hyland, trưởng ban tin tức bộ ngoại giao, vừa tuyên bố rằng Nam Việt Nam chỉ còn giữ được mấy ngày nữa. Những cán bộ nhận định tình hình ở bộ quốc phòng nói riêng với các nhà báo: bộ tổng tư lệnh Sài Gòn chắc chắn không thể thu thập được tàn quân chạy từ Quân khu I và Quân khu II về để ngăn chặn cộng sản, giành chiến thắng cuối cùng.
CIA và những người nhận định tin của bộ quốc phòng đặc biệt lo ngại về tin báo tên lửa Sam-2 đã xuất hiện trong Quân khu III. Nếu Bắc Việt Nam đặt xong tên lửa ở vùng phụ cận Sài Gòn thì mọi cuộc tản cư bằng máy bay ở đây không thể nào thực hiện được.
Nhiều ngày qua, các hệ thống vô tuyến truyền hình, báo chí đều nói Nhà Trắng xúc tiến việc tản cư nhân viên người Việt Nam ở Sài Gòn. Các cơ quan thông tin đều nhất trí cho rằng một mình Martin không thể điều khiển được việc này. Quốc hội cũng bắt đầu lo ngại. Rõ ràng là chính phủ muốn giữ kiều dân Mỹ ở lại Sài Gòn để buộc quốc hội phải thông qua luật bổ sung viện trợ cho Việt Nam và hợp pháp hoá sự can thiệp của quân đội Mỹ.
Bản tường trình do các bạn tôi: Dick Moose và Chuck Miessner, làm theo lệnh của ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện, giữ một vai trò quan trọng hàng đầu. Ngày thứ hai, 14 tháng 4, chỉ mấy giờ sau khi họ trở về Hoa Thịnh Đốn, họ đã báo cho ủy ban kết quả cuộc điều tra, sự khám phá của họ. Dựa vào những tài liệu của tôi và nhiều người khác cung cấp ở Sài Gòn, họ dự đoán quân cộng sản sẽ chiếm vùng phụ cận Sài Gòn từ nay đến ngày 1 tháng 5.
Vạch rõ sự phản đối chống Thiệu ngày càng tăng và sự căm ghét mỗi lúc một lớn đối với kiều dân Mỹ, họ nói rằng ngay ở sứ quán cũng có một nhóm người tán thành tản cư cấp tốc. Tuy nhiên đại sứ Martin và quan chức cao cấp của ông không đồng ý với tính chất cấp tốc ấy. Họ đề nghị với quốc hội can thiệp với chính phủ bỏ ngay những hạn chế về việc nhập cư trước khi bỏ phiếu về viện trợ tài chính cho Việt Nam. Điều đó trái với chính sách của Kissinger. Hai anh bạn tôi cũng đề nghị hoãn cuộc tranh luận về việc sử dụng lực lượng vũ trang cho đến khi hầu hết người Mỹ đã rời Sài Gòn vì rằng: “nhiều phần tử trong nhân dân Việt Nam đã quá tức giận, có thể rất khó chịu về cuộc tranh luận ấy”. Còn về viện trợ tài chính thì không có ai, kể cả giới quân sự Việt Nam nghĩ rằng, viện trợ bổ sung có thể đảo lộn được tình hình đang diễn ra!
Hai người cũng không lạc quan về triển vọng của một cuộc đàm phán. Họ trình bày rằng: “Cuộc đàm phán chỉ dẫn đến việc thảo luận những điều kiện đầu hàng, việc thành lập một đầu cầu chống lại chính phủ hiện nay”. Nhưng họ nói vẫn có thể thử xem.
Sau khi họ đọc xong tham luận, thượng nghị sĩ Clifford Case gọi Nhà Trắng, đề nghị với tổng thống tiếp xúc ngay với ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Sau đó, tất cả các ủy viên họp ở phòng bầu dục. Trong buổi họp, họ đề nghị bỏ phiếu chuẩn y một số tiền nhỏ làm viện trợ nhân đạo và cho phép sử dụng quân đội để bảo vệ người Mỹ tản cư, với điều kiện việc tản cư được tổ chức trong những thời hạn nhanh nhất. Ford tránh né. Ông từ chối không cam kết tôn trọng ngày giới hạn và không đồng ý buộc việc viện trợ bổ sung, việc sử dụng quân đội phải phụ thuộc vào việc tản cư hoàn toàn người Mỹ. Ông cũng không muốn nghe thấy từ nghĩa vụ đối với người Việt Nam muốn di tản.
Kissinger và các đồng nghiệp ông trong chính phủ tìm hết cách để làm yên lòng quốc hội nhưng họ vẫn mong số tiền 722 triệu đôla được chuẩn y, họ không muốn bỏ Thiệu như giải pháp của Martin.
Sáng 15 tháng 4, chỉ mấy ngày sau khi Martin điện cho Nhà Trắng, Kissinger và nhiều nhân viên chính phủ mở cuộc tiến công cuối cùng vào quốc hội. Kissinger cũng làm việc gần cả ngày với ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Ông tìm ra một lý lẽ mới: “Số tiền chúng tôi yêu cầu sẽ giúp chính phủ Nam Việt Nam thương lượng với những điều kiện gần như tự trị”. Có người hỏi: như thế nghĩa là thế nào, ông giải thích: “Tôi đặt giả thuyết là họ (người Nam Việt Nam) mong thực hiện những điều khoản của Hiệp định Paris qui định sẽ thành lập một hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc”. Điều đó không phải giải thích dài. Không ai, kể cả người Pháp dám nghĩ rằng cộng sản nay sẵn sàng liên hiệp tay ba. Bản tường trình của chúng tôi về ý đồ cụ thể của Hà Nội, ngày 8 tháng 4 đã loại trừ hẳn trường hợp này. Kissinger đã lấy nguyện vọng của mình làm sự thật.
Trình bày trước ủy ban, tướng Weyand nói: nếu không có viện trợ bổ sung, Sài Gòn sẽ sụp đổ trong một tháng. Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger lấy danh nghĩa cá nhân, còn đưa ra một giả thuyết đen tối hơn. Theo ông, nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể hai trăm nghìn người Việt Nam sẽ bị giết. Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Stars and Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm, làm cho người Việt Nam càng thêm hoảng sợ.
Ở Hà Nội, ban lãnh đạo Đảng khai thác tình hình ấy khá mềm dẻo làm cho Hoa Thịnh Đốn càng thêm bối rối. Có vẻ họ muốn đẩy quốc hội nhanh chóng có quyết định về cuộc tản cư nên bộ trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam ngày 10 tháng 4 tuyên bố: quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho cố vấn Mỹ rút về nước bình yên vô sự.
Đại sứ Martin theo dõi diễn biến ở quốc hội với tâm trạng đau khổ. Ông cho rằng nếu chính phủ Hoa Kỳ xúc tiến việc tản cư thì lâu đài bằng bìa giấy Sài Gòn sẽ sụp đổ. Đối với ông, không có lựa chọn nào khác là tranh thủ thời gian cho đến lúc quốc hội có quyết định về viện trợ cho Việt Nam.
Cuộc đánh đố giữa đại sứ Martin, Nhà Trắng, các bộ ngoại giao và quốc phòng và nhất là giữa các vị đại biểu quốc hội về số phận của Việt Nam, kéo dài một vài ngày nữa. Để được lòng đại chúng, Martin cho phép giám đốc vô tuyến truyền hình Mỹ CBS (Columbia Broadeating System) bí mật tổ chức một cầu hàng không để tản cư các nhân viên người Việt Nam. Khoảng sáu trăm người nhờ đó rời được Sài Gòn.
Trong khi đó các cơ quan tình báo, viên chức dân sự và quân sự Mỹ tranh nhau để được tản cư sớm. Họ đưa ra nhiều lý do, nào là cấp bậc nghệ nghiệp, quyền lợi bản thân, những cái đó đáng kể hơn số phận của hai trăm nghìn người Việt Nam chỉ sợ cộng sản đến. Trường hợp bi đát nhất, cuộc tản cư nguy hiểm bằng máy bay lên thẳng giữa cuộc chiến ở Sài Gòn mà các cơ quan rất lo sợ, chưa được đại sứ bàn đến. Và Hoa Thịnh Đốn cũng chưa có quyết định về số phận Thiệu. Ông ta ra đi. Hay không ra đi? Nhất là ý đồ của Hà Nội ra sao đây?
Sáng 17 tháng 4, chúng tôi được tiếp một nhân viên tình báo CIA có tài. Anh nói: Bắc Việt Nam tiếp tục tiến công cho đến khi giành được thắng lợi hoàn toàn, dù Thiệu có đổ hay Hoa Kỳ có cung cấp viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, cũng thế. Hà Nội kiên quyết thực hiện nghị quyết cuối tháng 3 năm 1975, dù có phần hy sinh nhiều trong một cuộc tổng tiến công còn hơn là mất thì giờ để tìm thắng lợi qua việc thành lập một chính phủ liên hợp. Hà Nội kiên quyết không có thương lượng, không có chính phủ liên hợp.
Khi tôi hỏi anh về ngày tiến công cuối cùng vào Sài Gòn, anh trả lời, ngày đó được hoãn lại. Trước định vào ngày 19 tháng 4 nhưng bộ tổng tư lệnh cộng sản mới quyết định là sẽ kỷ niệm ở Sài Gòn ngày sinh của cụ Hồ Chí Minh nghĩa là 19 tháng 5 (đúng là mục tiêu cụ thể do tướng Dũng và các đồng chí của ông định ra chỉ cách đây một hay hai ngày). Anh cho rằng để đạt được mục tiêu ấy, muộn lắm là ngày 1 tháng 5, Bắc Việt Nam phải bắt đầu tiến công.
Trước hết họ đánh các sân bay, những kho vũ khí và các căn cứ quân sự. Trong cuộc tiến công Sài Gòn không những họ sử dụng pháo binh hạng nặng mà cả cả không quân. Trạm ra đa đã được đặt trên núi Bà Đen, phía Bắc Tây Ninh, sẽ hướng dẫn cuộc đánh phá bằng máy bay. Anh nói thêm: bộ tổng tư lệnh còn đề ra biện pháp để bảo vệ những đoàn đại biểu cộng sản ở sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi tôi trở lại sứ quán, Polgar không có trong phòng làm việc. Tôi đến gặp Pittman, người phó của ông, ngồi phòng bên. Tôi đang thuật lại cho Pittman nghe cuộc nói chuyện trên thì Polgar vào. Ông chú ý lắng nghe ngay mấy phút, mặt tỉnh bơ, rồi ngắt lời tôi: “Không có gì mới trong câu chuyện ấy. Chúng tôi biết cả rồi. Nói ra vô ích”. Nói xong, ông bỏ ra.
Tôi ngạc nhiên. Không có gì mới? Chắc ông lầm. Quên cả Pittman, tôi vội vàng chạy đến phòng Polgar cố làm cho ông thay đổi ý kiến. Đúng, có thể chúng ta đã nhận được những mẩu tin xấu về vấn đề này. Nhưng lần này, nhân viên của ta cung cấp đầy đủ hơn với những cho tiết quan trọng, mục tiêu của chiến dịch và nhất là việc hoãn ngày tiến công. Không một báo cáo mới nhất nào của chúng ta cung cấp nhiều tin như thế về kế hoạch gần đây của Hà Nội.
Polgar gãi mũi một cách khó chịu. Ông tỏ ra không nghe tôi nói. Tôi đề nghị ông để tôi gửi những điều ghi chép về Hoa Thịnh Đốn bằng đường dây nội bộ, để cán bộ nghiên cứu tại chỗ của CIA phân tích làm tài liệu cho họ. Mãi ông mới đồng ý và nhấn mạnh: gửi bằng đường dây nội bộ, đó là bản báo cáo của tôi chỉ dành riêng cho bộ chỉ huy CIA. Ở Hoa Thịnh Đốn, không ai được nhận nữa. Hiếm khi có một tin quan trọng như thế lại chỉ được một cấp thấp tiếp nhận.
Trời ơi, may quá, Hoa Thịnh Đốn lại nhận nó một cách vui vẻ. Bộ chỉ huy CIA liền công khai hoá nó ngay và xếp vào loại tin tối ưu gửi cho khách hàng chính: Kissinger, Bộ tổng tư lệnh Gayler ở Honolulu và cả sứ quán Sài Gòn nữa. Gayler sốt ruột đến mức gọi dây nói thẳng cho chi nhánh CIA Sài Gòn bằng đường dây nóng để kiểm tra mấy điểm, nhất là điểm nói về cuộc tiến công bằng không quân có rađa hướng dẫn.
Nhiều tin tức đến ban đêm bằng nhiều đường khác nhau khẳng định những tin vừa biết là đúng. Những nguồn đáng tin cậy nêu rõ phi công Bắc Việt Nam đang tập luyện với những máy bay chiếm được ở Đà Nẵng. Một nhân viên tình báo chắc rằng cuộc tiến công vào Sài Gòn từng hoãn lại nhưng vẫn sẽ được tiến hành.
Mặc dù sau này, đại sứ Martin công nhận rằng, ông cũng như Polgar, không đánh giá đúng mức giá trị của tin trên, nhưng lúc này, ông tỏ ra chấp nhận tin ấy hơn. Chấp nhận những kết luận của bản tin có nghĩa là công nhận sắp có thảm họa đến nơi.
Sự hiểu lầm của Polgar làm tôi cay đắng và sợ hãi. Martin và Polgar càng không cho là cuộc tiến công của cộng sản sắp diễn ra. Họ đành để cuộc tản cư phải phụ thuộc vào trò chơi hòa bình. Quá băn khoăn về điều đó, một lần nữa, tôi báo cho Hoa Thịnh Đốn biết (như tôi đã làm trước qua Moose và Miessner) Martin và Polgar xa thực tế quá mức.
Chiều ấy, Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin, mời mấy nhà báo Mỹ ăn cơm. Bữa tiệc đối với anh là một hành vi phản kháng vì Martin đã cấm không cho Alan Carter tiếp xúc với giới báo chí, trừ những nhà báo do Martin giới thiệu với anh.
Tôi nói với Carter cho tôi dự. Anh trả lời: Được thôi, không có vấn đề gì cả. Nhưng tôi phải báo cho anh biết, hầu hết khách mời của tôi đều biết anh là CIA. Họ sẽ hỏi anh những vấn đề cơ bản. Tôi nói: Đúng là những điều tôi muốn nói.
Họ là những người được lựa chọn đúng. Vô tuyến truyền hình có Garrich Utley ở đài NBC và Bob Simon thuộc đài CBS. Có bốn người viết báo: Keyes Beeck ở tờ Chicago Daily News và George Mc Arthur ở tờ báo Los Angeles Times, là hai phóng viên chiến tranh lâu ngày đã sống và làm việc ở Việt Nam. Fose Betterfield thuộc tờ New York Times đến muộn, anh khoe khoang về cuộc tiếp xúc giữa anh với Martin và Polgar. Phil Mc Comles cũng thế. Ông là con vật đen mới của sứ quán. Là người trước đây thảo diễn văn cho thượng nghĩ sĩ bảo thủ ở New York, James Buekley, mấy tháng trước, ông đã viết trên báo Washington Post một loạt bài về các vấn đề tham nhũng và tinh thần sa sút của quân đội Nam Việt Nam làm Martin tức giận.
Hầu hết khách dự tiệc đã nghe tôi nói chuyện. Họ biết tôi nhận được nhiều tin. Do đó họ rất chú ý nghe tôi trong bữa ăn. Sau khi nói vắn tắt về cân bằng lực lượng, tôi nhấn mạnh: chắc chắn cộng sản đã chọn giải pháp quân sự và họ định kỷ niệm ngày sinh của cụ Hồ Chí Minh ở Sài Gòn. Họ không có ý gì về dàn xếp thương lượng hoặc một sự đầu hàng trá hình. Tôi nói với các nhà báo: Tôi nêu ra những tin này mong các bạn viết ngay về Hoa Thịnh Đốn.
Mc Arthur và Betterfield ngạc nhiên về ý kiến của tôi. Hai người vừa phỏng vấn quan chức cao cấp ở sứ quán. Họ nhắc lại những điều nghe được: 1) Cộng sản không có đủ người, đủ con bài chính trị để nuốt một lúc cả nước, 2) Với một vài thay đổi trong chính phủ Sài Gòn, họ có thể chấp nhận, trong một thời gian, cơ cấu chính trị hiện nay, có lẽ để tăng thêm hy vọng được nhận viện trợ và tài chính của các nước không cộng sản.
Tôi công nhận những điều ấy có một ý nghĩa nào đó nhưng hoàn toàn là dựng đứng. Và tôi nhấn mạnh những điều tôi nói với họ phản ảnh đúng lập trường mới đây của Hà Nội, không có gì bịa đặt. Không một phóng viên nào dám viết bài thuật lại những điều tôi nói. Mấy tháng sau, Beeck xin lỗi tôi: Đại sứ dọa giới báo chí đến mức không nhà báo nào dám viết những bài không do giới chính thức (trừ Polgar) cho biết.
Những nỗ lực của tôi không hoàn toàn vô ích. Nhiều nhà báo dự bữa cơm hôm ấy, sau này thường gọi tôi, hỏi thêm tin phụ hay bảo tôi cho nhận xét về những bài phóng sự mặt trận.
Ngày ngày qua đi, nhân viên của chúng tôi biến dần. Tin tức do các phóng viên viết chỉ phản ánh tình hình ở cách Sài Gòn mấy kilômét mà thôi.
MỘT CUỘC TẢN CƯ “CÓ TRẬT TỰ”
Sáng thứ sáu 18 tháng 4, bộ ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn có bàn đến bản tin của nhân viên tình báo của tôi. Tuy nhiên, do trục trặc đường dây nên bản tin đưa đến được phòng làm việc của Kissinger quá muộn. Bộ trưởng ngoại giao đã chủ động đề ra việc nối lại đàm phán, coi như đã có sự thoả thuận.
Đêm trước, Kissinger nói chuyện bằng dây nói rất lâu với Martin. Ông bảo đại sứ thăm dò không những Hà Nội mà nhiều nơi khác nữa...Trong khi nhiều hoạt động chính trị diễn ra thì các cơ quan Mỹ bắt đầu giảm nhân viên người Mỹ cũng như người Việt Nam. Những chuyến “bay đen” được tổ chức giữa Thái Lan, Philippines và Hoa Kỳ. Những quan chức cao cấp Mỹ lợi dụng sự mềm dẻo của thể lệ nhập cư, cho lái xe, đầu bếp, người làm vườn ra đi. Ở lại chỉ còn những người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy hiếp.
Trong khi sứ quán bắt đầu giai đoạn thứ nhất giảm số nhân viên thì lãnh sự quán Biên Hoà cũng thu xếp hành lý. Sáng 18, chỉ còn ở đây 8 nhân viên CIA và năm viên chức bộ ngoại giao. Một đám mây tro bụi từ lò sưởi bốc lên: lính thuỷ đốt những hồ sơ mật cuối cùng.
Trước buổi trưa, Taggart, trùm chi nhánh CIA ở đây, cho nhân viên trẻ là John Stockwell, lên máy bay lên thẳng về Sài Gòn. Trong ba ngày qua, hai người cãi nhau kịch liệt và Stockwell đòi tản cư tất cả nhân viên người Việt nam giúp việc. Không để đến lệnh của Taggart, anh ta định tổ chức một đoàn tàu chạy từ sông ra biển. Nghe tin ấy, Taggart vội vàng cho nhân viên hấp tấp về Sài gòn, sợ ông gieo rắc hoang mang trong thị xã Biên Hòa.
Xế chiều, khi Taggart cùng Stockwell đến gặp Polgar, Taggart đã lên án Stockwell là không tuân lệnh và đệ nghị với Polgar cấm không cho thực hiện cuộc tản cư bằng đường thuỷ. Polgar thông cảm với Stockwell ôm rơm dặm bụng. Có phải để bảo đảm cho đoàn tàu đến nơi, đến chốn, anh ta định đi theo đoàn tàu không? Lew James vừa bị cộng sản bắt. Polgar không thể để Stockwell đem vạ vào thân.
Sau buổi họp ấy, Taggart một mình trở lại Biên Hòa, đem trả tỉnh trưởng tất cả tàu bè do Stockwell thu thập. Một số nhân viên người Việt Nam giúp việc Taggart về Sài Gòn bằng phương tiện riêng. Không có nhiều người đi được máy bay. Taggart và Dick Peter, tổng lãnh sự ở Biên Hòa rời nước này trước khi Sài Gòn thất thủ mấy ngày. Họ để mặc sứ quán lo cho những người Việt Nam giúp việc họ.
Sáng 18 tháng 4, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu thấy rõ việc không thể tránh được. Sáng sớm, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III, đi máy bay từ sở chỉ huy ở Biên Hòa đến báo cho Thiệu biết đã thua trận rồi. Quân đội đang tán loạn, số quân quá ít. Chỉ hy vọng chống cự được hai ba ngày nữa thôi.
Để đánh dấu buổi sáng ấy, Thiệu tiếp một đoàn đại biểu các nhân vật ôn hòa vào trước buổi trưa. Những người đến dự cho Thiệu biết: thời kỳ của Thiệu đã hết. Nếu ông ta không ra đi trong hạn sáu ngày thì họ buộc phải đòi ông từ chức.
Để làm yên lòng những người đối lập, Thiệu ra lệnh bắt nhiều sĩ quan, theo ông, thật sự là những kẻ phải chịu trách nhiệm về những thảm hoạ trong những tuần qua. Trong những kẻ bị nhốt vào nhà lao có viên tướng khốn khổ Phạm Văn Phú mấy ngày trước bị hôn mê được đưa vào nằm ở một bệnh viện gần Sài Gòn.
Buổi chiều, sứ quán đến cứu Thiệu một lần nữa. Đêm trước, do một nguồn tin Việt Nam tướng Charles Timmes được biết Nguyễn Cao Kỳ định làm đảo chính. Nghe thấy chuyện đó, Martin quyết định thuyết phục Kỳ. Ông cùng Timmes đến gặp Kỳ ở sân bay Tân Sơn Nhất.
Họ thảo luận với nhau trong hai giờ. Martin và Timmes cố nói cho Kỳ rõ: Ông ta và chiến hữu có một vị trí trong ván bài đang chơi. Thực tế, Martin nghĩ khác: Việc Kỳ tham gia chính phủ sẽ tiêu tan mọi hy vọng thương lượng. Nhưng đại sứ cho rằng cách duy nhất để bảo đảm cho việc thay đổi chính phủ theo hiến pháp là gây cho Kỳ và những cái đầu nóng khác cảm tưởng rằng họ có phần trong đó. Martin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuối buổi họp, Kỳ chấp nhận để Thiệu yên vị miễn là thực quyền được trao cho một người khác, như ông ta chẳng hạn. Tiếc thay, đối với những nhà viết sử, cuộc trao đổi giữa Martin và Kỳ chưa bao giờ được dựng lại đầy đủ. Tối hôm đó, lúc Timmes ngồi viết lại tường thuật buổi nói chuyện thì ông thấy mấy thu thanh giấu trong cặp đã bị hỏng. Suốt đêm, ông ngồi cố nhớ lại những cũng chỉ ghi đúng được một phần cuộc thảo luận. Sau đó, đại sứ đã phê bình ông.
Ngoài những người định lật đổ và Bắc Việt Nam, Thiệu còn vấp phải một vấn đề nữa: đó là tiền. Trước đó gần một tháng, ông ta đã gửi tàu thuỷ đi Đài Loan và Canada phần lớn gia tài và đồ đạc. Nhưng còn tài sản quốc gia gồm 16 tấn vàng đáng giá 220 triệu đôla chiếm gần hết dự trữ của nhà nước vẫn chưa được gửi đi.
Trước đó, Thiệu định giữ kín và gửi đi Paris cho ngân hàng quốc tế, ở đấy đã giữ một phần vàng của Nam Việt Nam, đáng giá năm triệu đôla. Như ông ta nói với những người hợp tác với ông, 16 tấn vàng này dùng để mua vũ khí, đạn dược cho quân đội. Nhưng mấy ngày trước khi gửi đi, một người báo tin cho sứ quán biết. Một cộng tác viên của Martin cho là không thể tin được Thiệu, nên đã tố cáo với giới báo chí. Kết quả: các hãng Hàng không Thiệu điều đình để chở số vàng ấy đi, không nhận chở nữa. Kế hoạch của Thiệu bị vỡ.
Martin cũng can thiệp kịp thời. Để đánh tan mọi điều nghi ngờ, ông khuyên Thiệu gửi vàng sang ngân hàng New York, việc đó rất hợp pháp. Thiệu chấp nhận. Ngày 16 tháng 4, sứ quán điện cho Hoa Thịnh Đốn xin một chuyến máy bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để chở số vàng đi New York. Nhưng không quân và ngân hàng New York không sẵn sàng bảo hiểm cho một tài sản lớn như thế gửi từ một nước đang có chiến tranh. Công việc kéo dài một hai ngày, 18 sư đoàn Bắc Việt Nam tiến vào Sài Gòn bằng mọi đường. Vàng vẫn nằm yên trong kho ngân hàng quốc gia.
NÚT CỦA HOẢNG LOẠN
Có thể tin những bản báo cáo đến mức nào? Không thể biết chắc được. Ngày thứ bảy, 19 tháng 4 trôi qua. Không có cuộc tiến công thẳng vào Sài Gòn. Quân cộng sản tiến chậm. Có thể tin rằng các nhân viên tình báo của chúng tôi nói đúng. Nhưng cuộc tiến công của quân Bắc Việt Nam không phải được hoãn lại. Pháo binh của họ lần đầu tiên bắn phá đảo Phú Quốc, ở đấy có năm mươi nghìn người tị nạn. Hai sư đoàn Bắc Việt Nam đánh Phan Thiết. Đáng sợ nữa là những xe tải chở tên lửa Sam-2 đang từ hướng Đông Bắc tiến về phía Sài Gòn.
Những dấu hiệu chính trị không có gì phấn khởi. Trong buổi họp báo thường kỳ vào sáng thứ bảy hàng tuần, trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời ở Tân Sơn Nhất, đại tá Võ Đông Giang, đã nâng cao giá lên. Ông đòi như trước, tất cả cố vấn Mỹ giả làm dân thường phải rút đi và điều mới là Martin cũng phải ra đi. Ông Giang nói: “Martin có vẻ là một nhà ngoại giao Mỹ nhưng thực tế ông đã điều khiển mạnh mẽ mọi lĩnh vực quân sự, chính trị và kinh tế. Ông ấy phải chịu trách nhiệm về mọi hành động tội ác do chế độ Thiệu gây ra”. Điều đó có phải có nghĩa là ông Giang muốn xoá mọi vết tích về sự có mặt của Mỹ ở Sài Gòn một khi Hà Nội chiến thắng không? Những điều ông Giang nói khá ngoắt ngoéo: “Nếu một nghìn kiều dân Mỹ ở lại thì không có vấn đề gì cả, nhưng sự có mặt của một cố vấn Mỹ cũng là một điều vi phạm nghiêm trọng hiệp định Paris!”
Polgar lại hiểu lời ông Giang như sau: Có khả năng duy trì sự có mặt tối thiểu của Mỹ ở Sài Gòn dù tình thế nào xảy ra, đúng như lời Trần Văn Đôn nói với chúng tôi mấy hôm trước đây. Có thể ta vẫn mở ra con đường thương lượng chính trị trật sự.
Tôi viết một bản tường trình bác bỏ luận điểm ấy, nhấn mạnh những điều không rõ ràng của ông Giang nhất là không có sự có đi có lại. Polgar đọc bản trường trình ấy, để ra một bên, không gửi đi đâu cả, kể cả cho đại sứ.
Vả lại, Malcolm Brown, tổng biên tập báo New York Times chẳng đã viết rằng những ý kiến của ông Giang làm cho người ta hiểu là vẫn còn thì giờ để thoả thuận về những điều kiện của cộng sản là gì? Thật ra, không có một sự trùng hợp nào về vấn đề này cả. Trong những ngày qua. Polgar đã cung cấp cho Brown nhiều tin bí mật. Ông lấy Brown làm người tâm sự...Polgar vào phòng tôi, bảo tôi làm tôi bản báo cáo về tình hình quân sự. Ông nói: viết thật đen tối vào, đại sứ sẽ dùng bản báo cáo để thuyết phục Thiệu rút lui. Polgar làm tôi nản biết mấy, đến mức phải mất một lúc tôi mới hiểu ra những điều ông dặn dò.
Tôi không có gì phải thêm vào bản báo cáo: phản ánh đúng sự thật là thấy rõ sự đen tối ngay: với sự sụp đổ của quân đội chính phủ ở Xuân Lộc, và sự tiếp viện của quân đội Bắc Việt Nam ở Quân khu III, cán cân lực lượng ở vùng rộng lớn Sài gòn đã nghiêng hẳn về phía Bắc Việt Nam và Việt cộng. Đó là kết luận bản báo cáo của tôi. Mười lăm ngày nữa thì Sài Gòn sẽ bị bao vây hoàn toàn. Có khả năng trong ba hay bốn tuần nữa sẽ rơi vào tay cộng sản. Tôi định viết: có thể nhanh hơn nữa nhưng Polgar đã ngăn lại.
Sau này, bản báo cáo của tôi gần như trở thành một tài liệu lịch sử nhưng không phải vì những lý do tôi tưởng. Khi Thiệu rời bỏ chính quyền, ông ta để hồ sơ nguyên vẹn. Không ai mất công phá huỷ đi cả. Cộng sản bắt được giấy tờ của Thiệu trong đó có bản báo cáo của tôi. Tướng Dũng thấy thú vị về bản báo cáo ấy, ông đã chép nhiều đoạn, từng chữ một vào hồi ký của ông viết sau chiến tranh.
Tôi đang đánh máy bản báo cáo thì Polgar cùng mấy đồng nghiệp CIA họp kín trong phòng riêng, bàn vấn đề chuyển giao nhanh chính quyền. Phải làm thế nào khi Thiệu rút thì phó tổng thổng Trần Văn Hương lập tức nhường chỗ cho Minh lớn và quốc hội chuẩn y ngay sự thay đổi ấy để mọi việc được tiến hành đúng hiến pháp (như yêu cầu của Martin) và nhanh chóng (như yêu cầu của một số người khác).
Ở sứ quán Pháp, cách đó vài bước, Mérillon và đồng nghiệp cũng dành cả buổi sáng để thu xếp như trên. Mérillon nói với Martin sáng hôm sau đi gặp Thiệu.
Thiệu và giới thân cận không phải là không biết âm mưu lật đổ ông ta. Sáng hôm sau, tổng thống Singapour Lý Quang Diệu gọi dây nói mời Hoàng Đức Nhã, đến ngay. Diệu nói: mọi việc gai góc cần thảo luận. Mấy giờ sau khi Nhã đến Singapour, Diệu cho ông ta biết: nhà chức trách Mỹ đề nghị Singapour và mấy chính phủ ở Đông Nam Á cho Thiệu sống lưu vong. Nhã gọi ngày về Sài Gòn. Thiệu vừa nghe xong trả lời ngay: “Ừ, tôi đã chờ đợi việc đó”.
Trong khi đó, Nhà Trắng tiếp tục đòi giãn cộng đồng người Mỹ và di tản người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy hiếp. Các cơ quan của sứ quán cứ dẫm chân tại chỗ vì những khó khăn hành chính. Những thể lệ mới của cơ quan nhập cư cho phép người Việt Nam ra đi nếu họ được người Mỹ bảo lãnh, gây ra nhiều phiền phức. Một người Mỹ có thể chịu trách nhiệm tới 60 người Việt Nam. Số phận hàng nghìn người phụ thuộc vào một con dấu, một chữ ký, một giấy đi đường. Trước các viên chức đang phân loại người đi, hàng đoàn người xếp hàng dài chờ đợi và những cảnh thất vọng, thương tâm đang diễn ra. Đô đốc Noel Gayler, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương, đến Sài Gòn nghiên cứu biện pháp di tản. Giữa sứ quán Sài Gòn và Nhà Trắng, các viên chức chửi mắng nhau, gọi nhau là đồ nọ đồ kia qua dây nói. Bên này, bảo bên kia: chính anh đã ấn nút của hoảng loạn! Thật vô cùng lộn xộn!
THIỆU RA ĐI
Một năm sau ngày Nam Việt Nam thất thủ, một công tố viên của quốc hội hỏi Martin: “Ông giữ vai trò gì trong việc Thiệu từ chức, nếu ông có giữ một vai”. Đại sứ trả lời: “Không đóng vai trò nào cả”. Tôi xin cố gắng trình bày với ông tình hình hết sức thật thà, rõ ràng và khách quan.
- Thiệu có khi nào hỏi ông, ông ta có phải từ chức không?
- Có, ông ta có hỏi...Tôi trả lời: Việc đó do ông ta quyết định tuỳ theo quyền lời của người Sài Gòn, của nước Việt Nam nói chung, tuỳ theo tất cả mọi cái mà ông ta đã bảo vệ, đồng thời tuỳ theo cảm tình và văn hoá của người Việt Nam.
Sáng 20 tháng 4, Martin đến gặp Thiệu sau khi Merillon, đại sứ Pháp, đến nói chuyện với ông cũng về việc này, với mục địch này. Martin nói “Tôi được phái bộ quân sự và CIA cho biết những tin tức mới nhất về tình hình quân sự và những tình cảm của giới quan chức cao cấp, dân sự cũng như quân sự...Tóm lại là nếu Hà Nội quyết định đánh nhanh thì Sài Gòn không giữ nổi một tháng, chắc chắn không giữ được ba tuần dù có bảo vệ tốt và tài. Mặc dù ta biết Hà Nội muốn chiếm Sài Gòn nguyên vẹn chứ không thấy Sài Gòn đổ nát, cũng không nên loại trừ khă năng thứ hai nếu không đi đến thương lượng”.
Tổng thống Thiệu hỏi về triển vọng việc xin viện trợ quân sự bổ sung. Tôi trả lời: nếu may mà số tiền đó được chuẩn y thì chúng sẽ giúp ta củng cố địa vị ở bàn đàm phán nhưng chúng đến quá chậm để có thể thay đổi cân bằng lực lượng. Ông ta biết rõ điều này: Ngay bây giờ cán cân nghiêng rất nguy hiểm không lợi về phía ông ta.
Tôi nói với Thiệu tôi đến gặp ông ta với tư cách cá nhân chứ không phải thay mặt tổng thống hay bộ trưởng ngoại giao mà không phải với tư cách đại sứ Hoa Kỳ. Tôi bảo Thiệu, tôi nói chuyện với ông ta như một người từ lâu đã theo dõi tình hình ở Đông Nam Á và hai năm nay, cố gắng tìm hiểu những khó khăn của vấn đề Việt Nam. Tôi bảo Thiệu, tôi càng già, càng hiểu rằng mình không biết nhiều và bao giờ cũng có một sự nghi ngờ phải chăng. Nhưng lúc này có quá nhiều khó khăn và có thể nhận định của tôi về các sự việc xảy ra cũng đúng như nhận định của bất cứ một người phương Tây nào khác. Nhiều vấn đề đối với tôi rất rõ. Tình hình quân sự cực kỳ xấu và nhân dân Việt Nam đổ cho Thiệu phải chịu trách nhiệm. Giới chính trị, người cùng phe cánh với ông ta cũng như đối thủ của ông ta, đều cho rằng ông ta bất lực để có thể đưa nước này thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Tôi nói: tôi đi đến kết luận rằng, tất cả các tướng của Thiệu, mặc dù quyết tâm chiến đấu, đều cho rằng không còn hy vọng gì nữa nếu không có một cuộc đàm phán cứu họ. Tôi nói: các tướng của Thiệu sẽ yêu cầu ông ra đi, nếu ông không từ chức lúc này.
Tổng thống Thiệu hỏi việc ông ra đi có ảnh hưởng gì đến cuộc bỏ phiếu ở quốc hội không? Tôi nói việc đó có thể có ảnh hưởng nếu xảy ra sớm mấy tháng trước nhưng nay cần phải làm nhiều việc mới mong thay đổi kết quả. Nói một cách khác là nếu Thiệu nghĩ rằng từ chức mà đổi được việc chuẩn y của quốc hội nhận viện trợ đủ cho Việt Nam sống lại thì ông ta đưa món này ra quá muộn rồi! Vấn đề quan trọng nhất có lẽ là ảnh hưởng việc Thiệu rút lui đối với kẻ thù. Tôi bảo Thiệu tôi không rõ việc này nhưng hình như hầu hết người Nam Việt Nam đều cho rằng việc ông ta ra đi sẽ thuận lợi cho những cuộc thương lượng. Riêng tôi nghĩ rằng điều đó không khác mấy. Hà Nội phản đối mọi thủ lĩnh có thế lực. Bắc Việt Nam đòi nếu họ mong muốn thương lượng thật sự, có một nhân vật yêu đối thoại với họ. Đồng nghiệp của Thiệu cho rằng điều cốt yếu lúc này là tranh thủ thời gian. Nếu có thể tránh cho Sài Gòn khỏi bị tàn phá, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại thì ta vẫn hy vọng tình hình độc lập có thể tiếp tục tồn tại thì ta vẫn hy vọng tình hình được cải thiện dù là hy vọng mỏng manh.
Cuộc nói chuyện diễn ra gần một giờ rưỡi. Lúc tôi từ biệt Thiệu, ông nói: “Sẽ hành động vì quyền lợi của đất nước này”.
Trong một điện ngắn gửi cho Kissinger, Martin báo tin Thiệu sẽ từ chức sau một thời gian ngắn, có lẽ hai hay ba ngày nữa. Rồi đại sứ trở về nhà riêng, đi tắm bằng xà phòng, ngủ trưa như ông kể lại. Có phải ông muốn xoá sạch những việc ông làm buổi sáng ấy không? Sớm ngày 21 tháng 4, phòng tuyến bảo vệ của chính phủ ở Xuân Lộc sụp đổ. Máy bay lên thẳng phải đến cứu tiểu đoàn cuối cùng của bốn tiểu đoàn sống sót thuộc sư đoàn 18 Nam Việt Nam và cứu cả viên tư lệnh, tướng Đảo. Sáu trăm người dưới quyền chỉ huy của đại tá Lê Xuân Hiền, xung phong ở lại chặn hậu, bảo vệ cuộc rút lui. Trong vài giờ, họ bị quân tiên phong của 40.000 binh lính Bắc Việt Nam đánh tràn qua. Buổi sáng, bộ trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn cầm đầu một nhóm liên hợp chống Thiệu, trong đó đáng kể có tướng Viên. Viên công nhận, bất đắc dĩ, quân đội không còn chiến đấu được nữa và không còn hy vọng gì thắng trận. Đôn tuyên bố: trong những điều kiện như thế thì chỉ có xin điều đình. Điều đó có nghĩa là Thiệu phải rút lui và phải thay ông ta bằng một người khác - tướng Minh là hơn ai hết - có thể thương lượng với kẻ thù. Viên có đồng ý không? Ông ta tán thành. Có Viên ủng hộ. Đôn gây được ảnh hưởng đối với nhiều bộ trưởng quan trọng trong chính phủ Cẩn: bản thân thủ tướng và bộ trưởng kinh tế Nguyễn Văn Hảo. Bốn người đi đến thoả hiệp. Hôm sau, họ sẽ đòi Thiệu từ chức. Nếu không được họ sẽ sử dụng lực lượng vũ trang để đuổi ông ta. Thiệu đã chuẩn bị. Tối đó, ông ta từ chức ngay, để cho họ hội họp mà không để họ phải sử dụng vũ lực.
Trước trưa ngày 21 tháng 4, Thiệu triệu tập Khiêm và Hương đến báo cho hai người biết ông sắp từ chức và sẽ báo tin ngay tối nay. Kể lại cuộc nói chuyện giữa Thiệu với Merillon và Martin, Thiệu nhấn mạnh rằng hai người này không ai khuyên ông ta rút lui nhưng trước tình hình quân sự đã bi đát (Khiêm và Hương tán thành) sự có mặt của Thiệu không còn lý do nữa và có thể là một trở ngại cho một giải pháp. Thiệu chỉ có một yêu cầu: việc chuyển giao chính quyền được thực hiện đúng hiến pháp để tránh lộn xộn. Rất khó có thể hiểu rằng Thiệu muốn ám chỉ Minh lớn. Ngoài phó tổng thống ra, ông ta không nên tin một ai làm người thay thế.
Máy ghi âm do CIA đặt trong phòng làm việc của Thiệu truyền đi từng lời ông ta nói. Mười ba giờ, giờ địa phương Polgar chạy vào phòng tôi. Ông nói to với tôi: chúng ta là những người đầu tiên nhận được một tin tối quan trọng kể từ ngày ngừng bắn đến nay. Không phải lo ngại về tình hình quân sự nữa. Cái phải chú trọng bây giờ là chính sách liên hợp.
Không để mất thì giờ, Polgar báo tin cho người Pháp về việc Thiệu sắp rút lui, rồi đến chiều, cử tướng Timmes đến gặp Minh. Timmes đi ngay. Minh có bằng lòng nắm quyền và thương lượng hòa bình trước khi loại được Hương không? Minh gật đầu. Ông ta nói có thể làm yên lòng kẻ thù và sẽ cử ngay đại diện đi Paris để mở cuộc thảo luận. Timmes rút trong cặp ra một nắm giấy bạc mới, một triệu đôla để làm phí tổn (chưa bao giờ Minh sử dụng món tiền ấy và ông ta cũng không hề trả lại).
Trong lúc đó, một viên chức khác của CIA bàn chiến thuật với một người thân cận của Minh. Viên chức CIA nói: Tiện hơn cả là Minh nhận làm thủ tướng của Hương, như thế thuận lợi cho việc chuyển giao chính quyền. Người nghe lắc đầu: không, không bao giờ Minh tham gia chính phủ của Hương. Minh phải nắm chính quyền như đã thoả thuận. Những điều đó cho thấy việc chuyển giao chính quyền sẽ không được thực hiện như kế hoạch của sứ quán.
