Số lần đọc/download: 162 / 6
Cập nhật: 2020-05-22 19:44:09 +0700
Chương 4: Năm 1986 Thành Phố Jersey, New Jersey
T
háng Bảy, chúng tôi rời khỏi Pittsburgh, và đã có lúc cuộc sống hạnh
phúc của chúng tôi trở lại. Mẹ tôi trở thành giáo viên lớp Một tại một
trường học Hồi giáo ở thành phố Jersey. Cha tôi không tìm được việc
về thiết kế trang sức nữa, thay vào đó ông làm việc tại một công ty
chuyên lắp đặt đèn sân khấu, và ngày càng trở nên mập mạp hơn nhờ
tài nấu nướng của mẹ tôi. Tình cảm giữa cha mẹ ngày càng khăng
khít. Ở thành phố này, sự tồn tại của cộng đồng người Ai Cập thật kỳ
diệu: những cửa hàng Ả Rập ở khắp nơi, những người đàn ông mặc
áo chẽn và những người phụ nữ choàng những chiếc khăn hijab đi lại
nhộn nhịp trên phố. Thánh đường mới của chúng tôi, Masjid Al-
Shams, không tổ chức nhiều hoạt động cho phụ nữ và gia đình như ở
Pittsburgh, song chúng tôi vẫn thường xuyên đến đó cầu nguyện.
(Tên của nhà thờ đã được thay đổi nhằm thể hiện sự tôn trọng với
những hoạt động tôn giáo hiện tại của nơi này.) Sau khi kết thúc công
việc, cha tôi sẽ cùng cả nhà đi dã ngoại ở công viên. Cha hay chơi
bóng đá và bóng chày cùng tôi trên khoảnh sân của trường mẫu giáo.
Cuộc sống vui vẻ, bình yên trôi qua cho đến một ngày, hiệu trưởng
trường tiểu học nơi mẹ tôi làm việc mời bà đến văn phòng. Ông ta cố
gắng trấn an mẹ tôi trước khi thông báo rằng ông ta vừa nhận một
cuộc điện thoại báo rằng: Cha tôi đã gặp tai nạn tại nơi làm việc. Ông
hiện đã được chuyển đến bệnh viện St.Vincent ở New York.
Cha tôi bị điện giật. Hiện tại ông đã an toàn, song cú giật đã đốt
cháy bàn tay cầm tuốc nơ vít của ông, hất ông ngã khỏi thang, và
khiến ông bất tỉnh. Ông đã được phẫu thuật. Các bác sĩ đã loại bỏ lớp
da cháy xém khỏi bàn tay và lấy một phần da từ đùi của ông để cấy
vào đó. Họ cũng hướng dẫn cha tôi cách chăm sóc vết bỏng, sau đó
cho phép ông xuất viện với hàng đống đơn thuốc, bao gồm cả một
liều thuốc mạnh chống suy nhược đột ngột. Cha tôi không thể làm
việc. Mà đối với một người đàn ông, đặc biệt là một người theo đạo
Hồi, việc nuôi sống gia đình có ý nghĩa rất quan trọng.
Dù gia đình tôi vẫn có thể sống nhờ đồng lương giáo viên của mẹ
tôi và đống tem phiếu thực phẩm, song sự mặc cảm và xấu hổ vẫn âm
thầm dằn vặt cha tôi. Mẹ tôi hiểu được những gì cha tôi phải chịu
đựng, nhưng bà cũng bất lực trong việc khuyên nhủ ông. Tôi cảm thấy
hành vi của cha thời điểm này chính xác là những gì mà ông đã thể
hiện trong suốt khoảng thời gian bị vu oan cưỡng bức Barbara. Thời
gian này, mặc dù cha tôi không chăm chăm cầu nguyện một cách ám
ảnh, song lúc nào ông cũng nhìn đăm đăm vào cuốn kinh Qur’an.