19 giờ rưỡi, giờ Sài Gòn, Thiệu nói chuyện với quốc dân đồng bào. Có khoảng hai trăm nhân vật Nam Việt Nam được ông ta mời đến dinh tổng thống trực tiếp nghe ông ta nói. Nhiều người vừa nghe vừa ngáp hoặc có những cử chỉ khác. Điều biết trước là không những Thiệu bảo vệ mình trước lịch sử mà còn lên án người Mỹ đã mất ý chí sau vụ bê bối Watergate. Gần hai giờ sau, Thiệu vừa khóc vừa tuyên bố từ chức và giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu nói: vì nửa nước đã mất nên ông ta hy sinh vì quyền lợi quốc dân.
Tướng Viên đọc một tuyên bố ngắn. Ông nói quân đội tiếp tục chiến đấu để bảo vệ tổ quốc chống bọn xâm lược nước ngoài. Trong lễ bàn giao chính quyền, tổng thống mới Trần Văn Hương, 71 tuổi, liệt, nửa mù, thề chiến đấu cho đến lúc quân đội bị tiêu diệt, nước mất.
Những người biết suy nghĩ ở sứ quán Mỹ không lấy những lời thề đó làm quan trọng. Họ nói: “đó là một cái xương cho Kỳ và phải hữu gậm để ngăn họ xen vào công việc. Sự thật là Hương muốn thương lượng”. Như là đổ nước vào cối, chính phủ mới nhanh chóng đề nghị ngừng bắn và thành lập một hội đồng quốc gia hoà giải hòa hợp tay ba có cộng sản tham gia.
Nhưng tất cả trò chiêng trống ấy làm một số đông chúng tôi lo ngại. Để làm yên lòng Kỳ và những phần tử phái hữu, chính phủ mới có thái độ có thể xúc phạm đến cộng sản. Tôi viết trong sổ tay: Thiệu từ chức, Sài gòn yên tĩnh. Tối 21 tháng 4, lại thiết quân luật từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng để ngăn chặn những cuộc biểu tình nhưng tôi nghĩ người ta đã quá mệt mỏi, không còn muốn nhảy ngoài đường phố nữa.
Một số đồng nghiệp lấy làm thú vị khi được biết tin này. Tôi thì không. Tôi chỉ thích buồn - không phải vì Thiệu ra đi - việc đó không thể tránh được - mà buồn chính vì bản thân cảnh này. Chúng tôi đều biết mọi việc đều giả dối, nói một cách khác, việc chiết cành của chúng tôi không bén rễ. Tuy thế, ai cũng mong không kết thúc như thế này hay ít nhất là không phải chứng kiến cảnh ấy.
Trong khi tin Thiệu từ chức bay về Hoa Thịnh Đốn thì Kissinger gửi một điện chia buồn cho Martin, bày tỏ sự kính trọng không suy xuyển của ông đối với người lãnh đạo Nam Việt Nam, ông đề nghị được giúp đỡ Thiệu rời khỏi nước này. Ông nhấn mạnh: Chính phủ Mỹ không hề hợp tác với người Pháp để chống Thiệu. Và ông nói thêm đến nay cũng chưa nhận được tin tức gì của Liên Xô.
Trong giới chính trị Sài Gòn, phản ứng rất khác nhau về việc Thiệu ra đi và về những thế lực đã đánh đổ ông ta. Một số người hoan nghênh những lời chỉ trích của Thiệu đối với người Mỹ. Một số khác, nhất là sĩ quan trẻ, tỏ vẻ khó chịu. Hương hình như không được lòng ai. Nói chung họ nói: “Già rồi, không làm gì được! Không một người nào tán thành sự kiện diễn ra sau đó. Những người đứng về phe ngừng bắn tỏ lòng tin tưởng, họ cho rằng có thể thương lượng bình đẳng với cộng sản. Minh lớn là một người trong số đó, ông bình tĩnh chuẩn bị nói chuyện ngã ngũ với phía bên kia, trong khi đó, người phát ngôn của ông ta ở Paris công khai yêu cầu ngừng bắn, nối lại cuộc đàm phán và thành lập một chính phủ thật sự tiêu biểu.
Khó mà biết Minh có tin thật sự vào chuyện đó hay không. Ông ta vẫn được coi là người của đời sống chính trị hiện nay ở Sài Gòn. Đối với những người ôn hòa, sự dũng cảm của Thiệu là chìa khoá của sự sống còn của họ và của nước Việt Nam cộng hòa. Đó là cách làm duy nhất để làm yên lòng Kỳ và phe lũ trong khi tiếp tục giương cao ngọn cờ hoà bình.
Martin và Polgar, chắc chắn đều hiểu mối nguy hiểm do Kỳ có thể gây ra và họ chuẩn bị để gạt mối nguy hiểm ấy. Chiều thứ ba, Polgar nói với Timmes đến thăm Kỳ. Cuộc gặp mặt như dầu đổ vào lửa. Như sau đó Kỳ công nhận, ông nghĩ rằng nhân viên CIA đến gặp Kỳ như gặp người thay Hương. Và chỉ một câu hỏi vụng về của Timmes về sự nguy hiểm của một cuộc đảo chính chống Minh lớn là Kỳ biết ngay ai là người được Hoa Kỳ chọn làm tổng thống. Kỳ quyết định thu xếp ngay vị trí của mình. Sự vụng về của Timmes đã làm cho những người ôn hòa khó hoạt động và phái hữu báo động.
Trong khi đó, người Pháp tiếp tục xen vào. Pierre Brochand ở cạnh Minh suốt ngày, khuyến khích và bảo vệ Minh chống mọi kẻ cạnh tranh. Sáng 22, khi Brochand được tin Trần Văn Đôn muốn lên làm tổng thống, ông vội vàng đến gặp Đôn và nói rằng chỉ có Minh mới được cộng sản công nhận.
Phản ứng đầu tiên của cộng sản về sự thay đổi tổng thống rất rõ ràng. Ở Tân Sơn Nhất, người phát ngôn chính phủ cách mạng nói ngay với nhà báo: việc Thiệu rút lui không thay đổi gì cả và ông ta bác bỏ lời kêu gọi đình chiến của Hương. Đài phát thanh Hà Nội lên án Hương là một tên phản động, phản quốc và đòi Hoa Kỳ phải bỏ cả tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu chứ không chỉ riêng bản thân Nguyễn Văn Thiệu và không được can thiệp vào công việc của Việt Nam, nhất là không được viện trợ quân sự. Đó là một tối hậu thư (cách duy nhất để thoát ra khỏi cuộc chiến tranh này, theo đài Hà Nội) chứ không phải là một nhân tố để thương lượng và người ta không thể nghi ngờ gì về lời đe doạ này.
Cộng sản cũng không để cho có hy vọng một cuộc tản cư yên ổn mặc dù việc Thiệu rút lui cho phép hoãn một thời hạn việc ra đi của chúng tôi. Trái lại chỉ mấy giờ sau lời tuyên bố của Thiệu, đài giải phóng chỉ dành hai hay ba ngày, thậm chí có 24 giờ đòi cố vấn Mỹ phải rút đi.
Mặc dù như thế, Martin, Polgar và cả Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn nữa vẫn còn tin rằng có thể vận động thương lượng được. Sau ngày Thiệu từ chức một ngày, Polgar tiếp tục đi tìm gặp người này, người khác...
Trong khi đó, cộng sản giành thắng lợi vang dội: chiếm Phan Thiết, thị xã cuối cùng ở Quân khu II, Hàm Tân, một huyện lỵ cách thị xã 46 kilômét về phía Nam và Xuân Lộc. Từ đây, quân Bắc Việt Nam tiến đến Biên Hòa về phía Đông và Vũng Tàu về phía Nam. Trước năm sư đoàn Bắc Việt Nam trong vùng, Nam Việt Nam chỉ còn tàn quân của sư đoàn 18, hai lữ đoàn lính thuỷ bị nghẽn ở phía Đông Biên Hòa, một lữ đoàn dù và hai trung đoàn bộ binh đã bị đánh tơi bời đang đóng yên tại chỗ giữa Xuân Lộc và Vũng Tàu. Biên Hòa tiếp tục bị bắn phá dữ dội mấy giờ sau khi Thiệu từ chức, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III rời sở chỉ huy về Sài Gòn. Chưa phải là hoảng sợ thì là gì? Tôi báo cho Polgar biết. Ông lờ đi.
Lần thứ hai trong tuần, ông kiểm duyệt, bỏ một tin không phù hợp với quan điểm của ông. Nhưng hậu quả lần này tai hại hơn nhiều so với lần ông gác lại báo cáo ngày 17 tháng 4 của một nhân viên của tôi. Bộ phận của tôi nay là bộ phận duy nhất có thể cung cấp cho sứ quán tin tức và nhận định về tình hình quân sự. Bộ phận tương tự của phái bộ quân sự đã ngừng hoạt động vì quá bận về việc tản cư.
Kissinger cũng cảm thấy rằng có một cái gì trục trặc trong những bộ phận tình báo. Ông gửi điện cho Martin ngày thứ ba hỏi ý kiến về sự đánh giá của mấy nguồn tin nói rằng không có dàn xếp thương lượng. Martin trả lời: nhiều nguồn tin khẳng định như thế nhưng CIA đã nhiều lần thay đổi nhận định, rất khó mà tin được.
Ngày Thiệu đọc diễn văn chào vĩnh biệt, tướng Văn Tiến Dũng, các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng hoàn thành kế hoạch mở chiến dịch Hồ Chí Minh tại bộ chỉ huy ở Lộc Ninh. Như được vạch ra, kế hoạch chung giống phần nào việc bóc vỏ một củ hành. Quân đội Bắc Việt Nam trước hết phá vỡ phòng tuyến bên ngoài Sài gòn rồi tiến sâu thẳng vào thành phố bằng các đơn vị cơ giới tập trung ở năm mục tiêu quân sự: dinh tổng thống, Bộ tổng tư lệnh, Bộ tổng tham mưu, Sở chỉ huy cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Hai ngày được ấn định: ngày 27 tháng 4, tiến công vùng ngoại vi thành phố, ngày 29 tiến công cuối cùng. Trong hồi ký của ông, tướng Dũng chỉ rõ ngày thứ ba 22 tháng 4 đã quyết định hai ngày nói trên.
Tất cả chiến dịch tập trung vào một điểm duy nhất: Sài Gòn. Những cuộc tiến công đầu tiên vào Tây Ninh, ở phía Tây Bắc vào vùng đồng bằng ở phía Nam, chỉ là để giữ chân các đơn vị Nam Việt Nam ở đó và ngăn không chọ họ kéo về bảo vệ thủ đô.
Theo tướng Dũng, việc khó nhất là chọn chỗ chung quanh Sài Gòn đặt tên lửa phòng không Sam-2. Việc tế nhị khác: chuẩn bị cho pháo binh bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất mà nhân viên tình báo của tôi nói là vào ngày 17. Trước hết phải chiếm Nhơn Trạch, một vùng bùn lầy ở phía Đông Nam Sài Gòn, để đặt súng phóng rốc kết và đại bác 130 li. Chiều thứ ba, tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh mặt trận phía Đông, đến sở chỉ huy, đặt ở phía Bắc Biên Hòa để chỉ huy trận đánh. Tướng Dũng gửi cho tướng Tấn một điện khẩn. Phải chiếm Nhơn Trạch ngày 27 hoặc 28 là cùng.
Mặc dù Bắc Việt Nam không muốn đánh nhau với những người Mỹ ở Sài gòn, sợ cuộc trả đũa quân sự của Hoa Thịnh Đốn, nhưng kế hoạch của họ cũng đề cập đến một việc loại trừ một số chúng tôi. Ít lâu sau bài diễn văn của Thiệu, cảnh sát Nam Việt Nam, được một chỉ điểm cho biết, đã báo cho một viên chức cao cấp CIA rằng đặc công Bắc Việt Nam tối hôm ấy sẽ phá nhà ông ta ở giữa thành phố. Quá mệt vì phải làm việc suốt ngày, những viên chức CIA, tối hôm ấy phải dành nhiều giờ để lau chùi lại khẩu M-16 và chẹn lửa. Đến đêm, cảnh sát đến báo với ông: đặc công đã bị chặn ở cửa thành phố, ông không còn gì phải sợ. Ít nhất là trong lúc này.
Nếu tin vào hồi ký của ông thì tướng Dũng và tư lệnh các đơn vị Bắc Việt Nam đều biết rõ những hoạt động chính trị và ngoại giao chung việc Thiệu từ chức. Mọi chi tiết đều được ghi trong một bài của ông Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao Bắc Việt Nam. Nói về những đề nghị hòa bình của Mỹ và Pháp, ông coi đó là những âm mưu xảo quyệt. Tính từ này cũng được báo chí cộng sản dùng khắp lượt. Những lời tố cáo của ông Trinh chỉ làm cho tướng Dũng quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn càng nhanh càng tốt. Ông Lê Duẩn cũng gửi điện vào, mong muốn và chúc đánh thắng nhanh. Ông Duẩn viết: “Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi cả về chính trị và quân sự. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Sự khinh bỉ của tướng Dũng đối với trò ngoại giao ở Sài gòn xuyên qua các trang hồi ký của ông. Ông viết: Đó là một tập đoàn ngu dốt và ngớ ngẩn. Chúng thay đổi chính phủ với mục đích duy nhất là để ngăn chặn cuộc tiến công của chúng ta và tránh sự thất bại hoàn toàn.
Ông cũng đả Polgar: “Bọn CIA ở Sài Gòn, như con rắng độc, luồn lách rình mò với nhiều âm mưu quỷ quyệt, bắn tin: Hương làm tổng thống chỉ là tạm thời, sẵn sàng đi đến thoả thuận, Mỹ chờ đợi sự đáp lại v.v...”
Tướng Dũng cũng bắn tên vào tướng Vanuxem, sĩ quan cũ của quân đội Pháp đã biết Thiệu trong những năm đầu thập kỷ 50, mới đến Sài Gòn mấy tuần trước để “khuyên” Thiệu trong những giờ cuối cùng ông ta ở dinh tổng thống. Mặc dù Thiệu từ chức, Vanuxem là một người mê ngủ, ngu muội.
Tuy vậy, không có gì trong những lời nói trên chứng tỏ Bắc Việt Nam đã dìm Nam Việt Nam trong biển máu. Chắc chắn họ sẽ chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện nếu việc đó đến nhanh và rõ ràng.
Dù sao, sau khi Thiệu từ chức, tướng Dũng và Hà Nội không còn chờ đợi được nữa. Ngày 22 tháng 4, tướng Dũng và ông Phạm Hùng cùng ký vào bản quyết tâm chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ chỉ huy chia làm đôi. Tướng Dũng và người phó quan trọng của ông, ông Trần Văn Trà, đóng sở chỉ huy tiền phương ở Bến Cát, tỉnh Bình Dương, phía Đông Bắc Sài Gòn, còn các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng ở lại Lộc Ninh để điều hòa hoạt động chính trị, ngoại giao và quân sự. Và có thể để chờ sự đầu hàng không điều kiện cho đỡ phải đánh trận cuối cùng.
THÔNG TÍN VIÊN BÍ MẬT
Chủ nhật 20 tháng 4, 24 giờ sau khi Thiệu từ chức, cuộc di tản ồ ạt bắt đầu. Không biết trong cuộc hội kiến vừa qua Martin và Thiệu có thảo luận để xúc tiến công di tản không. Thật ra, không cần thiết, hai người đã nghe thấy tiếng gầm rú của máy bay phản lực C-141 rời sân bay Tân Sơn Nhất, cách đó 8 kilômét.
Nhịp độ di tản tăng. Từ ngày 4 tháng 4, ngày có cầu hàng không đầu tiên, cầu hàng không Trẻ em, ngày nào bốn máy bay vận tải lớn, cũng bay đi bay lại từ Tân Sơn Nhất đến căn cứ Clark ở Philippines. Mặt khác, sự mềm dẻo của thể lệ nhập cư đã làm tăng lên rất nhiều số người di tản hợp pháp. Việc đó không ngăn cản những chuyến bay lậu tiếp tục cất cánh: những máy bay này không chở những người Việt Nam về chính trị có nhiều vấn đề mà chở bạn bè, thân thuộc của các sĩ quan phái bộ quân sự. Vấn đề duy nhất phải lo là làm thế nào chở những người không có giấy tờ ấy vượt được hàng rào sân bay. Cuối cùng người ta tìm ra mánh khoé: đút lót. Cảnh sát quân sự ở sân bay đã nhận được khoảng 50.000 đôla.
Hồ sơ của CIA là một núi giấy tờ mật, nặng 14 tấn báo cáo, tài liệu, tiểu sử nhân viên tình báo. Đầu tháng đã huỷ một phần rồi nhưng ban ngày, đại sứ không cho đốt hồ sơ sợ tro ở lò sưởi bay ra làm bẩn xe hòm đỗ ngoài hành lang. Sau thấy cấp bách quá, ông mặc cho đốt cả ngày, đêm. Tiếng kêu của hai lò sưởi đặt trên mái nhà, ngay đầu tôi, làm tôi hết sức khó chịu.
Trong những nhân viên sứ quán được coi là không cần thiết nghĩa là tản cư ngay, có Pat Johnson, nữ cộng tác viên gần gũi nhất của tôi.
Pat giành hai ngày cuối ở Sài Gòn để đi chào người quen. Sau này bà nói với tôi: Sao lại có lúc kỳ lạ thế? Đối với tôi cái gì cũng mờ ảo. Một số bạn Việt Nam cho tôi cảm tưởng là họ không thấy mối nguy hiểm đã đến gần. Sáng thứ bảy, bà gặp một người bạn bình tĩnh tưới hoa trong vườn, lúc bà đến phòng hớt tóc, người chủ ngạc nhiên nói: Ồ, bà còn ở đây à? Bà là người cuối cùng rồi. Tất cả khách hàng người Mỹ của tôi đã ra đi.
Pat buồn rầu khi phải chào từ biệt người đầy tớ già: chị Ba. Chồng chị đã mất, năm con và nhiều cháu chị đều ở trong nhà Pat. Sáng chủ nhật, trước khi đi, Pat xuống bếp ôm hôn chị Ba, đưa cho chị nắm đôla cuối cùng, mọi người đều khóc. Pat có ý định đưa họ đi Mỹ những họ từ chối lấy cớ sống ở đấy không hợp. Ở đây, trà trộn với nhân dân, họ có thể sống được. Cộng sản không thể giết được tất cả mọi người.
Chiều hôm đó, Pat bay đi Bangkok trên một máy bay đặc biệt, chỉ có mấy hành khách. Ban Giám đốc hãng Hàng không Việt Nam tổ chức chuyến bay này để chở vốn của hãng đi: 20 triệu đôla bằng vàng. Pat ngồi giữa đống bao tải bằng vải xám đầy kim loại óng ánh không có gì nguy hiểm. Sau khi thất thủ Sài Gòn, những bao tải ấy biến mất. Chắc chúng đã trốn vào tủ sắt một người di tản nào đó.
Ở Bangkok, Pat đi chơi tối với bạn, khiêu vũ suốt tới sáng. Cuộc vui lạ lùng và giả tạo do căng thẳng đẻ ra. Chiều hôm sau, bà được tin Thiệu từ chức.
Bản chất vốn không kiên trì và dễ xúc động, nên bộ trưởng quốc phòng Schlesinger trở nên cáu kỉnh hơn lúc nào hết. Trong mấy ngày qua, Kissinger và ông tranh luận gây gắt về nhịp độ và tầm quan trọng của việc di tản. Ông nói với một phóng viên: cuộc di tản cấp tốc được thực hiện quá chậm nên kế hoạch di tản những người Mỹ bằng cả máy bay dân sự lẫn máy bay quân sự vẫn không kịp với tình hình. Có lẽ phải dùng đến máy bay lên thẳng và lực lượng an ninh lính thuỷ đánh bộ.
Kissinger phản đối. Sáng thứ hai, ông công kích Schlesinger, lên án bộ trưởng quốc phòng quá nặng về bảo vệ uy tín cá nhân nên đã tuyên bố lung tung với các nhà báo. Kissinger nhấn mạnh: mặt khác, cuộc di tản cấp tốc những người Mỹ còn ở lại Sài Gòn sẽ gây hoảng loạn, điều mà Martin rất lo ngại.
Sau đó, Kissinger ra lệnh cho Martin cho di tản càng nhanh càng tốt nhân viên phái bộ quân sự, trước khi phải sử dụng đến máy bay lên thẳng.
Bất bình về cuộc xung đột nổ ra giữa hai bộ trưởng, hai viên chức nhỏ của bộ ngoại giao Lionel Rosenblatt và Craig Johnstone quyết định giúp những người bạn Việt Nam. Họ xin nghỉ hàng năm, mua vé máy bay đi ngay Sài Gòn. Mấy giờ sau khi tướng ngoại giao Habib biết tin này, ông yêu cầu Martin đuổi ngay họ về Mỹ. Nhưng hai viên chức ấy đã kịp chặn điện của Habib lại, đại sứ không nhận được.
Những ngày sau, Rosenblatt và Johnstone làm việc ở khách sạn Caravelie 24 giờ trên 24 giờ. Họ bí mật đưa danh sách những người Việt Nam sang trung tâm phân loại của phái bộ quân sự. Khi họ trở về Mỹ, họ gầy mất mấy ki lô nhưng đã đưa đi di tản được 20 nhân vật Việt Nam quan trọng và gia đình những người này, nghĩa là tất cả hai trăm người mà không một ai có dấu xuất cảnh. Đó là những người cộng sự đắc lực của Mỹ đã tham gia việc khủng bố cộng sản.
Thứ hai, 21 tháng 4, đô đốc Gayler cho cầu Hàng không hoạt động suốt 24 giờ, máy bay C141 bay ban ngày, máy bay C-130 bay ban đêm. Thoạt đầu, mỗi máy bay chở một trăm người nhưng sau hạn chế cho mỗi người chỉ được đem theo một vali nên chở được gấp đôi.
Hơn 1500 người Mỹ và Việt Nam, tăng gấp ba lần hôm trước, được di tản đến căn cứ không quân Clark ở Philippines trong 12 giờ. Ở đấy đã có hơn ba nghìn người tị nạn, họ ở trong một làng dựng tạm bằng nhà bạt trên sân chính của căn cứ, người ta gọi làng ấy là làng “vui trên bãi cỏ”.
Cơ quan CIA từ lâu đã đề nghị với Lầu Năm Góc dành riêng cho mình một số máy bay để rải rác ở Tây Thái Bình Dương. Nhưng nay có cầu Hàng không quân sự, chúng tôi nghĩ là không thể lấy được máy bay. Để thay thế, John Pittman đề nghị với Bộ chỉ huy CIA cho phép lấy tất cả những máy bay chở hàng bay đi Đài Loan, Thái Lan, Singapour làm máy bay chở khách đến các nơi ấy. Bộ chỉ huy bác bỏ. Shackley nói: không nước nào chịu nhận những người Việt Nam đã được CIA che chở.
Việc bác bỏ ấy làm chúng tôi bực mình. Một đồng nghiệp liền gọi cho Frank Seotton, phân xã trưởng Hoa Thịnh Đốn, Thông tấn xã Hoa Kỳ, đề nghị Scotton thuyết phục Shackley. Thông tín viên bí mật, một nhân viên quan trọng và có kinh nghiệm ấy nói với Scotton: “Chúng tôi đang ở vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, đòi hỏi phải có ngay một cầu hàng không máy bay lên thẳng. Martin thì bất lực, Polgar thì bối rối”. Anh nhờ Scotton nói với các quan chức ở Hoa Thịnh Đốn cố gắng can thiệp. Scotton biết rõ tình hình Sài Gòn lúc bấy giờ liền đến bộ chỉ huy CIA, Colby được nghe chuyện. Ông hỏi căn cước thông tin viên bí mật xem anh ta có đủ tư cách đánh giá tình hình không. Người ta cho ông biết tên. Ông nói: thông tín viên này không biết rõ tình hình chung, không cho máy bay bay ngay!
Thực tế, thông tín viên này biết rõ tình hình như đếm đầu ngón tay. Chính tôi đã nói cho anh rõ tình hình quân sự mấy ngày nay. Với địa vị cao và sự hiểu biết của anh, tôi tin rằng Hoa Thịnh Đốn sẽ đồng ý. Một lần nữa, tôi đã lầm.
Thông tín viên bí mật và tôi không phải là những viên chức CIA duy nhất đề nghị can thiệp. Larry Dows, trùm chi nhánh Cần Thơ, liên tiếp gửi điện cầu cứu cho Sài Gòn, xin máy bay lên thẳng để chở nhân viên người Việt Nam, không ai trả lời anh ta. Bill Johnson, viên chức ở chi nhánh CIA Sài Gòn, bất chấp thể lệ hành chính. Chiều 21 tháng 4, anh và nhiều đồng nghiệp, bí mật hoạt động, làm cho việc di tản đạt kết quả lớn nhất. Đó là việc chuyển đi đài phát thanh tối mật của CIA mà thường được gọi là “ngôi nhà số 7”.
Đài này được thành lập từ sau ngày ngừng bắn do lệnh của Kissinger để tuyên truyền, loại trừ ảnh hưởng của Bắc Việt Nam và Việt cộng. Người ta gọi là đài “radiô xám” cũng được vì nó hoạt động như một đài không cộng sản nhưng không có quan hệ gì với chính phủ. Ở Sài Gòn, Johnson được giao trách nhiệm phụ trách đài. Anh cho làm những studio hiện đại đặt trong những ngôi nhà tồi tàn cũ kỹ ở số 7 đường Hồng Thập Tự - do đó có tên “ngôi nhà số 7” - sau đó còn thiết lập 5 đài nữa, mỗi đài truyền tin trên một làn sóng riêng.
Đài dùng mật mã “bà mẹ Việt Nam” có hiệu quả nhất. Tiếng nói phụ nữ quyến rũ, âm nhạc gợi nhớ quê hương và nhiều tin vui đánh vào lòng binh lính Bắc Việt Nam đang lội trong bùn lầy đồng ruộng làm cho họ nhớ cha mẹ, vợ con...Tin chính trị được nói bằng một giọng tình cảm khơi trong họ ý thức hoà hợp dân tộc, coi trọng gia đình là những đức tính tốt của nhân dân Việt Nam.
Bản thân phát thanh viên cũng có hai mặt, là hai người phụ nữ tiếng nói rất khác nhau. Người có tuổi là Mai Lan có vẻ đẹp kiều diễm, đã học ở Hoa Kỳ, bố là một nhân vật cao cấp trong chính phủ Thiệu. Hoàn toàn Âu hoá, chiều chiều, chị làm mê những lòng người nghe bằng những bài hát dân ca nói về đất nước mà chị ít biết.
Đầu tháng tư, Johnson nói với đài số 7 anh sẽ cố gắng bảo đảm an ninh cho họ. Anh đề nghị với Polgar và bộ chỉ huy CIA cho anh chuyển đài ra khỏi Việt Nam tiện hơn cả là sang Thái Lan nhưng Shackley và Polgar không nghe.
Johnson không nản lòng. Anh xin được phép chuyển mọi người ra đảo Phú Quốc, ngoài biển. Đêm 24 tháng 4, hai máy bay C-46 và C-47 hãng Hàng không Mỹ bắt đầu di chuyển. Bốn ngày sau, 144 nhân viên người Việt Nam giúp việc ở ngôi nhà số 7 và gia đình họ tổng cộng một nghìn người, bình yên vô sự thoát khỏi Sài Gòn. Ngày cuối cùng cuộc chiến tranh, một trăm nghìn người tị nạn ở Phú Quốc biểu tình. Một đại diện của đài phát thanh bị giết chết. Những nhân viên khác được tàu Pioneer Challenger chở đi đảo Guam. Johnson phải “khóc” một người nhưng đã giữ được lời hứa với tất cả nhân viên!
Ngày 22 tháng 4, tôi viết vào sổ tay: “Bắt đầu sắp xếp hành lý. Một việc đáng buồn. Sẽ mất hết. Vì có việc riêng, tôi đi gặp Polgar. Nhân viên hậu cần bảo tôi có gì thì để cả ra giữa phòng ấy. Người ta sẽ đóng gói cho anh. Sứ quán cũng trở thành con ốc rỗng. Hàng lang đầy gói, dọc đường xếp chật hòm. Hàng trăm người Việt Nam, ngồi trên ghế vải gấp, trước lãnh sự quán chờ giấy tờ hoặc xin dấu xuất cảnh.
Cả những người giàu có, tầng lớp đã âu hoá cũng đánh nhau để dành một chỗ trong những chuyến bay chở người tị nạn. Một số đông chưa hề bán mình cho chúng tôi ngày nào, nay cũng sẵn sàng làm việc đó để được ra đi. Một tin đăng trên tờ Sài Gòn Post hôm nay: “nữ sinh viên trẻ, đẹp, 18 tuổi, đỗ tú tài, biết chơi dương cầm, con một gia đình khá giả, muốn làm con nuôi hoặc kết hôn với một người nước ngoài quốc tịch Mỹ, Pháp, Anh, Đức hay nước nào khác có thể đưa cô ra sống ở nước ngoài để tiếp tục học tập. Tiền phí tổn cô chịu...”
24 giờ sau khi Thiệu từ chức, nhịp độ di tản tăng gấp đôi. Thứ ba, ngày 22, hơn ba nghìn người rời Sài Gòn nhờ phái bộ quân sự can thiệp. Như vậy từ đầu tháng đến nay đã có hơn mười nghìn người. Mỗi giờ có hai máy bay chở hàng Mỹ cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất.
Hoa Thịnh Đốn lại giảm nhẹ thể lệ nhập cảnh một lần nữa để tăng nhịp độ di tản: Ngày 22 tháng 4, theo đề nghị khẩn cấp của Kissinger, thượng nghị viện đã thông qua luật bãi bỏ những trở ngại cho 130.000 người nước ngoài từ Đông Dương vào nước Mỹ, trong số này có 50.000 người tính mạng bị uy hiếp. Bộ Tư pháp cho áp dụng ngay luật này. Đó là sự nhượng bộ lớn của quốc hội và cơ quan nhập cư. Bình thường, mỗi năm chỉ cấp cho một nước 20.000 hộ chiếu. Trước đây đã có một trường hợp rông rãi như trên; đó là vào đầu thập kỷ 60, cho phép 60.000 người di tản Cuba vào Mỹ sau thất bại ở vịnh Con heo.
Ở trung tâm phân loại của phái bộ quân sự, việc giảm nhẹ thể lệ không thay đổi gì tình hình vì luật và thể lệ đã được thay bằng sự linh động rồi. Do đó, sau khi Thiệu từ chức, thiết quân luật bắt đầu từ 8 giờ tối, các viên chức phụ trách di tản quyết định để cho những người tị nạn ngủ lại ở nhà phụ và họ làm việc suốt 24 giờ.
Căn nhà để phân loại bỗng chốc giống như một hội chợ lúc đóng cửa. Một người kể lại: “Nóng ghê gớm. Lúc mọi người ở lại phải chú ý mọi cái. Hành lý vất lung tung phòng vệ sinh bị đóng cửa. Nhiều người Việt Nam bị ốm vì sợ, chúng tôi phải lấy rào chắn không cho đi lại”.
Chịu trách nhiệm về sự lộn xộn ấy là Moorefield, một viên chức phụ trách hoạt động di tản, đúng ra là vì anh quá rộng lượng. Anh giải thích, tôi phải tìm mọi cách giúp đỡ hàng đống người bị bỏ lại. Đáng lẽ viên chức cơ quan thông tin Mỹ đi với nhân viên các hãng tin tư nhân nhưng có điều gì đó không ổn, họ phải ở lại. Nhân viên tổ chức World Vision và nhiều tổ chức từ thiện khác mắc kẹt ở phái bộ quân sự, không có ai che chở ngoài một người Việt Nam. Nhân viên nhiều công ty Mỹ cũng thế. Họ đến phòng làm việc của tôi đưa cho tôi một tài liệu vu vơ và nói: người ta hứa giúp chúng tôi. Đúng, họ xứng đáng được giúp đỡ nên tôi không có cách nào khác là tạo điều kiện cho họ đi.
Lại còn vấn đề dở khóc là vấn đề tỷ lệ, chỉ tiêu nữa. Nhiều người đã giữ chỗ từ trước. Chúng tôi không còn biết còn bao nhiêu chỗ sau khi những kẻ ở phái bộ quân sự và sứ quán gửi những giấy đặc biệt vào!
Cứ 20 phút tôi lại gọi dây nói cho sứ quán xin ý kiến. Nhưng rõ ràng không ai kiểm soát được việc gì nữa. Lúc đó, tôi bắt đầu làm theo ý riêng. Khi Rosenblatt hoặc một nhân viên CIA nào dẫn một người Việt Nam đến nói rằng người này ở lại sẽ nguy hiểm thế là tôi đóng dấu cho đi. Không hỏi thêm điều gì nữa.
Viên chức bậc thấp người Việt Nam được Moorefield sử dụng cũng trở thành vấn đề. Anh kể lại: Thỉnh thoảng tôi ngẩng đầu lên, tôi thấy một người đã thu xếp xong hành lý và đi rồi. Sau này tôi mới biết nhiều người trong bọn họ chuồn đi với những cặp giấy thông hành, đem ra chợ bán theo giá chợ đen, đắt kinh khủng.
Chiều thứ ba, 22 tháng 4, đám người tị nạn ở căn cứ không quân Clark ở Philippines tràn qua khu vực đón tiếp như nước vỡ bờ. Ở Hoa Thịnh Đốn, lực lượng can thiệp đã dự kiến tình hình di tản, vội báo cho chính quyền ở đảo Guam chuẩn bị đón mỗi ngày năm nghìn người tị nạn, sẵn sàng cho họ ăn, ở trong 90 ngày. Chỉ mấy giờ sau, những người tị nạn đã được đưa đến căn cứ không quân Anderson ở Guam, được ở trong những baraque bằng kim loại gọi là thành phố đồ hộp. Phi công Mỹ lái máy bay B-52 trước kia cũng ở đây khi đảo này là bậc nhảy của những đoàn máy bay đi ném bom ở Bắc Việt Nam.
Thoạt tiên, các viên chức cơ quan nhập cư ở Guam và Clark áp dụng triệt để luật pháp. Giấy tờ của người tị nạn được kiểm tra, kiểm soát cẩn thận đề phòng lầm lẫn và giấy giả. Tội phạm hình sự, gái điếm, người nghiện cần sa đều được vạch mặt và cho cách ly. Nhưng chỉ một, hai ngày sau, số người tị nạn quá đông, không còn kiểm soát, kiểm tra được gì nữa. Nếu làm việc cẩn thận như cũ thì các viên chức cơ quan nhập cư sẽ gây ách tắc và ngăn cản cầu hàng không hoạt động. Cũng như Moorefield và nhiều người khác ở Sài Gòn lúc đầu, họ cố làm hết sức mình để công việc chạy.
MỘT Ý NGHĨ QUÁ GIẢN ĐƠN
Mặc dù việc di tản tiến triển nhanh, quốc hội cũng không bằng lòng. Ở phủ tổng thống, người ta nghi ngờ. Có phải chính phủ muốn hoãn việc tản cư người Mỹ lại để đưa người Việt Nam đi trước không? Một thượng nghị sĩ nói với các nhà báo: “chúng tôi không muốn ở Sài Gòn còn quá số người Mỹ mà một máy bay lên thẳng có thể chở được".
Nhà Trắng cố dập tắt những lời công kích ấy bằng cách hứa một lần nữa, sẽ rút cộng đồng người Mỹ xuống còn 1.500 người trong mấy ngày tới. Lầu Năm Góc cho biết hạm đội di tản sẽ được tăng cường để có một cầu hàng không lớn máy bay lên thẳng sẵn sàng phục vụ. Nhưng điều đó chưa làm quốc hội vừa lòng. Nhiều nghệ sĩ phê phán chính phủ muốn nhảy vào một cuộc chiến tranh mới. Phía Bắc Việt Nam cũng bất bình. Đài phát thanh Hà Nội cảnh cáo: "Thái độ ấy có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm. Trong một bài diễn văn đọc chiều thứ tư ở Trường đại học Tulane, tổng thống Ford cố đánh tan những điều lo ngại ấy. Ông tuyên bố: Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, ông đề nghị đất nước thôi không lao vào những cuộc đấu tranh, tranh cãi như trước. Ông nói: Một số người tưởng rằng nếu chúng ta không đạt mọi thắng lợi ở mọi nơi thì chúng ta không thắng lợi ở đâu cả. Tôi phản đối sự khẳng định ấy. Chúng ta có thể có nhiệm vụ giúp đỡ người khác để họ tự giúp họ. Nhưng số phận của những người đàn ông, đàn bà khắp thế giới này, nói chung, cuối cùng nằm trong tay họ. Ở Sài Gòn, phía bên kia trái đất, 18 sư đoàn Bắc Việt Nam được nhiều đơn vị xe bọc thép, pháo binh yểm hộ, đang tiến như gió mùa. Sự có mặt của họ thể hiện suốt ngày bằng những trận đánh phục kích. Một Ô tô buýt bị đổ trên đường Sài Gòn - Tây Ninh. Ở quốc lộ số 14, cách Sài Gòn 21 kilômét về phía Tây Nam, một cuộc đột kích xảy ra. Trên đường Xuân Lộc - Biên Hòa, sự uy hiếp mỗi lúc một tăng. Trạm ra đa ở Phú Lâm cách Sài Gòn mấy kilômét lại bị đặc công tiến công. Nhưng lần này, những kẻ bảo vệ không muốn chống cự nữa, vừa nghe tiếng súng, họ đã bỏ chạy. Sân bay Biên Hòa đã đóng cửa. Lãnh sự quán cũng thế. John Stockwell trở lại Sài Gòn lần cuối cùng, vào thứ tư ngày 23 tháng 4, xem người Việt Nam của anh được di tản chưa. Chỉ còn mấy tên lính gác người Nùng ở lại trụ sở. Dick Peters, tổng lãnh sự, chờ đến chiều, phút cuối cùng, mới đi, không phải vì anh nhận rõ trách nhiệm mình là người chỉ huy mà vì khôn ngoan thôi!
Anh báo cho sứ quán: Anh không thể về Sài Gòn nếu không có một máy bay lên thẳng hộ vệ. Sự cẩn thận ấy có vẻ đúng vì trên đường đi, anh gặp nhiều lính tức giận bắn vào mui xe anh!
Trong khi tướng Dũng khép chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn, thì Kissinger cố gắng sử dụng thì giờ còn lại. Trong một điện gửi cho Martin, sáng 23 tháng 4, ông nói: Có hai giải pháp: hoặc là cố cứu chính quyền Hương trong một lúc, hoặc là thực hiện kế hoạch của người Pháp, thiết lập một chính quyền mà cộng sản có thể chấp nhận. Ông nghiêng về giải pháp thứ nhất. Martin chấp hành lệnh của Kissinger rất nghiêm chỉnh và tin rằng nhân viên của ông cũng làm như thế. Khi Polgar xin phép đi mua một số nghị sĩ Sài Gòn để mau chóng đưa Minh lên cầm quyền thì Martin không muốn nghe nói nữa. Ông nhấn mạnh: Người Nam Việt Nam phải quyết định lấy số phận của họ, không có sự can thiệp của người Mỹ!
Đó là việc Nam Việt Nam vẫn làm nhưng họ thường không thấy việc gì sẽ đảm bảo hơn sự sống còn của họ. Về phần Minh, vẫn là người chỉ phù hợp với việc thay đổi chính phủ bất chấp Hiến pháp, ông ta cho rằng chỉ có ông ta mới cứu được nước này, với nói chuyện được với cộng sản. Minh nói với Viên và nhiều người khác: Không khi nào ông ta chịu để Hương bố nhiệm ông làm bộ trưởng. Ông chỉ chấp nhận một chức vụ tổng thống với điều kiện chức vụ ấy do một khối liên hợp trung lập phong. Còn Hương, khốn khổ cho anh chàng giữ nhà ấy, vẫn có tham vọng đóng vai quốc trưởng, mà ông tưởng làm quốc trưởng thật. Hương nói với đại sứ Pháp Mérillon: Thiệu đã trốn tránh trách nhiệm. Nay trách nhiệm thuộc về tôi. Để tỏ rõ quyền lực của mình, Hương ra lệnh gỡ những tấm băng và áp phích chống cộng sản trong thành phố. ông cho một cộng tác viên đến sân bay Tân Sơn Nhất thăm dò xem có thể mở cuộc thương lượng với Đoàn đại biểu Bắc Việt Nam trong ủy ban hỗn hợp quân sự không. Sáng thứ năm 24 tháng 4, Hương còn lợi dụng cả sự thất trận để nêu cao đạo đức hòa bình của mình. Ông nói với Viên ra lệnh cho quân đội chỉ phòng thủ thôi để tỏ rõ cho cộng sản biết chủ trương hòa bình thật sự của Sài Gòn.
Cử chỉ ấy dù tốt nhưng nhiều tướng của Viên phản đối. Mặc dù họ không có ảo tưởng gì về khả năng kháng cự của quân đội, họ muốn cho cộng sản nếm lần cuối cùng, mùi sắt thép. Nếu có thương lượng thì chỉ có hai bên. Hôm trước, chỉ mấy giờ sau khi Thiệu từ chức, tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III còn gợi ý đề nghị máy bay B.52 của Mỹ ném một trận bom cuối cùng. Viên đã gạt bỏ ý kiến ấy do nhiều nguyên nhân hiển nhiên. Khác với Toàn, ông biết không còn máy bay B.52 nữa. Nhưng gợi ý làm ông nghĩ đến những trận ném bom hồi trước. Được sự giúp đỡ của kỹ thuật viên phái bộ quân sự Mỹ, phi công Nam Việt Nam đã lắp vào máy bay một loại bom đặc biệt do Von Marbod và Weyand đưa sang hồi đầu tháng: đó là một vũ khí đáng sợ: bom CBU. 55.
Vũ khí ấy gây khủng khiếp vào chiều thứ ba. Một máy bay C.130, mang theo bom CBU.55 cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất bay về Xuân Lộc, ném xuống bên ngoài một thị trấn cộng sản vừa chiếm được. Thiệt hại nặng nề. Hơn 250 lính Bắc Việt Nam biến thành tro bụi hoặc bị chết ngạt vì thiếu không khí lúc bom nổ. Đài phát thanh Hà Nội lập tức lên án Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là đồ man rợ, ném bom vi trùng!
Giữa sự phản kháng ấy, nhiều máy bay chở bom Daisy Cutters, một loại bom lớn 7.500 kilôgam, dùng để san bằng đất dùng nơi đỗ cho máy bay lên thẳng và chở bom bi 250 kilôgam, ném xuống các đơn vị cộng sản chung quanh Xuân Lộc. Ngoài ra còn một trận đánh vào đoàn xe chở tên lửa Sam-2 ở phía Đông Bắc Quân khu III. Lần này, dùng tên lửa Wild Weasel và do máy bay Mỹ phóng. Cả Polgar lẫn các nhân viên tình báo khác của ông cũng không hề biết máy bay Mỹ lại trở lại chiến trường. Cộng sản phản kháng ngay tức thì. Chỉ mấy giờ sau trận ném bom CBU, cuộc bắn phá sân bay Biên Hòa tăng cường, các đường băng hỏng hết. Một vài máy bay phản lực F.5A còn lại vội bay về Sài Gòn. Còn những máy bay A.37 cất cánh đi Cần Thơ. Đúng lúc Sài Gòn dồn sức cho một trận đánh cuối cùng thì cuộc đàm phán chính trị mà Kissinger hằng thiết tha mong muốn tắt ngấm ở chân trời...
Về phía tướng Dũng, ông xem lại lần cuối cùng kế hoạch tiến công. Chiều thứ năm; tướng Lê Trọng Tấn, chỉ huy mặt trận Xuân Lộc - Biên Hòa đề nghị ông cho phép đánh sớm hơn ngày dự kiến - ngày 26 tháng 4 - để có thể đặt đại bác ở Nhơn Trạch kiềm chế và bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất ba ngày sau đó. Trong 12 giờ, tướng Dũng không trả lời đề nghị đó. Trong lúc đó, Quang Tấn, chỉ huy xe bọc thép, nghiên cứu chi tiết bản đồ trung tâm Sài Gòn. Buổi sáng, ông được tin sư đoàn xe bọc thép 203 của ông có nhiệm vụ xung phong vào thủ đô Nam Việt Nam. Ông được vinh dự cao cả chiếm dinh tổng thống. Ông rất xúc động nhưng cũng rất bận. Chiều 24 tháng 4, quân của ông chưa sẵn sàng, hai đơn vị chưa hành quân tới. Mặt khác ông chưa rõ "mục tiêu” của mình ở đâu, chưa đến Sài Gòn bao giờ và chưa biết phố xá và vùng phụ cận thành phố ra làm sao. Ông chỉ dựa vào những bản đồ của Hà Nội, những bản đồ vẽ, in vội vàng. Quân của tướng Dũng cũng tỏ ra phần nào chểnh mảng trong việc chuẩn bị chiến đấu. Những tin tức radio đánh đi không hoàn toàn bằng mật mã khá rõ đối với cơ quan thu tin của chúng tôi: cuộc tiến công vào Sài Gòn sắp đến nơi rồi. Nhưng Polgar vẫn chưa tin. Ông nói với tôi ngày thứ năm: Có thể quân cộng sản định lừa chúng ta bằng những bức điện như thế để chúng ta mắc bẫy và lo sợ.
Trong khi Martin và Polgar trực tiếp tìm kiếm một dấu hiệu chính trị nhỏ nhen nào đó thì Mérillon và nhân viên sứ quán Pháp vẫn tỏ ra tin tưởng. Chiều 24 tháng 4, mười nghìn công nhân Pháp trong thành phố được lệnh là không động đậy gì vì sắp có ngừng bắn. Kết quả là một số đông người Pháp định giúp bạn bè và người quen Việt Nam di tản thôi không hoạt động nữa. Một số phần tử trong cộng đồng người nước ngoài không dễ dàng bị lừa. Sáng thứ năm, bốn đại sứ quán đóng cửa hẳn. Không một sứ quán nào ra đi có danh dự. Sứ quán Anh và Canada bỏ mặc nhân viên. Đại biện lâm thời Canada, với giọng cáu kỉnh, giải thích với các nhà báo rằng không phải ông ta có nhiệm vụ giúp những người di tản khi những người này chỉ có những giấy tờ không hợp lệ!
Sứ quán Đài Loan lại còn tồi hơn, không những bỏ rơi các nhân viên, mà còn để mặc một nghìn kiều dân Trung Hoa quốc gia trong thành phố, trong số này có nhiều người làm điệp viên tình báo. Noi gương khu vực sứ quán, phần lớn các hãng dầu và hàng không nước ngoài đều ngừng hoạt động hôm đó. Cả hãng Hàng không Pan Am cũng chấm dứt những chuyến bay mỗi tuần hai kỳ. Khác với giới ngoại giao, giới buôn bán gặp nhiều khó khăn trong việc giúp đỡ người Việt Nam mà họ chịu trách nhiệm. Đại diện các hãng Chase Manhattan, First National City Bank và Bank of American, đã trở lại Sài Gòn (sau khi vội vã rời thủ đô trước đó ) để di tản các nhân viên người bản xứ. Nhiều hãng nhỏ định thuê chung một máy bay đặc biệt đi Bangkok. Cuối cùng, vào đầu tuần, bộ ngoại giao đã giải quyết được vấn đề bảo hiểm cho chuyến bay quân sự chở 220 triệu đola vàng của ngân khố Việt Nam, từ Sài Gòn đến New York. Những người chịu trách nhiệm ở Bộ kinh tế phụ trách việc đóng gói. Máy bay sẽ đến sáng ngày 25 tháng 4. Nhưng đến phút cuối cùng lại có trục trặc.
Sáng thứ năm, bộ trưởng kinh tế Nguyễn Văn Hảo, báo cho Dan Ellerman, cố vấn kinh tế của Martin, biết tổng thống Hương đã ra lệnh hoãn chuyến máy bay đó cho đến lúc chính phủ mới được thành lập. Martin cố thuyết phục Hương bỏ lệnh ấy. Không có kết quả. Ông quyết định để nguyên số vàng tại chỗ cũ, ra lệnh cho Ellerman giữ máy bay lại cho đến đêm 27 tháng 4. Martin hy vọng nhờ được Hảo. Nhưng ngay sau khi thất thủ Sài Gòn, nhiều nguồn tin cho tôi biết Hảo từ lâu là người của cộng sản. Đầu tháng tư, nhiều cán bộ Bắc Việt Nam bảo đảm với Hảo rằng: Sẽ được chế độ mới đối xử khoan hồng nếu ông ta ngăn không cho chở số vàng trên ra khỏi nước này. Hảo không phải là đảng viên cộng sản nhưng ông ta là một thanh niên sôi nổi, phần nào lý tường hóa. Hảo tin vào những lời nói của cộng sản. Không những Hảo từ chối không di tản mà còn nhờ mánh khóe lễ phép, ngăn cản Ellerman chiếm số vàng trên. Dự trữ 220 triệu đôla bằng vàng nằm trong một ca bin máy bay vận tải ở sân bay Tân Sơn Nhất lúc quân của tướng Dũng chiến thắng tràn vào thành phố.
Chiều thứ năm, khi tôi trở về nhà, Tư Hà bận trong bếp. Cô khua xoong chảo để làm át tiếng súng đại bác nổ ở phía Biên Hòa. Cô chẳng chào tôi nữa. Một tuần nay, cô có vẻ sợ hãi và do dự hết mức, có cảm giác như lúc nào cô cũng bị say thuốc. Đứng ở cửa, nghe cô nói, tôi đã có một quyết định tốt trong ngày. Nếu tôi điên, đến phút cuối cùng còn muốn chơi trò anh hùng, thì tôi không có quyền gì đòi cô phải chơi trò ấy. Tư Hà và gia đình cô chẳng có gì phải giấu giếm và sợ cộng sản cả. Chưa bao giờ họ ủng hộ mạnh mẽ chính phủ hoặc tâng bốc quá cao người Mỹ. Có thể bố mẹ cô lo sợ khi biết tin cô quan hệ tốt với một "con mắt tròn". Chưa bao giờ ông bà ấy biết rằng cô đã làm chiêu đãi viên mấy năm nay trong các tiệm ở Vũng Tàu và đường Tự Do.
Tuy nhiên, nếu cộng sản hiểu lầm quá khứ của cô và quan hệ giữa cô với người Mỹ thì cái gì sẽ xảy ra? Phải tính đến chuyện đó dù đó là việc nhỏ. Trong bữa cơm chiều, tôi hỏi cô ta muốn làm gì. Cô vừa nức nở khóc vừa nói: Tôi sợ đi Mỹ lắm nhưng ở lại cũng không yên tâm. Tôi vừa lúng túng gắp thức ăn bằng đũa, vừa nói: Có cách lấy giấy tờ cho cô đi, và có người nhận nuôi cô. Cô ngồi yên một lúc, rồi hỏi tôi một câu rất quan trọng mà tôi không thể trả lời được: Việt cộng có giết tôi không? - Tôi không biết. Tôi bảo cô chuẩn bị 12 giờ nữa sẽ đi. Cô nhìn tôi với vẻ van nài. Cô nói lí nhí: "Còn việc này nữa - hình như cô sợ phải nói đến việc đó - tôi có thể đem theo gia đình được không?". Tôi không biết đã giảm nhẹ thể lệ giấy tờ, nên trả lời: không thể được". Sáng hôm sau, Joe Kingsley và tôi phân công nhau. Từ nay, Joe trông nom việc di tản các bạn Việt Nam của chúng tôi, còn tôi phụ trách công việc bàn giấy. Anh kêu lên: "Như thế tốt quá, tôi đã khá mệt với những trò phân tích, báo cáo rồi. Dù thế nào, không còn ai quan tâm đến nữa. Tôi hiểu anh muốn nói gì. Trong những giờ sau, Kingsley thu thập giấy tờ giả mạo, nói với một người bạn cũ làm người bảo lãnh và đưa Tư Hà ra khỏi nước này. Moorefield gọi dây nói từ sân bay Tân Sơn Nhất về báo cho biết, họ đã có chỗ để bay đi. Trong lúc đó, Tư Hà và cha có cố rút tiền gửi ở Ngân hàng ra, khoảng hơn một nghìn đôla, ngoài việc cô có ý định rời thành phố này một thời gian. Lúc cô trở về nhà chuẩn bị hành lý thì mẹ cô đi chợ.
Ăn cơm sáng xong, Tư Hà đến nhà tôi, xách theo va li. Cô gửi cô sen của tôi một bức thư trao cho bố mẹ cô, trong thư cô giải thích việc ra đi. Hai giờ sau, Kingsley đến dẫn cô ra sân bay. Trước khi từ biệt chỗ phân loại, Kingsley đưa cho cô một phong bì, trong đó, tôi để một nghìn đôla. Tám giờ sáng hôm sau, Tư Hà, người bạn Mỹ và nhân tình người Việt Nam của anh ta lên một máy bay C.141 của không quân Mỹ. Chuyến bay lạnh lẽo, mất 9 giờ. Nhiều khách đã bị ốm. Phòng vệ sinh không dùng được, không có gì ăn uống. Nhưng cái làm Tư Hà xúc động là sự yên lặng trong ca-bin. Các bạn đồng hành người Việt Nam của cô, lẳng lặng khóc nức nở, không nói một lời!
Khi máy bay hạ cánh xuống Guam, đã 4 giờ chiều. Nhân viên hải quan phân phát bánh biscuit và cháo. Đêm đầu tiên, Tư Hà và 11 người khác ngủ trên sân gỗ một túp nhà dài, rộng mỗi chiều một mét. Sáng sớm, đàn ông, đàn bà đều muốn đi tắm nhưng không có nước. Tư Hà ở trên đảo hơn sáu tuần, ngày ngày ngồi trong túp nhà tồi tàn ấy. Các nhà chức trách cơ quan nhập cư khám phá thấy giấy tờ của cô giả mạo, từ chối không cho cô đi Mỹ với lính thủy hoặc nhân viên nhập cư để được tiếp tục vào Mỹ.
Tư Hà phải mất tiền mới được thả. Một bạn cô, người Việt Nam, có nhiều người bảo lãnh ở California bán cho cô một giấy chứng nhận lấy một trăm đola. Nhờ đó có giấy xuất cảnh và một địa chỉ rõ ràng. Cặp vợ chồng đón cô ở bên bờ biển phía Tây là vợ chồng một sĩ quan đã nghỉ hưu. Họ có vẻ hiền và dễ thân như người nhà. Nhưng chỉ một, hai tuần sau, anh chồng đã tán tỉnh Tư Hà bị người vợ bắt được và đuổi cô đi. Chắc chắn Tư Hà sẽ có nhiều bạn trẻ, những thanh niên California vì thấy cô lạ và quyến rũ. Nhất là trong túi cô lại có nhiều tiền. Họ sẽ dẫn cô đi ăn cơm tối, đi xem chiếu bóng và chị chị tôi tôi mời cô trả tiền cho mọi người. Chẳng mấy lúc, cô hết một nghìn đôla và họ sẽ bỏ rơi cô!
Thất vọng, cô bé viết cho hai vợ chồng một cô bạn Việt Nam đang sống ở Nouvelle Orléans, đề nghị cho cô đến ở nhờ. Mấy tháng sau khi Sài Gòn thất thủ, tôi mới tìm thấy Tư Hà. Nhờ khéo xoay sở, cô đã nhận làm người may vá và có một phòng ở. Với giọng nói trọ trẹ, cô bắt đầu sử dụng những tiện nghi mới nhất của Mỹ.
MỘT NGƯỜI LÁI XE CÓ CỠ
Sáng 25 tháng 4, đài phát thanh Sài Gòn dựng đứng lên một tin giật gân: Có người bị ám sát ở Hà Nội v.v... Tưởng rằng có thể đánh lừa được mọi người nhưng ai cũng biết đó chỉ là chiến tranh tâm lý. Nhà chức trách Sài Gòn tung tin này đề hòng lung lạc tinh thần quân đội Bắc Việt Nam đang ở cửa ngõ thủ đô. Phần lớn người Sài Gòn đều thấy đó là một tin ngớ ngẩn. Họ không buồn mở đài để nghe thêm chi tiết nữa. Quân Bắc Việt Nam cũng không hề xúc động. Chỉ có những nhà báo Mỹ là những người nghe và tin rằng tin này có thật. Trong buổi sáng, tôi nhận được không biết bao nhiêu cú điện thoại của các nhà báo quen thuộc hỏi lại tin trên. Tôi trả lời; Đó là trò đùa tồi của Sài Gòn. Hôm ấy, tôi viết vào sổ tay: thành phố là một lò than".
Người ta chiếu cuốn phim mới nhất của John Wayne trong một rạp rỗng không ở giữa thành phố. Không ai còn cần có cảm xúc mạnh trong lúc sự thật đã quá căng thẳng. Như thường lệ, tiền là thước đo tinh thần. Ngoài chợ đen, một đôla trị giá năm nghìn đồng. Hôm qua, hôm kia chỉ có ba nghìn. Ít con gái ra đường. Theo một anh bạn nhà báo, những cô gái xinh của bar Mini sáng nay đã đưa hành lý lên một chiếc xe Chevrolet. Một người Mỹ tháo vát đã tìm cách đưa họ lên tàu "Chim tự do".
Ở sứ quán, một tình bạn giả tạo nấy nở giữa chúng tôi là những người được coi là "cần thiết phải ở lại”. Có những đồng nghiệp chưa hề nói chuyện với nhau nay trở thành bạn tri kỷ. Họ ăn sáng (rất nhanh) với nhau và kể cho nhau nghe những chuyện về nguồn gốc xã hội của đại sứ, thái độ của ông và về kế hoạch của cộng sản. Tình thân hữu ấy lúc này rõ ràng là một nhu cầu chung. Con sen, người đầu bếp, em bé đánh giầy đều vắng cả, chẳng có ai giúp chúng tôi làm những việc lặt vặt. Phải sát cánh lại với nhau. Vợ một viên chức bộ ngoại giao (một phụ nữ duy nhất còn lại) nhận nấu ăn cho chúng tôi trong khách sạn ở đằng sau sứ quán, người quản lý nhà tôi ở, cũng nhờ được bà hàng xóm rủ mấy người đến làm cơm cho chúng tôi. Mặc dù Tư Hà đã ra đi. tôi vẫn xoay sở được. Tuy nhiên, một cô thư ký nhắc tôi: Quần áo và sơ mi của anh bẩn rồi đây! Tôi tiếp tục cố gắng cung cấp tin cho bạn bè và đồng nghiệp. Tôi tự bảo phải nắm được tin chứ không được bịa ra. Hôm nọ, Eva Kim bảo tôi, mỗi khi trông thấy tôi vào phòng đại sứ với bản báo cáo trong tay, tim chị lại đập thình thình! Tôi có cảm giác đi khắp mọi nơi, từ phòng đại sứ sang phòng Polgar, trở về phòng tôi. Tôi nghiên cứu, phân tích tình hình rất nhanh. Qua những tin mỗi lúc một nghèo nàn, tôi tìm xem có hy vọng mỏng manh nào không. Polgar vẫn cho rằng các đài phát thanh Hà Nội và Giải Phóng sẽ phản ảnh thái độ tốt của kẻ thù. Do đó, cứ mỗi giờ tôi lại sang phòng nghe đài của CIA để lấy những bản dịch tin mới nhất.
Sáng thứ sáu, được tin Hoa Thịnh Đốn đồng ý để cho 130 nghìn người tị nạn vào Hoa kỳ. Mấy giờ sau, lính dù Việt Nam định vượt hàng rào dây thép gai rải chung quanh nơi phân loại người đi của phái bộ quân sự... Một tiểu đội lính thủy đánh bộ sẵn sàng bảo vệ ngôi nhà. Sau này tướng Smith nói: Nếu có những người làm cho lính Việt Nam kiêng nể thì đó là những người lính thủy.
Từ ngày từ chức (ngày 21 tháng 4), Thiệu để thì giờ đi bách bộ trong nhà của ông ta ở bờ sông. Ông ta nghiền ngẫm một cuộc trả thù và mơ tưởng đến việc giành lại địa vị trước kia. Vợ ông ta, quá sợ hãi, không còn chịu được cảnh thất thế này. Sáng thứ năm, bà ta đi Bangkok trên một chuyến bay thương mại. Em họ của Thiệu. Đại sứ của Sài Gòn từ Đài Loan trở về nước khuyên anh sớm ra đi. Nhưng Thiệu chưa nghe. Ông ta nghĩ rằng ông ta còn giữ một vai trò gì đó ở đây. Ông ta nói với em họ là Hoàng Đức Nhã: "Nếu tôi phải ra đi, tôi sẽ đi với đoàn tùy tùng có trống giong cờ mở". Thiệu, vốn thường kín đáo, ít nói, nay có vẻ cảm động. Ông ta nói với Nhã: Em là người duy nhất còn lại ở bên anh, mặc dù anh đã làm hại em, cách chức và đuổi em đi.
Nhã tìm cách an ủi Thiệu. ông ta nói với Thiệu: "Anh cứ coi tôi như Cambroune, viên tướng trung thành với Napoléon ở ngoài đảo Elbe".
Hương, người kế vị Thiệu, không dám giục Thiệu di tản, sợ bè phái Thiệu sẽ trả thù. Hương nói với Martin làm việc đó. Đại sứ cũng không thích thú làm việc này. Cho đến nay, ông vẫn làm cho người ta tưởng rằng sứ quán không can thiệp vào việc Thiệu từ chức. Ông không muốn làm thay đổi nhận định ấy.
Nhưng có một thứ yếu tố phải tính đến. Minh lớn cho rằng sự có mặt của Thiệu ở Sài Gòn vẫn là một trở ngại lớn cho hoạt động của ông ta. Minh đề nghị Timmes, cơ quan CIA giải quyết giúp việc này. Điều đó làm vừa lòng Martin.
17 giờ ngày 25 tháng 4, Polgar gọi tôi đến phòng làm việc. Ở đấy đã có Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên CIA nữa. Polgar nhỏ nhẻ hỏi chúng tôi: Ban đêm, các anh có dám ra ngoài phố không? Chúng tôi đều gật đầu. Riêng tôi, tôi không chắc có thuộc hết các ngõ ngách và những cái hẻm do người Pháp xây dựng không, nhưng dù sao... Polgar tiếp tục nói: thế thì tốt. Tôi đề nghị các anh tối nay, giúp tôi cho Thiệu và Khiêm đi Đài Loan. Đó là một ân huệ đối với các anh, đồng thời là một phần thưởng vì các anh đã làm việc rất tốt". Thật ra, Polgar mới chỉ biết "phần thưởng" này cách đây mấy giờ. Trước đó, Martin định giao cho phái bộ quân sự thu xếp mọi việc, kể từ việc tổ chức chuyến bay đặc biệt cất cánh từ cuối đường băng Tân Sơn Nhất. Đến phút cuối cùng ông giao lại cho CIA. Khoảng 20 giờ 30 phút, bốn người chúng tôi đi ba xe đến bộ tổng tư lệnh Nam Việt Nam ở Tân Sơn Nhất, Khiêm ở trong khu vực này, Joe và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng tôi không thể không tính đến việc diễn lại cuộc ám sát anh em Diệm trước đấy. Chúng tôi định kế hoạch như sau: “Sẽ có những sĩ quan trẻ ngăn chúng tôi lại trên đường đi, ra lệnh cho chúng tôi xuống xe và bắt chúng tôi. Tức thì chúng tôi nổ súng”.
Quá 21 giờ, Polgar đến nhà Khiêm, trong một xe riêng có lái xe lái. Ông đến uống rượu với Khiêm và Timmes. Chúng tôi đứng đợi ngoài sân. Kingsley và tôi, để giết thì giờ, hai đứa nói chuyện với những người lính gác Việt Nam. Mấy lính khác chơi bài. Phần đông tỏ ra không đế ý gì đến việc đi lại của bọn "mũ cao áo dài" này. Có tiếng súng nổ ở phía sân bay. Đài radio báo cho chúng tôi biết: Hai lính Nam Việt Nam cáu kỉnh đã bắn súng ở đây: "Không thiệt hại gì, nay tình hình yên tĩnh. Đúng lúc đó, một xe Mercedes xám đỗ trên đường. Một người tầm thước, tóc bạc, chải lật ra sau gáy, mặt bôi kem, quần áo xám chỉnh tề, bước xuống đất. Trong bóng tối, Nguyễn Văn Thiệu giống một người mặc quần áo mẫu quảng cáo trong một tạp chí hơn là một nguyên thủ quốc gia. Ông ta không thèm nhìn chúng tôi!
Mấy phút sau, mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một va li nặng, đi đến chỗ chúng tôi, bảo chúng tôi mở cửa xe, để tự họ xếp va li vào. Khi họ để va li xuống, có tiếng kim loại va vào nhau. Tiếp đó Thiệu, Khiêm, Polgar và Timmes, theo sau có nhiều nhân vật cao cấp Nam Việt Nam, bước ra cửa, tiến nhanh vào xe hơi. Thiệu ngồi xe tôi, ở ghế đằng sau. Giữa Timmes và một người Việt Nam. Timmes khuyên ông ta: Tổng thống ngồi thấp xuống để được yên ổn.
Chuyến đi chỉ có mấy phút nhưng tôi thấy rất dài. Timmes nói với Thiệu những chuyện không đâu, về quá khứ. Họ quen nhau năm 1961 trong một cuộc lửa trại ngoài Quân khu I. Trong những năm sau, Timmes thường cho Thiệu biết sự tiến triển của việc bình định: "thưa tổng thống, đó là một thành tựu lớn của chúng ta". Có một lúc Timmes giới thiệu tôi với Thiệu như một người nhận định tin có tài ở sứ quán, một người lái xe "có cỡ”! Mọi người bất đắc dĩ cười. Tiếp đó, Thiệu nói tiếng Anh pha giọng Pháp, cho rằng tất cả những lái xe ở Sài Gòn đều có cỡ nhưng xấu nhất, hay xấu hơn cả những kẻ thù điên ở Bangkok.
Timmes hỏi: "Phu nhân và tiểu thư có khỏe không ạ? Thiệu trả lời: Nhà tôi và cháu đi Luân Đôn mua ít đồ cổ. Tôi nhìn rõ mặt cựu tổng thống qua tấm kính xe, mắt sáng dưới ánh đèn ngoài đường, mùi rượu Scoth thoáng bay trong xe có máy điều hòa không khí.
Đến gần cổng vào sân bay Tân Sơn Nhất, đèn phụ xe hơi rọi thẳng một lúc vào bức tượng do người Việt Nam dựng để tưởng nhớ những người Mỹ chết trong chiến tranh. Trên bức tượng có dòng chữ: "Chúng tôi không bao giờ quên sự hy sinh cao cả những người lính đồng minh". Thiệu thở dài khá to và quay mặt đi. Một lần nữa Timmes nhắc Thiệu ngồi thấp xuống. Bình thường, cơ quan an ninh Việt Nam đứng gác ở sân bay không chú ý đến xe của sứ quán Mỹ.
Nhưng quá 21 giờ 30 rồi, quá giờ thiết quân luật hơn một tiếng. Những người gác có thể ngăn xe lại. Trời ơi, may quá, họ không làm gì cả. Đoàn người đi qua đường băng. Người lái xe trước tắt đèn. Tôi cũng làm theo. Trong một lúc tôi thấy dài ghê, tôi không trông thấy gì cả. Chiếc xe Chevrolet đồ sộ của tôi chạy một mình trong đêm tối. Sau tôi mới quen dần. Chợt tôi trông thấy Polgar chạy qua đường băng, cách tôi mấy mét. Tôi vội hãm phanh. Bánh xe kêu ken két. Xe dừng lại. Thiệu và người ngồi xe tôi bị xô vào ghế trước. Những xe sau vội quay ngang, quay dọc bao vây lấy xe tôi: một cảnh trong phim trinh thám. Polgar chạy đến vẫy tay và mở cửa xe cho Thiệu.
Một máy bay bốn động cơ C.118 của không quân Mỹ đậu gần đấy. Lính thủy Mỹ mặc thường phục đứng gác và đi theo đại sứ Martin, dàn hàng ngang bên cạnh máy bay. Đại sứ chờ ở chân cầu thang. Khi Polgar mở cửa sau xe tôi. Thiệu cúi xuống vỗ vai tôi, nói giọng khàn khàn: cảm ơn ông ta chìa tay ra, giữ tay tôi một lúc ông ta cố nén không khóc. Tiếp đó ông ta rời xe, bước lên cầu thang máy bay. Khiêm và đoàn tùy tùng Thiệu đi sau, tay xách va li vai đeo máy ảnh, xắc...
Sau này, Martin thuật lại: "Tôi chỉ chào tạm biệt ông ta. Không có câu nói lịch sự nào. Chỉ một lời tạm biệt".
Đối với tôi cũng như đối với Joe Kingsley, ngay mấy từ ấy cũng dài lê thê. Bên ngoài, trên đường băng, chúng tôi cáu kỉnh nhìn chu vi sân bay. Polgar và Martin mãi mới trở lại, đầu cúi gầm. Máy bay nổ máy. Lúc đại sứ từ bậc cuối cùng của cầu thang bước xuống ông ta quay lại, vịn vào thành cầu thang như muốn giữ lại mối liên hệ với quá khứ. Tôi kêu lên: "Thưa đại sứ, tôi có thể giúp đại sứ việc gì?". Martin đứng lại. Ông đăm đăm nhìn tôi. Ông thở. Lúc ấy, với đôi kính gọng bầu dục, màu da, đại sứ thật giống một con ma ăn mặc chỉnh tề hơn là một nhà ngoại giao vừa vĩnh biệt dấu vết cuối cùng của ba mươi năm thực hiện một chính sách tồi tệ.
ĐẾN LƯỢT CHÚNG TÔI
Sáng hôm sau, lúc mặt trời mọc trên sân bay Biên Hòa, một làn sóng người tị nạn, xe hơi riêng, xe tắc xi chạy trốn từ thị xã này. Nơi đây trước kia là thiên đường của dân phe, là nơi ăn chơi phè phỡn bổ sung cho Sài Gòn. Xa lộ có bốn đường xe, chạy thắng tắp về Sài Gòn là niềm tự hào của kỹ sư Mỹ, lúc này giống như một con rắn khổng lồ bò dưới những đám mây khói xăng, dầu của những xe hơi nối đuôi nhau. Lực lượng an ninh đặt những trạm kiểm soát đề phòng sự thâm nhập của cộng sản nhưng phải bỏ chạy.
Tướng Viên, Trần Văn Đôn và nhiều người khác, buổi sáng ở dinh tổng thống để ép Hương từ chức. Đến trưa, ông già này chấp nhận. Nhưng, hoặc để trả thù, hoặc muốn hợp hiến hay muốn vừa lòng Martin, Hương đòi phải có yêu cầu của quốc hội. ông nói: Tôi không trao quyền cho Minh một cách dễ dàng như thế. Quốc hội có nhiệm vụ phải hợp pháp hóa sự thay đổi này bằng cách chính thức bán mình. Ông kêu gọi các nghị sĩ và nói thêm. Nếu các vị thấy không thể thay tôi bằng tướng Minh và các vị không thế điều đình có kết quả thì Sài Gòn sẽ biến thành biển máu. Và chúng ta sẽ phải chiến đấu cho danh dự dân tộc chúng ta.
Hương không làm gì để tạo điều kiện thuận lợi cho Minh lên cầm quyền. Nhưng về phía cộng sản, họ có vẻ có ý định ấy. Buổi trưa, Trần Văn Đôn cho biết ông ta đã tiếp xúc với trung gian của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Người này nói chắc chắn sẽ có ngừng bắn nếu Minh nắm chính quyền và nếu người Mỹ không chuyên chở vũ khí, đạn dược đi (Von Marbod đã cố làm việc này)...
Ngày 26 tháng 4, đài phát thanh Hà Nội đòi chính phủ và quân đội Nam Việt Nam phải đầu hàng và kêu gọi lực lượng thứ ba cùng nhân dân nổi dậy tổng khởi nghĩa. Minh thường được coi là người trung lập của lực lượng thứ ba? Buổi trưa, trong một cuộc họp báo, đại tá Võ Đông Giang trả lời một nhà báo khi anh này hỏi về triển vọng của những cuộc thương lượng: Quân đội chúng tôi tiếp tục tiến công. Ông Giang đã biết rõ mình nói gì. Đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được bộ tư lệnh của tướng Dũng mật báo cuộc tiến công Sài Gòn sắp nổ ra. Họ đào hầm trú ẩn trong chỗ ở, đề phòng bom đạn ba ngày nữa sẽ nổ.
Trong lúc Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn còn mơ hồ về ý đồ thật sự của Hà Nội thì tướng Dũng đang đi xe trên một đường đất ở Quân khu III. Bình minh ngày 26, ông từ Lộc Ninh đến Bến Cát, cách Sài Gòn 48 kilômét về phía Bắc. Ở đây, trong một túp lều tranh ông điều hòa kế hoạch cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh. Người phó của ông, tướng Trần Văn Trà, đã vạch những đường tiến công trên bản đồ. Ở phía Đông, tướng Lê Trọng Tấn, tư lệnh mặt trận Biên Hòa, đang chuẩn bị cho cuộc tiến công vào ngay buổi chiều hôm đó. Hai lãnh tụ cộng sản, các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính trị, vẫn ở lại Lộc Ninh, để xem xét thái độ chính trị mới nhất.
Trừ người Pháp, còn bất cứ người nào ở Sài Gòn cũng thấy chuyện thương lượng đến phút này là vô ích. Trong 24 giờ qua, số người Mỹ và người Việt Nam xếp hàng nối đuôi nhau ở nơi phân loại người di tản của phái bộ quân sự tăng gấp bội. Sáng 26, phải đóng cửa nơi này. Ba viên chức lãnh sự quán cùng với Moorefleld làm việc cật lực mà không kịp. Mỗi đêm họ chỉ ngủ ba, bốn giờ. Moorefield kể lại: "Mỗi phút, chúng tôi phải có một quyết định sống còn. Thí dụ như làm tan nát một gia đình hay đẩy người này, người nọ vào tay Việt cộng. Là sĩ quan đã từng tham chiến, tôi có kinh nghiệm để chịu trách nhiệm về những việc này. Các anh ở bộ ngoại giao không có kinh nghiệm ấy".
Buổi trưa, một đồng nghiệp của Moorefield phát điên. Bỗng nhiên, anh nhảy ra khỏi ghế, ném chai coca-cola vào tường. Rồi anh vừa kêu vừa chửi. Moorefield phải cho anh ta nghỉ. Những người khác cố cầm cự, cố tính toán. Moorefield thuật lại: "Tôi nhớ có một người Mỹ đến lúc 6 giờ 31 phút. Anh ta nói rằng có một bạn Hoa kiều sẵn sàng làm cho chúng ta giàu có nếu chúng ta đóng dấu xuất cảnh cho người ấy. Tôi ngạc nhiên về điều anh ta yêu cầu. Đó là bạn tôi, người thật thà. Nhưng tôi cho rằng anh cũng là nạn nhân của sự căng thẳng mỗi lúc một lớn".
Người ta chất ngày càng nhiều người tị nạn lên những máy bay C.141. Và ở đầu đằng kia của cầu hàng không, rối loạn chẳng kém gì ở chỗ bay đi. Cuối cùng, chiều ngày 26 tháng 4, Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho những người tị nạn đi sau đến đảo Wake, cách đảo Guam hai nghìn kilômét về phía Đông Bắc.
Từ bộ tư lệnh ở phía Đông Sài Gòn, tướng Lê Trọng Tấn theo dõi nhịp độ di tản qua những bản báo cáo do đặc công cộng sản nằm cạnh sân bay Tân Sơn Nhất nói radio về. Điều ông muốn biết là có máy bay Mỹ tham gia chuyên chở không. Máy bay thám thính của ông, cho đến lúc ấy, không thấy.
Đúng 17 giờ, viên tư lệnh quân đội Việt Nam nhìn đồng hồ. Ông gật đầu ra lệnh cho người điều khiển radio. Mấy giây sau, lệnh bằng mật mã ban ra: Cuộc tiến công của cộng sản vào Nhơn Trạch và vùng phụ cận phía Đông Sài Gòn bắt đầu. Sáu tư lệnh của sáu sư đoàn nằm dưới quyền của tướng Tấn cùng nổ súng mở đầu "Chiến dịch Hồ Chí Minh để giải phóng Sài Gòn". Trong khi đó, ở Sài Gòn, giới chính trị vẫn còn tranh cãi nhau. Chiều rồi mà các nhóm khác nhau trong quốc hội vẫn chưa thỏa thuận được với nhau về cách lập lại chính phủ cho vừa lòng cộng sản, cũng không thấy rõ sự cần thiết phải làm.
Một số nghị sĩ thuộc phe cánh của Thiệu trước đây, phản đối việc bầu Minh, sợ sau đó, Minh sẽ ra lệnh trả thù. Một số thuộc phái hữu muốn Kỳ thay Hương. Trước tình hình rắc rối ấy, quốc hội giao cho viên chủ tịch già giải quyết thế nào cho có lợi để thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Việc đó cũng không rõ ràng như những đòi hỏi của Hương. Trước giờ thiết quân luật, tôi đi xe đến khách sạn Duc. Những bản báo cáo đầu tiên về cuộc chiến chung quanh Biên Hòa đã được gửi tới nhưng thiếu chi tiết. Tốt hơn hết là ăn một bữa cơm ngon và ngủ một giấc đẫy. Tối hôm ấy, ở khách sạn, người ta tưởng như đang xem một vở kịch của Brecht. Chúng tôi đến rất đông, uống ly rượu cuối cùng để mong lấy lại sức, nhưng không có không khí vui vẻ của một ngày vừa làm việc xong. Mọi người đều cho là đã đến ngày tận thế. Qua cửa kính, ánh lửa đại bác nhấp nháy. Tôi kéo một ghế đẩu, ngồi bên cạnh một anh bạn cũ, chuyên về châu Mỹ la tinh, đổi sang Việt Nam từ lâu. Mặt anh trắng bệch như phấn, mồ hôi nhễ nhại, tay anh run khi cầm cốc rượu scoth đưa lên môi. Tôi hỏi thăm sức khỏe vì biết anh đau tim. Anh nói anh mạnh nhưng những sự kiện xảy ra ngày hôm nay làm anh sợ.
Anh ở phái bộ quân sự từ sáng đến chiều cố xoay chỗ cho mấy người bạn Việt Nam. Khổ quá: Cả ngày ở ngoài nắng mà chỉ có một cốc bia. Không còn gì nữa. Thử tưởng tượng xem. Tôi ngắt lời anh, không muốn nghe những chi tiết hãi hùng nữa. Thế còn người vợ Việt Nam của anh? Còn gia đình anh? Họ được di tản chưa? Anh gật đầu. Rồi, họ đi mấy ngày trước đây. Anh mỉm cười cho biết họ gặp trắc trở do những người kiểm soát của phái bộ quân sự đã làm khó dễ. Gia đình anh nuôi heo ở sân sau, vợ anh muốn đem một, hai con sang Mỹ. Chị dắt hai con lớn nhất đến nơi phân loại người đi. Nhưng những người kiểm soát ngăn lại.
Tôi cười vỡ bụng. Chúng tôi nói vui về tài xoay sở của người Việt Nam. Tôi mời anh một ly scoth. Anh nhìn ly rượu, nét mặt giãn ra. Anh khóc.
Tôi ngủ được khoảng bốn giờ thì tiếng chuông điện thoại ở đầu giường reo. Viên chức CIA thường trực ở sứ quán gọi tôi. Đài phát thanh Hà Nội vừa ra tuyên bố chính trị quan trọng, một lời cảnh cáo đối với nhà chức trách Sài Gòn đòi họ phải đầu hàng ngay theo điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tôi bảo anh đừng có đánh thức Polgar dậy vì chuyện ấy. Ông không đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo đâu. Khoảng một giờ sau, tiếng nổ đầu tiên hất tôi ra khỏi giường. Tức thì tôi sờ soạng trong bóng đêm tối để tìm áo giáp và khẩu M.16. Tiếng nổ tiếp tục làm rung cửa, tôi bò lại bàn đến gọi dây nói cho sứ quán. Viên chức thường trực trả lời: Đó là đạn rốc két. Không biết bao nhiêu phát. Đều bắn vào giữa thành phố. Tôi bảo anh, mặc quần xong tôi sẽ tới.
Tôi mặc sơ mi, quần jean, đang khoác áo giáp thì tiếng đập cửa buồng hốt hoảng. Tôi tháo chốt an toàn khẩu súng, từ từ mở cửa. Đó là Joe Kingsley, hàng xóm và đồng nghiệp của tôi. Anh mặc quần đùi, nhưng đội mũ sắt và khoác áo giáp. Anh mỉm cưới nói: có vẻ chiến tranh rồi. Anh đi không? Tôi trả lời: Đi, nhưng tôi đề nghị anh ở lại điều khiển việc di tản trong trường hợp có lệnh tiếp tục làm. Máy bay lên thẳng, như đã hẹn trước, sẽ đỗ trên mái nhà".
Lúc tôi đến sứ quán, cảnh sát đã cho biết: năm quả rốc két bắn vào thành phố, hai quả vào khu trung tâm, ba quả vào chợ lớn. Một quả trúng khách sạn Majestic sang trọng. Một quả trúng Nha cảnh sát đô thành. Nhiều người chết và bị thương, nhiều nhà cháy hoặc bị phá hủy. Buổi sáng, Polgar đã cho nhiều người ra phố điều tra tình hình và xem có triệu chứng hoảng loạn không. Nhưng người Việt Nam vẫn sống như người Việt Nam, nói giọng triết lý là mặc cho số phận. Một bà già sống trong một cái lều, nói với một nhà báo: "Tuần trước, chúng tôi thấy những người tị nạn ngủ trong lều. Thật khổ sở. Nay đến lượt chúng tôi. Ở phía Đông, tướng Tấn vừa mở cuộc tiến công nhỏ. Đại bộ phận quân đội Bắc Việt Nam nay mới hoạt động. Sớm ngày 27, sư đoàn 232, cánh quân chiến thuật do tướng Lê Đức Anh chỉ huy, chiếm một thị xã trên đường số 4, cách Sài Gòn 19 kílômét về phía Tây Nam. Ở phía Tây Bắc, Quân đoàn I chặn đường Tây Ninh - Sài Gòn, bao vây một sư đoàn 26 Nam Việt Nam ở Củ Chi.
Mấy giờ sau, một đơn vị Bắc Việt Nam chặn đường Sài Gòn - Vũng Tàu, làm cho dân di tản ra bờ biển mà Martin đã nghĩ đến không thể thực hiện được. Như tướng Dũng đã dự kiến, phòng tuyến ngoài Sài Gòn vụn như vỏ củ hành. Tướng Dũng chưa bằng lòng. Ông gửi một điện khẩn cho tướng Tấn: Phải vượt mọi khó khăn để chúng ta có thể ngày 29 tháng 4 mở trận đánh cuối cùng vào Sài Gòn.
Buổi sáng, lực lượng cộng sản đã đến sát Biên Hòa và tiếp tục tiến. Hai nhà báo Pháp lang thang tìm đề tài viết bị quân tiên phong đuổi kịp. Một người bị bắt làm tù binh, người kia bị chết vì đạn lạc. Ở phía Tây thành phố, quân đặc công đánh mìn phá đổ một cầu quan trọng đi vào Sài Gòn. Quân Nam Việt Nam vội vàng gài mìn vào những cầu khác. Lính đào ngũ của sư đoàn 13 Nam Việt Nam và đơn vị dù vừa chạy vừa đốt, cướp. Trong khi đó, đài Giải Phóng nêu ra nhiều đòi hỏi đối với Hoa Thịnh Đốn: Rút ngay tất cả hạm đội, nhân viên tinh báo và cố vấn Mỹ, người Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đối với một số người chúng tôi, điều đó có nghĩa là sứ quán cũng phải thu xếp hành lý.