Thậm chí ngay cả khi có thể quay lại làm việc (ông phụ trách sửa
chữa, bảo hành hệ thống sưởi và điều hòa tại tòa án quận Manhattan)
cha tôi cũng trở thành một người sống nội tâm hơn bao giờ hết. Cha
liên tục đến Masjid Al-Shams để cầu nguyện, nghe giảng đạo và tham
dự những buổi họp mặt bí mật. Masjid Al-Shams ban đầu dường như
là một nhà thờ nhỏ, danh tiếng khá khiêm tốn, nhưng sau đó dần trở
thành một trong những biểu tượng cho tôn giáo chính thống tại
thành phố này. Điều này lý giải vì sao, là một người phụ nữ, mẹ tôi
cảm thấy không được chào đón ở đây, và vì sao bầu không khí ở đây
lúc nào cũng tràn ngập một cảm giác phẫn nộ mà chúng tôi chưa từng
trải nghiệm. Đồng thời, đó cũng là lý do tại sao cha tôi ngày càng trở
nên ít bao dung hơn với những người không theo đạo Hồi. Mẹ tôi đưa
chị gái tôi, em trai tôi và tôi đến tham dự những hoạt động gia đình
tại trung tâm Hồi giáo ở trường của chị tôi, nhưng cha tôi không bao
giờ đi cùng chúng tôi: ông đột nhiên không thích thầy tế ở đó. Ở nhà,
cha vẫn dành thời gian vui chơi với chúng tôi, song những khoảnh
khắc ông nhìn xuyên qua chúng tôi, thay vì nhìn vào chúng tôi, xuất
hiện ngày một nhiều, lúc đó ông giống như một người khác vậy, lướt
qua chúng tôi, dán mắt vào cuốn kinh Qur’an. Một ngày nọ, tôi vô tư
hỏi cha rằng từ khi nào mà cha trở thành một tín đồ đạo Hồi, và ông
đáp lại tôi bằng một giọng nói tôi chưa từng thấy ở ông, “Khi ta đến
đất nước này và nhận thấy mọi điều sai trái ở nơi đây.”
Rất nhiều năm về sau, trong các báo cáo của mình, FBI đã đặt cho
Masjid Al-Shams một biệt danh đáng sợ: “Sào huyệt chiến tranh Hồi
giáo vùng Jersey.”
***
Cuối thập niên 1980, đầu não của các tổ chức Hồi giáo tập trung ở
Afghanistan. Liên Xô và Hoa Kỳ phát động Chiến tranh lạnh gần một
thập kỷ. Vào năm 1979, chính phủ cộng sản Afghanistan yêu cầu quân
đội Nga giúp đỡ họ chống lại cuộc nổi loạn của phiến quân Hồi giáo
(một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nhóm chống đối người
Afghanistan). Đáp lại hành động đó, Hoa Kỳ và Ả Rập đã thiết lập
đồng minh và bắt đầu rót hàng tỷ đô la vào vũ khí cung cấp cho những
cuộc nổi loạn. Chiến tranh đã đến mức báo động, buộc một phần ba
dân số Afghanistan phải bỏ trốn, chủ yếu di cư sang Pakistan.
Thánh đường của cha tôi chỉ là một ngôi nhà xám với những lớp
sơn đang tróc dần, nằm ở tầng ba của một mặt tiền cửa hàng, dưới
tầng là một cửa hàng ăn Trung Quốc và một tiệm trang sức. Tuy
nhiên, Masjid Al-Shams vẫn có sức hấp dẫn đối với những vị thủ lĩnh
và học giả từ khắp nơi trên thế giới, những người hô hào kêu gọi cha
tôi và những người bạn của ông đến chi viện cho những người anh
em đang tham gia những cuộc nổi loạn của họ. Đối với cha tôi và
những thành viên bị tước quyền công dân, phải sống rất khó khăn
khác trong thánh đường, mục đích của việc chi viện dễ dàng thuyết
phục họ. Một trong những người phát ngôn đặc biệt cuốn hút cha tôi,
đó là một kẻ chuyên kích động bạo động thuộc dòng Sunni từ
Palestine, tên hắn là Abdullah Yusuf Azzam.