Giữa lúc đó, viên tổng thống già Trần Văn Hương lại nổi cơn sốt kiểu Pháp. Hắn mời chủ tịch thượng nghị viện Trần Văn Lắm tới và ngỏ ý muốn nhường Minh làm người kế vị, nhưng ông muốn được quốc hội chuẩn y để ông không phải chịu trách nhiệm của mình. Lắm triệu tập ngay phiên họp đặc biệt có 131 thượng, hạ nghị sĩ còn lại ở thành phố tới dự. Sau mấy giờ tán láo, quốc hội mới nhất trí thông qua nghị quyết (có một phần ba nghị sĩ vắng mặt) bầu Minh làm tổng thống. Hôm sau mới tuyên thệ. Hương đòi lên tuyên thệ làm vào buổi chiều để ông được khoe với gia đình và bạn bè, ông ta làm tổng thống trong một tuần!
Minh thăm dò ngay ý kiến để thành lập chính phủ. Một công việc phức tạp vì phần đông giới chính trị chưa nắm quyền đều thuộc phe cánh Thiệu, dưới hình thức khác. Người duy nhất không có vấn đề là bạn chính trị của Minh, Vũ Văn Mẫu, được Minh giao cho làm thủ tướng. Tướng Kỳ thấy mình không sơ múi gì, liền tuyên bố ủng hộ Minh và ra lệnh cho phe cánh cũng làm như thế. Trước khi quốc hội bàn, đại sứ Mérillon cố vận động lần cuối cùng cho hòa bình. Ông đến sân bay Tân Sơn Nhất trực tiếp gặp các đoàn đại biểu cộng sản. Nhưng điều làm ông sửng sốt, những người này chỉ nhắc lại những đòi hỏi mới nhất của đài phát thanh Hà Nội. Họ đồng ý đem lại hòa bình với điều kiện quân Mỹ rút hết, hoàn toàn và từ chối không đàm phán với Minh.
Polgar cũng đi thăm dò nhưng chỉ được trả lời: Đã quá muộn, không thể nào có thỏa hiệp. Polgar bất bình, tưởng tai mình nghe lầm. Vì sao lại từ chối thỏa hiệp khi Minh đã lên cầm quyền? Không một lúc nào, ông có thể nghĩ rằng quân Bắc Việt Nam uy hiếp về mặt quân sự không phải vì những lý do chính trị mà vì những lý do hoàn toàn quân sự. Ở Hoa Thịnh Đốn, một số nhà quan sát cũng lạc quan như ông. Mặc dù Schlesinger nghi ngờ, những người nhận định tình hình ở bộ quốc phòng, trong báo cáo ngày 27 tháng 4 cũng viết: "Những cuộc bắn phá bằng rốc két sáng nay nhằm mục đích ép Nam Việt Nam mau chóng thương lượng. Có thể cộng sản sẽ hoãn cuộc tiến công ồ ạt vào Sài Gòn để nghiên cứu khả năng chính trị”.
Cùng lúc ấy, những sư đoàn của tướng Dũng đã mở giai đoạn đầu của cuộc tiến công cuối cùng. Tối ấy, khoảng 20 giờ, lúc tôi rời được phòng làm việc, thì tôi biết sắp đến lúc kết thúc. Đường Sài Gòn ra Vũng Tàu bị cắt nhiều quãng. Không còn liên lạc được với 700 quân còn lại của sư đoàn 18 Nam Việt Nam đóng ở phía Đông Biên Hòa và đường số 4 về đồng bằng sông Cửu Long cũng bị ngăn chặn ở nhiều nơi. Sài Gòn trở thành một đảo, liên lạc với bên ngoài bằng một cầu duy nhất, cầu hàng không!
Trên đường về, tôi lại vào nhà Joe Kingsley, uống một ly martin cho khỏe. Mặc dù có nhiều sự kiện trong ngày. Kingsley vẫn vui vẻ. Tôi nhanh chóng khám phá ra vì sao. Chúng tôi đang uống ly thứ hai thì có người gõ cửa. Joe nói đó là cô Tuệ. Anh mở cửa, một phụ nữ Việt Nam xinh đẹp khoảng 19 tuổi bước vào, nét mặt tươi cười, ngực đồ sộ. Đó là một chiêu đãi viên của bar Mini. Cô ta không muốn rời thành phố với những cô khác. Cô đang tìm khách. Tôi quyết định chiều cô và anh cũng thế. Đêm đến, cô ở với anh trong nhà này. Thú vui và mệt nhọc không hợp nhau. Dù sao cũng không phải phòng tôi. Tôi khó chịu vì Joe quá săn sóc tôi. Tôi định từ chối món quà nhưng Joe không nghe. Đã quá giờ thiết quân luật, không cho cô gái về được nữa.
Và không biết làm thế nào, tôi dẫn Tuệ sang phòng tôi. Cô nhún vai khi bước vào trong phòng. Gian nhà lộn xộn, mất trật tự hòm xiểng để khắp mọi nơi. Tôi đưa nước uống, chúng tôi ngồi nói chuyện. Một lúc sau, tôi thấy ý định của Joe không phải là tốt. Nhưng chuông điện thoại reo lên. Viên chức thường trực như thường lệ gọi tôi. Họ vừa nhận được tin của đài Hà Nội, rất cần tôi phải đến sứ quán ngay.
Tôi bảo Tuệ ở lại coi nhà mình và ra xe đi. Phố xá vắng tanh. Đây đó có hàng rào dây thép gai, mấy người lính dân vệ dưới 20 tuổi ngủ trên hè. Viên thuốc đài Hà Nội mới gửi càng khó nuốt. Họ nói: "Việc thay đổi chính phủ ở Sài Gòn, đuổi Hương, đưa Minh lên thay cũng chỉ là một trò gian giảo, nham hiểm, định thay Thiệu - Hương bằng một bọn tay sai khác để cứu vãn chế độ Sài Gòn". Polgar có cần thêm chứng cớ để hiểu rằng không có vấn đề thương lượng, Minh cầm quyền cũng chẳng ăn thua gì. Tôi gọi ông đọc qua dây nói tuyên bố của Hà Nội. Ông lau bàn rồi mắt dây nói vào. Khi tôi trở về nhà thì Tuệ đã ngủ say giữa giường tôi. Có tiếng đạn rốc két nổ xé tan bầu không khí yên tĩnh ban đêm, cô cũng không dậy.
HỌ ĐANG Ở CỬA
Đó là một buổi sáng mát mẻ và sương mù. Một buổi sáng hiếm có ở Sài Gòn. Bình minh vừa qua, quân đặc công Bắc Việt Nam đánh phá và đốt ngay một kho của chi nhánh cơ quan phát triển Mỹ bên kia sông. Họ chiếm luôn hai vị trí tiền tiêu của chính phủ bên kia cầu Tân Cảng, cách trung tâm thành phố vài kilômét. Họ đặt một khẩu liên thanh giữa cầu, bắt đầu bắn vào mục tiêu di động. Phía chính phủ cho máy bay lên thẳng vũ trang đến phản kích. Cầm tách cà phê buổi sáng, tôi cùng Joe đi lên mái nhà sứ quán, xem họ bắn. Kể từ năm 1968, chiến tranh chưa bao giờ gần Sài Gòn như hôm nay. Họ chiếm cầu nên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa không đi được. Biên Hòa cũng bị đánh phá không ngừng, lính đào ngũ đã cướp phá sở chỉ huy Quân khu III.
Ở phía Nam, nhiều đơn vị quân Bắc Việt Nam từ đồng bằng tràn lên đường số 4, thâm nhập vào ngoại ô Sài Gòn. Về phía Tây Bắc đêm qua, Tây Ninh bị bắn phá dữ dội. Sư đoàn 25 Nam Việt Nam cố phá vỡ vòng tuyến của quân Bắc Việt Nam trên đường số 1 về Sài Gòn mà không ăn thua. Các đường chính về thủ đô đều bị cắt làm cho quân lính mất tinh thần và không còn nguồn tiếp tế, không còn đường rút lui. Nhưng có thể có một vài thuận lợi. Do quân Nam Việt Nam phần lớn bị bao vây bên ngoài thành phố nên Sài Gòn may ra không bị đánh. Quân Bắc Việt Nam không có lý do gì để phá hủy Sài Gòn, đội quân thua trận càng không thể phá huỷ nó được. Bóc vỏ củ hành, tướng Dũng đã cứu chúng tôi!
Các ông Lê Đức Thọ và Phạm Hùng vừa đến sở chỉ huy tiền phương của tướng Dũng, cách Sài Gòn 48 kilômét về phía Bắc. Các ông nhanh chóng cho tướng Dũng biết tình hình chính trị và nhắc lại chỉ có thắng lợi quân sự thôi. Tướng Dũng tán thành và quay lại với bản đồ tác chiến. Thủ đô căng thắng như da mặt trống. Tiếng súng ở phía cầu Tân Cảng vang dội đến trung tâm thành phố. Phố xá đầy binh lính và dân thường từ đồng quê chạy ra bằng chân, xe hơi, xe đạp. Dọc các phố phụ, sĩ quan cảnh sát và quân đội cởi binh phục, mặc quần áo thường, để khỏi bị bắt.
Đến chiều, hơn sáu nghìn người Việt Nam sợ hãi tập trung trước cửa phái bộ quân sự. Những người Mỹ ra đi chưa nhiều - cả ngày mới được 123 người, vì một số muốn ở lại thu xếp cho xong công việc. Martin muốn người Mỹ đi nhanh, tất cả các nhân viên không cần thiết đi ngay, nhất là những viên chức thuộc phái bộ quân sự, như ông đã hứa với Bắc Việt Nam, đi trước ngày 30 tháng 4. Trên các đảo Guam và Wake, các trung tâm đón tiếp chật ứ người tị nạn. Trong số 20 nghìn người đến từ đầu tháng, mới có 12 nghìn người đi California, ở căn cứ không quân Travis. Những người khác, do liên quan, giấy tờ, chưa nhúc nhích được.
Cơ quan nhập cảnh phải chịu trách nhiệm một phần về tình trạng này. Họ cử đến đây có 90 viên chức. Lúc trận đánh cầu Tân Cảng diễn ra, bốn trong năm tàu đậu gần đấy đã nhổ neo đi Vũng Tàu, không chở ai cả. Tàu thứ năm cùng với ba tàu kéo và bốn sà lan chạy ra quân cảng, chắc chắn và gần trung tâm thành phố hơn. Phái bộ quân sự tiếp tục cho rằng sà lan không phải là phương tiện tốt để chở người di tản, trái lại, sứ quán đã nghĩ ra việc sứ dụng sà lan vì sứ quán biết rõ là các cầu hàng không không thể chở hết người ghi trong danh sách.
Buổi sáng, một đám đông người mất trật tự đã tràn vào sân chơi đằng sau sứ quán. Người Việt Nam mỗi lúc một đông, nhất là những nhân viên làm việc cho các cơ quan của sứ quán. Họ đến, đem theo giấy giới thiệu, hy vọng có một chỗ ra sân bay. Nước bể bơi không thay mấy ngày qua, vàng như nước tiểu. Vẫn có người tắm giặt. Căn tin đã đóng cửa vì người phục vụ cuối cùng đã đi Guam. Một người Mỹ ở bộ phận hành chính của sứ quán lợi dụng lúc bấy giờ đem bán những bản khai danh dự cho người Việt Nam với giá đắt.
Giữa buổi sáng, một nữ Hoa kiều tôi quen biết từ lâu gọi dây nói đến đề nghị tôi giúp đỡ. Người chồng Mỹ của chị đã bỏ rơi chị ở lại với đàn con. Chị chẳng biết trông cậy vào ai lúc này. Tôi bảo với chị rằng tôi đang bận chưa giúp chị được. Một giờ nữa chị gọi lại tôi thử xem. Yên lặng một lúc ở đầu đường dây đằng kia. Rồi chị bình tĩnh nói: "Nếu anh không giúp tôi, tôi sẽ tự tử với các cháu. Tôi đã mua thuốc độc rồi". Tôi liếc nhìn giấy tờ xếp thành đống trước mặt. Polgar muốn tôi thảo nhanh một bản nhận định tình hình có lẽ chẳng dùng làm gì cả. Tôi không thể bỏ nơi đây được. Tôi bảo chị: "Một giờ nữa, gọi lại, tôi sẽ giúp chị". Như đã hẹn, một giờ sau, chị gọi tôi nhưng tôi không có trong phòng làm việc. Chị để lại một mẩu giấy: tôi chờ anh, chào anh". Đó là lấn cuối cùng tôi nhận thư chị. Còn các đồng nghiệp của tôi, họ ném vào lò sưởi hàng đống hồ sơ. Chỉ mấy giờ, mọi cái trong nhà đều đầy tro, khói.
Các người phụ trách chi nhánh Mỹ cơ quan AID xin phép gửi hồ sơ quý bằng máy bay đi Thái Lan hay Philippines. Đại sứ không đồng ý, theo ông, sau khi ngừng bắn, vẫn còn thì giờ. Trong khi lò sưởi ngốn hàng đống hồ sơ, báo cáo, tin tình báo và nhiều giấy tờ, công văn thì nhiều viên chức khác gói hàng bó tiền. Buổi sáng, phái bộ quân sự đã rút trong tủ sắt ra ba triệu đôla. Để trả phụ cấp đi dường cho các nhân viên sứ quán. Đến trưa, trong số 900 người Việt giúp việc chỉ còn 20 người chưa được lĩnh tiền.
Trong khi đó, ở cổng sau sứ quán, nhiều xe của chính phủ Nam Việt Nam đến. Một viên tướng, một đại tá, một nhân viên chính trị từ xe chui ra, gật đầu chào lính gác rồi chạy vào thang máy. Họ ra đi. Từ sáng sớm, những máy bay lên thẳng của không quân Mỹ không ngừng đổ xuống mái nhà, bay đi, chở theo giới thượng lưu Sài Gòn đến sân bay Tân Sơn Nhất. Ở đấy máy bay Mỹ đang chờ họ. Sáng hôm ấy, người khách quan trọng nhất là tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng. Ông đến sứ quán, chào lính gác, bắt tay nhân viên bộ ngoại giao đang mở cửa cầu thang. Ông tiến vào - cửa đóng. Chuyến "du lịch cuối cùng” của ông bắt đầu. Sau này tướng Smith nói: Đó là một con người sung sướng. Khi ông đến phái bộ quân sự, ông xử sự như đồ con nít. Ông không giấu được vẻ vui mừng khi ông đổi binh phục lấy những bộ quần áo thường. Một máy bay lên thẳng chở Viên ra tàu của Hải quân đậu ngoài khơi. Còn tổng thống Hương, ông ta thuyên chuyển số người chỉ huy quân đội, thực tế quân đội không còn tư lệnh nữa. Điều đó không ngăn cản các tướng, nhất là Quang và Kỳ, cấu xé nhau.
Trong bữa ăn sáng, Bill Johnson viết vội mấy chữ cho vợ là Pati, đang ở Bangkok. Anh viết: "Đang đi đến giàn xếp thương lượng, em đừng lo". Rồi anh lấy xe đi ra thành phố thăm mấy quan chức cao cấp thuộc Nha cảnh sát đặc biệt và Bộ Thông tin. Anh định để cho họ di tản bằng một máy bay đặc biệt do CIA tổ chức hôm đó. Anh cho rằng nếu có thành lập chính phủ liên hợp thì những người này ở ngoài có lợi hơn. Anh nói: "Tôi giúp họ không phải vì tinh thần nhân đạo, tôi giúp họ vì tôi nghĩ sau này họ có thể giúp ta thành lập ở nước ngoài một mạng lưới tình báo cho Sài Gòn.
Trong cuộc thảo luận giữa anh với những người nói trên, anh không hề đề cập đến việc di tản tám trăm nhân viên người Việt Nam mà tính mạng có thể bị uy hiếp. Anh giải thích: "Sự chăm sóc của chúng tôi hoàn toàn do nghiệp vụ chứ không do lòng nhân đạo.”
Gần trưa, Johnson chào vĩnh biệt viên chỉ huy mới Nha cảnh sát đặc biệt. Anh thuật lại:"ông ta khóc, vì biết rằng nay là chỉ huy thì mai kia sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tôi bắt tay, vỗ vai ông ta và nói: cố dũng cảm lên!". Hai ngày sau, ông này đã gí khẩu súng Browning vào đầu tự bắn vỡ sọ.
Sáng 26 tháng 4, Johnson còn làm mấy trò nữa để hy vọng sau này đánh lừa cộng sản. Anh ra lệnh làm một số tài liệu mật giả mạo, xếp trong tủ sắt của sứ quán. Trong số này có cả danh sách nhân viên tình báo CIA, nhiều người là quan chức cao cấp của cộng sản. Polgar theo dõi mọi việc đang xảy ra. Ông cố pha trò nhạt. Joe Kingsley, cáu kỉnh nói đến ổ liên thanh trên cầu Tân Cảng. Polgar bảo anh đi xe ra xem thế nào, làm như đi xem một việc bình thường. Joe tái xanh mặt nói: "ông cho tôi một tay súng giỏi để bảo vệ". Polgar bảo anh đi tìm ở bộ phận khác rồi hất tay ra lệnh cho anh đi. Joe vừa đi, Polgar gọi tôi lại giao cho tôi một nhiệm vụ đặc biệt. Tôi phải mang một bức thư đến cho người bạn lâu đời của ông là Malcolm Brown, phụ trách phóng viên báo New York Times. Đây là những câu hỏi mà Brown sẽ đặt ra với người của anh trong Chính phủ Cách mạng lâm thời: Cộng sản có đồng ý để Minh làm Quốc trưởng không? Ông nói với tôi: Phải đi nhanh, đừng đi xe anh, lấy xe tôi mà đi, Út, người lái xe của tôi rất thạo. Ông nói đúng, Út lách qua hàng trăm xe Peugeôt và Hon da trên đường Tự Do trong năm phút.
Brown đi vắng. Hai nhà báo đang ngồi chờ. Tôi đưa cho họ thư của Polgar đề nghị họ giao cho Brown. Họ có vẻ hơi ngượng, nhưng rất cảm ơn tôi. Sau tôi biết đó là hai phóng viên của tờ Washington Post. Tôi đã giao một thư tối mật của Polgar vào tay những người đang cạnh tranh. Thảo nào họ cảm ơn ghê quá. Dù sao Brown cũng nhận được thư ngay và gửi đi Tân Sơn Nhất cho đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời. Họ không trả lời ngay. Nhưng đài phát thanh Hà Nội trong một buổi phát thanh thường đã đưa tin phái bộ quân sự Mỹ sẽ rút khỏi Sài Gòn ngày 30 tháng 4. Họ cũng biết phái bộ này di tản đến nơi rồi. Vẫn còn bám lấy ý nghĩ đàn xếp. Polgar bắt đầu tìm giải pháp đẩy mạnh di tản.
Suốt buổi sáng ông nói chuyện với Martin ở phòng đại sứ. Họ thảo luận một vấn đề thoạt đầu tưởng như chẳng ra sao, đó là việc chặt cây me mọc giữa sân sứ quán để máy bay lên thẳng có thể hạ cánh chở người đi di tản trong trường hợp cấp bách. Martin phản đối. Ông nói chặt cây me sẽ là dấu hiệu người Mỹ thất bại phải ra đi. Hơn thế, đến ngày E, sứ quán chỉ còn nhiều nhất hai trăm người, không cần phải chặt cây. Cách đó không xa, trong biệt thự riêng của mình, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, tướng Minh, tổng thống mới, đang ngẫm nghĩ. Tùy viên báo chí của ông ta đề nghị đầu hàng không điều kiện cho xong việc. Minh từ chối đi xa như thế. Ông cho rằng quân đội còn có thể làm một công cụ chính trị. Tuy nhiên, Minh có một cử chỉ hòa giải: Ra lệnh cho phó tổng thống nguyên chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn Huyền, báo tin chính phủ Minh không phản đối việc người Mỹ phải ra đi trong 24 giờ. Suốt buổi sáng, Minh cố moi người trong giới chính trị Sài Gòn, để thành lập chính phủ. Nhiều người được mời đến. Minh bắt tay từng người, gật đầu chào, mời vào trong vườn, hỏi ý kiến rất lễ phép nhưng vẫn có vẻ thờ ơ. Vừa nói chuyện, ông vừa nhìn hoa phong lan. Nhưng không có đối tượng nào Minh vừa ý. Người này quá diều hâu, người kia quá bồ câu. Cuối cùng Minh quyết định chỉ chọn sau lễ tuyên thệ và lúc này ông cầm quyền cùng với phó tổng thống Huyền và thủ tướng Mẫu.
Buổi sáng, tướng Pháp Vanuxem đến tìm Minh giục hắn tiếp tục chiến đấu. Vanuxem được uống nước trà. Cả tướng Timmes buổi chiều cũng đến ba lần hỏi Minh về chính phủ mới, cho ông ta biết phái bộ quân sự sẽ ra đi và đặt một đường dây thẳng từ dinh tổng thống đến sứ quán. Timmes hỏi Minh nghĩ gì về tương lai. Ông ta mỉm cười và nói: Còn khả năng thương lượng, vả lại Sài Gòn, Tây Ninh và vùng đồng bằng vẫn thuộc về ta. Timmes hỏi lại: Nếu những nơi ấy mất thì ông tính sao? Sứ quán sẵn sàng giúp ông, dành cho ông chỗ tạm trú. Minh lại một lần nữa mỉm cười, lắc đầu: "Người Việt Nam là nhân dân của tôi, tôi không muốn đi". Tuy nhiên, Minh cũng đề nghị giúp các cháu và con gái ông ta, vợ một viên đại tá di tản. Trước bữa ăn sáng, Erich Von Marbod đi lẫn vào đám đông trên lầu ba của sứ quán. Anh định nói chuyện với đại sứ. Trông thấy Martin, anh giật mình, lo sợ. Mặt xám, ngơ ngác, Martin bị cảm ho, tiếng khàn. Marbod cẩn thận đề nghị cho di chuyển Sài Gòn cả phương tiện chiến tranh còn lại. Martin cúi xuống bàn, tìm một bức điện. Ông đã tìm thấy và đưa cho Marbod.
Sau này, ông kể lại: tôi đã nhắc lại với Marbod những điều đã nói với anh nhiều lần: Không được làm gì có thể giảm năng lực chống cự của quân đội Nam Việt Nam, chống cự được càng lâu càng tốt. Mặc dù hôm ấy, ngày 28 tháng 4, quân đội Nam Việt Nam không còn lực lượng, không còn ý chí chiến đấu chống quân Bắc Việt Nam. Nhưng dù sao, quân đội Nam Việt Nam cũng là con chủ bài quan trọng trong trường hợp chính phủ Minh có thể mở cuộc đàm phán Marbod rất ngạc nhiên khi nghe Martin nói trong ba ngày nữa sẽ có ngừng bắn và có ba mươi ngày để thành lập chính phủ liên hợp. Một điều khoản của thỏa hiệp với cộng sản là phải giúp quân Nam Việt Nam và rút vũ khí, đạn dược đi. Von Marbod liếc mắt nhìn thấy bức điện. Không có bức nào chứng minh sự lạc quan ấy. Trước khi Marbod tỏ rõ sự nghi ngờ của anh, Martin cho anh biết ông chắc chắn như thế vì người Pháp và một số người Việt Nam bảo đảm với ông điều đó.
Sau buổi nói chuyện, Marbod đi xe cùng đại sứ về nhà ông ăn sáng. Anh thấy Martin chưa hề thu nộp hành lý riêng. Bà Martin vẫn còn ở Sài Gòn. Marbod vội kêu lên: “Trời, xin ông cho bà Dottie đi ngay”. Martin từ chối: “Việc bà ấy có mặt ở đây làm yên lòng người Việt Nam”.
Một giờ sau Marbod tìm cách sửa đổi lệnh của đại sứ. Ông cấm không cho di chuyển vũ khí ở Sài Gòn nhưng không nói đến đạn dược ở Biên Hòa. Anh liền cử Rich Armitage, người phó của anh, dùng máy bay lên thẳng đến Biên Hòa để vận chuyển vũ khí. Tiếp đó anh đến gặp tướng Khuyên, ở bộ tổng tham mưu, báo cho ông ta quyết định di chuyển vũ khí ở Biên Hòa. Anh đòi không quân phải cho các máy bay đi Cần Thơ và Phú Khánh, và Khuyên phải cho phá hủy những kho vũ khí ở Biên Hòa mà Armitage không chuyển được. Khuyên hứa sẽ cố thực hiện. Von Marbod sắp từ biệt Khuyên thì có điện thoại của Minh ra lệnh giữ lại một ít lâu các kho vũ khí, đạn dược. Minh nói: “sắp có ngừng bắn tại chỗ!".
Armitage thuật lại: Khi tôi đến sân bay Biên Hòa, có 50 người Việt Nam đang trông nom vũ khí. Tôi hứa đưa họ về Sài Gòn nếu họ giúp tôi khuân vác lên máy bay. Tôi cũng nói: Phải hạ sát ngay bất cứ kẻ nào định vượt rào để ngăn chúng ta. Trong nửa giờ sau, mấy kẻ đào ngũ định nhảy qua hàng rào dây thép gai, chúng tôi đã đuổi chúng đi và đóng gói được vũ khí vào hòm. Chúng tôi đang tiếp tục làm việc thì chợt Von Marbod gọi radio cho tôi. Sau này mới biết phái bộ quân sự bắt được điện của Bắc Việt Nam nói: “Chúng ta đang bao vây địch ở Biên Hòa, không để chúng thoát.” Tôi trả lời Von Marbod: Tôi không thể đi nếu không cho 50 người Việt Nam đi theo. Marbod ra lệnh: “Đồng ý. Cho họ lên máy bay lên thẳng. Nhưng đi ngay"'. Tôi đã làm như thế. Một giờ sau, Von Marbod đề nghị với tướng Smith và Polgar sử dụng máy bay anh chưa huy động. Smith chấp nhận ngay và cho chuyển đi nhiều vật liệu và hồ sơ. Polgar không thích làm thế. Ông bảo Marbod: "Tôi sẽ nói chuyện với anh về vấn đề này". Ông không nói nữa, mất cơ hội sử dụng máy bay để di tản nhân viên CIA trong giờ phút cuối cùng này.
Đến trưa, ngồi trên xe Ford Pinto, tôi lách vào một con đường nhỏ đi đến câu lạc bộ thể thao. Nơi đây tôi đã được hưởng nhiều buổi chiều vui vẻ. Tò mò, muốn biết xem có người Việt Nam giàu có nào vẫn cảm thấy mình bình yên, đến đây không. Không, chỉ có một kẻ giở người, hay là một nhân viên cộng sản? Tôi thất vọng khi thấy nơi tắm nắng và nơi uống cà phê bên bể bơi vắng tanh. Có một nhóm người Pháp ngồi ở một bàn trong góc. Họ nhìn tôi vẻ hằn học hình như tức giận vì thấy một người Mỹ lúc này dám vào đây, xen vào cuộc nói chuyện thân mật của họ.
Đến trưa, mưa đầu mùa rơi tả tích. Bầu trời sẫm tối. Tiếng sấm xen lẫn với tiếng đại bác bắn vào Biên Hòa. Đến 16 giờ, nhiều nhân vật họp trong phòng tiếp khách của phủ tổng thống. Khoảng gần hai trăm người gồm nghị sĩ, tướng đã nghỉ hưu hay đang tại ngũ, một số người thuộc phe đối lập. Một số, hàng năm nay, chưa bước chân vào ngôi nhà đồ sộ này. Họ đến mừng quốc trưởng mới: tổng thống Dương Văn Minh.
Tổng thống vừa thoái vị Hương khai mạc buổi lễ bằng một bài diễn văn không đầu không đuôi, chắp vá, đầy những lời tự khen, tự bào chữa. Khi ông đọc xong, hai sĩ quan tiến ra, thay dấu ấn tổng thống bằng những phù hiệu riêng của Minh tiêu biếu cho đạo Khổng. Có tiếng xì xào khen ngợi.
Bài diễn văn đầu tiên của Minh đặc biệt ngắn và thiếu thực tế. Nói thẳng với Chính phủ Cách mạng lâm thời - lần đầu, một thủ lĩnh Sài Gòn chính thức công nhận Chính phủ Cách mạng - Minh đề nghị ngừng bắn ngay và họp một hội nghị hòa bình trong khuôn khổ hiệp định Paris. Ông hứa thành lập một chính phủ dựa trên cơ sở thật rộng rãi, có nhiều nhân vật độc lập, "nhất quyết hòa hợp". Minh nói: Việc tôi làm trước hết là thả những người bị bắt giam vì lý do chính trị và bãi bỏ chế độ kiểm quyết đối với các báo. Những điều cam kết ấy đáp ứng rõ ràng nhưng đòi hỏi của Chính phủ Cách mạng muốn làm tiêu tan hiệu lực của bộ máy nhà nước và gây cho Martin một sự khó chịu khi ông ngồi nghe bản dịch trong phòng làm việc. Biết bao nhiêu lần, ông đã trình bày trước quốc hội và nhiều cơ quan khác: ở miền Nam Việt Nam, không có tù chính trị, báo chí ở đây là báo chí tự do nhất thế giới. Rõ ràng, tổng thống mới không đồng ý với nhận định của ông. Minh cũng nói mấy lời với quân đội Nam Việt Nam: "Các chiến hữu có một nhiệm vụ mới bảo vệ phần lãnh thổ còn lại. Giữ vừng tinh thần. Siết chặt hàng ngũ. Quyết hoàn thành nhiệm vụ. Khi có lệnh ngưng bắn, các chiến hữu thực hiện nghiêm chỉnh theo điều khoản của hiệp định Paris, và giữ vững trật tự an ninh những vùng các chiến hữu bảo vệ".
Những lời kiên quyết ấy không phải là lời nói của một kẻ sắp đầu hàng. Rõ ràng Minh còn tin rằng còn có thể thương lượng được. Sau khi giới thiệu phó tổng thống và thủ tướng chính phủ. Minh cúi đầu chào những người đến dự lễ. Một ánh đèn chụp ảnh lóe sáng, cử tọa vỗ tay. Lúc ấy là 11 giờ 50. Mười phút sau, tư lệnh không quân cộng sản cho máy bay lượn trên toàn thành phố.
Trái với dư luận của nhiều nhà quan sát, cuộc tranh tạc bằng máy bay chiều nay không phải là câu trả lời bài diễn văn cua Minh. Một nhân viên tình bảo của tôi cho biết: Trận ném bom đã được ấn định từ ngày 17 tháng 4, hàng tuần nay rồi. Trùng hợp với lễ tuyên thệ của Minh là một điều mỉa mai của số phận. Bản tin chính thức của phái bộ quân sự khô khan và rõ ràng: Ngày 28 tháng 4, 18 giờ, năm máy bay A.37 (máy bay phản lực cộng sản chiếm được) trang bị ĐK81 đã bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, bom rơi trúng nhà để máy bay của không quân Nam Việt Nam phá hủy nhiều chiếc ( ít nhất có ba máy bay AC.119 và nhiều máy bay C.47). Hai trái bom nổ giữa trung tâm điều khiển và vòng kiểm soát. Không có máy bay của không quân Hoa Kỳ bị bom.
Trong hồi ký của mình, tướng Dũng viết: “Lúc 15 giờ 40 phút, một biên đội năm chiếc A.37 các đồng chí ta lái do Nguyễn Thành Trung dẫn đường, đã cất cánh từ sân bay Thành Sơn đi đánh Tân Sơn Nhất. Một trận phối hợp tuyệt đẹp, một trận đánh hiệp đồng quân chủng, binh chủng đầy đủ nhất từ trước đến nay của quân đội ta vào một thời điểm hết sức quan trọng có tác động lớn đến diễn biến chiến dịch... Chính đồng chí Tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân đã đến ngay sân bay Thành Sơn cùng các đồng chí tại đó tổ chức kiểm tra và động viên anh em trước khi cất cánh, đi làm nhiệm vụ”.
Tôi ở phòng làm việc, trên lầu thượng của sứ quán, khi những máy bay đầu tiên bay tới. Trước đó, có mấy tiếng súng đơn độc. Rồi bỗng nhiên, đất rung giữa tiếng đạn đại bác và súng liên thanh nổ liên tục. Tôi cố đứng dậy, hai đầu gối run cầm cập. Một lần nữa, tôi cố bò ra hành lang. Các đồng nghiệp của tôi chen nhau trong gầm cầu thang. Mấy người bò ra hình như muốn nậy sàn gác để trốn. Tôi cố lấy lại tinh thần, chạy về phòng, quỳ bên máy điện thoại, an toàn, tôi gọi phái bộ quân sự; còn tay kia vội tắt đèn. Tôi không còn nghe rõ tiếng ở bên kia đầu dây nói vì tiếng vang của bom nổ và tiếng súng tự động. Chợt anh bạn ở phái bộ quân sự thét lên: "Chúng ta bị oanh tạc rồi. Nhiều máy bay A.37 đang bổ nhào xuống đường băng. Một hay hai máy bay F.5 có lẽ cất cánh được còn hầu hết những máy bay khác đều nằm tại chỗ. Nguy kịch, không hiểu nơi người tị nạn ở đó có bị ném bom không? Còn chỗ các anh thế nào?". Tôi trả lời: "Tôi chưa biết nói gì. Có cảm giác máy bay đang bay trên đầu. Ngoài phố, mọi người bắn loạn xạ".
Tôi đến phòng Polgar. Hai thư ký của ông, sợ hãi đang trú sau bàn, gần cửa sổ. Tôi hét lên: "Xuống gầm bàn và chạy đến núp trước họ. Polgar đứng gần cửa sổ, cố theo dõi máy bay. Tôi ấp úng kể lại: Vừa gọi dây nói cho phái bộ quân sự... và chờ ông hỏi. Ông vẫn đứng lặng yên, đăm đăm nhìn bức tường bằng xi măng làm màn ảnh, ở bên kia cửa sổ. Tôi nói: "Ông nên tránh xa chỗ này, đề phòng đạn lạc” Ông tỉnh lại quay gót, theo tôi vào phòng đợi. Pittman cố động viên các cô thư ký. Bỗng nhiên, một tiếng kêu vang dội từ cầu thang lên: "Họ đang ở cửa! Họ đang ở cửa!". Tôi không phải là người duy nhất nhớ lại cảnh năm 1968, ngày đặc công Bắc Việt Nam tràn vào sứ quán. Từ đầu đến cuối gầm cầu thang, chỉ có tiếng sửa lại súng. Các viên chức, người nọ đến người kia, ai cũng xem lại bao đạn. Tôi lấy khẩu M.38, dắt bên hông, người nào đó từ phòng bên cạnh đi ra, tay cầm khẩu M.16. Tiếp đó, nghe thấy tiếng chân người trên cầu thang. Hai lính thủy, mặc áo giáp chắn đạn, đi lên mái nhà. Một người khi đi qua kêu lên: "Báo động giả. Sứ quán không có gì nguy hiểm". Trên lầu thượng sứ quán, Polgar cố khôi phục lại trật tự. Giơ tay lên, ông nói: “Thôi, xếp vũ khí lại. Chúng ta là viên chức tình báo chứ không phải lính xung kích. Chúng ta đừng hòng chống lại quân Bắc Việt Nam”.
Trong khi mỗi người chúng tôi xếp vũ khí lại, và không bằng lòng thì Pittman lấy một điếu thuốc, châm lửa vừa hút mấy hơi, vừa nghĩ, anh gợi ý tổ chức một trung tâm kháng cự tạm thời ở lầu dưới. Ở đó ít sợ máy bay hơn, Polgar đồng ý và bảo tôi: "Xuống viết bản báo cáo về tình hình vừa qua. Tiếp tục cho tôi tin tức và cố liên lạc với các nhân viên của ta ở phái bộ quân sự. Đường dây nói trực tiếp và trạm vô tuyến điện ở trên lầu sáu, cạnh phòng làm việc của tôi. Bấy giờ tôi mới biết Polgar chỉ định tôi ở lại lầu trên. Tôi bối rối! Tôi đang cắm cúi làm việc và trả lời dây nói, chợt nhớ đến Joe Kingsley. Đúng lúc phải nhờ anh giúp và hỏi kinh nghiệm chiến đấu của anh. Nhưng Joe không có ở phòng làm việc. Anh ra phố sắm cho vợ chiếc nhẫn và uống mấy ly rượu ở bar.
Sau này, anh kể lại: "Tôi đang đi xe giữa đường Tự Do chợt máy bay tiến đánh. Tôi biết ngay cái gì xảy ra. Tôi nhảy khỏi xe, chạy lại tủ sắt của bar, ở đấy có cả một kho vũ khí: súng Thompson, súng M.16, lựu đạn ném tay. Tôi cố mang theo thật nhiều. Lúc ấy, hai lính thủy được phân công đến sứ quán ở bar đi ra, lắc lư say rượu. Hai người mặc thường phục. Họ bảo tôi: Cho chúng tôi đi nhờ xe. - OK. Rồi tôi ném cho họ khẩu Col.45 tự động và cùng họ nhảy vào xe. Tôi cầm chặt tay lái, cho xe phóng đi rất nhanh về sứ quán, xe vừa chạy vừa va phải nhiều xe khác trên đường, còn mấy khách đi xe của tôi thỉnh thoảng lại nổ súng. Tôi cầu trời họ không giết ai dọc đường!
Khi chúng tôi về đến sứ quán thì cửa đã khóa kỹ. Một lính thủy cùng đi với tôi chĩa khẩu Col.45 vào người lính gác Nam Việt Nam. Người này kêu lên bằng tiếng Việt Nam: "Không có chìa khóa, không có chìa khóa". Người lính thủy không hiểu. Anh định bắn vỡ sọ người lính Nam Việt Nam. Tôi vội cướp lấy khẩu Col.45, khuyên anh bình tĩnh. Chợt bất ngờ, một tên ngớ ngẩn nào đó, đứng ở ngoài phố, gần sứ quán Anh, bắn vào chúng tôi. Chúng tôi vội nấp vào sau một cây trong khi đó lính thủy đi lấy chìa khóa và mở cửa cho chúng tôi. Chúng tôi chạy qua đường, lọt vào sứ quán, đạn bắn vu vơ, réo bên tai tôi.
Từ trận Quảng Ngãi hồi năm 1968 đến giờ, chưa bao giờ tôi chứng kiến cảnh lộn xộn như thế. Ở Tân Sơn Nhất, nơi bị ném bom, một số người lại thấy thích thú. Trước trận bom, các nhân vật hai đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời đã xuống hầm trú ẩn mà họ đào dưới đất mấy tuần trước. Họ ở đó suốt trận ném bom, nghe dây nói từ thành phố gọi đến và không ngớt khen ngợi tài năng của các phi công.
Ở sở chỉ huy phái bộ quân sự, đại tá Legro kém vui. Ông bị nghẹn trong bữa ăn của các sĩ quan với mấy nữ chiêu đãi viên Việt Nam. Một cô khóc nức nở không thể nào nín được. Legro vừa dỗ, vừa vỗ nhẹ vào vai cô ta: "Đừng sợ, quân Bắc Việt Nam chưa đến đâu!". Các nhân viên của đoàn đại biểu Mỹ bên cạnh ủy ban quân sự hỗn hợp vội vàng chạy từ nhà này sang nhà khác của khu vực phái bộ quân sự để đẩy những người Việt Nam vào góc tường hoặc xuống gầm bàn và động viên họ giữ bình tĩnh.
Moorefild kể lại: "Ở nơi phân loại người di tản, chúng tôi đang làm việc như điên thì máy bay tới. Tiếng bom nổ rất to. Đèn rơi từ trên trần nhà xuống. Một bóng đèn vỡ rơi trúng bàn của Mc Bride và vai anh. Nhiều tiếng nổ tiếp theo. Khoảng một trăm người Việt Nam đang còn làm việc với chúng tôi vừa kêu vừa chạy loạn xạ như đàn gà con bị cáo đuổi. Tôi đứng dậy, cầm khẩu súng, cùng với Bride, xua họ sang một ngôi nhà khác vững chắc hơn ở bên kia phố. Chúng tôi đang chạy thì ba bốn chiếc máy bay vòng lại. Trời đầy khói, mục tiêu chỉ cách chỗ chúng tôi hơn trăm mét, thiệt hại rất nặng. Mặc dù trận ném bom chỉ diễn ra khoảng 15, 20 phút nhưng chúng tôi phải ngồi xổm ở nơi trú ẩn đến hai giờ đồng hồ. Tôi rất buồn là máy bay Nam Viết Nam mất quá nhiều thì giờ để bay lên chống cự. Sau tôi mới biết là họ phải bay mò vì trạm hướng dẫn đã bị hỏng. Thật là chuyện mỉa mai. Trong hai năm chiến đấu ở đồng bằng, biết bao nhiêu lần tôi chỉ huy những trận ném bom xuống vùng Việt cộng, nay tôi mới biết rõ một mục tiêu không có bảo vệ thì như thế nào!
Vẫn bảo thủ và bướng bỉnh, Polgar, thoạt đầu cho là trận ném bom do phe cánh Kỳ gây ra định làm đảo chính chúng Minh lớn. Nhưng phóng viên báo New York, một bạn cũ của Kỳ, gọi tôi, cải chính nhận định ấy. Một bản tin sau đã khẳng định là Bắc Việt Nam đã ném bom. Máy bay xuất phát từ căn cứ không quân Phan Rang trên bờ biển. Khi tôi đưa đến cho ông tin ấy và lời cải chính của phóng viên báo New York, Polgar đang ngồi ở ghế một nữ thư ký trong một phòng làm việc khác và đang đánh một điện cho bộ tư lệnh CIA trên một máy chữ cũ. Ông vừa ở phòng đại sứ trên lầu ba về. Mồ hôi nhỏ giọt trên cái đầu hói, ông đang nghỉ lấy lại sức. Ông ghi những tin tức của tôi vào bức điện và bảo tôi gọi cho Malcolm Brown, người của báo New York Times để hỏi xem có phản ứng gì về phía đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời ở sân bay Tân Sơn Nhất không.
Trước khi tôi gọi được anh thì Brown đã gọi tới. Anh có vẻ tức giận và hốt hoảng. Anh nói, câu được câu chăng: Đồng nghiệp anh trông thấy một Mig.19 bay trên nóc nhà thờ, gần những ngôi nhà của sứ quán, nhiều máy bay A.37 bay nhiều lượt trên dinh tổng thống. Những tin tức nhận được từ Chính phủ Cách mạng lâm thời đều xấu cả. Qua dây nói, một người phát ngôn của chính phủ báo cho Brown: "Chính phủ Cách mạng lâm thời không chấp nhận Minh lớn. Hoa Kỳ phải chấp hành những điều khoản I, IV và IX của hiệp định Paris, phải tôn trọng ý chí và quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam.
Người phát ngôn nhắc lại những điều khoản của hiệp định, đòi người Mỹ phải rút hoàn toàn, rồi mới ngừng bắn... Hai là, Hoa Kỳ phải từ bỏ chính quyền Sài Gòn, đó chỉ là một bộ máy chiến tranh và đàn áp. Những lời tuyên bố của Minh không đáp ứng những đòi hỏi ấy. Đọc xong tin trên, Polgar tái mặt. Chứng cớ rõ ràng những hoạt động của ông không được ích lợi gì. Như đã dự kiến, trận ném bom cắt đứt hoàn toàn cầu hàng không. Chỉ mấy phút sau khi máy bay bay qua lần thứ nhất, tướng Smith đã ra lệnh cho hai máy bay C.130 chờ ở phía Đông Nam sân bay Tân Sơn Nhất. Ông cũng ra lệnh cho thuộc hạ đưa tất cả xe Ô tô buýt chưa chạy đến tập trung ở các địa điểm đã qui định. Ông đã nhận được lệnh chuẩn bị rút hết trong 24 giờ, ông muốn sau khi tiếng súng ngừng, sẵn sàng cho xe đi đón những người giúp việc. Đến 10 giờ 15 phút, đại sứ Martin gọi tướng Smith hỏi về sự thiệt hại. Nơi phân loại người tị nạn có việc gì không? Tướng Slmth trả lời: Thưa không việc gì. Và ông cũng biết nơi ở khác có người chết không? Đường băng thế nào? Có thể tiếp nhận được máy bay C.130 không? Smith cân nhắc. Tuy chưa đến tận nơi để kiểm tra. Nhưng theo những bản báo cáo đầu tiên và từ cửa sổ ông nhìn ra thì thấy còn nhiều chỗ để máy bay lớn đậu. Đại sứ thở dài, yên tâm. Quả thật, nhiều cộng tác viên trực tiếp của ông trong đó có Polgar đã đề nghị với ông lập ngay cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng. Nhưng việc đó chưa cần vì vẫn còn dùng được đường băng. Một cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng sẽ làm người Việt Nam hoảng sợ, nhất là làm mất hy vọng một cuộc dàn xếp thương lượng. Martin quyết định tiếp tục cầu hàng không bằng máy bay thường, đỡ nguy hiểm hơn.
Ở Hoa Thịnh Đốn, vì múi giờ khác, nên lúc ấy mới sáng sớm. Kissinger báo cho tổng thống Ford biết việc ném bom và nói rằng Martin bảo đảm cầu hàng không bằng máy bay thường vẫn duy trì được. Tổng thống không bằng lòng, ông vẫn chưa hiểu cái gì đã đưa người Nam Việt Nam đến thảm họa ngõ cụt không lối thoát ấy. Ông cũng không thấy cần để Martin một mình đưa ra những quyết định quan trọng. Vấn đề đàm phán đặc biệt làm ông suy nghĩ. Schlesinger cho là không có hy vọng gì. Còn Kissinger ngày càng nghi ngờ. Chỉ có một mình Martin nghĩ là có thể lợi dụng thời cơ! Thái độ Colby là sự thỏa hiệp giữa thái độ Schlesinger và thái độ Martin. Ngày 28 tháng 4, Colby nói: "Biên Hòa và sân bay có thể mất trong mấy giờ nữa. Quân Bắc Việt Nam tiếp tục uy hiếp mạnh. Cuộc kháng cự ở Long Bình (một căn cứ quân sự gần Biên Hòa) chắc không được lâu nữa. Tây Ninh và Long An sắp rơi vào tay cộng sản. Tóm lại quân Bắc Việt Nam đang uy hiếp Sài Gòn. Đối với Minh, thử xem ông ta có thể thương lượng được một cuộc đầu hàng cho phép những người cộng sản giữ một vị trí trong chính phủ Sài Gòn? Không còn nhiều thì giờ để đi đến kết quả ấy, từ một đến ba ngày là cùng”.
Cuối cùng, sau khi thố lộ với Kissinger những điều băn khoăn của mình, tổng thống Ford quyết định thỏa hiệp. Đành cho Martin quyết định thời gian đưa người Mỹ đi, trao quyền cho Kissinger nói chuyện với Hà Nội. Khoảng 20 giờ, giờ Sài Gòn, tướng Smith cho phép hai máy bay C.130 đỗ xuống sân bay Tân Sơn Nhất chở 360 người đi, không xảy ra chuyện gì. Trong lúc đó, từ Honolulu, đô đốc Gayler gọi dây nói cho Smith phổ biến quyết định mới nhất của Hoa Thịnh Đốn: Đình chỉ ngay tất cả các chuyến bay C.141, để 24 giờ tới, có thể có được 60 chuyến bay C.130. Như vậy sẽ tản cư được mười nghìn người, trong đó có nhân viên phái bộ quân sự.
Tất cả các viên chức dưới quyền sứ quán đều được báo cho biết kế hoạch ấy. Và tất cả những người phụ trách các bộ phận đều được lệnh báo cho các nhân viên và tập hợp các cộng tác viên mà họ muốn đưa đi. Đại sứ ước tính phải mất ít nhất hai ngày, đến ngày 30 tháng 4, mới di tản hết các viên chức cao cấp Việt Nam. Trước khi đi ngủ, tôi sang phòng Joe Kingsley, uống một ly rượu và nói chuyện. Đài radio đeo dưới thắt lưng tôi, chỉ phát ra tiếng kêu đều đều. Lúc Joe mở cửa cho tôi thì anh đã uống ly Martin thứ ba. Anh ấp úng: "Cho quên những việc xảy ra ban ngày!". Một anh lính mũ nồi xanh, bạn cũ của Joe đang say túy lúy, đến chỗ tôi. Thuyền gặp gió. Anh chàng ba hoa: “trời, mình ở lại Sài Gòn, mình muốn đánh đắm tàu”. Joe cho anh uống một viên thuốc giã rượu. Ba chúng tôi ngồi nghiên cứu kế hoạch di tản từ trên mái nhà và thỏa thuận với nhau, có việc quan trọng xảy ra ban đêm thì người này phải gọi hai người kia.
Tôi trở về phòng. Trước khi đi ngủ, tôi xếp mũ sắt, áo giáp, khẩu M.16 xuống đất, bên cạnh bàn ngay đầu giường để trong đêm tối có thể dễ dàng tìm thấy.
BUỔI SÁNG
Buổi họp được tổ chức nửa đêm trong hội trường của sứ quán. Có khoảng 20 người mệt mỏi và mất tinh thần tới dự lúc George Jacobson đến chỗ ngồi của đại sứ để làm chủ tọa cuộc họp thay đại sứ. Một viên chức lặng lẽ cầu khẩn buổi họp xong sớm. Nhưng anh đã thất vọng. Buổi họp kéo dài hơn một giờ, người nào cũng tưởng mình là chuyên gia về di tản nên đều đứng lên phát biểu ý kiến. Jacobson mở đầu. Anh nói: "Đại sứ tin rằng quân Bắc Việt Nam còn 48 giờ nữa mới mở cuộc tiến công cuối cùng. Sứ quán còn thi giờ để di tản mười nghìn người như dự kiến. Nhưng có một vấn đề là chất lượng. Đã dành quá chỗ đi cho bồi bếp. Đại sứ buộc mười nghìn người di tản còn lại phải là những người mà "tính mạng bị uy hiếp”. Jacobson quay lại phía Shep Lowman đã làm một danh sách cho sứ quán và nói:” Anh thử xem có đủ rèn hai nghìn người Việt Nam đáng được di tản không?”. Lowman ngạc nhiên. Lần đầu tiên anh thấy người ta định chi tiêu.
Sau đó lại thảo luận về đường đi của xe buýt, nơi đón, và khoảng một trăm chi tiết kỹ thuật khác. Cuối cùng, Lucy Wright giơ tay và hỏi: "Có ai có kế hoạch làm cho chúng tôi thoát khỏi nạn không? Nếu có thì nói đi". Jacobson mím cười và nói điều gì không ai nghe rõ. Lúc kết thúc buổi họp, Lowman hỏi Alan Carter bản danh sách mới những người được anh chọn đi trước. Carter kêu lên: "Tôi đưa mấy ngày nay rồi". - Tôi biết, nhưng để lẫn mất rồi. Phải làm lại tất cả. Lowman chỉ tập hợp được mấy đồng nghiệp làm thành một nhóm hôm sau xung phong đi đón và đưa người tị nạn. Rồi cùng với Dan Brewsler, anh gọi dây nói cho những người Việt Nam đứng đầu danh sách.
Người phát ngôn của Hà Nội không im tiếng. Gần một giờ sau đài Giải Phóng tuyên bố: "Nhân dân ta hoàn toàn tin tưởng về lực lượng chính trị và quân sự của mình và chắc chắn sẽ chiến thắng hoàn toàn, giải phóng miền Nam, đất nước của cha ông”. Trong một buổi khác, đài này gọi chính phủ Minh là "ngụy quyền gian dối, một bộ máy chiến tranh trong đó lực lượng thứ ba là nạn nhân". Hà Nội cũng lên án Hoa Kỳ hết sức nặng nề: "Đề nghị đơn giản của Hoa Kỳ là để lại sứ quán với một nhóm nhỏ nhân viên không thể được coi là chấm dứt sự can thiệp của Mỹ. Vấn đề cần thiết là sứ quán ấy được quyền làm gì và tại sao tất cả nhân viên không rút đi ngay, không có một hạn định (không có sự phân biệt giữa cố vấn với những người khác)... đế quốc Mỹ có chịu bồi thường và hàn gắn vết thương sâu và nặng họ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam không? "Tóm lại, nếu người Mỹ muốn có mặt một cách chính thức nào đó ở Việt Nam, họ phải bỏ tiền ra và nhận tội”.
Những đòi hỏi ấy loại trừ hẳn việc duy trì một phái đoàn ngoại giao bình thường. Không còn vấn đề để lại một sứ quán Mỹ nhỏ nữa. Nhưng phải mất nhiều thì giờ Nhà Trắng mới nhận rõ vấn đề ấy.
Đến 2 giờ 30 phút sáng, giờ Sài Gòn, ngày 28 tháng 4, khoảng hai nghìn người Việt Nam ăn cơm ở nhà phụ của phái đoàn quân sự. Cầu hàng không tạm ngừng vì bốc hàng từ ba máy bay C.130 xuống. Hơn một giờ sau, hai chiếc sẵn sàng chở người đi. Don Hays, người phụ trách việc phân loại mệt quá, không đếm được người đi. Hai chiếc máy bay bốc lên, chiếc thứ ba lăn bánh tới. Hays liếc nhìn đồng hồ: đã bốn giờ sáng.
Một vài giây sau, trái rốc két đầu tiên nổ vang. Nó làm rung chuyển phòng tôi. Tôi lăn khỏi giường trong đêm tối, mò cái mũ, chiếc áo giáp và khẩu súng, bò tới cửa sổ, thầm tính khoảng cách từ đây đến những nơi có tiếng nổ nhỏ tiếp theo: chỉ độ vài kilômét, chắc là ở sân bay Tân Sơn Nhất. Trên các ngọn cây, tôi trông thấy những khối lửa tròn bay trong bầu trời tối mịt. Chân trời vang lên tiếng súng pháo binh. Một tiếng kêu phát ra từ đài vô tuyến nhận tin đặt trên bàn giấy. Ai đó thét lên: "Tân Sơn Nhất bị rốc két và đạn 130 ty bắn phá!". Tôi vội mặc quần, đi giầy và chạy ra hành lang. Ngoài phố, cảnh sát Việt Nam sợ hãi nằm dưới đất, ló đầu khỏi mấy xe hơi đỗ bên hè hoặc khỏi mấy bao cát. Tôi cúi người, chạy ven tường đến phòng Joe Kingsley, xem anh đã thức chưa. Đúng lúc anh dậy. Anh vừa nói: "Lần này thế là hết", vừa mặc áo giáp, chúng tôi theo cầu thang bên ngoài, đi lên nóc nhà. Một trái rốc két nổ gần máy bay C.130 đang đỗ trên đường băng, máy bay bị hư hại nặng, một phần biến thành một tờ giấy nhôm. Hai trái nổ gần trạm gác Moorefield vừa cho đặt cách đây mấy giờ. Người coi Mc. Mahon và anh lính binh nhất chết ngay. Một trái nổ trên sân quần vợt của phái bộ quân sự. 1.500 người Việt Nam ngồi gần bể bơi bị hơi đạn nổ đánh bạt đi như những ngọn lúa bị gió to lay động. Hays thét, họ nằm xuống và anh bị đè bên trên. Mấy giây sau, một trái nữa nổ ở góc phòng thể dục, làm sụt mái nhà và chết một phụ nữ. Ba, bốn trăm người tị nạn ở trong khu nhà định phá tường sắt chạy ra ngoài. Cách đó mấy trăm mét, một trái nữa nổ, hất tướng Smith và Marbod từ giường xuống đất. Trên lầu thượng, một máy điều hòa không khí gắn vào tường bị ném xuống chân một giường có người ngủ. Anh này hoảng sợ vội vớ lấy khẩu M.16 chạy ra ngoài và nhảy xuống một cái hố. Sau anh mới biết là chưa mặc quần!
Cách độ năm kilômét, đứng trên mái nhà, chúng tôi tính thời gian từ lúc bắn đến lúc đạn nổ: khoảng năm giây. Joe nói với vẻ thán phục: "Chắc là đại bác 130 milimét. Không có đạn rốc két nào có thể gây thiệt hại lớn như thế! Rìa sân bay Tân Sơn Nhất, một kho nhiên liệu trúng đạn, bốc cháy ngay bắt đầu đỏ lửa ra chung quanh. Một đám khói đen cuồn cuộn lên bầu trời. Mấy giây sau, một trái nữa nổ vào đám cháy.
Joe, chỉ khu vực Hoa kiều ở Chợ Lớn kêu lên: “Đằng kia cũng bị!". Anh nói đúng. Bầu trời Chợ Lớn đỏ rực, gió biến thành một cơn bão lửa. Từ lúc trái rốc két đầu tiên nổ, tướng Dũng đã theo dõi được tiến triển của cuộc bắn phá nhờ có hàng loạt báo cáo do đặc công nằm ở phía Bắc sân bay Tân Sơn Nhất gửi về. Đến 5 giờ, có tiếng dây nói gọi ông. Ông viết trong hồi ký: "5 giờ sáng ngày 29 tháng 4, khi các cánh quân ta đồng loạt nổ súng tiến công thì chúng tôi nhận được điện của Bộ Chính trị gửi lời kêu gọi và những chỉ thị sau đây: Nhiệt liệt khen ngợi toàn thể các đơn vị đã lập được chiến công lớn trong những ngày qua, kêu gọi toàn thể các cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, với quyết tâm lớn nhất, hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh của một quân đội trăm trận trăm thắng, đập tan mọi sức đề kháng của địch, kết hợp tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại!".
Sau khi phổ biến chỉ thị của Bộ Chính trị cho các cán bộ có mặt ở bộ chỉ huy, tướng Dũng và cộng tác viên của ông còn gửi một lệnh động viên cho tất cả mọi người. Lệnh đó ông Phạm Hùng thông qua, đã quyết định số phận của Sài Gòn. Hà Nội còn cho tướng Dũng biết một số đông người Mỹ và người Việt Nam sẽ rời Sài Gòn bằng máy bay trong mấy giờ tới, trong đó có cố vấn quân sự Mỹ còn lại. Quân đội tiếp tục siết chặt gọng kìm chung quanh thành phố, nhưng đừng động đến cầu hàng không... Quá 5 giờ, tướng Smith mặc binh phục, đeo khẩu Coi.45 bên hông chạy qua sân quần vợt đến sở chỉ huy của phái bộ quân sự. Ông chưa hết mệt thì một sĩ quan mời ông đến nghe dây nói. Đại sứ Martin muốn nói chuyện với ông. Ông báo cáo: "Vâng, chúng ta tiếp tục bị rốc két bắn. Một máy bay C.130 đang cháy".
Rồi ông nhớ lại chi tiết đáng buồn: hai lính thủy Mỹ bị chết bên hàng rào. Im lặng bên kia đầu dây. Có lẽ Martin chưa nghe rõ. Smith nhắc lại. Đại sứ cắt ngay: "Tôi rõ rồi", tiếng khàn khàn, có vẻ ông bị viêm họng. Đại sứ lại nhấn mạnh: Việc đầu tiên là tất cả các nhân viên phái bộ quân sự phải rời Sài Gòn trong 12 giờ tới dù có bị bắn phá hay không. Cầu hàng không C.130 phải bắt đầu ngay. Cái gì ngăn cản? Smith bình tĩnh trả lời: Đường băng không chắc có còn sử dụng được.
Trở về nhà, tôi đi tắm. Bình tĩnh cạo râu, mặc một quần cũ, một áo sơ mi và một áo ngoài thể thao. Đội mũ sắt lên đầu, đeo vào thắt lưng hai khẩu P.38. Cài khuy áo giáp xong, tôi buồn rầu nhìn lại lần cuối căn phòng tôi ở. mấy cái quần áo bỏ đi, đài thu thanh, tất cả gia tài của một "thực dân" Mỹ trước giờ ra đi.
Tôi đến cầu thang máy. Lính gác Nùng ở ngoài cửa, dưới nhà, chào tôi, đi theo tôi trong một buổi sáng ảm đạm. Lính Nùng được coi là nhân viên an ninh trong các trụ sở chính thức của CIA, họ rất được tin cậy vì tinh thần chống cộng. Phần lớn họ tị nạn, từ Bắc Việt Nam vào. Đã hứa với họ có chỗ trên máy bay di tản nên họ đang chờ. Một người là chồng chị sen của tôi, giúp tôi đưa chiếc bạc đà vào xe Ford Pinto. Anh mở cửa xe cho tôi, chào tôi một lần nữa và ấp úng nói bằng thứ tiếng Anh giả cầy: "Đừng quên tôi". Lần cuối cùng, tôi gặp anh. Anh và các bạn đồng ngũ với anh đều bị bỏ rơi! Từ nhà tôi đến sứ quán chỉ mất ba phút đi xe hơi. Tôi phóng nhanh, trên những đường phố vắng người, nhưng có cảm tưởng là không bao giờ tới được. Sau cùng tôi dừng được xe ở sau sân chơi. Một lính thủy gác ở đây chỉ cho tôi chỗ đỗ xe ở ngoài phố. Đeo bạc đà lên vai, khóa xe, tôi đi về phía cổng sau ngôi nhà. Một lính thủy mở cửa đủ cho tôi len vào. Đi qua sân, tôi đã thấy một bóng người cao trước căn tin. Đó là George Mc Arthur, một trong nhưng nhà báo tôi đã tiếp xúc trong bữa ăn tối của Carter 15 ngày trước và đã không tán thành luận điểm của tôi. - Chào bạn, Mc Arthur nói bằng giọng kéo dài của người miền Nam nước Mỹ, có người cho biết, các bạn còn chỗ. Mấy phút trước đó, Mc Arthur được Eva Kim cho hay cầu hàng không hoạt động gấp và anh không muốn bị bỏ lại.
Tôi sẽ gật đầu và tiếp tục đi. Polgar chưa có ở phòng làm việc. Viên chức thường trực đưa cho tôi khoảng 20 bức điện và tin vô tuyến điện, trong đó có những tuyên bố mới nhất của Hà Nội và một bản sao nhận định của Hoa Thịnh Đốn. Tôi ngồi vào bàn, thảo hai nhận định cho Hoa Thịnh Đốn. Kết luận, tôi nói rõ không còn nghi ngờ gì về chủ trương của Hà Nội đối với Sài Gòn: Không có thương lượng. Đó là bản phân tích về chính trị, quân sự... cuối cùng đánh đi từ sứ quán Mỹ ở Sài Gòn.
Mệt mỏi vì phải quan sát, Kenneth Moorefield rời mái nhà về phòng, xin một xe hơi. Sau này anh kể lại: "Tôi muốn đến sứ quán để nói chuyện với nhân viên an ninh. Nhưng sau lại thôi. Garrett và cộng tác viên của anh không hề biết gì về cầu hàng không. Thấy thế, tôi bảo họ: Mặc kệ, tôi cứ đi. Rồi tôi đề nghị Garrett cho lính hộ vệ tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất. Đi cũng dễ. Ngoài đường có ít người. Nhưng khi chúng tôi đến cửa chính sân bay thì vấp phải ngay một chuyện: Lính gác không cho chúng tôi vào. Họ cho là tôi là nhà báo nên quá cáu kỉnh. Không thể trách họ được. Đạn rốc két nổ khắp nơi. Máy bay Việt Nam định cất cánh và dưới đất, mọi người đều bắn tứ tung. Tôi tưởng không thể nào vào được. Nhưng đúng lúc chúng tôi định quay về thì trái đạn rốc két nổ cách chỗ chúng tôi mấy trăm mét, chúng tôi vội nhảy vào một cái hốc. Lúc chúng tôi đứng dậy thì những người lính gác quá sợ hãi, mặc chúng tôi muốn đi đâu thì đi.
Đến 6 giờ, đoàn ngoại giao đến sứ quán. Đi trước họ là Polgar. Ông vào đại sứ báo cáo tình hình sân bay. Ông hỏi, rồi gợi ý: "Đã đến lúc phải di tản bằng máy bay lên thẳng chưa? ít nhất, phải cho cưa cây me ngoài sân đi". Đại sứ không buồn nói chuyện nữa. Đối với ông, cầu hàng không bằng máy bay C.170 là quá đủ. Thế là chấm dứt. Tức giận, Polgar gọi Jacobson ra nói riêng: "Dù thế nào cũng phải cưa cái cây để bảo đảm an toàn".
Cùng lúc ấy ở Hoa Thịnh Đốn là buổi chiều, tổng thống Ford họp hội nghị năng lượng ở Nhà Trắng. Một chuyên gia đang nói về khả năng người A rập cấm chở dầu lửa thì tướng Brent Scowcroft, phó thứ nhất của Kissinger, dón chân đi vào phòng và đưa cho tổng thống một tin “Tân Sơn Nhất bị bắn phá, hai lính thủy chết. Di tản tạm ngừng". Ford hằn giọng, suy nghĩ một lát rồi ra lệnh cho Scowcroft triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia trong một giờ. Tại bộ tổng tư lệnh Honolulu, đô đốc Gayler đi bách bộ. Ông muốn cấp tốc thực hiện phương án di tản, nhưng Martin tiếp tục không nghe. Ông đã gọi dây nói thẳng đến sứ quán mấy phút trước nhưng khi được trả lời là đại sứ bận!
Đến 6 giờ 30 phút, tướng Smith ra lệnh mới cho cộng tác viên: Tất cả nhân viên phái bộ quân sự sẵn sàng ra đi, đúng lúc cầu hàng không C.130 lập lại. Tức thì đại tá Wable, tùy viên quân sự gửi qua vô tuyến điện và dây nói một điện, báo động cho các địa điểm tập họp ở trung tâm thành phố. Đại tá giao cho đại úy Tony Woods tổ chức đoàn xe Ô tô buýt và nói: Chính thức ra chỉ có nhân viên phái bộ quân sự đi thôi nhưng nếu có người Mỹ khác xin đi thì cứ để họ đi. Trước 7 giờ, một sĩ quan hải quân đứng ở đường băng vội chạy đến báo cáo tình hình với tướng Smith. Anh nói: ở đây rất xấu, rất xấu. Máy bay Việt Nam đậu trên đường băng như chim bị thương. Dầu, bom, và nhiều vật liệu chiến tranh rải rác khắp nơi. Một máy bay phản lực F.5 máy còn chạy đã bỏ lại. Smith vừa nghe, vừa lắc đầu: Như thế thì máy bay C.130 hạ cánh thế nào được? Nghe vừa xong, ông gọi ngay cho Polgar ở Honolulu và đề nghị có một phi đội máy bay tiêm kích đi bảo vệ máy bay vận tải. Cách sở chỉ huy của tướng Smith mấy trăm mét, Moorefield vừa đột nhập nơi phân loại người di tản của phái bộ quân sự. Anh thuật lại: "Hoàn toàn như một trại người điên. Đánh nhau khắp nơi. Không có cơ quan an ninh kiểm tra. Không có gì hết. Trước đây, có Woods, một sĩ quan hải quân giúp vào việc di tản, tôi đi tìm anh ta định xin một vài lính thủy ra trông coi nơi phân loại. Nhưng khi thấy anh ta thì rõ ra là không lợi ích gì. Trời ơi, chính anh ấy đề nghị tôi giúp. Anh vừa được lệnh tập hợp các chuyến xe nhưng lại không biết rõ địa điểm ở đâu. Tôi biết nên phải giúp anh". Đến 19 giờ 23 phút, giờ Hoa Thịnh Đốn, Hội đồng an ninh quốc gia họp khẩn cấp đặc biệt ở Nhà Trắng. Tất cả cán bộ cao cấp của Bộ Quốc phòng, cơ quan tình báo đều tham gia. Ford ngồi đầu bàn, Kissinger ngồi bên phải. Bên kia theo thứ tự là bộ trưởng, quốc vụ khanh Ingersoll, giám đốc CIA Colby, Schlesinger và phó của ông là Clements, tướng George Brown, tham mưu trưởng liên quân, và một số nhân vật ít nổi tiếng khác. Kissinger bắt đầu trình bày: Không lập ngay cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng vì máy bay thường còn có thể cất cánh được ở sân bay Tân Sơn Nhất. Schlesinger và Brown không đồng ý, cho rằng đã đến lúc phải thực hiện phương án IV. Cuối cùng Brown đề nghị một thỏa hiệp: Trước hết bảy máy bay C.130, từ Philippines và Thái Lan bay đi Sài Gòn, nếu chúng đỗ được xuống thì thì tiếp tục cầu hàng không, trái lại phải dùng máy bay lên thẳng. Brown cũng đề nghị với đô đốc Gayler cho một phi đội máy bay tiêm kích hộ tống. Nhưng Kissinger phản đối, theo ý ông, cuộc biểu dương lực lượng lúc này có thể làm Hà Nội hiểu lầm.
Sau đó Hội đồng an ninh quốc gia bàn về số phận bản thân sứ quán. Hà Nội có vẻ bác bỏ mọi sự có mặt của người Mỹ ở Sài Gòn, nhưng Martin hình như vẫn chưa tin như thế. Một người nào đó nói rằng Martin đã lầm, người Bắc Việt Nam nói có lý. Kissinger cau mày. Ford mỉm cười và cắt đứt câu chuyện. Cuối cùng, lại đến một thỏa hiệp thứ hai: Nhân viên sứ quán rút xuống còn một nhóm xung kích gồm 150 người. Những người khác phải di tản ngay trong ngày, cùng với đồng nghiệp ở phái bộ quân sự. Sau buổi họp, Kissinger gọi dây nói cho Martin. Còn tổng thống Ford cho rằng bộ tham mưu đã nắm vững tình hình cuộc khủng hoảng nên đi tìm vợ ở lầu hai Nhà Trắng để cùng nhau uống một ly Martin trước khi ăn tối.
Ở Sài Gòn, Alan Carter đến sứ quán vào 7 giơ 30 phút. Phần lớn đồng nghiệp anh đã đến họp ở phòng làm việc đại sứ. Anh vừa vào, vừa hỏi: tôi dự họp được không?". Đại sứ chỉ cho anh một chỗ trên ghế dài. Polgar vừa trình bày xong bản nhận định của tôi và tuyên bố mới nhất của Hà Nội. Ông nói tiếp: “Những người của tôi ở sân bay Tân Sơn Nhất nói rằng đường băng không còn dùng được nữa. Có lẽ chúng ta phải sử dụng máy bay lên thẳng". Pittman, phó của ông, ngồi không yên, vẻ ngượng nghịu. Anh đã dự kiến như thế. Mặt Martin bỗng căng ra như tờ giấy cũ. Ông rên rỉ: "Làm sao anh biết rằng đường băng không dùng được nữa? Anh chỉ nghe người dưới quyền nói qua điện thoại thôi chứ gì?". Polgar định trả lời nhưng đại sứ đã thay đổi câu chuyện: "Dù sao tôi vẫn nghĩ rằng Hà Nội có ý đồ thương lượng".
Lúc ấy, cuối phòng, có một cánh tay giơ lên. Joe Bennett, cố vấn chính trị, bằng một giọng khiêu khích, đứng lên hỏi: "Cái gì làm cho ngài tin như vậy?". Hai ba đồng nghiệp nhìn nhau, lạ lùng. Joe Bennett vốn rất trung thành với Martin và kịch liệt chống cộng, không phải thuộc hạng người lên án sự suy xét của đại sứ. Martin không thèm trả lời thẳng. Ông nói: Trước khi có quyết định, tôi muốn đến Tân Sơn Nhất xem tình hình thế nào? Carter há hốc mồm. Nhiều tiếng xì xào phản đối. Nhưng trước khi có người đứng dậy phản đối rõ rệt thì Martin phải đi nghe dây nói của Kissinger gọi sang. Mấy phút sau, ông trở lại thì mặt ông mất cả vẻ nghiêm nghị. Ông nói nhỏ: Tổng thống đồng ý lúc này tiếp tục cầu hàng không nhưng muốn chúng ta giảm số nhân viên sứ quán xuống còn 150 người, nghĩa là một ê kíp xung kích.
Bất ngờ, mọi người đều nhao nhao lên. Polgar bắt đầu nói cái gì đó nhưng sau cho rằng, dù sao cũng nên im lặng nên ông dựa vào ghế và lắc đầu. Hoa Thịnh Đốn muốn giải quyết cuộc khủng hoảng như thế đấy. Một nhóm xung kích! Việc đó có nghĩa là ở đây phải dành nhiều giờ để làm lại bảng phân công. Nói một cách khác, làm những việc vớ vẩn trong khi thành Rome đang bị cháy! Đó là ý nghĩa của tất cả việc đó. Khi buổi họp tan, Jim Devine đến gần Lowman: “Thế còn những nhân vật Việt Nam thì sao?”. Lowman cho anh biết đã tiếp xúc với tất cả những người quan trọng. Nhưng vẫn còn vấn đề chưa biết giải quyết thế nào: Nếu máy bay C.130 không xuống được thì sao? Không có một cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng nào có thể chở hết đám người di tản. Devine suy nghĩ. Anh gợi ý: “Còn có sà lan, tàu thuyền. Còn thì giờ đi huy động chúng”.
Mười phút sau, Lacy Wright và những người thuộc nhóm lực lượng bảo vệ nhỏ bé của Lowman, lấy máy điện thoại, gọi cho hàng trăm người Việt Nam đã được báo trước, nói cho họ biết cầu hàng không đang gặp nhiều khó khăn, nhưng có thể thay bằng biện pháp khác, tuy có phần nguy hiểm (không ai nói đến sà lan, tàu thuyền cả). Ai sẽ đi? Ai nhận đi thì bất chấp thiết quân luật, mau mau tới một trong những biệt thự được chọn làm nơi đón tiếp.
Một viên chức sứ quán sẽ đến đón họ và nói rõ thêm. Wight đã gọi cho người Việt Nam thứ hai mươi hay thứ ba mươi gì đó thì bỗng anh nghi ngờ. Anh nói với một đồng nghiệp: "Ta gọi nhiều người quá đấy. Không chở hết đâu”. Anh nói có lý, khổ thay.
Rời phòng làm việc của đại sứ, Polgar đến báo cho tôi, tôi thuộc nhóm người xung kích nhỏ 50 người của chi nhánh CIA. Giọng ngắt quãng, ông nói thêm: Có thể có mất mát. Anh đã sẵn sàng chịu đựng chưa? Tôi gật đầu. Lúc ấy, tôi rất mệt và rất quen với những tấn bi kịch xảy ra chung quanh. Tôi tưởng như mình tránh được hết đạn.
Giữa lúc đó, George Jacobson tìm một máy bay lên thẳng đưa Martin đến phái bộ quân sự. Anh gọi cơ quan không quân Mỹ ở Tân Sơn Nhất nhưng người kiểm soát không quân trả lời: Anh ta mệt quá không thể nào cho một máy bay đi dược. Nghe thấy thế, Martin tức giận mặc áo ngoài, đi ra thang máy, nói ồm ồm: "Trời ơi Tôi đi bằng xe hơi vậy.
Lúc 7 giờ 30 phút, phó tùy viên không quân và mấy sĩ quan chạy vòng quanh nơi máy bay đổ sang bên kia xa lộ, trước trụ sở phái bộ quân sự. Sau này tướng Smith cho biết: Theo ý họ, lúc ấy, không thể tiếp tục cuộc di tản bằng máy bay thường. Tin lời họ, Smith ra lệnh cho nhân viên phái bộ quân sự chuẩn bị đi bằng máy bay lên thẳng, từ những sân quần vợt. Smith gọi sứ quán báo cho Martin. Nhưng Eva Kim cho biết đại sứ bận. Ông đã đi sân bay để kiểm tra đường băng. Nghe thấy thế, đương nhiên Smith cắm chân trong phòng làm việc.
Một bất ngờ khó chịu khác lại đến với ông tướng khốn khổ ấy! Không báo trước, năm hay sáu sĩ quan cao cấp không quân Việt Nam đến xin trú ẩn và đề nghị phái bộ quân sự giúp họ di tản. Smith lạnh lùng tiếp họ, lột vũ khí rồi đẩy họ vào một phòng rỗng. Sẵn sàng từ chối không chiến đấu? Không phải hẳn như thế. Họ còn có thể giúp ích được. Smith ra lệnh nhốt họ cho đến khi phái bộ quân sự hoàn thành cuộc di tản. Làm như vậy, Smith chắc chắn sẽ nhận được sự hợp tác của những người lính Việt Nam khác. Moorefield, trong đời, chưa bao giờ lái xe hơi. Anh cùng đại úy Woods phải lần mò vào nơi để xe của phái bộ quân sự. Mặc dù đã có lệnh, không một xe Ô tô buýt nào dành đón người tị nạn vì không có xăng! Trạm bơm cũng đóng cửa, lái xe người Việt Nam và nhân viên phục vụ đều trốn hết. Điều đáng sợ nữa là hai người ở giữa nơi bị bắn phá. Moorefild kể lại: "Đạn rốc két nổ khắp chung quanh chúng tôi, một trái nổ chỉ cách 40 mét. Việt cộng bắt chúng tôi làm miếng xăn-uých. Vừa chạy trong cỏ cao, tôi vừa nghĩ chắc hôm nay không có chuyện di tản. Chúng giết chúng ta mất.
Bên cạnh tôi, trong bùn, có một người Việt Nam đang run sợ Tôi gọi ông ta hỏi có biết lái xe không? Ông ta sợ quá chỉ nói được một từ: Biết. Tôi dựng ông ta dậy, đẩy ông ta đến một chiếc xe và bảo: Thử xem nào? Woods cũng làm như tôi khi gặp mấy người Việt Nam khác. Rồi chúng tôi nhảy vào xe Jeep và một xe thường đi Sài Gòn, đằng sau có bốn hay năm xe Ô tô buýt. Đến 8 giờ 15 phút, giai đoạn đầu cuộc di tản cuối cùng bắt đầu ở nơi phân loại người di tản, Don Hays, một tay bế một con nhỏ Việt Nam đang khóc, tay kia xách hai vali, anh nhìn đám đông, cố tìm chủ nhân. Qua làn khói và sương mù phủ lên máy bay, anh thấy một máy bay nhỏ bị bắn, đang rơi như sao sa chảy. Một lát sau, một đại tá không quân đi đến chỗ anh và nói: "Chúng tôi nhận được lệnh tất cả người Mỹ phải rời ngay nơi này và tập hợp ở sân bay hộ tống chỉ huy". Hays đánh rơi vali, trả lời: “Sao lại thế, ở đây còn ba nghìn người Việt Nam không thể bỏ rơi họ đơn giản như vậy! Viên đại tá nhìn vào mặt Hays làu bàu: "Tôi không nhận lệnh của binh lính! Đi! Chấp hành ngay!". Hays trước đây cũng là lính bộ binh, có kinh nghiệm là tranh luận với một viên đại tá thường vô ích nên anh đưa đứa bé cho viên sĩ quan và chạy tới trạm điện thoại. Anh gọi được cho Jaxynka ở sứ quán, Jaxynka trả lời anh: "Đừng thắc mắc. Đại sứ đến xem đấy, ông sẽ biết cần phải làm gì". Hays quay lại chỗ viên đại tá, thở dài và nói: "Tôi cộng tác với ông nhưng ông phải cho tôi biết tình hình. Viên đại tá nhún vai, trả anh đứa trẻ và bỏ đi, hững hờ, Hyas báo cho khoảng 50 người Mỹ đứng rải rác trong đám đông đi về phía cửa sau, ở đấy có nhân viên CIA mở cửa cho họ ra.
Ở trung tâm thành phố, tướng Timmes đi xe của sứ quán đến dinh tổng thống. Một người phục vụ đi trước dẫn ông vào phòng làm việc của Minh. Ông rất lạ là không có sĩ quan, lính gác gì cả. Tổng thống mới mặc đơn giản một áo ngoài, niềm nở tiếp ông. Timmes xin lỗi vì làm phiền Minh. Ông chỉ đến hỏi xem người Mỹ có thể giúp gì thêm. Minh cau mày, lắc đầu. ông nói: "Sáng kiến này thuộc về người Pháp. Mấy phút nữa, đại sứ Mérillon sẽ đến nói chuyện với tôi. Ông cảm thấy vẫn còn chút hy vọng đến nói chuyện với tôi. Ông cảm thấy vẫn còn chút hy vọng đến một thỏa hiệp.
Tướng Timmes hỏi: "Vì sao người Pháp lại nghĩ thế?” Tướng Minh trả lời: Trước hết, người Pháp biết rằng Trung Quốc phản đối việc Bắc Việt Nam chiếm toàn bộ nước này. Bắc Kinh sẽ dùng ảnh hưởng của mình để làm cho cộng sản không chiến thắng hoàn toàn. Sau nữa, Hà Nội không có đủ cán bộ để cai trị đất nước, có thể họ chấp nhận một chế độ giao thời. Quan trọng hơn nữa là Chính phủ Cách mạng lâm thời không muốn Bắc Việt Nam đô hộ!". Timmes khẽ thở dài. Có phải đó vẫn là những luận điểm cũ mà người Pháp cố thực hiện một cách vô ích từ một tháng nay không? Thảo luận bây giờ cũng chẳng có lợi gì.
Tướng Timmes nghĩ thế rồi bảo Minh, ông sẽ báo cáo với Martin.
20 giờ 30 phút, giờ Hoa Thịnh Đốn, Nancy Kissinger mặc lễ phục đến Nhà Trắng. Cùng với bộ trưởng ngoại giao, bà sẽ tham dự một buổi biểu diễn bi kịch của Noel Coward, vở Presont Laughter, rồi đi chơi thủ đô. Nhưng Kissinger báo cho bà biết phải bỏ buổi xem kịch thôi vì Việt Nam đang hấp hối.
Mấy phút sau, lúc tổng thống và phu nhân ngồi vào bàn ăn thì Kissinger và tướng Scowaft đi qua thảm cỏ của Nhà Trắng, về phòng làm việc. Một nhà báo hỏi: "Có tin gì thế”? Kissinger mỉm cười không trả lời.
Bên kia sông Potomac, bộ trưởng Schlesinger và tướng Brown vừa ăn tôm hùm trong bữa tiệc của Lầu Năm Góc. Họ đến phòng tác chiến ở lầu hai. Lúc họ vào, loa phát thanh treo trên tường nheo nhéo phát tin của lực lượng can thiệp 76 ở Thái Lan và phái bộ quân sự Sài Gòn.
20 giờ 47 phút, nhận được lời nói của Gayler, máy bay C.130 đi Sài Gòn không thể có máy bay tiêm kích hộ vệ. Brown giằng lấy micro báo cho đô đốc biết: Tổng thống cấm dùng lực lượng vũ trang. Im lặng ở đầu dây bên kia.
Trong những điều kiện bình thường, đi xe từ Tân Sơn Nhất về Sài Gòn chỉ mất khoảng 15 phút. Nhưng Moorefield, đại úy Woods và đoàn xe Ô tô buýt của họ phải mất hơn một giờ. Dân chúng không còn tôn trọng lệnh thiết quân luật nữa và đều ra phố để mong chạy thoát. Xe cộ chạy khắp ngả đường. Sau tay lái có bà già mù và sĩ quan quân đội hoảng sợ. Ở các trạm kiểm soát, cảnh sát bắn chỉ thiên để nhắc nhở người đi lại.
Giữa đường, đoàn xe nhận được điện của phái bộ quân sự: Về ngay nhà đại sứ. Woods suýt đâm vào cây khi nghe tin ấy. Không ai bảo anh rằng ở nhà đại sứ có người phải đón. Anh cũng chẳng biết nhà đại sứ ở đâu. Moorefield biết, bảo Woods cho xe đến, không gặp khó khăn gì. Họ hiểu rõ ngay lý do phải quay trở lại: phải di tản những người giúp việc và gia đình họ. Woods tức giận vì thấy mất bao nhiêu thì giờ quí báu. Nhưng thực tế, việc quay trở lại cũng tốt. Đến nhà đại sứ, thì thấy nhân viên giữ nhiên liệu đã bơm đầy xăng vào các xe Ô tô buýt. Đại sứ không có nhà. Bà Martin có lẽ có nhưng không ra ngoài. Một lính gác bảo Woods và Moorefield đưa tất cả nhân viên ra cảng. Moorefield kêu lên: "Ra cảng à! Tôi không hiểu anh nói gì Người lính nói. Đi sà lan. Cả Woods và Moorefield đều không biết tí gì về sà lan tàu thuyền và cũng không biết chúng đậu ở chỗ nào. Lại phải quay lại đón người di tản càng chậm thêm.