Azzam đang khởi động một chiến dịch trên toàn nước Mỹ nhằm
kêu gọi gây quỹ cho những cuộc nổi loạn. Hắn thường xuất hiện
trước đám đông với khẩu lệnh mạnh mẽ: “Một lòng ủng hộ chiến
tranh Hồi giáo và quân đội Hồi giáo: không thương lượng, không hội
ý, và không đối thoại.” Hắn ta đã từng đóng vai trò cố vấn cho một
sinh viên kinh tế trẻ đến từ Ả Rập, Osama bin Laden, và thuyết phục
người này mang theo gia đình (và mang theo sổ chi phiếu của gia
đình) đến Pakistan để hỗ trợ cho cuộc chiến tranh chống Nga. “Dù
chiến tranh có kéo dài bao lâu đi chăng nữa, chúng ta vẫn nguyện
chiến đấu hết mình,” Azzam tuyên bố với những chiến binh Hồi giáo
gốc Mỹ, “cho đến hơi thở cuối cùng và cho đến khi trái tim ngừng
đập.” Hắn ta truyền cảm hứng cho họ với những câu chuyện từ chiến
trường đã được thần thánh hóa xa rời thực tế, những câu chuyện về
những chiến binh thánh chiến mình đồng da sắt mà không một viên
đạn nào của Liên Xô có thể xuyên thủng, tham chiến với sự hỗ trợ của
những thiên sứ trên lưng ngựa và được bảo vệ khỏi bom đạn bởi
những đội quân gồm hàng ngàn con chim.
Cha tôi gặp Azzam tại nhà thờ và trở về nhà mà như thể là một
con người khác hẳn. Ông cảm thấy đã đến lúc thực hiện sứ mệnh của
mình và đây cũng chính là minh chứng hùng hồn nhất, không thể
chối cãi cho sự sùng bái của ông đối với Allah. Cha tôi và những
người đàn ông khác từ nhà thờ bắt đầu gặp gỡ nhau tại căn hộ của
chúng tôi, bàn luận một cách say mê về việc tiếp viện chiến tranh Hồi
giáo ở Afghanistan. Họ mở một cửa hàng ngay dưới masjid, bày bán
những tài liệu tôn giáo, tranh ảnh, và những cuốn băng cát-xét để
kiếm tiền. Đó là một nơi tối tăm và không có cửa sổ. Sách ở khắp mọi
nơi. Những bức tường được bao phủ bởi những bài giảng đạo từ kinh
Qur’an viết bằng những ký tự lớn và có màu lấp lánh. Cha thường
xuyên đưa tôi và em trai đến đó và chúng tôi cũng phụ giúp họ việc
này việc kia. Mặc dù chúng tôi đều không ý thức được những gì cha
đang làm, song tôi nhận thấy rõ ràng rằng cha tôi dường như đã sống
lại.
Mẹ tôi cũng ủng hộ chiến tranh Hồi giáo của người Afghanistan -
ở một chừng mực nào đó. Bà là một tín đồ Hồi giáo sùng đạo song
đồng thời cũng là một người Mỹ yêu nước. Trong khi hai con người
này thường xuyên mâu thuẫn nhau, thì việc lực lượng nổi loạn Hồi
giáo liên minh với những người Mỹ ở Afghanistan là một ví dụ hiếm
hoi cho thấy sự đồng thuận về mặt nào đó giữa những nhà lãnh đạo
tôn giáo và chính trị của bà. Trong lúc đó, cha tôi lao vào cuộc quá
nhanh. Ông giờ đây đã là thuộc cấp trực tiếp của Azzam, kẻ mà ông
luôn thần tượng. Cha tôi cùng những người đàn ông ở nhà thờ
thường xuyên thực hiện những chuyến cắm trại để tôi luyện kỹ năng
sinh tồn. Họ lái xe đến bãi tập bắn Calverton Shooting Range ở Long
Island để luyện tập. Khi người phụ trách nhà thờ bày tỏ quan ngại về
xu hướng cực đoan đang diễn ra ở đây, họ liền gạt ông ta khỏi vị trí
của mình. Có thể nói rằng cha tôi lúc này không còn bất cứ thời gian
rảnh rỗi nào dành cho mẹ con tôi nữa. Nên việc ông xuất hiện vào
ngày đầu tiên tôi đến trường mới khiến mẹ tôi sốc. Trước đây không
lâu, gia đình là mối quan tâm duy nhất và mãi mãi của cha; nhưng giờ
đây chúng tôi phải cạnh tranh với tình yêu cha dành cho những tín đồ
Hồi giáo trên khắp thế giới này.