Moorefield quyết định gọi sứ quán để hỏi rõ chuyện. Jim Devine nghe dây nói cho biết: Đó là lệnh cửa đại sứ, không được thảo luận. Anh cũng không nói sà lan ở đâu. May quá, những người lính gác cho biết mấy chỉ tiết. Moorefield và Woods nhất trí để hai xe chở người giúp việc đại sứ ra cảng, có một lính gác bảo vệ, còn những xe khác đi đón người tị nạn ở các nơi tập kết. Quá 9 giờ, chiếc xe Chevrolet bọc thép của đại sứ đỗ trước phái bộ quân sự ở Tân Sơn Nhất. Tướng Smith vội vàng dẫn Martin vào hầm, ở đây có mấy sĩ quan Mỹ và Việt Nam. Đại tá Lương, trưởng phòng tình báo Nam Việt Nam báo cáo vắn tắt tình hình: Về mặt quân sự không còn hy vọng, quân đội đã suy sụp, đặc công Bắc Việt Nam đã tiến đến chung quanh sân bay. Legro và Mc Curdy nhấn mạnh: Đường băng đã hỏng. Martin hỏi: Có quân đội bảo vệ đường băng không? Legro trả lời: Thưa không. Lương nói đúng, quân đội đã tan rã. Đại sứ nhún vai, gọi Smith sang một bàn giấy gần đấy và ra lệnh: Cố di tản càng được nhiều người Việt Nam càng tốt. Cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng không chở hết. Phải làm thế nào để máy bay C.130 có thể đỗ xuống được.
Smith muốn trình bày nhưng đại sứ đã quay người, gọi dây nói thẳng cho Hoa Thịnh Đốn. Scowcroft hiểu rõ việc đó. Ông nói: Lúc này Hội đồng an ninh quốc gia ủng hộ giải pháp ấy. Cầu hàng không bằng máy bay C.130 tiếp tục càng lâu càng tốt. Trước khi ngừng nói điện thoại, Martin ghi mấy tên trên và đọc to lên, muốn Smith hiểu. Rồi ông trở ra phòng tác chiến.
Erich Marbod ngồi ở bàn làm việc, trong một góc. Anh đang uống cà phê. Mặc quần Ka ki, vai đeo khẩu liên thanh K.63 của Thụy Điển, anh giống như một du kích hơn là thứ trưởng quốc phòng. Martin quần áo chỉnh tề, đi qua trước mặt anh, nhìn anh không bằng lòng. Sắp ra khỏi phòng thì ông quay lại, đến bên cạnh Marbod. Bất ngờ, mặt ông dịu lại, vừa mỉm cười, ông vừa hỏi Marbod: "Này Erich, sáng nay, khỏe không? Rồi ông để tay lên vai Marbod: "Tôi tự hỏi không biết anh có thể giúp tôi việc này không, đó là việc đưa vợ tôi, bà Dottie đi. Anh có thể thu xếp một chuyến bay đặc biệt để đưa bà ra khỏi nước này không? Anh có nhiều bạn ở bộ tư lệnh lực lượng không quân thứ bảy ở Thái Lan. Anh làm ơn nói với họ cho một chuyến máy bay đặc biệt để chở bà nhà tôi đi. Von Marbod nhìn vào mặt đại sứ trả lời: "Trời ơi, ông Martin, ông không rõ tình hình sao? Đường băng hỏng rồi. Không còn cầu hàng không bình thường nữa. Máy bay nào đậu ở đường băng quá mười phút là bị quân Bắc Việt Nam bắn ngay. Cách duy nhất đưa bà Dottie đi là bằng máy bay lên thẳng”.
Mắt Martin mệt mỏi như mắt người sắp chết: "Thế mà tôi vừa nói với tổng thống rằng chúng tôi tiếp tục duy trì cầu hàng không bình thường". Nói xong, Martin quay ra. Von Marbod vội cầm tay áo, giữ ông lại: "Tại sao ông không cùng tôi ra xem đường băng?". Martin lắc đầu và cố đi ra. Lúc ấy, một tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển ngôi nhà. Von Marbod thấy tay đại sứ run lên, hỏi đại sứ: "Thế ông vẫn muốn tổ chức một cầu hàng không bình thường à?". Martin nhìn Marbod, môi mấp máy nhưng không nói gì. Ông quay gót đi ra cửa. Sau này Marbod nói với bạn: “Chắc đúng lúc ấy, Martin đã thay đổi ý kiến.”
Nhưng Smith không cho là như thế. Sau khi đưa Martin ra xe Chevrolet và cho một đội hộ vệ vũ trang đi theo đại sứ, ông gọi dây nói cho Polgar ở Honolulu. Ở Hoa Thịnh Đốn, cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đều theo dõi cuộc nói chuyện của họ. Khi Smith nói xong quan điểm của đại sứ, Gayler hắng giọng và trả lời rằng mọi việc này tùy thuộc vào những máy bay C.130 đang bay về Sài Gòn. Nếu chúng hạ cánh được thì có cầu hàng không.
Mấy phút sau, một sĩ quan thủy quân, đội mũ sắt, mặc áo giáp chạy đến trước Smith báo cáo: Máy bay C.130 không thể hạ cánh được. Đường băng đầy mảnh vụn. Tai hại nữa là quân đội Bắc Việt Nam lại vừa bắn và phá hủy chỗ đỗ chính. Smith vội kêu lên: “Trời ơi! Cho mọi người ra khỏi chỗ ấy, hành khách, lính thủy, mọi người ra tất”. Ông vớ lấy micro ra lệnh cho máy bay C.130 đang bay đến, bay chậm lại để chờ.
Ở Hoa Thịnh Đốn, Schlesinger gọi dây nói cho Nhà Trắng: "Vì chúa, đề nghị cho sử dụng máy bay lên thẳng ông hét như vậy với Scowcroft. Lần đầu tiên, người phó của Kissinger có vẻ đồng ý.
10 giờ 25 phút, Smith lại gọi Gayler: Đã đến lúc phải dùng máy bay lên thẳng. Đô đốc thở dài thật lớn ở đầu đằng này, Ở Sài Gòn, cũng nghe rõ. Ông hứa sẽ chuyển ngay đề nghị ấy cho Lầu Năm Góc.
Smith gọi cho Martin đã trở về sứ quán. Không còn hy vọng gì về cầu hàng không bằng máy bay C.130 nữa. Hay là phương án IV hoặc là không có gì. Đại sứ trả lời: Đồng ý. Giọng ông khản đặc vì viêm họng. Ông đã nghe Smith: Dùng máy bay lên thẳng.
Giữa lúc ấy Kissinger gọi cho Ford, báo cáo nhất thiết phải sử dụng máy bay lên thẳng. Nhưng Ford chưa đồng ý. Có quá nhiều tin tức, ông không hiểu dựa vào tin nào, để ông hỏi lại Martin đã rồi mới quyết định.
23 giờ 43 phút, Kissinger gọi cho Martin theo một đường dây riêng. Ông nói rõ quan điểm của ông và chờ ý kiến của đại sứ. Suy nghĩ một lúc, Martin nói đơn giản: "Dùng phương án IV thôi". Kissinger lẩm bẩm: ông đồng ý và một giờ nữa sẽ cho máy bay lên thẳng tới. Được Martin tán thành, Kissinger báo cáo lại với Ford. Tổng thống ra lệnh cho Schlesinger huy động ngay máy bay lên thẳng.
22 giờ 51 phút, giờ Hoa Thịnh Đốn, lệnh tiến hành chiến dịch “Gió lớn" được ban ra, đó là tên một cuộc di tản bằng máy bay lên thẳng ở Sài Gòn trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975.
Ở Sài Gòn, lúc ấy, đài phát thanh Mỹ cho phát một bán nhạc cũ: Tôi mơ một đêm Noel trắng. Trước khi đi sân bay Tân Sơn Nhất, nhân viên đài mở liên tiếp điệu hành quân của Sousa.
Martin ra lệnh đốt hai triệu đôla. Sau đó ông hối hận. Ông có thể cần dùng đến số tiền ấy nếu có thỏa hiệp với Bắc Việt Nam. Trong những người di tản đầu tiên được tướng Smith gửi đến hạm đội của đô đốc Whitmire có vợ ông và hai sĩ quan cao cấp hải quân, các đô đốc Hugh Penton và Owen Oberg được bổ sang phái bộ quân sự từ đầu tháng 4. Sự khôn ngoan sơ đẳng nhất là cho bà Smith đi ngay. Còn hai sĩ quan kia thì đô đốc Gayler đã giải thích cho Smith rõ: Không một sĩ quan cao cấp nào được ở lại Sài Gòn trong trường hợp tình hình trở nên thất vọng.
Erich Von Marbod cũng có mặt trong nhóm người di tản ấy, theo đề nghị của ông. Từ sáng sớm, ông đã sốt ruột ngỏ ý muốn ra hạm đội để tổ chức cuộc di tản của những người còn lại của không quân Nam Việt Nam.
Máy bay lên thẳng vừa hạ xuống cầu tàu USS Bluebridge, tàu chỉ huy của đô đốc Whitmire thì Von Marbod đã vội chạy tới phòng thông tin để nói chuyện với Schlesinger ở Hoa Thịnh đốn. Ông nói vừa rời Sài Gòn bằng chiếc máy bay lên thẳng di tản đầu tiên. Ông xin phép được sử dụng một tàu sân bay của đô đốc Whitmire để tổ chức việc nghiên cứu người tị nạn, việc mà Schlesinger giao cho ông làm tuần trước. Bộ trưởng quốc phòng đồng ý và giao cho Marbod tàu sân bay USS Dubuque. Đô đốc Whimire rất bất bình vì thấy một người thường lại nắm quyền chỉ huy một tàu hải quân. Nhưng ông ta không phản đối được vì đã có lệnh của Schlesinger. Von Marbod cảm ơn Whitmire về sự hiểu biết của ông và lấy máy bay lên thẳng đi đến tàu USS Dubuque. Rồi tàu này chạy tới đảo An Thới, quần đảo Phú Quốc, ở ngoài khơi đồng bằng. Von Marbod định đặt ở đây một hệ thống thông tin để hướng dẫn máy bay Việt Nam bay đi Thái Lan.
Người giúp việc Marbod là Rich Armitage đã bay đến một tàu khác của Whitmire và cho tàu này chạy về đảo Côn Sơn. Anh đã hẹn các đơn vị hải quân Nam Việt Nam rời Sài Gòn chạy ra đó. Khoảng mười giờ, đoàn xe Ô tô buýt của Moorefield mới trở lại phái bộ quân sự chở chuyến đầu tiên người tị nạn. Anh thuật lại: Khi chúng tôi đi ngang qua phía bưu điện thì đạn rốc két bắt đầu nổ trên đầu như pháo nổ trong dịp Quốc khánh 4 tháng 7. Chắc chắn, quân đội Bắc Việt Nam có người đứng gác để báo tin có đoàn xe đi qua. Đạn nổ, người ngồi trên xe cuống cuồng, kêu la sợ hãi, ẩn núp dưới ghế hoặc nhảy ra khỏi xe. Cùng với một người Mỹ nữa, tôi vội vàng mở cửa xe cho họ chạy trốn vào trong nhà bưu điện. Nhiều người không đi được nữa, nhất là trẻ con và phụ nữ có tuổi. Chúng tôi phải bế họ, chân thì đẩy hành lý. Lại còn bọn khốn kiếp phóng viên nhiếp ảnh nữa: Họ mắc kẹt vì máy móc, đèn. Tôi thét lên: Vứt đấy! Trời ơi, vứt đấy! Nhưng không có người nào bỏ đồ nghề của họ để giúp chúng tôi một tay. Khi mọi người đã ở trong nhà bưu điện, tôi nhìn ra mới biết người lái xe đã bỏ đi. Lại phải tìm người khác. Tôi hứa sẽ giúp gia đình anh này di tản, anh mới nhận lái nhưng sau này, anh đi mất, tôi không thực hiện được lời hứa.
Khi Joe Kingsley vừa đi vào phòng chân khập khiễng thì đã 10 giờ. Anh trông như một người vừa bị một máy bay phản lực F.5 bay sát đầu: sơ mi rách hết, bám đầy mỡ, mặt đỏ gay. Anh để lựu đạn và súng tiểu liên xuống bàn, như muốn trút mọi gánh nặng trên đời. Ba giờ qua, anh vừa giúp những người Mỹ và người Việt Nam ở trong ngôi nhà, đi đến sứ quán. Anh nói: "Có thể còn có người trong ngôi nhà, một lần nữa tôi đưa được một người ra thì lại có một kẻ khác lén vào. Người Việt Nam cho rằng một Boing 747 sẽ đỗ trên mái nhà để đưa họ đi! Tôi giải thích, nhưng...". Tiếng gọi liên lạc cắt lời anh: đây, Pittman đây. Joe vội nói: "Để tôi”, rồi anh đi ra. Pittman định giao cho anh nhiệm vụ mới, cũng khó như nhiệm vụ trước. Pittman nói: Xuống tìm Jacobson. Cố dẫn một ít người Việt Nam ra sà lan đang đậu ở Tân Cảng". Joe kêu lên: "Cầu Tân Cảng, trời ơi, cầu ấy đã bị chiếm từ hôm qua rồi. Việt cộng ở đấy. Không thể đưa người đến đó được Nhưng Fittman không nghe và Joe, là một người lính tốt, phải tuân lệnh. Anh đến phòng làm việc Jacobson, ở lầu ba để nhận lệnh. Jacobson cũng sợ. Ngay cả đường phía bên này cũng không còn đi được. Carmody, tùy viên hải quân đã ra lệnh cho mấy tàu lúc trước đã đỗ ở đây chạy đi Khánh Hội, ở giữa thành phố, nơi mà Chatman và Bob Lanigan đã neo mấy tàu của họ.
Trong khi Joe tìm cách dàn xếp ý kiến của một số người ở lầu sáu sứ quán, tôi tiếp tục suy nghĩ một cách chẳng lợi ích gì. Đã mấy giờ liền, tôi tìm hiểu ý nghĩa của những tin mới nhận được. Thường mỗi khi có điện hoặc tin vô tuyến, tôi đọc rất nhanh, nhớ kỹ những điều hiểu được rồi vứt vào thùng "để đốt". Tin mới đều khẳng định kết luận tôi rút ra từ mấy tuần nay: Cộng sản định chiếm thành phố trong thời hạn ngắn nhất. Tôi cũng đã bắt đầu hủy những bản đồ ghi tình hình những hồ sơ mật. Mặc dù tôi được tham gia vào nhóm xung kích của CIA, tôi cũng không muốn chút nào đứng trước quân đội Bắc Việt Nam với một ngăn kéo đầy tin tức có giá trị. Phần lớn những bản đồ của tôi đều bồi bìa dày, chỉ có một cách phá hủy tiện lợi là lấy lưỡi lê đâm nát ra.
Tin tức ghi trong hai năm qua, biết bao nhiêu công phu. Thế mà đến trưa, phòng làm việc của tôi đã đầy những đống bìa như là nơi đổ rác. Mọi bộ phận trong sứ quán đều làm thế, phá hủy hồ sơ. Một cô thư ký ném một máy chữ giá năm tràm đôla vào gầm cầu thang. Phía sau nhà, người ta đã đốt liên tục giấy tờ, hai lò lửa kêu át cả tiếng đạn nổ ở sân bay Tân Sơn Nhất. Bên ngoài ven tường sứ quán, lính thủy đứng gác, đi bách bộ. Biết bao nhiêu cánh tay bám vào cửa ra vào. Hàng trăm người Việt Nam, trong đó có nhiều người giơ những mảnh giấy trắng lên vẫy, chắc là giấy thông hành, - van nài xin vào sứ quán. Bên trong, nhiều đồng bào họ, may mắn hơn - phần lớn là bồi bếp - đến sứ quán từ sáng sớm với ông chủ làm việc ở đấy, đang đợi xe ô tô buýt đi Tân Sơn Nhất. Ngoài sân chơi, gần một nghìn người Việt Nam đứng hết sức lộn xộn. Một số người đã lặng lẽ nậy cửa gian hàng tạp phẩm. Nhiều đồng nghiệp tôi thuộc chi nhánh CIA đến, lấy lại, đem về phòng Polgar rượu, pho mát.
Trước 11 giờ, tôi đi thang máy xuống dưới nhà. Chật ních gia đình người Mỹ và người Việt Nam. Như trên cầu tàu hạng ba của một con tàu chở người hạng nhì. Có những người quay phim vô tuyến truyền hình, sắc trên lưng, đi đi lại lại; viên chức CIA cố tránh để khỏi bị quay. Hai phóng viên báo New York ngồi trên một hòm lớn đặt trong góc nhà trông thấy tôi và gọi nhưng tôi quay lưng đi, tảng lờ như không nghe thấy. Họ làm tôi nhớ tới những con chó rừng khi chúng ngửi thấy mùi thịt thối. Tôi không còn muốn làm vừa lòng sự tò mò của nhà báo nữa. Còn thủ trưởng kiên cường của tôi, ông Polgar, bắt đầu tỏ ra mệt mỏi. Không phải vì sợ, vì căng thẳng mà ông không còn giữ lại được vẻ bình thường, mà là vì ông quá tin vào luận điểm hòa bình thương lượng mà ông luôn giữ trong mấy tuần qua, nay rõ ràng đã thất bại.
Polgar là một trong những ủy viên hiếm có của đoàn ngoại giao đã được Việt Nam hóa trong nhiệm kỳ của tôi. Ông có quan hệ với người Việt Nam thuộc đủ loại, thân thiết riêng với nhiều người mà nghề nghiệp ông đòi hỏi. Trong lúc buổi sáng sắp qua, trật tự cũ đã đảo lộn chung quanh ông. Polgar thấy lòng mình bị dày vò, xé nát vì sự gắn bó, cảm tình đã mất cũng như những kỷ niệm về một lỗi lầm. Từng giờ một, tôi thấy ông sút hẳn. Con người nhỏ bé cứng rắn mà tôi quen biết nay trở thành một người không thể nhận ra được. Tôi rất xúc động, muốn giúp đỡ ông nhưng tôi biết làm việc đó không ích lợi gì.
Sau này, Polgar bảo tôi, lúc ấy, ông rơi vào một cơn mê kinh khủng. Mọi ý nghĩ của ông đều tập trung vào khoảng ba chục người bạn quen biết cũ, ông định giúp ra đi. Họ họp thành một nhóm người Việt Nam kỳ lạ và rất khác nhau: nhà chính trị, cảnh sát, nhất là bộ trưởng nội vụ mà ông rất kính trọng. Đêm trước, ông đã gọi cho họ bảo đến tập trung ở nhà ông vào 11 giờ hôm nay. Giờ hẹn sắp đến, Polgar định đi đón thì thấy mình đang bị nhốt trong sứ quán. Khi người lái xe đánh xe đến cổng sau sứ quán thì cửa đã hạ xuống. Mọi việc xảy ra rất nhanh. Ngoài đường, kẻ nào vừa ném một quả lựu đạn. Không do dự, lính gác khóa luôn cửa lại và cấm mọi xe ra vào.
Khi Polgar hiểu rõ sự tình đến xin phép người cai đi ra, thì anh này từ chối và nói: "Tôi đếch cần biết anh là ai. Polgar trở thành tù binh trong sứ quán đúng lúc bạn bè Việt Nam chờ ông, cách đó khoảng mười ngôi nhà. Polgar đứng bên hàng rào, bất lực; ông đang nhìn biển người trước mặt, chợt một tiếng quen thuộc gọi ông, gọi to và giật giọng. Đó là nguyên cố vấn an ninh của Thiệu, tướng Đặng Văn Quang vừa đến và len tới sát hàng rào. ông mặc một chiếc áo đi mưa dài, đeo kính đen, xách hai cặp rất nặng. Polgar nói dõng dạc với người cai: "Cho người này vào". Nhưng cũng phải tranh luận, người cai mới đồng ý hé cửa để Quang lách cái thân già, béo phệ của ông ta vào!
Những giờ sau, Quang đi đi lại lại trong phòng làm việc của Polgar trên lầu sáu. Ông mặc bộ quần áo màu xanh nước biển, đeo nhiều nhẫn kim cương. Quang gọi dây nói khá lâu vì trong lúc sợ hãi và vội vàng vào sứ quán, ông đã quên con cháu đang đứng bên ngoài. Quang cố cầu cứu mấy người bạn khác. Phần lớn chúng tôi ghét Quang. Thấy ông ta ngồi trong phòng, chúng tôi ra ngay. CIA đã trả ông ta nhiều tiền và đề cao ông ta nhiều năm, CIA cũng đưa ông ta lên ngồi cạnh Thiệu nhưng ông ta đã phản bội chúng tôi, không cho chúng tôi biết chiến lược của Thiệu rút khỏi Tây Nguyên, đưa quân về cố thủ.
Trong những giờ cuối cùng ở Sài Gòn này, mặc xác ông ta xoay sở. Buổi chiều, khi máy bay lên thẳng chở Quang đi, không có con ông ta, không người nào không nói: "Đáng kiếp.
Khi Polgar đi từ sân lên phòng làm việc, ông có vẻ già thêm mười tuổi. Vừa đi bách bộ, ông vừa nói: Làm gì bây giờ? Tôi hứa với những người Việt Nam ấy, đón họ ở nhà tôi. Tôi không thể để họ ở đấy. Pittman cầm tay ông, đề nghị cho máy bay lên thẳng đến đón họ. Tôi trả lời: "Không được, các cơ quan an ninh đều nói súng nổ bốn bề chung quanh ngôi nhà Polgar. Không một máy bay lên thẳng, một xe ô tô buýt nào đến được đấy vào lúc này". Tôi chợt nhớ tới ngôi nhà số 6 Quảng trường Chiến sĩ, nhà tôi ở, cách không xa biệt thự của Polgar. Tôi đề nghị cho máy bay lên thẳng đến đấy. Giải pháp đúng, Polgar gật đầu kêu lên: "Đúng, đúng. Để tôi gọi Út đưa họ đến. Tốt quá". Mấy phút sau, người lái xe của Polgar, cao 1,64 mét, lách ra khỏi sứ quán, mang theo một máy vô tuyến điện.
T.D Latz không có vẻ gì là người anh hùng. Nguyên là phi công lái U.2, anh nói giọng người Arkansas, vừa thọt, vừa đui. Râu xám ít được tỉa đâm tua tủa như bàn chải. Đại diện hãng Hàng không bên cạnh sứ quán, anh biết rõ hơn ai hết khả năng và hạn chế của máy bay lên thẳng hãng anh có. Anh là người Polgar rất cần lúc này. Cho Út đi xong, Polgar gọi Latz qua một máy phát thử. Latz đang ở trong một máy bay Huey trên bầu trời Sài Gòn, hướng dẫn cho người lái bay đến một nóc nhà đón một số người Mỹ sợ hãi. Hai mươi phút sau, máy bay lên thẳng của Latz đỗ xuống mái nhà sứ quán. Latz đi thủng thỉnh vào phòng Polgar. Ông này cầm lấy tay anh: "Này, tôi muốn anh bay đến ngôi nhà số 6, Quảng trường Chiến sĩ, đón 30 người của tôi". Latz nhìn tôi, vẻ mệt mỏi. Mấy ngày trước chúng tôi cũng nghiên cứu khả năng cho di tản trên nóc nhà tôi. Vì mái nhà hẹp, lại có nhiều kẻ bắn lén nên máy bay đỗ xuống rất khó.
Latz suy nghĩ. Tôi nói: "Nên lấy lính thủy đi bảo vệ. Trong nhà cũng còn một số người Việt Nam muốn đi". Polgar không nghe thấy hay làm như thể không nghe thấy, vỗ vào tay Latz: "Đồng ý chứ?” Latz trả lời: "Thưa ông Polgar, đồng ý nhưng tôi phải đem theo vũ khí để cho chắc chắn". Hai mươi phút sau. Latz lại lên máy bay trực thăng và bay đến ngôi nhà ở Quảng trường Chiến sĩ để đón Út và nhóm người Việt Nam. Ở gần đấy, trong nhà phụ của CIA, Jerry Locksley viên chức thường trực, không ngừng đốt giấy má. Đã hàng giờ, đồng nghiệp anh và anh cho hồ sơ lý lịch nhân viên CIA vào lò lửa. Do nhiều nguyên nhân kỳ lạ, người ta phải để đến phút cuối cùng mới đốt. Lại phải hủy những tấm phích in tên những người Việt Nam phải di tản vào ngày E nữa, tính mạng họ dễ bị uy hiếp. Những phích ấy đáng lẽ dùng để thay vào vé đi nhưng đã quên không phân phát chúng. Ném những tấm phích ấy vào lửa, Locksley có cảm giác vứt vào lãng quên tất cả những người đáng được trả công...
Dưới con mắt của giới thân cận, Graham Martin nay giống một xác chết biết đi. Da xanh, mặt nhăn nheo, ông đứng không vững. Từ ngày Hoa Thịnh Đốn ra lệnh di tản bằng máy bay lên thẳng, ông tỏ ra không còn ý chí đấu tranh nữa. Giới quân sự và đô đốc Gayler nay hoàn toàn nắm mọi công việc. Martin chỉ còn một lo lắng duy nhất: Làm thế nào di tản càng được nhiều người Việt Nam càng tốt. Nhưng phải chờ một hai giờ nữa máy bay lên thẳng của hải quân mới đến.
Từ ngày được bổ nhiệm làm đại sứ ở Sài Gòn đến nay, lần đầu tiên, ông thấy rỗi việc. Ông quyết định lợi dụng lúc này để làm việc riêng. Ông muốn quay về nhà tìm vợ. Những người bảo vệ, lính thủy mặc thường phục, ngăn ông lại. Chỉ họ đi đón bà Martin thôi, còn đại sứ không được coi thường tính mạng, đi ra ngoài đường lúc lộn xộn ấy. Martin phản dối: "Tôi là đại sứ, không muốn bị nhốt". Nhưng xe không đi được. Ngoài đường, người Việt Nam trở nên điên loạn. Martin nói: "Không sao, tôi đi bộ. Ông ra hiệu cho người bảo vệ to, khỏe rồi tiến tới cầu thang máy. Họ đi bộ về nhà đại sứ. Người đầy tớ của ông, Chinh đón ông ở cổng. Bà Martin, một phụ nữ nhỏ nhắn, dũng cảm, đã chuẩn bị hành lý và sẵn sàng. Martin bảo Chinh chuẩn bị cho ông một sắc đi đêm. Rồi ông đi chậm rãi quanh nhà, nhìn lại lần cuối cùng các phòng, các cửa...
Ngôi biệt thự này trước đây đã là chỗ ở của ba đại sứ. Nó có ma! Người ta đã định cúng ma. Nhưng lúc này có những ma thật đang ở chung quanh Martin. Tấm ảnh của tổng thống chụp cùng gia đình, tặng ông, vẫn để trên đàn dương cầm. Mọi cái ông mua sắm thu nhặt được trong 40 năm hành nghề, vẫn còn ở chỗ cũ. Trong lúc đi quanh nhà, Martin chợt chú ý đến một vật mà ông đặc biệt thích: đó là hình mẫu một ngôi chùa Trung Quốc. Ông lấy bỏ vào túi rồi đưa tay cho vợ, đi ra đường. Lính bảo vệ siết chặt hàng ngũ xung quanh họ. Còn Chinh đi sau, đeo sắc đêm. Năm phút sau, họ trở về sứ quán. Trước khi lên phòng làm việc, Martin đi qua cửa ngách sang sứ quán Pháp. Ông muốn đến thăm Mérillon nhưng đại sứ Pháp không có ở đấy, đại sứ ở phòng riêng, không muốn dính vào các chuyện. Mérillon giải thích với cộng tác viên: "Sự vắng mặt của ông ở sứ quán sẽ làm nản lòng những kẻ ăn bám và những nhân vật chính trị đến tìm nơi cư trú, như trường hợp đã xảy ra tại sứ quán Pháp ở Phnôm Pênh, ngày Campuchia sụp đổ".
Mérillon tiếp Martin trong phòng làm việc riêng. Họ bắt tay nhau, trao đổi ngắn gọn mấy câu xã giao. Martin đi vào mục đích cuộc viếng thăm: Cuộc gặp gỡ Mérillon và Minh lớn sáng nay có kết quả không? Chính phủ Cách mạng lâm thời có thả bóng hòa bình mới không? Đại sứ Pháp châm lửa cho tẩu thuốc, hít mấy hơi. Khói thuốc lá Angiêri cay xè tỏa khắp phòng. Sau cùng, ông trả lời: Không, không có gì phấn khởi đáng nói cả. Minh tiếp tục thăm đò phía bên kia còn Chính phủ Cách mạng lâm thời chưa trả lời.
Martin đăm đăm nhìn thẳng một lát rồi hạ thấp giọng, nói với đại sứ quán Pháp: Trường hợp như thế, ông có một gợi ý: để ông trực tiếp gặp đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời, ông Mérillon có thể thu xếp được không? Đại sứ Pháp đổ thuốc trong tẩu ra, gõ tẩu vào gạt tàn thuốc. ông nói ngập ngừng: Sẽ cố, nhưng chưa dám hứa. Martin nhún vai, cảm ơn và đứng dậy để đi về. Vừa đứng lên, ông vừa rút trong túi ra hình mẫu ngôi nhà chùa Trung Quốc, đặt lên bàn làm việc của Mérillon, cảm ơn đại sứ Pháp về tất cả công việc đại sứ làm vì "sự nghiệp hòa bình trong những tháng qua”!
Khi Martin trở về phòng làm việc trên lầu ba thì vợ ông đang nói chuyện với các cô thư ký về một vấn đề mà bà rất băn khoăn. Bà không muốn chút nào nhìn mặt Graham xanh nhợt như thế. Không muốn hoàn toàn. Rõ ràng ông ấy ốm, yếu. Ông ấy cần có một bữa ăn ngon và bà muốn trở về nhà nấu cho ông món ragu bò. Một cộng tác viên của Martin khéo léo an ủi bà. Một giờ sau, bà Martin lên máy bay trực thăng của hãng Hàng không Mỹ, bay đến tàu USS Denver, một con tàu của hạm đội di tản. Gần 11 giờ, tướng Timmes lại đến dinh tổng thống. Lần này ông đem bức thư trả lời của Martin đến cho Minh về việc Minh yêu cầu tất cả sĩ quan quân đội Hoa Kỳ phải rời Sài Gòn trong 24 giờ. Martin rất đồng ý, nếu việc đó có thể củng cố địa vị Minh trong cuộc mặc cả với cộng sản. Ở sở chỉ huy của ông ở Bắc Sài Gòn, tướng Văn Tiến Dũng mỗi lúc một sốt ruột. Bộ Chính trị đã báo cho ông mấy giờ trước, cố vấn Mỹ phải di tản. Thế mà, những quan sát trực tiếp của ông ở Tân Sơn Nhất vẩn gửi tin về: Phái bộ quân sự Mỹ đang tích cực hoạt độngl
Cảnh giác và khôn ngoan, tướng Dũng quyết định không để mắc lừa. Ông truyền những lệnh cụ thể cho pháo binh trên mặt trận phía Đông. Nếu đến sẫm tối, người Mỹ không đi hết thì bắt họ phải trả giá đắt về sự bịp bợm ấy! Một nhân viên tình báo cho chúng tôi biết, đúng 18 giờ, giờ Sài Gòn, quân Bắc Việt Nam sẽ nã khoảng 20.000 phát đại bác 130 ly vào dinh tổng thống, giữa Sài Gòn. 20.000 trái đạn 130 ly, điều đó có nghĩa là không những dinh tổng thống tan ra như tro bụi mà cả sứ quán Mỹ, sứ quán Pháp ở gần đấy nữa. Tôi phải đọc lại ba lần bản tin. Đến 18 giờ, tôi chạy đến phòng Polgar, vượt trước những cô thư ký, đưa cho ông bản tin. Ông đọc một lát, mắt mở to sau cặp kính dày, trả lại tôi bản tin và nói giọng khàn khàn: Đưa ngay cho đại sứ, đưa ngay. Tôi nhảy xuống lầu ba, Martin đang ở trong phòng Eva Kim. Tôi nén thở trong khi ông đọc bản tin. Nét mặt không thay đổi, nhún vai, ông trả tôi mảnh giấy, không nói một lời. Trở về lầu sáu, tôi mệt muốn đứt hơi. Tôi thuật lại cho Polgar biết. Ông bảo tôi đi tìm Timmes để ông ấy báo cho Minh lớn. Chính Minh lớn mới có thể đề nghị hoãn việc bắn phá. Mấy phút sau, Timmes đến, trao đổi rất nhanh với Polgar rồi nhắc dây nói. ông quay số. Giữa lúc ấy, Kissinger khẩn cấp gọi Martin: Không còn phương án nào nữa. Tất cả người Mỹ, kể cả nhóm xung kích 150 người và cả bản thân Martin, phải rời Sài Gòn trước khi trời tối. Rõ ràng, những tin tức mới nhận được ở Hoa Thịnh Đốn khẳng định với họ rằng người Mỹ không thể nào còn có mặt ở Sài Gòn được nữa.
Đến trưa, đại tá John Madison và bốn ủy viên trong đoàn đại biểu Mỹ trong ủy ban quân sự hỗn hợp vào sân sứ quán, chen qua đám đông. Đại úy Stuart Herrington, một sĩ quan chuyên nghiệp biết nhiều thứ tiếng và có kinh nghiệm chiến đấu, bực mình về những hành vi anh trông thấy: người ta công khai ăn cắp rượu của căn tin và vui vẻ uống.
Ngoài sân sứ quán, lính thủy đẩy những chiếc xe cuối cùng của phái bộ ngoại giao qua đám đông vây ở cổng. Những người lính gác khác hạ cây me theo lệnh của Garnett, người phụ trách an ninh của sứ quán, để lấy chỗ cho máy bay lên thẳng đỗ. Sắp hết buổi sáng. Tôi cùng Pittman từ lầu ba đi xuống xem việc di tản đến đâu. Trong phòng Jacbson những bức ảnh chụp anh đứng với nhiều nhân vật Việt Nam quen biết vẫn còn treo trên tường. Jacbson vẫn mặc như thường ngày, một sơ mi kẻ sọc xanh, nói dấm dẳn điện thoại với mấy kiểm soát viên máy bay của phái bộ quân sự. Khi Jacbson ngừng nói, Pittman hỏi: Theo ý anh, cuộc di tản mất bao lâu? Jacbson lắc đầu; Tôi không biết. Anh đi hỏi Lehmann. Chắc anh ta biết?
Lehmann bình tĩnh lạ kỳ trong bộ quần áo vải xanh xám, cũng không biết gì hơn. Anh bảo chúng tôi: Sao không lên lầu bốn mà hỏi những người phụ trách việc di tản? Tôi trả lời: “Thưa ông Lehmann, không còn trung tâm di tản trên lầu bốn nữa. Bộ phận nào lo di tản cho bộ phận ấy". Pittman ngắt lời: "Nghe đây, chúng ta phải hỏi xem còn bao nhiêu thì giờ nữa. Ít nhất phải mất ba tiếng để phá hủy các máy móc điện đài. Và nếu cuộc di tản diễn ra thì ta phải đi ngay. Lehmann phản đối lại: "Tôi không biết gì nữa. Có thể còn một nghìn, hai nghìn, có thể là mười nghìn người Mỹ cần di tản nữa. Các anh hãy đi làm việc của các anh”. Rồi Lehmann xua chúng tôi ra khỏi phòng.
Tại Nhà Trắng ở Hoa Thịnh Đốn, lúc ấy đã gần nửa đêm. Tổng thống Ford, mệt mỏi và căng thẳng sau một ngày lo nghĩ dài, đã lên giường nằm. Ông sắp uống như thường lệ, một ly ba-bơ nóng đặt trên bàn.
Dưới nhà, Kissinger tiếp tục đọc tin mặt trận. Theo báo cáo mới nhất của chỗ tướng Smith thì quân đội Sài Gòn đã sụp đổ và bộ chỉ huy không còn. Thực tế, trụ sở bộ tổng tham mưu liên quân, ở gần Tân Sơn Nhất, gần như bỏ trống hoàn toàn. Tướng Kỳ một mình, đi tìm tướng Khuyên, nguyên tham mưu trưởng. Sáng nay, Kỳ đã cho vợ con đi khỏi Sài Gòn, và ông muốn lấy một máy bay đi ném bom lần cuối cùng quân thù (sau này Kỳ mới nói lại như thế). Khuyên biến mất. Ở bộ tham mưu không quân người ta trả lời Kỳ, mọi người đã đến phái bộ quân sự. Lúc ấy, tướng Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh Quân khu I, nay là một con người suy sụp và cay đắng, đang ở phòng tác chiến. Ông thở dài: "Tôi chẳng còn biết làm gì nữa". Kỳ cúi đầu, đặt tay lên vai Trưởng: "Đến chỗ tôi". Họ ra khỏi ngôi nhà, lên máy bay trực thăng riêng của Kỳ, bay tới tàu USS Midway, trên biển Đông. Ở phái bộ quân sự, một chỉ huy cao cấp của quân đội Nam Việt Nam đến thăm tướng Smith lần cuối cùng. Đứng trước người Mỹ, ông ta ăn mặc rất chỉnh tề, ngực đeo đầy huân chương. Đó là tướng Phạm Văn Phú, người đầu hàng không chiến đấu ở Tây Nguyên, viên tướng bỏ mặc quân lính tan rã. Ông ta chào trịnh trọng, thong thả tướng Smith, dậm gót chân rồi quay ra. Ông ta đề nghị Smith giúp một phần gia đình ông ta di tản, nhưng không nói gì đến ông ta. Một lát sau, Phú bắn vào đầu tự tử. Ở Dinh Độc Lập, tổng thống Minh buồn rầu nhìn người chiến sĩ già, Đô đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng hải quân, bắt tay ông ta lần cuối cùng, Thủy đến đề nghị Minh rời thành phố xuống tàu đi cùng với nhiều người khác ở cảng. Nhưng Minh từ chối, ra lệnh cho Thủy cố cứu lấy mình và những sĩ quan chỉ huy khác của hải quân, Thủy cúi đầu, sửa lại áo, chào vị tổng tư lệnh.
BUỔI CHIỀU
Đô đốc Donald Whitmire như một trái núi. To khỏe, bụng phệ dưới quân hàm của hải quân và khóa thắt lưng, ông giống một hậu vệ bóng đá về già hơn là tư lệnh một đơn vị trên biển sẵn sàng can thiệp trước một cuộc chiến tranh. Mặc dù bề ngoài như thế nhưng ông ta đã tận tụy hoàn thành nhiệm vụ hết mức xuất sắc và khéo léo, nâng cao uy tín của quân chủng. ông đã cứu nhiều người Việt Nam được Mỹ cho di tản trên biển, tập hợp máy bay, tàu bè, giữ vững kỷ luật trong những tình huống rất khó khăn. Đối với cấp dưới trong lực lượng can thiệp 76, ông nêu gương là một con gấu biển tài ba.
Tuy nhiên, sáng 29 tháng 4, ông đã thất bại. Mấy giờ trước, ông tưởng chiến dịch "Gió lớn" chưa bắt đầu vì nó chỉ được thực hiện khi những hoạt động chính trị không ăn thua gì. Do đó, lúc 10 giờ 51 phút, khi tổng thống bật đèn xanh cho việc mở cầu hàng không bằng máy bay lên thẳng, Whitmire và đơn vị ông chưa sẵn sàng. Không thể nào cho máy bay đi nếu không kiểm tra cẩn thận từng chiếc một mà đơn vị ông có tới 81 chiếc: Lại còn phải lấy thêm lính thủy về xin máy bay tiêm kích ở Thái can. Biết rõ lúc nào chiến dịch bắt đầu cũng là điều quan trọng.
Thế mà việc thông tin liên lạc giữa Hoa Thịnh Đốn và lực lượng can thiệp khá rối ren. Kissinger nói với Martin: cuộc di tản bắt đầu lúc 11 giờ 51 phút, một giờ sau lệnh của tổng thống, nhưng đó là giờ Hoa Thịnh Đốn, Greenwich hay giờ Sài Gòn? Không ai trong hạm đội biết rõ. Hậu quả: đến trưa, không một máy bay lên thẳng quân sự nào bay đi Sài Gòn. Martin gọi trực tiếp cho Gayler đề nghị giải thích. Mười lăm phút sau, lính thủy của lực lượng can thiệp được lệnh bay. Đến 12 giờ 30 phút, một phi đoàn gồm 36 máy bay lên thẳng đầu tiên rời cầu tàu USS Hancoch, có nhiều máy bay Cobra vũ trang hộ vệ. Một phút sau, những máy bay tiêm kích phản lực Phantom từ các căn cứ ở Thái Lan bay tới bầu trời Việt Nam yểm hộ thêm. Một giờ rưỡi trôi qua kể từ lúc tổng thống bật đèn xanh cho chiến dịch "Gió lớn". Thời hạn không dài như thế nếu không có những rắc rối khác. Sợ phản ứng của cộng sản nên Lầu Năm Góc ra lệnh cho tàu bè đậu cách bờ biển hơn 12 hải lý, bên trong là hải quân Nam Việt Nam. Như thế bay tới Sài Gòn phải lâu thêm 40 phút. Đến phút chót, Whitmire còn xin thêm một thời hạn để hoàn thành việc chuẩn bị. Đoàn máy bay lên thẳng đầu tiên bay đi ông còn ra lệnh hoãn đến 14 giờ mới cho người xuống!
Ở sứ quán Sài Gòn, phần lớn chúng tôi không biết chiến dịch "Gió lớn" đã bắt đầu và gặp một số khó khăn. Martin và cộng tác viên chính của ông quá lo việc đưa người tị nạn về nơi tập kết thêm quên không phổ biến cho chúng tôi. Còn riêng tôi, tôi vẫn phải theo dõi những tin tức gửi đến và nhận được qua vô tuyến điện. Tôi tập trung tư tưởng để đọc, hy vọng khám phá được lệnh tạm ngừng bắn đại bác của cộng sản. Nhưng tôi đã phí thì giờ. Điện gửi tới chỉ nói về sự tan vỡ dần dần của phòng tuyến bên ngoài thành phố. Quá trưa, một nguồn tin chắc chắn công nhận hai sư đoàn Bắc Việt Nam đã chiếm tỉnh Tây Ninh, bao vây và tóm gọn sở chỉ huy sư đoàn 25 Nam Việt Nam ở Củ Chi. Trên các mặt trận khác, quân chính phủ rút lui như đàn cua trước nước lên. Chỉ có ở phía Tây Nam, một vài đơn vị tiếp tục kháng cự một cách yếu ớt. Hai trung đoàn thuộc sư đoàn 22, hồi trước bị tan rã ở Quân khu II, nay được tập hợp, bổ sung và tổ chức lại, đang ở phía Nam ngoại vi Sài Gòn.
Tướng Timmes đang nặn óc tìm ý nghĩa một bài diễn văn do đài phát thanh Sài Gòn vừa phát. Đó là lời kêu gọi của thủ tướng mới Vũ Văn Mẫu đòi tất cả người Mỹ rời Sài Gòn ngay lập tức. Cách đây chưa được một giờ, tổng thống Minh chỉ nói với Timmes về việc phái bộ Mỹ ra đi, nay thì rõ ràng ông muốn tống cổ tất cả chúng tôi đi để vừa lòng cộng sản.
Timmes vội chạy tới buồng Polgar, báo cho ông biết sự thay đổi ấy nhưng không ở lại được quá hai phút vì trùm CIA Sài Gòn đang lo công việc riêng. 12 giờ 30 phút, Út, người lái xe nhỏ bé, can đảm của Polgar cho ông biết bằng vô tuyến điện, anh đã tới ngôi nhà số 6 Quảng trường Chiến Sĩ. Có một máy bay lên thẳng trên mái nhà, anh nhìn thấy rõ. Nhưng không vào được nhà vì cổng sắt khóa kỹ, có tới ba trăm người đang chờ. Nếu mở khóa, họ sẽ tràn vào. Pogar nhìn đài vô tuyến điện, chớp mắt như cố nín khóc. Ông trở về phòng làm việc, lấy mốt chai cô nhắc, tu một hơi. Nhiều sĩ quan ngồi ở phòng ngoài bắt chước ông, người uống Scotch, người uống cô nhắc, hai thứ rượu thường chỉ uống vào lúc vui ở bộ phận phân loại người tị nạn, chỉ còn Don Hays, hai người Úc và một đại tá không quân làm việc.
Giữa trưa, trời nắng chang chang. Không một bóng cây. Không gian óng ánh. Hays móc túi lấy khăn trùm lên đầu. Người Việt Nam đứng chung quanh mồ hôi nhễ nhại đòi uống nước. Bể đã cạn. Bọn lưu manh phá hàng rào vào ăn cắp mọi thứ còn lại. Mờ mịt chẳng thấy máy bay lên thắng đâu! Chợt ở phía nhà phụ, tiếng súng M-16 nổ. Hays nhào người ra phía sau một thùng sắt. Người Việt Nam sợ hãi chạy nhốn nháo chung quanh. Họ kêu át cả tiếng súng. Hays chợt liếc mắt trông thấy hai sĩ quan không quân Mỹ, cầm súng chạy lên gác. Đúng lúc họ chĩa súng lên mái nhà thì nhiều phát đạn trượt qua khuỷu tay Hays. Anh chúi mặt vào cánh tay. Khi anh ngẩng lên thì một lính Nam Việt Nam, kẻ bắn lén, rơi từ mái nhà xuống, bị thương nặng. Khẩu M-16 của anh rơi liền theo. Hays vớ lấy một cái loa, loạng choạng, đứng dậy. Anh hô hào bằng tiếng Việt Nam: "Bình tĩnh! Bà con hãy bình tĩnh! Không việc gì. Người Mỹ không bỏ bà con, tôi không bỏ bà con!
Ở đằng kia thành phố, một đồng nghiệp tôi, Harvey Mitchell gặp khó khăn, một giờ trưa, anh ngậm thuốc lá, đi ra, đi vào khách sạn Duc, chờ đoàn xe ô tô buýt hoặc một xe của sứ quán. Lần thứ sáu, thứ bảy gì đó, anh không gặp may. Anh vừa đặt chân lên hè thì ở bên kia đường Pasteur, lực lượng an ninh chính phủ bắn hàng tràng đạn M-16. Anh chạy vội tới cổng, ra lệnh cho lính Nùng đóng kín cổng lại.
Từ sáng đến giờ, khách sạn Duc nóng lòng sốt ruột. Sáng sớm, mọi người đã đến sứ quán trừ 13 nhân viên CIA làm việc ở đấy. Nhưng mấy giờ qua, người Việt Nam tràn vào khách sạn. Phần lớn là chiêu đãi viên, bồi bếp, nhân viên văn phòng làm việc ở khách sạn từ lâu. Mitchell, bực mình, đã cho đóng cửa khách sạn từ nửa buổi để hạn chế dòng người vào. Nhưng thỉnh thoảng anh hoặc đồng nghiệp lại mủi lòng, ra mở cửa cho mấy người bạn hay người quen biết, hoặc đồng nghiệp. Cho nên, đến nay đã có hơn một trăm người ở rải rác khắp sáu tầng lầu khách sạn, thế mà ô tô buýt của sứ quán hoặc phái bộ quân sự không hề đến. Có một máy bay Huey của không quân Mỹ đã đỗ xuống sân gần bể bơi trên nóc khách sạn nhưng không một người Việt Nam nào được đi. Sân thượng đằng trước chỉ để cho máy bay nhỏ đỗ nên Mitchell dành chuyến ấy cho người Mỹ đang ở trong khách sạn, trong đó có anh. Còn những người Việt Nam đi di tản bằng xe ô tô buýt.
Robert Kantor, nhân viên hành chính của Polgar vừa vào phòng thông tin thì Mitchell gọi về. Lúc đó là 13 giờ 30 phút. Mitchell lại xin xe, Kantor, người miền Nam nước Mỹ, bình tĩnh, tóc hung, cuộn làn sóng, hứa sẽ cho một đoàn xe tới. Polgar vào, hỏi, giọng mệt mỏi: "Anh có được tin Út không?” Kantor trả lời: không, rồi anh trình bày tình hình ở khách sạn Duc. Polgar lơ đãng nghe, vội vàng hỏi vài câu bâng quơ, nhún vai, rồi đi ra.
Polgar đi tới giữa sân, một người phụ trách hậu cần túm tay áo ông hỏi: "Tôi có hai trăm rưỡi người Việt Nam giúp việc. Họ ở cả trong ngôi nhà của cơ quan. Làm thế nào để đón được họ?" Polgar tiếp tục đi, phủi tay, thét lên: "Không biết, tôi không có thì giờ lo việc ấy!". Cũng như bao nhiêu người khác, hai trăm người Việt Nam này cũng bị bỏ rơi. Trên mái nhà số 6 Quảng trường Chiến sĩ, T.D. Latz lại xem giờ. Cùng với viên phi công, anh đợi Út và 30 người Việt Nam quen thân của Polgar. Nửa giờ sau, Latz sốt ruột. Một phút trên mái nhà này là một phút mất toi, với thì giờ mất đi, cứu được bao nhiêu người Mỹ và Việt Nam!
Kantor đang cúi xuống micro thì một đồng nghiệp cũ chạy hộc tốc vào phòng kêu lên: dưới kia có vấn đề nan giải. Đại sứ chờ đến phút cuối cùng mới ra lệnh đốt điện mật. Hơn một tấn giấy xé vụn đang nằm ở lầu bốn. Đốt ở đây có thể gây cháy nhà! Kantor giơ tay lên, vẻ thất vọng:; "Nếu xảy ra cháy, anh đích thị là thủ phạm, nhưng anh phải đốt những bức điện mật đi. Người này cùng với 12 đồng nghiệp mất 2 giờ sau đó, thu dọn những mảnh giấy vụn, cho vào bao, đưa xuống sân, xếp dọc căn tin của người Việt Nam. Họ quên không đốt. Mấy giờ sau, máy bay lên thẳng tới. Gió cánh quạt xé rách bao, thổi tung giấy ra ngoài. Khắp sân, đều có chữ mật mã: cả một đoạn tin tối mật của sứ quán gửi đi, còn có thể đọc được.
Máy bay cất cánh, những mảnh giấy ấy lại bay lên cây, sa xuống bụi bám vào tóc những phụ nữ Việt Nam giàu có đang đợi di tản. 13 giờ 50 phút, giờ Sài Gòn, đoàn máy bay lên thẳng đầu tiên của lực lượng can thiệp 76 từ Biên Hòa bay đến, định đỗ xuống Tân Sơn Nhất. Còn mười phút nữa thì xuống. Trong chiếc đi đầu, tướng Richard Carey, tư lệnh lực lượng an ninh Hải quân, kiểm tra lại máy móc lần cuối cùng.
Trên hạm đội di tản, đô đốc Whitmire tiếp tục tự hỏi về giờ giấc. Việc chuẩn bị cho đoàn máy bay thứ hai kéo dài. Đoàn trưởng không chắc 40 máy bay đang ở trên cầu tàu có thể bay tới Sài Gòn vào giờ sau không. Lập tức, đô đốc thảo một báo cáo nói rõ kế hoạch triển khai chiến dịch "Gió lớn" cần có thời hạn hai giờ để huy động lực lượng an ninh dưới đất, có đủ số máy bay lên thẳng cần thiết và tập hợp máy bay bảo vệ. Sau khi cân nhắc những yếu tố ấy, Whitmire mới có quyết định chính thức: chiến dịch được lùi lại: 15 giờ, đoàn máy bay lên thẳng thứ hai sẽ bay. Lùi vì việc này, lùi vì cái khác, thì giờ qua đi rất nhanh, phi công phải mở hết tốc lực. Trời sắp tối, quân Bắc Việt Nam đang sốt ruột. Một cơn giông từ biển tràn vào Sài Gòn. Mặt trời càng xuống, hoảng loạn càng tăng. Phái bộ quân sự không nắm rõ số người di tản.
Ở Hoa Thịnh Đơn, Kissinger cáu kỉnh liên tục vì sự chậm chạp. Ở sứ quán, Polgar mỗi lúc một rũ xuống. Đi bách bộ trong phòng làm việc, ông mấp máy môi tự hỏi: Út và 30 người Việt Nam ở đâu? Hay vẫn là tù binh của đám đông ở ngoài và đang chờ lệnh mới? Pittman châm một điếu thuốc mới: có một sân thượng nhỏ trên mái nhà tôi ở đường Gia Long. Máy bay lên thắng không đỗ xuống được nhưng nó có thể bay tại chỗ trên ấy để Út và bạn bè trèo lên. Nét mặt Polar giãn ra. Ông liền ra lệnh ngay: Tìm Latz. Gọi Út bằng vô tuyến điện, bảo họ đến đường Gia Long. Latz lái ngay máy bay đến nơi hẹn, mái nhà Pittman. Buổi chiều, một nhiếp ảnh đã chụp được bằng ống kính tầm xa một bức ảnh những người Việt Nam trèo thang lên mái nhà để lên máy bay trực thăng. Trong số những người trèo này có cựu bộ trưởng quốc phòng Sài Gòn Trần Văn Đôn: Bức ảnh được hàng nghìn tờ báo trên thế giới in lại, trở thành biểu tượng cho ngày sóng gió ấy.
Ở sứ quán đang khẩn trương chuẩn bị để đón những máy bay lên thẳng đầu tiên. Không phải là không có va chạm giữa những người phụ trách chính. 14 giờ 30 phút, Rober Kantor bắt đầu mất cả điềm tĩnh vì tình hình ở khách sạn Duc. Những phố chung quanh đầy người không một xe nào có thể chạy trên quãng đường ngắn đến sứ quán. Harvey Mitchell vừa loan báo lính Nam Việt Nam đóng bên kia đường bắn vào người qua lại. Những người Mỹ đứng với anh, bắt đầu sợ hãi. "Phải cho máy bay lên thẳng đến để đưa họ đã. Kantor vừa nói xong thì Polgar vào hỏi tin tức về Út. Kantor không trả lời chỉ hỏi lại Polgar cách cứu người ở khách sạn Duc.
Polgar nói:
- Đưa họ ra vậy.
- Đưa người Mỹ à?
- Đúng, chỉ đưa những người Mỹ ra thôi!
Nghe thấy cuộc trao đổi ấy, tôi ớn người. Rõ ràng Polgar vừa ra lệnh bỏ rơi hàng trăm người Việt Nam ở khách sạn Duc. Lúc những người Mỹ cuối cùng rời khách sạn Duc thì Lacy Wright và Joe Mc Briđe đưa được đoàn người thứ năm ra cảng: T.D. Latz đã cho một số người lên máy bay trực thăng đang bay đứng trên mái nhà Pittman; đoàn xe ô tô buýt của Moorefield tiếp tục chạy trong thành phố. Đoàn xe dừng trước một ngôi nhà chung quanh có cây, gần sứ quán, ở đấy Shep Lowman chờ nhân vật cao cấp thứ một nghìn anh gọi sáng nay. Lowman đề nghị Moorefield cho mấy người Việt Nam đi xe, anh nói. "tôi xin xe mấy giờ rồi mà không có. anh giúp họ". Moorefield lắc đầu: "Tôi không chở thêm một ai nữa, quá tải rồi Anh mở máy.
Phần lớn những nhà báo Mỹ và nước ngoài đều tập kết ở một nơi giữa thành phố. Robert Shapler đã viết phóng sự về Đông Dương 20 năm nay, nửa khóc, nửa cười. Vội vàng thu xếp hành lý, rời khách sạn Continental, anh đi vội vàng đến mức làm hỏng cả dây khóa quần! Một số nhà báo nhất định ở lại. Trưởng phòng phóng viên AP làm ra vẻ quyết tâm ra đi để mong đánh lừa người đồng nghiệp UPI, nhờ đó AP có thể độc quyền tin tức. Nhưng mưu mô của AP không ăn thua gì vì UPI không đi được, phải ở lại. Do đó sau này cả phóng viên hai hãng tin này đều được chứng kiến chiến thắng của cộng sản.
Ba giờ sáng, Hoa Thịnh Đốn, Lawreinee Eagleburger, cố vấn đặc biệt của Kissinger báo cho bộ trưởng ngoại giao biết, máy bay lên thẳng bắt đầu đỗ xuống Sài Gòn, "Gió lớn” hay phương án IV được thực hiện. Trong sân trong của phái bộ quân sự, lính thủy Mỹ vũ trang đến rận răng, triển khai theo hình cánh quạt, những kỵ mã biển, những máy bay lên thẳng CH-40 và CH-53, lần lượt đỗ xuống. Máy bay đậu ở ba nơi: sân ném bóng, sân quần vợt và sân trước nhà phụ. Dòng người di tản nhanh chóng xếp hàng dọc mỗi sân. Don Hays muốn vỗ tay khi máy bay đỗ xuống sân nhà phụ. Đối với anh và ba nghìn người Việt Nam, lính thủy Mỹ đến đúng lúc vì bọn lính dù Việt Nam đã đục tường để chui vào trong. Nếu không có lính thủy, chúng sẽ tràn vào tất cả các ngôi nhà.
Một hạ sĩ quan hải quân khỏe như vâm chỉ vào những người mặc áo dân thường, hỏi Hays: Họ là những người này?
-Những người tị nạn hợp lệ.
Người hạ sĩ quan gật đầu ra lệnh cho lính xếp những người tị nạn thành hàng, mỗi hàng, 60 người. Anh còn khuyên Hays nên đi. Hays nói giọng buồn buồn: "Chưa đi được, tôi đã hứa với những người Việt Nam này ở lại, cho đến khi người cuối cùng lên máy bay
15 giờ 12 phút giờ Sài Gòn, một máy bay không lồ CH-53 bay lên bầu trời từ phái bộ quân sự theo xa lộ Sài Gòn - Vũng Tàu ra hạm đội di tản. Một máy bay khác chở lính thủy bay về sứ quán đón một số người Việt Nam và nhà báo. Polgar vội vàng đến một cửa sổ trên lầu sáu, áp mặt vào kính mờ đi nói nhỏ: "Cảm ơn trời, chúng ta may mắn rồi!"
Sự lạc quan của ông quá sớm. Cuộc di tản phải ngừng một giờ rưỡi để chờ lính thủy đến bổ sung cho nhóm 48 người cũ. Trên tầng ba, Martin đi lại trong phòng riêng đọc lại những hồ sơ mới nhất và những điện quan trọng rồi xếp vào sơ mi dày.
Trước đó lúc 14 giờ 30 phút, ông đã tắm. Ông đang mặc quần thì máy bay lên thẳng hạ xuống phái bộ quân sự. Eva Kim bất ngờ vào phòng làm việc của Martin. Hoảng sợ, cô suýt ngất đi: trước mặt cô, vị đại sứ cuối cùng của Hoa Kỳ ở nước Việt Nam Cộng hòa, chỉ mới mặc quần, mà quần lại chưa cài khuya. Làm ra vẻ mải đọc, đại sứ không nói gì, không hề cử động!
Mấy phút sau, Martin mặc quần áo chỉnh tề, thắt cravate, vào buồng thư ký, giao hồ sơ, dặn cẩn thận: "Phải giữ như giữ con người của mình, đưa đi di tản vì hồ sơ chứa đựng những tin tức mới trao đổi với Kissinger, để làm tư liệu lịch sử sau này".
Martin có lính thủy hộ vệ, trở về nhà “lấy cái này”. Đó là một con chó nhỏ đen tuyền. Nhưng khi trở lại sứ quán, ông không vào được vì quá đông người trước cổng. Ông phải vào sứ quán Pháp để đi qua cửa ngách. Đại sứ Pháp vẫn ngồi ở trong phòng riêng không có gì đáng nói với Martin. Đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời ở Tân Sơn Nhất không đồng ý gặp đại sứ Mỹ. Tổng thống Minh cử bốn người đến đề nghị giải pháp thương lương - một hội nghị hòa bình gì đó ở Sài Gòn để bàn vấn đề quân sự, một hội nghị khác ở Paris bàn vấn đề chính trị - nhưng Chính phủ Cách mạng lâm thời chưa trả lời được. Martin nhún vai. Có lẽ muộn quá rồi. Cộng sản muốn chiến thắng hoàn toàn. Sau khi cảm ơn Mérillon một lần nữa về sự giúp đỡ của ông, Martin ra sân, đi tới bức tường chung của hai sứ quán, gõ ba lần vào cửa ngách, cửa mở, ông đi về phòng mình.
Chỉ có lần này, Jean Marie Mérillon không lầm về ý đồ của cộng sản: những đề nghị mới của Minh chẳng hề làm Chính phủ Cách mạng quan tâm. Họ đón tiếp lịch sự 4 sứ giả của Minh, mời những người này ăn chuối do họ trồng trong vườn chứ không thảo luận. Sứ giả của Minh bất đắc dĩ phải nhận lời. Sau một giờ nói chuyện tào lao, họ đứng dậy xin kiếu về, đại diện cộng sản mỉm cười...
Ở sứ quán, người nào cũng cố giúp bạn bè, người quen đi ra cảng, xuống tàu bè, sà lan nhưng chỉ có sáu nghìn người tị nạn đi được và tàu bè chỉ chở hết nửa số người. Giữa những viên chức và khách khứa mệt mỏi, Polgar quay cuồng trong phòng làm việc như một con cá sấu bị nhốt trong chuồng. Út bây giờ ở đâu? Sao không có nhiều máy bay trực thăng đến sứ quán? Không có tin gì ở dinh tổng thống? Ông tự đặt cho mình những câu hỏi trên - mà ông không thể trả lời được - hình như ông muốn quên đi, hay là muốn cho chúng tôi quên đi, những cảnh đáng buồn trong ngày. Howard Archer, nguyên trùm CIA ở Quân khu II báo tôi sẽ đi chuyến bay tới. Anh không muốn sống lại những giờ cuối cùng trong cuộc di tản ở Nha Trang.
Trước 16 giờ, Moorefield chấm dứt việc đi tập hợp người tị nạn ở trung tâm thành phố, cho đoàn xe ô tô buýt vào để trong vườn ở bên kia đường trước sứ quán. Anh khuyên người tị nạn trên xe vào sứ quán bằng cửa bên hoặc trèo tường mà vào vì hàng nghìn người Việt Nam khác đang tập trung trước cửa sứ quán. Keyes Beech, nhà báo làm việc ở Sài Gòn từ lâu, cũng ở trong đám người tị nạn này, anh gọi tôi giúp anh vào sứ quán. - Cố chen tới cửa, rồi tôi sẽ liệu. Sau này, anh kể: "Ngập vào đám người nhốn nháo này, tụi mình không còn là nhà báo nữa mà là những người chiến đấu để sống. Huých tay, đá chân... cố làm sao chen được tới bức tường... Chúng tôi giống như những con súc vật. Tôi nghĩ: Nay mới hiểu người Việt Nam khổ đến mức nào! Nhưng nếu tôi vượt được qua tường rồi thì tôi trở lại là người Mỹ!
Người nào đó nắm lấy tay áo, giữ tôi lại. Tôi quay lại thấy một thanh niên Việt Nam. Anh kêu lên: "Nhận tôi làm con nuôi, cho tôi di tản, tôi sẽ giúp ông. Nếu không, ông không thể đi được, Tôi đồng ý ngay và anh ta nói thêm gì, tôi cũng không phản đối. Sao tôi lại mắc kẹt vào chuyện này? Chợt tay tôi được tự do và tôi tiến về phía bức tường. Hai lính thủy đứng trên đang xua đẩy người Việt Nam, giúp người Mỹ vào sứ quán. Một anh nhìn tôi, tôi cầu khẩn: Giúp tôi với, anh làm ơn giúp tôi! Anh lính thủy đưa tay xuống, kẻo tôi lên như kéo một đứa bé. Tôi đứng trên một mái nhà tôn lượn sóng, sặc sụa như một con cá bị vứt khỏi nước.
Trong một biệt thự ở đường Trần Cao Vân, gần sứ quán, Shop Lowman nhìn cảnh lộn xộn ngoài phố. Anh chờ tới bốn giờ rồi mà không có xe ô tô buýt đến chở một nghìn người anh tập hợp được. Những người này đã sốt ruột, anh cũng đâm cáu kỉnh và bắt đầu thất vọng. Lowman lại gọi dây nói cho Mel Chatman, ở sứ quán: "Phải, sà lan vẫn ở Khánh Hội, nhưng ô tô buýt không có. Rồi Lowman quay lại nhìn những người Việt Nam, nói thật với họ và khuyên những người muốn di tản, đi ngay Khánh Hội - Họ nhao nhao phản đối. Một người nói: "Có lẽ chúng tôi cứ chờ ở đấy, sẽ có ô tô buýt". Lowman lắc đầu. Rồi lợi dụng lúc người Việt Nam mải thảo luận với nhau, anh lẻn ra khỏi nhà, chen vào đám đông, về sứ quán.
Khi đi qua nhà anh, anh gặp ngay hai người bạn cũ: Đỗ Kiến Nhiễu, nguyên thị trưởng Sài Gòn và Nguyễn Văn Ngãi, thượng nghị sĩ. Anh mời họ cùng đến sứ quán. Hai người vui vẻ nhận lời nhưng Nhiễu xin chờ mấy phút để ông cho người đi tìm vợ đã ra cảng từ sáng sớm. Ba người ngồi nói chuyện ở phòng khách. Vừa được mấy câu thì một tiếng nổ vang làm rung chuyển ngôi nhà. Một mảnh đạn bay qua cửa sổ, cắm vào tường, phía sau thượng nghị sĩ Ngãi. Lowman hoảng: Chúng ta có nên chờ không? Hai người Việt Nam nhìn nhau, quay sang phía Lowman lắc đầu.
Không chần chừ, ba người vội chạy ra cửa. Sau này họ mới biết, bà Nhiễu gặp may, đã xuống tàu rồi. Trước cổng sứ quán Mỹ quá lộn xộn, ba người phải vào sứ quán Pháp. Lính gác Pháp, thoạt đầu đuổi họ ra vì Mérillon đã ra lệnh không cho một người tị nạn nào vào nhưng Lowman cố năn nỉ. Mấy phút sau họ đi qua cửa ngách, về sứ quán Mỹ.
17 giờ, tướng Smith gọi sứ quán hỏi số lượng người di tản. Lần đầu tiên ông nhận được câu trả lời có vẻ nghiêm chỉnh. Một cộng tác viên của Jocbson vừa đếm lại số người trong nhà, ngoài sân: từ 1.500 đến hai nghìn người. Tình hình những người này lúc đó rất nóng nẩy. Mới có ba máy bay lên thẳng đến chở người tị nạn. Phải 40 phút nữa mới có chuyến khác. Sốt ruột vì chờ đợi, dân tị nạn kêu ca, oán thán, chửi bới.
Trên lầu sáu, tôi cố không quan tâm đến những chuyện xảy ra, chăm chú nghe dây nói, đọc những bức điện, mỗi lúc một ít đi. Tôi không thể không ở chỗ làm việc. Cũng như Polgar, tôi suy sụp rất nhanh. Tôi vừa trả lời dây nói người Việt Nam cáu kỉnh thứ một trăm thì "Harry Linden", một đồng nghiệp đến tìm tôi. Đôi kính dày, gọng kim loại óng ánh mồ hôi, anh nói giọng run run: "Những người phiên dịch của chúng ta! Quên họ rồi. Họ đang đang ở ngôi nhà gần khách sạn Duc. Phải đón họ". Linden, người phiên dịch cừ khôi của CIA, cho rằng anh phải chịu trách nhiệm đối với đồng nghiệp. Hầu hết đều nói giỏi tiếng Anh, Pháp. Họ đã dịch cho chúng tôi những tài liệu quan trọng và giúp chúng tôi tuyển người. Trong số những người Việt Nam giúp việc họ là những người chắc chắn, biết nhiều về hoạt động của các nhân viên CIA và biết nhiều điệp viên. "Thế mà - Linden vừa thở, vừa nói - viên chức CIA chịu trách nhiệm an ninh của họ, đã bỏ đi trước rồi!".
Tôi đẩy Linden về phòng Polgar và nghe anh báo cáo chuyện trên. Polgar bực mình. Ông chỉ sang nhóm người viên chức đang ngồi nghỉ ở phòng trước mặt, nói chuyện tếu và uống rượu: "Lấy một người phụ trách việc này". Tôi ra kéo tay Harry, dẫn anh đến phòng dây nói: gọi cho những người phiên dịch, báo họ đến nhà Pittman. Ở đấy đã có 30 người bạn của Polgar. Sẽ có máy bay trực thăng đến đón. Phiên dịch phải chờ sau, đến lượt mới đi, tuy nhiên họ còn gặp may.
Khi anh đang nói chuyện thì tôi nghe rõ nhiều tiếng nổ, dội tới cả cầu thang trên lầu bốn. Chuyên gia thông tin đang phá hủy máy móc liên lạc với Hoa Thịnh Đốn. Họ vừa bắt đầu dùng búa và lựu đạn thì đại sứ tới. Ông nổi giận ra lệnh bằng một giọng khàn khàn: "Ngừng ngay cái trò xiếc ấy! Tôi không thể chịu được tiếng ồn.
Nhân viên CIA tiếp tục phá nhưng nhẹ nhàng hơn. Tôi ngồi ở đấy nghe Harry nói và nghe tiếng búa. Tôi tự hỏi bao lâu nữa mới kết thúc. Tôi rút trong túi bức điện, đọc lại. Đó là tin báo cho biết đến 18 giờ, cộng sản sẽ bắn phá dinh tổng thống. Tôi nhìn đồng hồ: Còn chưa đầy một giờ!
Quá 17 giờ, tướng Smith gọi dây nói cho Minh hỏi tin về cuộc tiếp xúc với Chính phủ Cách mạng, về những điều sứ giả của Minh nắm được. Cộng sản có đánh đến cùng bằng pháo binh không? Minh vẫn như trước, chẳng biết gì cả, lơ mơ hết chỗ nói. Minh trả lời: ông ta định thu xếp một việc gì đó nhưng cho đến nay, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời từ chối không thảo luận, lấy cớ họ là những người lính không phụ trách chính trị. Ông nói thêm: Tuy vậy chưa phải là hết hy vọng. Ba nhân vật trung lập vừa đến chỗ đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời, đề nghị ngừng bắn. Nghe nhắc đến tên ba người đó. Timmes hơi ngán: Luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và linh mục Chân Tín đều là những người chống lại chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Thật mỉa mai, số phận những người Mỹ cuối cùng ở Sài Gòn lại nằm trong tay họ.
Timmes biết rằng ông không còn gặp lại người bạn già Minh lớn nữa, nhưng ông không muốn một cuộc chia ly đầy nước mắt. Ông chào đơn giản: Tạm biệt! Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa hai người.
Trong hồi ký của mình, tướng Văn Tiến Dũng viết:” Vào lúc hai giờ sáng, phái đoàn quân sự của ta ở trại David trong Tân Sơn Nhất điện về Bộ Chỉ huy chiến dịch báo cáo: "Có ba người do chính quyền Sài Gòn cử đến gặp chúng tôi để thăm dò việc ngừng bắn. Đồng chí Võ Đông Giang tiếp họ và nói rõ lập trường, quan điểm của ta trong tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 26 tháng 4. Sau đó họ xin ra về. Tôi nói pháo của ta đang bắn mạnh vào sân bay, rất nguy hiểm, không nên về. Cuối cùng, cả ba người đồng ý ở lại. Hiện giờ họ đang ở trong hầm với chúng tôi".
Cuộc du thuyết của ba nhân vật trung lập là hy vọng cuối cùng của Minh. Ông quyết định không có sáng kiến chính trị gì nữa một khi ba người ở lại với phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời làm cho Minh lo lắng, không còn biết làm gì nữa. Chiều đến, những tàu kéo và sà lan cuối cùng rời cảng Khánh Hội chạy đi Vũng Tàu. Phần lớn những tàu bè này mới chở hết nửa phần. Trừ mấy tiếng súng nổ lác đác ở cửa sông, chuyến đi ra biển này bình yên như một cuộc du ngoạn đi viếng đất thánh!
Đoàn xe ô tô buýt cuối cùng của phái bộ quân sự, chở tám trăm người, vượt qua cổng chính sân bay Tân Sơn Nhất. Người ngồi trong xe đi đầu là đại úy Tonny Woods, bạn cũ của Moorefield. Chuyến xe này là chuyến xe tồi tệ nhất trong ngày. Lính gác, năm lần bắt đoàn xe quay ra, chỉ cho đoàn xe vào khi tướng Smith dọa sẽ cho không quân can thiệp. Cách đó ba kilômét, ở nơi phân loại người di tản, Don Hays tiếp tục cho người Việt Nam lên máy bay trực thăng, nhanh được chừng nào hay chừng ấy, tùy theo sức lực của anh.
17 giờ 30 phút, tướng Smith báo cho hạm đội di tản biết còn khoảng 1.300 người nữa, trong đó có đơn vị an ninh hải quân gồm 840 người. Từ sở chỉ huy ở Thái Lan, những người nhận dịch tin của đoàn quân thứ bảy không quân, tính ra phải mất ít nhất hai giờ nữa mới xong. Chập tối, trời đổi gió. Buổi chiều, trời nóng bức thế mà bây giờ, gió thổi ào ào. Trong sân sứ quán, lính thủy phải ra hiệu, hét to để hướng dẫn máy bay đỗ. Lúc không còn trông rõ nữa, họ định dùng vô tuyến điện nhưng không biết rõ làn sóng của máy bay. Phải liên tiếp hỏi phái bộ quân sự mới được thiếu tá Kean cho biết. Khi Lacy Wright vào phòng làm việc của đại sứ, anh chững lại. Theo lời anh "Trong ấy vô cùng rối ren, có khoảng 15 người đang uống rượu và nói chuyện ba hoa. Martin đang trao đổi với Mc Arthur, phóng viên báo Los Angeles Times. Chỉ có Eva Kim làm việc, một mình nghe ba, bốn dây nói. Cô vừa ngắt một đường dây, lại nhấp nháy ở đường dây khác. Wright cầm lấy máy "để tôi, ở đầu dây đằng kia tiếng nói trộn tiếng khóc thổn thức, rất khó nghe. Một nhân viên Việt Nam giúp việc ở phái bộ quân sự cho biết bọn họ suốt ngày nay ở trên một nóc nhà mà không có ai đón. Hai trăm người tất cả!
Wright mệt nhọc trả lời: “Quá muộn rồi, không có xe hoặc máy bay đêm. Chịu khó đi bộ ra cảng, may ra tàu bè còn chỗ". Yên lặng. Rồi: "Các ông để mặc chúng tôi chết ở đây à”? Wright kiên trì: "Chỉ còn cách đó thôi, đi bộ ra cảng!". “Các ông chả giúp gì chúng tôi cả. Chúng tôi chết mất!". - "Rời ngôi nhà, đi ra cảng thì sống đấy!".
Trên bãi cỏ đằng sau sứ quán. Ken Moorefield, nhân lúc hơi rỗi việc, vội ăn bữa tối. Vừa nhai xong món đậu, anh thấy một bóng người quen thuộc rẽ đám đông lao đến. Đó là một đại biểu Iran trong ủy ban quốc tế kiểm soát anh từng gặp khi làm sĩ quan liên lạc cho ủy ban mấy tháng trước đây. Ông ta không còn là một nhà ngoại giao điềm đạm, chững chạc mà Moorefield nhớ mãi. Mấy phút trước, ông lẻn vào sứ quán Pháp rồi sang sứ quán Mỹ. Với nhiều đại biểu khác trong đoàn Iran. Ông đang đứng ngoài sân giữa những người Việt Nam nóng tính. Các vị muốn được hưởng quyền ưu tiên!
Tuy biết là mình không ở cương vị phải giúp đỡ họ. Moorefield không chần chừ, nghĩ thêm: Cần đối đãi thật tử tế với những người con của hoàng đế, anh rẽ đám đông, đi tới họ, dẫn họ về phòng làm việc của Martin. Khốn khổ thay, sau đó, chúng tôi biết ngay họ sẽ làm phiền chúng tôi. Khi lén vào sứ quán Pháp, đi qua cửa ngách, họ đánh rơi mất mật mã. Cửa ngách bị đóng chặt ngay, họ không trở ra tìm mật mã được nữa. Nhân viên thông tin, giữ bí mật phát điên. Nhiệm vụ duy nhất trên đời của anh là giữ mật mã, thế mà... Việc một chính phủ khác, nhất là chính phủ Pháp, giữ lại mật mã, đối với anh ta, là không thể được! Anh rất lo trở về Téheran sẽ bị xử bắn. Đại sứ Iran trình bày sự việc với Martin. Martin gọi dây nói cho Mérillon. Chẳng ăn thua gì. Không lấy lại được mật mã. Người Iran, tay trắng, đi chuyến máy bay sau đó.
Sau vụ đánh rơi mật mã ấy, tôi muốn nghỉ một chút. Xách ghế ra sân cỏ đằng sau sứ quán, tôi ngồi ngắm cảnh chung quanh. Đã mười ngày nay, tôi mới lại được ngồi như thế. Cầu hàng không máy bay lên thẳng hoạt động đều, mặc dù gặp khó khăn: sân hẹp, CH.53 là loại máy bay trực thăng lớn, nặng, mỗi chiếc phải chở tới 70 người, mức trọng tải cao nhất. Nhiều lần, gió cuốn suýt gây ra tai nạn. Đã có một máy bay trực thăng lên được ba mét lại phải hạ xuống. Lên ba mét nữa lại phải hạ xuống lần nữa. Chúng tôi rất lo. Công suất máy có thể đưa máy bay lên được không? Tai hại biết mấy nếu một chiếc rơi, nổ trong sân sứ quán! Phi công của hải quân quả có tài. Thấy hết khó khăn ở đây, càng phục họ. Họ phải chở nặng, bay đi bay lại từ sân sứ quán, hoặc từ mái nhà ra hạm đội, cho người xuống xong lại bay vào. Chắc họ mệt vô cùng. Những người lính thủy Mỹ cũng có những cử chỉ đẹp, hành động đẹp. Sắp xếp người di tản nhanh, đưa họ lên máy bay để khỏi phải chờ lâu, điều đó có nghĩa là, bánh xe của máy bay vừa chạm đất, người tị nạn phải chạy ngay đến cửa sau. Ngoài ra còn sức gió 130 kilômét/giờ của cách quạt quay, nếu để phụ nữ hay trẻ em bị cuốn đi thì thật là nguy hiểm.
Thỉnh thoảng, một sứ giả của đại sứ, khi thì Wolf Lehmann, khi thì George hay Brunson Mc Kingsley, lại xuống giảng giải. Họ làm ra vẻ quan trọng, lúc nào cũng đeo máy vô tuyến điện, nét mặt đăm chiêu! Hình như chỉ có họ là những người chịu trách nhiệm! Thực tế, đó chỉ là những người lính ăn chơi không cần ai giúp đỡ. Có lúc Mc Arthur ra sân cỏ, nhìn qua ống nhòm. Anh vẫn tươi trẻ, không có gì mệt mỏi. Không ghi sổ, không chụp ảnh, anh chỉ quan sát. Tôi biết trên kia, ở phòng đại sứ, họ đã uống rượu thỏa thích. Ở phòng Polgar cũng vậy, uống tha hồ, mặc sức. Ở đây, sống trong những ngày qua tôi thấy ớn những bữa rượu chè.
Từ sáng đến giờ, ba bốn máy bay Nam Việt Nam đã bị súng phòng không của cộng sản bắn rơi ở ngoại ô Sài Gòn. Một giờ rưỡi trước, quân Bắc Việt Nam đã sử dụng tên lửa Sam-2, bắn vào máy bay Phantom của Mỹ, cách thành phố 16 kilômét về phía Đông Bắc. Phi công Mỹ bắn tên lửa Wild Veasels chống lại, phá hủy bệ phóng của cộng sản. Thực tế, người Mỹ đã trở lại tham chiến!
BUỔI TỐI
Trong phòng thường trực của sứ quán, kim đồng hồ sắp chỉ sáu giờ. Tôi ngồi ở bàn chị thường trực, tay cầm áo giáp. Cộng sản có nhận đúng lúc thông điệp của Timmes không? Hay chỉ mấy phút nữa, pháo binh Bắc Việt Nam lại bắn phá. Không ai trong bốn, năm viên chức CIA ở phòng bên kia biết tin sắp có oanh tạc. Họ có vẻ dửng dưng.
Đúng sáu giờ, tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển cả ngôi nhà. Tự nhiên, tôi co người lại. Mấy giây trôi qua, dài và nặng nề, tiếng vang xa dần. Polgar ở trong phòng đi ra, nhìn tôi. Buổi chiều, quá bối rối, chắc ông quên tin báo sẽ có bắn phá. Tiếng nổ vừa rồi đã nhắc ông ta. Ken Woorefleld đi qua sân cỏ sứ quán, sẵn sàng bắn bằng khẩu M.16. Anh nói: "Tôi tưởng một trái lựu đạn hay một quả bom nổ, nhưng khi ra tới cổng ra vào, tôi thấy một đoàn xe Volkswagen bốc cháy bên kia đường phố. Một người Việt Nam vớ vẩn nào đó đã đánh rơi que diêm vào bể xăng”. Tức thì Bùm!
Nhiều người bị thương, nhưng tôi chẳng muốn ra xem có bao nhiêu nạn nhân. Hai ba lính thủy ở cổng định ra cứu, tôi ngăn họ lại: "Các anh dễ làm mục tiêu cho một kẻ bắn lén nấp trong đám đông!". Trong nhà phụ của phái bộ quân sự ở Tân Sơn Nhất, người ta đang đánh nhau. Don Hays, hai người dân Mỹ và mấy lính thủy đang tập hợp một số người di tản thì lộn xộn xảy ra. Lính thủy vội vàng đối phó, đuổi được lính dù ra. Khi tướng Smith biết tin, ông ra lệnh chuyển những ngời tị nạn vào ngôi nhà chính, chắc chắn hơn.
Một đại tá hải quân báo cho Hays: Xe ô tô buýt sắp chở mấy nghìn người tị nạn đến ngôi nhà chính. Hays và hai người dân Mỹ cố tập hợp người tị nạn. Họ vừa xếp được một hàng năm mươi người thì có tiếng gọi vô tuyến điện của phái bộ quân sự: Lính dù Việt Nam lại chặn đường từ nhà phụ sang ngôi nhà chính, xe ô tô buýt không chạy được. Chỉ còn một cách: Bảo người tị nạn chạy dọc dãy nhà ở chu vi Nam nhà phụ, qua sân bóng ném, đến nơi máy bay đỗ. Nửa giờ sau, nhà phụ hết người, lính thủy về đóng ở gần sân bóng ném.
Trong ngôi nhà của phái bộ quân sự, Nelson Kief, một người sống sót từ Pleiku về, lặng lẽ phá hủy những hồ sơ mật cuối cùng. Anh vừa rút ngăn kéo còn lại ra thì thấy trước cửa sổ, có hai sĩ quan đang đổ dầu xăng vào hai phuy bằng tôn. Anh vội đứng dậy, hai sĩ quan chuồn ngay để lại hai phuy. Kief ra mở nắp một phuy. Anh suýt ngất đi. Trong phuy có hàng triệu đồng đôla giấy buộc cẩn thận. Trước đó, anh được biết tướng Smith đã ra lệnh hủy tất cả tiền mặt của phái bộ quân sự. Vào khoảng hơn ba triệu rưỡi đôla thì phải.
Tôi ngồi trong phòng đợi của Polgar đang tự hỏi xem quân Bắc Việt Nam có thôi không dùng pháo binh nữa không thì có tiếng chuông điện thoại. Ngoài phố ầm ầm, tôi không nhận ra được tiếng nói đằng kia đầu dây, mãi mới biết là Út, người lái xe của Polgar. Tôi đưa máy nói cho Harry Linden, nhờ anh nghe hộ vì Út nói tiếng Việt Nam, tiếng the thé, Linden làu bàu, nghe xong nhìn tôi "ông ta nói cầu thang ngôi nhà ở đường Gia Long đầy người, ông chưa đưa được 30 người Việt Nam quen Polgar lên mái nhà để đi máy bay. Nghe thấy thế, Polgar hét lên: "Bảo nó dẫn về sứ quán, trời ơi lâu quá, họ đến đây ta sẽ kẻo họ qua tường, bất chấp sự phản đối”. Trong khi Linden truyền lại lệnh của ông, Polgar gọi Philip Custen, Bill Johnson và mấy viên chức ngồi phòng bên. - "Đi với tôi ra ngoài kia”. Tôi đứng dậy định cùng đi thì ông lắc đầu: “Ở lại thường trực với Pittman”.
Mấy người đi, đều dắt súng và đeo dùi cui vào thắt lưng. Mỗi người buộc một băng trắng quanh đầu. Mấy phút sau, họ len vào giữa đám đông, đi ra mé cổng. Harry Linden nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến rồi anh quay lại, theo Polgar. Nửa giờ sau, họ bắt đầu kéo người Việt Nam qua tường. Mấy lính thủy bất đắc dĩ đã phải giúp họ. Đứng sát vào cổng sắt, Polgar lấy tay chỉ những người quen ông đứng giữa đám đông. Bill Johnson, ngồi trên tường, kéo phụ nữ và trẻ em. May quá, không ai bắn anh. Những người Việt Nam, bên ngoài sứ quán, chỉ tranh nhau tiến đến gần anh. Thỉnh thoảng có người bám vào chân tay anh nhưng bị nhân viên CIA hoặc lính thủy hất ra.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, Polgar chỉ đưa được mấy người Việt Nam vào sứ quán. Người lái xe can đảm của ông, Út bị mắc kẹt ở ngoài. Trong lúc đó, ở Hoa Thịnh Đốn, Kissinger gọi dây nói báo cáo với tổng thống Ford đang ở nhà riêng: "Cuộc di tản vẫn tiến hành bình thường tuy có hơi chậm hơn dự kiến".
18 giờ 30 phút, máy bay lên thẳng của không quân Mỹ đỗ xuống lần cuối cùng. Ngày hôm ấy, riêng máy bay Huey chở được mấy nghìn người trong mỗi chuyến, một máy bay khác chỉ đem đi được 12 người. Ở dinh tổng thống, Minh giận dữ đi lại trong phòng. Đoàn sứ giả đi Tân Sơn Nhất không biết sống chết thế nào. Nhiều người trong giới thân cận lại khuyên Minh đầu hàng không điều kiện. Nhưng Minh không thể làm như thế. Ông ta nói: "Đồng bào tôi sẽ khinh tôi! Tôi sẽ quyết định sau”. Ông ta muốn thành lập chính phủ để khỏi một mình chịu sự ô nhục này.
Ở sứ quán, nhiều người không chờ đi nữa. Shep Lowman rời mái nhà lúc 19 giờ cùng mấy đồng nghiệp. Joe Kingsley, bạn cũ của tôi và nhiều người khác đi cùng lúc ấy. Cả buổi chiều, anh giúp lính thủy đưa người tị nạn lên máy bay, lúc đi, anh mệt lử. Một nhà báo Mỹ đi sau cùng. Mỗi máy bay trực thăng quân sự này chở từ 60 đến 80 người, vượt quá trọng tải rất nhiều. Do đó, lính thủy không cho đưa nhiều hành lý lên, để có thêm chỗ cho người tị nạn. Nhiều phóng viên nhiếp ảnh không biết thể lệ ấy hoặc giả vờ không biết, đem cả máy móc lên. Chắc họ không quen Joe Kingsley. Lúc một người trong bọn họ đẩy một phụ nữ Việt Nam để lấy một chỗ đặt máy. Kingsley vỗ vào vai và huơ nắm đấm trước mặt anh ta rồi quẳng camera vào bụi. Làm xong việc ấy, Joe cho là đã hoàn thành nhiệm vụ nên trèo lên chiếc máy bay CH.53 đi sau.
Trên lầu ba sứ quán, trong phòng riêng của đại sứ, Lacy Wright tiếp tục giúp Eva Kim nghe dây nói, 19 giờ, một người Pháp, trốn ở sứ quán Nouvelle-téland bỏ trống, gọi đến xin giúp một số người Việt Nam và hắn di tản. Wright trả lời: “Giữ họ ở lại đấy, Quân Bắc Việt Nam tôn trọng qui tắc ngoại giao". Tướng Smith quyết định ở lại cho đến lúc Martin đi. Nhưng đô đốc Gayler đã ra lệnh cho Smith đi ngay. Mặc dù thế, ông thấy có trách nhiệm đối với đại sứ nên đã đổi kế hoạch.
19 giờ 15 phút, bỗng nhiên mất điện, phái bộ quân sự tối om. Sau đó tìm thấy một kẻ phá hoại Việt Nam nào đó đã mắc một sào gỗ vào dây điện dẫn đến phái bộ. Cho chạy ngay máy nổ nhưng các kỹ thuật viên thấy thiệt hại lớn hơn nhiều: đường dây liên lạc giữa phái bộ quân sự với Hoa Thịnh Đốn và thế giới bị cắt. Phải 10 phút mới nối lại được. Thấy thế, tướng Smith ra lệnh không sửa chữa nữa vì chỉ còn khoảng 30 người trong ngôi nhà.
20 giờ, giờ Sài Gòn, tướng Smith dẫn đầu đoàn người Mỹ đi ra sân quần vợt, nơi có máy bay đỗ sẵn, chờ họ. Lúc họ sắp lên máy bay thì một ô tô buýt chở người Việt Nam đến, họ đành phải nhường. 20 giờ 15 phút họ mới đi được. Trong bọn họ có Hays mệt bã người. Khi chiếc CH.53 bay lên, anh nhìn lại lần cuối cùng sân bay Tân Sơn Nhất rồi thiếp đi vì đã bốn ngày liền anh không hề chợp mắt.
Nay đến lượt tướng Carey và lực lượng an ninh lính thủy trông nom phái bộ quân sự. Họ lần lượt cho những người Việt Nam lên máy bay mỗi lúc một hiếm. Lúc chiều, khi chiếc máy bay trực thăng đầu tiên đỗ xuống sân sứ quán thì Martin ra lệnh: Việc di tản phải được tuần tự tiến hành theo phương châm ai đến trước, đi trước. Người Mỹ không được hưởng quyền ưu tiên. Nhưng tình hình đã làm đảo lộn lệnh của ông. Ai cũng muốn người thân quen của mình đi trước. Người ta cho bạn bè chí cốt lên hàng đầu. Mỗi khi có cánh hẩu, Polgar lại cho mở rộng cổng sứ quán cho vào. Martin không hề biết những hiện tượng ấy. Một viên chức sứ quán phải thốt lên: Chẳng còn kỷ luật gì nữa, mạnh ai người ấy cho đi!
Quá 21 giờ, Jim Devine đột nhập vào phòng sứ quán. Anh vừa nửa đùa, vừa ra hiệu cho đồng nghiệp ngồi trong phòng: "Đến lúc rồi, những anh bạn không cần thiết ạ! Sứ quán đã khóa cửa, tàu, sà lan đã chạy, tướng Smith đã đi, các anh còn làm gì ở đây nữa?". Lacy Wright và Don Ellerman, cố vấn kinh tế, cầm lấy cặp, tiến tới cầu thang. Theo sau họ là Alan Carter, mệt lả người mà vẫn phải bỏ lại các nhân viên của cơ quan thông tin, rồi Eva Kim, nữ thư ký riêng của Martin. Họ lên mái nhà. Lần đầu tiên trong đời, Eva mất vẻ bình tĩnh, tóc cô bị tung. Mười một năm phục vụ người Mỹ, làm thư ký riêng cho ba đại sứ trước Martin, cô biết mọi bí mật của sứ quán. Nhưng cô không phải là một phụ nữ ba hoa. Từ đầu đến cuối, cô là một cộng tác viên hoàn toàn trung thành, kín đáo và giữ kỷ luật.
Eva Kim đang tiến tới máy bay thì George Arthur, phóng viên báo Los Angerles Times đi kịp cô. Anh chàng có con gì động đậy trong tay, nó sủa lên. Anh chàng phải dỗ dành con chó đen nhỏ, giấu dưới áo: "Bình tĩnh, bình tĩnh, chỉ mấy phút thôi!". Arthur đưa con Nit Noy, con chó của đại sứ cho Eva Kim, giúp cô trèo lên ca bin. Nhà báo đã nhận che chở cho con chó của đại sứ trong chuyến đi cuối cùng này!
Máy bay CH.47 bay lên cao, lượn một vòng, lên cao nữa. Qua cửa sổ, nhìn thành phố anh hằng quen biết, Lacy Wright không hề luyến tiếc. Anh đã làm hết sức mình trong những tuần qua, đã cố gắng giúp đỡ người Việt Nam và thực hiện chính sách của Hoa Kỳ.
9 giờ 30 phút, giờ Hoa Thịnh Đốn, viên chức bộ ngoại giao, cơ quan CIA, bộ quốc phòng trong tách cà phê đầu tiên buổi sáng trước khi làm việc. Ở Nhà Trắng, Kissinger báo cáo với tổng thống Ford: Phái bộ quân sự đã hoàn thành việc di tản. Hơn 4.500 người đi bằng máy bay lên thẳng trong đó có 450 người Mỹ. Đó là một thành công rực rỡ mặc dù có mất mát. Theo một báo cáo của hải quân vừa gửi về, một máy bay CH.53 rơi xuống biển, bên cạnh đằng lái một con tàu. Không có người tị nạn trên đó nhưng phi công và người phụ lái đều mất tích. Có thể họ đã chết. Họ mệt quá nên để xảy ra tai nạn. Cầu hàng không hoạt động gần 6 giờ rồi, thời tiết quá xấu, chẳng thấy rõ mấy, lại thấm mệt nên viên phi công đã tính sai khoảng cách từ máy bay đến chỗ đỗ.
Ford hỏi Kissinger xem có nên tạm ngừng cầu hàng không cho đến sáng không. Phái bộ quân sự cũng muốn thế thì phải? Kissinger trả lời: Nên, nhưng cũng cần xem xét lại một số điều. Bắc Việt Nam bảo đảm cho máy bay trực thăng qua lại nhưng không có gì chắc chắn. Nếu tạm ngừng rồi sáng mai lại bay, họ có hiểu trệch đi không? Kissinger gọi dây nói cho Martin hỏi ý kiến nhưng đại sứ không có trong phòng làm việc. Ông ra ngoài sân đếm xem còn bao nhiêu người cần di tản. Đi qua phòng Polgar, tôi thấy Polgar đang quỳ trên một vali để cố đóng nắp. Ông nhẹ nhàng nói với tôi: "Thế là hết và tiếp tục khóa vào. Tôi định giúp ông thì ông ngăn lại. Ông đã chuẩn bị xong để rời nước này!
Tôi quay về phòng, thu gọn những bức điện mật đã bị xé thành một đống, chuẩn bị đốt thì một người quen cũ đến gặp. Đó là Moorefield mà mấy ngày ngay không có mặt ở đây. Anh vừa thoát khỏi đám đông ở ngoài cổng, trông anh giống như bức tượng một chiến binh nhỏ, tóc và mặt đầy thuốc súng, khẩu M.16 trong tay. Tôi bắt tay anh: "Mình tưởng cậu đi Tân Sơn Nhất rồi?". Anh trả lời không chút pha trò: "Mình thử lại sứ quán xem ở đây xoay sở ra sao?". Anh nhìn mỉa mai mấy đồng nghiệp đang ngồi uống rượu trên ghế tựa ngoài phòng đợi: "Họ làm gì thế, đang dự tiệc à?". Tôi kẻo anh ra cửa và nói: Đó là một cách tỏ ra mình làm việc! Tôi rất xấu hổ trước cảnh này. Ra ngoài kia, sẽ nói chuyện thêm. Tôi đang bận. Anh mỉm cười, tỏ ý hiểu, quay gót ra, khẩu súng vẫn cầm trong tay. Nhìn anh đi, tôi thấy vui vui. Morefield vẫn là một binh sĩ Mỹ chuyên nghiệp, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu.
Mấy phút sau, Polgar ngồi vào bàn máy chữ, đánh một điện cho Hoa Thịnh Đốn, ông báo tin sắp đóng cửa cơ quan và chi nhánh tình báo ở đây đã hết việc. Ông đưa bức điện xuống lầu ba để đại sứ duyệt. Khi trở lại, ông xách luôn vali, không nói một lời. Đó là dấu hiệu báo giờ khởi hành đã tới. Tôi cúi xuống gầm bàn, lấy hai chiếc cặp cất ở dưới đó. T.D.Latz bước vào, hai tay ôm hai máy vô tuyến điện vượt đại dương. Anh bảo tôi: "Mang hộ mình một cái. Bọn chúng bắt được thì uổng". Polgar đá vào một máy thu phát General Electric giá bảy trăm đôla, nói: "Đem được cái gì thì đem. Chi nhánh mất năm triệu đôla thiết bị trong mấy tháng qua rồi đấy!". Người mắc bệnh tâm thần cũng phải sửng sốt. Chúng tôi chỉ còn 12 người trong tổng số ba trăm nhân viên tình báo CIA ở Việt Nam. Tôi nhìn lại lần cuối cùng bàn làm việc của tôi. Một cuốn sách của Don Oberdorfer: "Tết”, còn nằm trên đó. Tôi định cầm lấy thì chợt nghĩ: Người đến đây ở sau cùng chắc sẽ thú vị được biết tư tưởng người Mỹ sau cuộc tổng tiến công năm 1968!
Tất cả 12 người chúng tôi xếp hàng, dọc cầu thang lên mái nhà, chung quanh xúm xít người Việt Nam. Tôi không có can đảm nhìn họ. Một lính thủy hỏi chúng tôi có vũ khí không. Nếu có phái để lại. Có nhiều tiếng phản đối khi nghe lệnh ấy nhưng không ai giữ lại súng nữa. Polgar rút khẩu súng Browing ra, ngắm nghía một lát, rồi thở dài, thất vọng: "Tôi phải ở lại, đại sứ cũng muốn ở lại một lúc nữa, chờ cho người Việt Nam ở trong ngôi nhà này đi hết mới lên đường. Tôi ở lại và cùng đi với đại sứ. Quay lại, ông nói với Pittman, người phó của ông: "Anh cũng nên ở lại". Pittman gật đầu đặt vali xuống. Polgar quay ra phía tôi: "Anh giúp bạn Việt Nam tôi lên máy bay. Tôi hỏi lại: "Ông có cần tôi ở lại không?” - Không. Sở chỉ huy đã ra lệnh, mọi người đi cả. Tôi chỉ giữ Pittman và một nhân viên thông tin ở lại để liên lạc với Hoa Thịnh Đốn.
Lần cuối cùng tôi trông thấy Polgar lúc ông đi về phòng cùng với một lính thủy, lấy một két bia Heineken. Trên mái nhà, đó là một giấc mộng. Nơi máy bay đỗ, ánh đèn yếu ớt, một máy bay CH.47 nổ động cơ om sòm. Đoàn phi hành đều đội một loại mũ lớn, qua ánh nhấp nháy của đèn hiệu máy bay, họ giống những con sâu bọ khổng lồ đứng trên chân sau. Tôi trèo lên thang, kéo mấy bạn Việt Nam của Polgar lên theo. Tướng Smith ngồi cạnh tôi và Bob Kantor, Bill Johnson ngồi trước chúng tôi, đầu vẫn đội mũ câu. Máy bay bắt đầu bay. Qua cửa hậu còn mở có một người lính ngồi cạnh khẩu liên thanh, tôi thấy rõ sân bay xa dần. Đèn ca bin tắt. Máy bay vượt qua trung tâm thành phố, theo đường Vũng Tàu, con đường quen thuộc ngày chủ nhật tôi thường đi. Máy bay vừa qua Biên Hòa, rẽ về hướng Đông, thì tôi thấy kho Long Bình nổ, một loạt nấm nhỏ nguyên tử bốc lên. Trên hệ thống đường từ Sài Gòn đi Xuân Lộc, hàng nghìn xe vận tải, xe tăng chắc là của Bắc Việt Nam, đang chạy từ từ về Biên Hòa, xe nào cũng sáng đèn. Họ bắn lên bầu trời Bà Rịa, gần Vũng Tàu ánh sáng vàng và đỏ chạy dài như trên một màn ra đa. Tôi thúc khuỷu tay vào Timmes và nói vào tai ông: "Họ bắn chúng mình!". Ông chồm dậy, mắt sáng lên: "Tôi lại nhớ trận đánh Normandie năm 1944”. Ông có nhiều chiến công ở mặt trận này. Chỉ huy một đơn vị lính dù, ông cũng đã cùng đơn vị nhảy đầu tiên vào vùng sau lưng địch. Người lính già, qua cửa sổ máy bay, nay nhớ lại cảnh oanh liệt thời xa xưa của mình.
Làn đạn bắn lên kéo dài khoảng ba, bốn phút. Rồi một tiếng nổ lớn ở bên phải máy bay. Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn nếu đúng lúc rời khỏi nước này lại bị giết hại! 22 giờ, máy bay bắt đầu xuống. Trong ca bin, nhiều người nhấp nhỏm. Họ muốn nhìn những tàu chiến. Một tàu bỗng hiện ra trước cửa hậu máy bay vẫn mở. Đèn tàu sáng trưng. Nhiều máy bay trực thăng bay chung quanh tàu. Chúng tôi tuần tự xuống, dưới ánh đèn rực rỡ. Tàu Denver đón chúng tôi như cái kén bằng kim loại bọc con tằm. Máy bay đỗ hầu như chúng tôi không thấy gì.
Mười giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn, James Schlesinger nổi giận đùng đùng, hơn lúc nào hết, việc di tản sứ quán Sài Gòn suýt nữa bị thất bại! Thời tiết trở nên rất xấu ở Vũng Tàu. Gần một nhà máy bay trực thăng đang phải sửa chữa. Phi công mệt lử. Một giờ trước, một máy bay CH.63 rơi, chứng tỏ việc chuyên chở ban đêm rất nguy hiểm. Điều khốn khổ là Martin không biết cần dành ưu tiên cho những người nào. Mấy giờ gần đây, chỉ thấy người Việt Nam được di tản, còn lại quá nhiều người Mỹ, một máy bay không thể chở hết!
Schlesinger mới đầu gọi dây nói cho Martin để tỏ rõ sự bất bình của mình. Sau đó ông gửi điện nhờ Lầu Năm Góc và vô tuyến điện của đô đốc Whitmire chuyển. Schlesinger định rõ thời hạn: Giữa đêm phải ngừng cuộc di tản. Nghĩa là chỉ còn hai giờ nữa. Sáng hôm sau, sẽ tiếp tục bay. Bây giờ, 19 máy bay lên thẳng sẽ đến sứ quán để đón tất cả người Mỹ ở đó, kế cả bản thân đại sứ. Martin trả lời một cách tiêu cực.
Sau này, đại sứ trình bày trước một ủy ban của quốc hội: "Sứ quán đầy người Việt Nam, ai cũng biết chúng tôi ra đi. Chúng tôi sợ hoảng loạn sẽ nổ ra bất cứ lúc nào. Bên ngoài hàng trăm người Việt Nam muốn xông vào sứ quán. Rất khó và rất nguy hiểm ngừng cuộc di tản đến nửa đêm, rồi lại tiếp tục ngày hôm sau”. Đại sứ cũng giải thích với Kissinger như trên trong cuộc nói chuyện bằng dây nói với Nhà Trắng. Sau này, ông nói rõ trước quốc hội: "Tôi được Hoa Thịnh Đốn chấp nhận điểm này: “Tiếp tục di tản cho đến khi không còn người Mỹ nào nữa".
Thực tế lời đề nghị của ông rất cụ thể: "Ông xin thêm 30 máy bay trực thăng để có thể chở hết mọi người. Đề nghị ấy được Hoa Thịnh Đốn chuẩn y".
23 giờ 30 phút, đại tá Gray và một nhóm lính thủy phá hủy sở chỉ huy phái bộ quân sự. Xe tăng Bắc Việt Nam đang đến gần. Không một thiết bị quân sự nào được để rơi vào tay cộng sản. Đầu tiên là hệ thống liên lạc tối mật giữa tướng Smith và Hoa Thịnh Đốn. Nhóm phá hoại đặt nhiều mìn mạnh chung quanh hệ thống. Một lính thủy kể lại: Vừa có lệnh, một tiếng nổ rung trời, ánh sáng bùng lên, không khí nóng ran, mọi cái tan tành! Mấy phút sau, đại tá Gray và lính thủy đặt bom nổ chậm và bom cháy vào các hầm nhà rồi chạy lên máy bay. Máy bay vừa cất cánh thì lửa đã bao phủ các ngôi nhà. Sức nóng rất cao, đến nỗi mái nhà vững như thép của đồn lũy chỉ huy Hoa Kỳ ở Việt Nam sụp đổ như tấm sắt tây.
Trước 12 giờ đêm, Martin mặt trắng bệch ra sân sứ quán. Cùng với mấy cộng tác viên, ông cho gọi người Mỹ vào trong nhà. Chú lính thủy vừa được tin của đài cộng sản loan báo cuộc tiến công vào Sài Gòn bắt đầu. Đúng như thế. Cách đó 8 kilômét về phía Nam, tướng Văn Tiến Dũng đã chuẩn bị xong. Trong lúc đó, Kissinger gặp các nhà báo ở bộ ngoại giao, cuộc di tản tiến hành tốt. Nếu họ muốn, ông sẽ gặp lại họ vào hồi 14 giờ. Ông sẽ báo tin tất cả người Mỹ đều đã rời Sài Gòn. Kissinger trở lại phòng tác chiến ở Nhà Trắng thì đã 0 giờ 45 phút, giờ Sài Gòn.
Người Mỹ trú trong hầm sứ quán bắt đầu nghĩ lại. Sau này, Moorefield kể: "Không ai bảo chúng tôi làm việc nhưng chỉ mấy phút, chúng tôi thấy cộng sản chưa tiến công, thì tốt hơn hết, lợi dụng lúc này, tiếp tục cho di tản”. Còn bao nhiêu người tị nạn ở sứ quán Martin cũng không biết. Để làm yên lòng hai đô đốc, ông bịa ra con số! Còn 500 người Việt Nam, 75 người Mỹ. Dựa vào hai con số đó, lực lượng can thiệp ở Thái Lan nhanh chóng cho máy bay sang. Họ tính thêm 9 máy bay CH.53 nhà thì chở hết dân thường ở sứ quán. Nghe thấy thế, Martin sợ phiền, lại vội vàng điện về Nhà Trắng, báo cáo: Sứ quán còn một nghìn người Việt Nam, gấp đôi số người mà ông dự đoán trước đó. Ngoài sân, đại tá Madison và bốn sĩ quan nữa thuộc ủy ban quân sự hỗn hợp đi qua đám đông. Đại tá Sumniers, người phó của ông, vớ lấy máy phát thanh: "Bình tĩnh, bình tĩnh. Chúng tôi ở lại đây, và sẽ đi sau bà con".
Một giờ sáng, viên chức cao cấp của sứ quán ở lại để cùng đi với Martin, không còn biết làm việc gì nữa. Sài Gòn đang hấp hối. Pittman đi tìm một thùng lạc rang bơ, mong giữ vững tinh thần mọi người. Polgar đi từ phòng này sang phòng khác. Lehmann và mấy người nữa thay nhau nghe dây nói. Lehmann chợt nghe tiếng cầu cứu của một nhóm 50 nhân viên cơ quan thông tin Mỹ do Carter bỏ lại. Cùng lúc ấy giám đốc IBM (cơ quan máy tính) ở Bangkok cũng điện và đề nghị cho nhân viên của họ di tản. Nhưng không còn có thể làm gì được nữa cho nhân viên thông tin cũng như cho người giúp việc của IBM!
Morefield kể lại: "Có lúc không hiểu vì sao tôi lại vào phòng đại sứ. Vì tò mò chăng? Một lần tôi thấy Boudrau nói chuyện bằng dây nói với một phụ nữ Việt Nam, chị này cho biết chị có hộ chiếu Mỹ và ba đứa con lai Mỹ, chị hỏi khi nào chị đến được sứ quán để di tản. Boudreau tuy biết rằng hết hy vọng rồi nhưng vẫn trả lời: Sớm mai đến. Tôi trông theo đại sứ một lúc. Tiếng khàn, ông không nói được rõ. Có vẻ rất mệt. Tôi muốn giúp ông nhưng lại thôi. Tôi đi vòng quanh sứ quán lần cuối cùng. Trong khi đó, Martin mặc dù đau yếu, vẫn cố tranh thủ thì giờ. Ở Hoa Thịnh Đơn, Kissinger nổi giận và sốt ruột, cứ nửa giờ, lại có tin tức. Có gì mới không? Tình hình bây giờ như thế nào? Mấy viên chức trẻ đứng chung quanh bắt đầu chế giễu: "Ông già Martin vừa cho di tản sáu trăm người cuối cùng của bốn trăm người di tản!".
Nhưng Martin lại xin thêm được một thời hạn: 3 giờ 45 phút, giờ Sài Gòn, chấm dứt. Không thêm một phút. Kissinger hoãn cuộc họp báo đến 17 giờ (giờ Hoa Thịnh Đốn). Ông nói với Martin qua điện thoại: tôi muốn trông thấy ông trên chuyến bay tới là chuyến bay cuối cùng. Các vị anh hùng phải trở về. Trên lầu sáu, đứng dưới nơi đỗ của máy bay lên thẳng. Tom Polgar ngồi trong phòng làm việc trong trơn, trước chiếc máy chữ cũ kỹ. Ông vừa đánh xong một bức điện gửi Hoa Thịnh Đốn, bức điện lịch sử như ông đã nhấn mạnh trong những câu đầu: "Đã nhận được lệnh của tổng thống chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 45 phút, giờ địa phương ngày 30 tháng 4”. Muốn hỏi xem có phải là thông điệp cuối cùng gửi chi nhánh Sài Gòn không?
Phải mất 20 phút mới phá hủy được máy móc ở đây. Đến 3 giờ 20 phút, giờ địa phương, chúng tôi sẽ chấm dứt việc liên lạc". Đoạn sau có một nội dung rất triết lý. Ông biết rằng ông viết đây là cho thế hệ mai sau. Nhưng cũng như nhiều bức điện trước ông gửi về Hoa Thịnh Đốn trong mấy tuần qua, những điều ông viết chỉ phản ảnh ảo tưởng của ông, chứ không nói về hoàn cảnh, về thực tế lúc bấy giờ. Nay cũng vậy, Polgar cho rằng sự bủn xỉn của quốc hội, những biện pháp nhỏ nhen nửa vời (danh từ, tính từ ông thích dùng, đã gây nên sự đổ vỡ của chế độ Sài Gòn). Ông viết: "Đó là một cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt”. Nhưng sự nghiêm trọng của thất bại vào hoàn cảnh đưa đến thất bại, buộc chúng ta phải nghiên cứu sâu sắc chính sách, biện pháp nhỏ nhen, nửa vời của chúng ta thường áp dụng trong sự can thiệp của chúng ta vào nước này mặc dù chúng ta đã ném vào đây bao nhiêu người và tiền của. Ai không học gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử. Mong rằng chúng ta không phải học thêm kinh nghiệm của một Việt Nam khác mà nhớ đời bài học này! Chấm dứt liên lạc của Sài Gòn".
Ở Hoa Thịnh Đốn, gần lúc ấy, Colby, giám đốc cục tình báo trung ương CIA, cũng gửi điện cuối cùng cho Polgar. Bức điện ấy cũng đáng ghi nhớ vì nội dung của nó. Colby viết: "Chúng ta sắp kết thúc việc thông tin với Sài Gòn. Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ niềm tự hào và sự bằng lòng của mình đối với chi nhánh về công việc các đại diện nó đã làm. Trong hai mươi năm tồn tại, chưa bao giờ sự thật nổi bật như trong mấy tuần gần đây. Dũng cảm, liêm khiết; hy sinh và năng lực cao, những đức tính mà các nhân viên chi nhánh có trong những năm qua, giờ đây đã vượt mức, nhất là trong giai đoạn cuối cùng này. Hàng nghìn người Việt Nam được cứu sống và có tương lai nhờ sự nỗ lực của các ông. Chính phủ ta, từ những báo cáo rõ rệt gửi về, đã rút ra đều bổ ích lớn. Một ngày kia, sẽ học tập một cách kính nể, thái độ của các ông trong việc bảo vệ những mục tiêu và lý tưởng của đất nước. May mắn và rất cảm ơn".
Trước ba giờ sáng, cầu hàng không ở sứ quán lại chặn lại. Sợ lính Mỹ quá mệt, Martin xin thêm sáu máy bay trực thăng lớn CH.53. Whitmire bất đắc dĩ phải đồng ý. Sáu chiếc mau chóng lần lượt bay đi trong 40 phút. Nhân viên thông tin liên lạc còn ở lại sứ quán, phá hủy những máy cuối cùng và lên lầu sáu, xếp hàng cùng với những người đang đứng đợi.
3 giờ 45 phút, kết thúc cuộc di tản, Martin đi ra sân sứ quán, nhìn nhanh đám đông, ra hiệu cho đại tá Madison: "Những người Việt Nam còn lại sẽ đi bằng máy bay CH.53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi. Cầu hàng không trên mái nhà dành riêng cho người Mỹ”.
Thông tin liên lạc từ sứ quán với thế giới đã bị cắt. Giao thiệp với bên ngoài chỉ còn có máy vô tuyến điện của lính thủy nhưng phải chờ phi công máy bay lên thẳng chuyển. Nói chuyện với hạm đội, như vậy khá chậm và phức tạp nhưng cũng thu xếp được. Do đó, những lời khiển trách của Kissinger hay Whitmire sẽ còn lâu mới đến! Madison chia những người Việt Nam ra ngoài sân thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm ngồi chờ một máy bay CH.53. Mấy phút sau, anh báo cho Lehmann ở trong phòng đại sứ biết: Thêm sáu máy bay CH.53 là vừa đủ. Hai mươi phút nữa là công việc hoàn thành.
4 giờ 20 phút, một máy bay CH.53 tới. Madison cho người Việt Nam lên, máy bay bay đi, và kíp của anh đợi chiếc máy bay sau. Nhưng, ở đằng kia cầu hàng không, Gays và Whitmire đã quyết định chấm dứt trò chơi của Martin. Các ông hiểu rằng đại sứ cứ muốn lùi dần giờ kết thúc, mỗi lần Martin đều viện cớ còn quá nhiều người Việt Nam v.v... Mà lệnh của Nhà Trắng rất rõ ràng: Cầu hàng không ngừng lúc bản thân Martin chưa được di tản!
Morefield kể lại: Lúc đó không có máy bay nào cả, ngoài sân cũng như trên mái nhà. Tôi đếm người ngoài sân: Còn hơn bốn trăm. Phải xin thêm mấy máy bay nữa mới chở hết. Lại còn mấy người Triều Tiên, người Philippines nữa. Lợi dụng lúc đáng buồn ấy tôi xuống lầu sáu. Trung tá Kean vừa nhận được tin của hạm đội Nghiêm chỉnh, ông dõng dạc tuyên bố với những người chung quanh: “Tôi vừa nhận được điện của Nhà Trắng. Tổng thống ra lệnh: Từ lúc này, nhân viên sứ quán phải di tản!... không được ồn". Ông nhắc thêm làm như chúng tôi còn sức để quấy phá. Tôi nhớ lúc ấy, tôi quay lại bảo Jay Blowers, giọng châm biếm: "Không được ồn! Chỉ những người Mỹ được di tản từ giờ này. Chúng ta không di tản ai hết!". Tôi lại lên mái nhà, đếm người dưới sân: Hơn bốn trăm người. Tôi biết chắc rằng không ai được đi nữa".
Lúc ấy, Brunson Mc Kingsley, cánh tay phải của đại sứ chưa biết quyết định của Whitmire. Anh ở ngoài sân và hứa với Medison và Summers sẽ xin thêm máy bay. Hai sĩ quan ra nói lại với đám đông.
John Pittman đang ngồi ngủ trong phòng làm việc của đại sứ. Trung tá Kean vào đánh thức anh dậy, anh chìa bức điện của Nhà Trắng ra: Tổng thống ra lệnh cho đại sứ phải đi chuyến này! Martin nhún vai, cầm vali, nói với mọi người: "Xong, ta đi" rồi tiến đến cầu thang máy. Nhiều cộng tác viên đi theo: Polgar, Pittman, Jacobson, John Bennett thuộc cơ quan AID, Joe Bennett, cố vấn chính trị và Brunson Mc Kingsley, Lehmann, Boudreau và Jim Devine chờ chuyến sau.
Moorefield kể lại: "Tôi nằm dài trên mái nhà, gần cầu thang phụ, đợi chuyến máy bay sau. Tôi thấy ồn ào trong cầu thang chính. Mặc dù đêm tối, tôi trông rõ Polgar, Mc Kingsley và đại sứ. Tôi ngồi xổm dậy và cho 28 người lên nhưng khốn khổ lại chưa có đại sứ. Mấy phút sau, máy bay đỗ xuống. Tôi báo nhóm người đi qua mái nhà để lên máy bay. Nhưng lính thuỷ và phi công cãi nhau bên tiếng rú của cánh quạt: "Nhà Trắng ra lệnh đại sứ đi chiếc máy bay này, thế mà tôi lại không mời ông lên trước, tôi dám coi thường...". Tôi liền quay lại cầu thang tìm Martin. Tôi có cảm giác ông không hiểu tôi nói gì. Ông nhìn tôi vẻ chế giễu. Cách nhìn của ông, anh biết rồi đấy. Rồi ông lắc đầu. Ông không hiểu. Ông có vẻ bực mình với tôi. Máy bay đậu tại chỗ, không chuyển động mấy phút, phi công nói chuyện với hạm đội. Sau cùng, ai đó kêu lên: "Lệnh là lệnh. Đại sứ phải lên. Mà lên ngay vì có thể quân đội Bắc Việt Nam đã ở dưới đường. Họ sẽ nổi giận và bắn chúng ta nếu họ thấy chiếc máy bay đỗ ở đây khá lâu”.
Tôi lại quay lại cầu thang và đưa đại sứ đến cửa máy bay. Khi tôi đỡ ông bước qua cửa, ông xanh sao, vàng vọt, yếu ớt kinh khủng. Máy bay bay lên, tôi quay lại cầu thang, nói với Polgar và mọi người: Sắp đến lượt các ông. Một máy bay khác tới, họ lên máy bay. Tôi ra mép mái nhà nhìn xuống sân. Đại tá Summers và Madison vẫn ở dưới đấy với những người tị nạn còn lại. Tôi nghĩ không thể nào giúp họ được nữa. Mọi việc đã xong..
Trên sân, Summers tự hỏi: Những chiếc máy bay hứa hẹn đâu? Trung tá Kean sau cùng mới cho ông biết chỉ còn máy bay chở lính thủy và nhân viên sứ quán, sĩ quan quân đội còn lại thôi. Nghe thấy thế, Madison rất bực mình. Nghiến răng, ông nói: Chỉ cần sáu máy bay là có thể chở hết, tôi chưa đi nếu còn người ở lại. Đại sứ đâu? Phải đến nói với ông ta! Kean lắc đầu, thở dài: "Đại sứ vừa đi rồi. Tất cả người Mỹ đều đi!" Madison không tin vào tai mình nữa. Không đầy nửa giờ trước, Lechmann và Mc Kingsley nói với ông có đủ máy bay cho người di tản Việt Nam. Thế mà bây giờ? Bực mình. Madison nhìn thẳng vào mặt Kean. Ông nói dằn từng tiếng một: Anh và nhóm của anh không ai đi cả nếu những người Việt Nam ở đây không dược di tản. Kean và kíp của anh phải bảo vệ những người này cho đến khi họ được đi. Kean lắc đầu một lần nữa: Tổng thống đã ra lệnh cho đại sứ đi ngay và chấm dứt cuộc di tản. Anh không muốn làm trái lệnh tổng thống. Cũng không muốn người của anh bị nguy hiểm thêm. Nói xong, anh quay gót, ra lệnh cho lính thuỷ tập họp trong sứ quán.
Madison chỉ còn bốn sĩ quan bộ binh. Ít quá để có thể bảo vệ được tất cả người trong sứ quán. Không có sự giúp đỡ của Kean, ông chẳng còn làm gì được. Chỉ còn một cách là rút lui. Ông ra hiệu cho mấy sĩ quan, lẳng lặng đi vào sứ quán. Trong bản báo cáo cuối cùng về việc di tản, Madison viết: "Còn 420 người nữa, chỉ cần sáu máy bay là đủ để di tản họ. Trong số này có nhân viên sứ quán Nam Triều Tiên, đứng đầu là thiếu tướng Rhee Dai Yong; nhân viên sứ quán chủ yếu là những người chữa cháy xung quanh ở lại cho đến chiếc máy bay cuối cùng, đề phòng hỏa hoạn xảy ra; một linh mục Đức đang trông nom một số người tị nạn và nhiều người giúp việc sứ quán và gia đình họ. Ngoài ra còn có nhiều nhân vật chính trị quan trọng của Nam Việt Nam như cựu bộ trưởng tài chính chính phủ Thiệu. Tất cả những người trên, theo lệnh của chúng ta, đã bỏ tất cả hành lý ở lại để được di tản dễ dàng”
Morefield là người cuối cùng rời sứ quán. Lúc chiếc máy bay chở anh đi bay lên, anh nhìn đồng hồ: 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Morefield kể lại: "Lúc máy bay bay trên bầu trời Sài Gòn, tôi cố ghi trong đầu cảnh thành phố lúc bấy giờ. Một vùng ngoại ô Mỹ đâu đó. Bình yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đằng xa. 45 phút sau, chúng tôi đã ở trên tàu. Mặt trời ló sáng. Một đoàn tàu đánh cá chở đầy người tị nạn đậu dài bên bờ biển. Chúng tôi vừa đặt chân xuống boong tàu thì sĩ quan an ninh hải quân đã tước súng chúng tôi. Tôi không có thẻ căn cước trong người. Họ hỏi tôi là ai. Có người nào báo lãnh cho tôi không. Lính thủy đi ra bệ tàu, vứt vũ khí của chúng tôi xuống biển".
Lên tàu USS Okinawa, đại tá Madison còn cố thuyết phục viên tư lệnh một phi đội máy bay lên thẳng cho sáu chiếc đi cứu người tị nạn ở sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Không ăn thua gì.
5 giờ 30 phút, giờ địa phương, tiểu đoàn xe tăng 205 của Bắc Việt Nam vượt cầu Tân Cảng, tiến vào Sài Gòn. Người chỉ huy nghiên cứu cẩn thận bản đồ để nhằm mục tiêu chính, Dinh tổng thống. Một lúc sau, đô đốc Gayler, theo dõi ở Honolulu cuộc tiến công của quân cộng sản đã ra lệnh cho một máy bay lên thẳng vũ trang đến Sài Gòn đề bảo vệ lính thủy đang phá hủy nốt số vũ khí ở đấy!
Ở Hoa Thịnh Đốn, Henry Kissinger vừa bắt đầu cuộc họp báo mà ông đã hoãn mấy lần. Ông báo tin cuộc di tản tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn đã hoàn thành tốt đẹp. Thực tế hãy còn lính thủy trong sứ quán. Kissinger quyết định không nêu chi tiết ấy. Cuộc họp báo vừa kết thúc, ông vội vàng nhảy bổ vào phòng làm việc nổi cơn điên lên. Ông thét lớn: Đưa ngay lính thuỷ ở Sài Gòn ra! Ông vừa tuyên bố cuộc di tản thành công rực rỡ, nếu để chết một người, ông sẽ giết...!.
7 giờ 30 phút, giờ Sài Gòn, nhóm của Kean đóng chặt cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sến của sứ quán, hạ màn sắt xuống và vội vàng chạy đến cầu thang phụ. Ở lầu một và lầu bốn, họ ném lựu đạn cay vào cầu thang máy và kéo hàng rào thép ra ngăn cầu thang. Nhưng đúng lúc họ bước lên trên bậc cuối cùng để lên mái nhà thì những người Việt Nam nổi giận ở ngoài sân đã phá được cửa tầng dưới và chạy lên đuổi họ. Lính thủy khóa được cửa lên mái nhà và ra chỗ máy bay đậu.
Nhưng lúc người lính cuối cùng vào được ca bin máy bay thì cũng là lúc người Việt Nam leo tới mái nhà. Và khi họ nhảy bổ vào gầm bánh thì máy bay bay lên cao. Lúc bấy giờ là 7 giờ 53 phút giờ Sài Gòn.
Trên tàu USS Denver, tôi vừa nằm xuống cu-sét, đêm qua tôi chuyên uống cà phê và ngắm nhìn đoàn phi hành gia mệt lử. Có quá nhiều người tị nạn trên tàu nên không còn chỗ ngả lưng. Phải đổi nhau ngủ, hai người một cu-sét, bốn giờ một lượt. Lượt tôi vào lúc sáng đã lâu rồi. Tôi nằm duỗi chân và thiếp đi ngay. Một hay hai giờ sau, một đồng nghiệp đánh thức tôi dậy. Anh nói: "Vừa nghe đài BBC, quân đội Bắc Việt Nam đã vào Sài Gòn. Họ gọi đó là thành phố Hồ Chí Minh".
Đó là trưa 30 tháng 4 năm 1975. Trên tàu USS Denver lênh đênh ngoài biển khơi, Polgar cùng nghe tin với tôi, giật mình, tiếc giấc ngủ, ông làu bàu: "Để mặc cho lịch sử sang trang"