Đỉnh điểm là khi cha tôi nói với mẹ rằng ông không muốn cứ mãi
ở hậu phương ủng hộ đội quân thánh chiến nữa: Ông muốn đến
Afghanistan và tham gia chiến đấu. Mẹ tôi khiếp sợ, bà cầu xin cha
suy nghĩ lại nhưng cha vẫn kiên quyết làm theo ý mình. Hơn nữa, cha
còn yêu cầu mẹ đưa chúng tôi đến Ai Cập và sống cùng ông nội ở đó
trong thời gian ông đến Afghanistan. May mắn thay, ông nội tôi phản
đối kế hoạch này. Ông nội cho rằng chỗ của cha tôi là ở bên gia đình,
cho nên ông nội từ chối lời đề nghị của cha. Ông nội thậm chí còn
cương quyết đe dọa cha tôi rằng nếu mẹ con tôi vẫn cứ đến Ai Cập,
ông sẽ phớt lờ và để chúng tôi chết đói.
Cha tôi không phải thương tiếc cho giấc mơ thánh chiến của mình
quá lâu. Vào năm 1989, một người (không bao giờ biết được là ai) cố
gắng ám sát Azzam bằng một quả bom giấu dưới bục giảng kinh của
ông ta tại Peshawar, Pakistan. Song quả bom không phát nổ. Tuy
nhiên, vào ngày 24 tháng Mười một, khi Azzam cùng hai con trai
đang ngồi trong một chiếc xe Jeep đến buổi cầu nguyện vào thứ Sáu
thì một quả bom nổ dưới đường. Cả ba đều thiệt mạng. Không thể
diễn tả bằng lời phản ứng của cha tôi trước cái tin Azzam bị ám sát.
Cho đến hai mươi năm sau, khi hồi tưởng lại, mẹ tôi chỉ đơn giản
đánh giá rằng đó là khoảnh khắc bà mất cha tôi mãi mãi.
Năm 1989, Xô Viết từ bỏ Afghanistan và rút lui. Trước tình hình
đó, Hoa Kì cũng có động thái tương tự. Afghanistan trở thành một
quốc gia của những góa phụ và trẻ mồ côi, con người, kinh tế, và cơ
sở hạ tầng bị phá hủy nghiêm trọng. Những chiến binh thánh chiến
như cha tôi nóng lòng gây dựng một đế chế Hồi giáo thực sự trên thế
giới này – một nhà nước được điều hành bởi luật pháp Hồi giáo,
được biết đến với tên gọi Bộ luật Sharia. Năm 1990, một trong những
đồng minh của Osama bin Laden, thủ lĩnh mù người Ai Cập, Omar
Abdel-Rahman, đến Mỹ nhằm củng cố niềm tin cho cuộc chiến tranh
Hồi giáo toàn cầu, cuộc chiến không chỉ hủy diệt Afghanistan mà còn
bằng mọi phương thức cần thiết, chấm dứt những gì bọn họ mong
muốn, ví dụ như sự chuyên chế của chính quyền Israel, được Mỹ hậu
thuẫn, đối với Palestine. Thủ lĩnh mù đó có tên trong danh sách
những kẻ khủng bố nguy hiểm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Ông ta đã
bị bỏ tù tại Trung Đông vì đã tuyên bố một fatwa kêu gọi và dẫn đến
vụ ám sát Thủ tướng Ai Cập Anwar Sadat. Tuy nhiên, Rahman vẫn
xoay xở để có được thị thực du lịch Mỹ. Khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
hủy bỏ thị thực, ông ta đã tìm cách thuyết phục Sở Di trú tại New
Jersey cấp cho mình một tấm Thẻ xanh. Dường như những cơ quan
Chính phủ này không thể thống nhất được biện pháp xử lý một tên
khủng bố quốc tế, kẻ vốn là đồng minh của họ trong cuộc chiến chống
Nga.
Trong khoảng thời gian này chúng tôi chuyển từ thành phố Jersey
đến Cliffside Park theo ý mẹ. Đó là vùng ngoại ô rậm rạp cây cối và
yên tĩnh, gần giống như quê nhà của Tom Hanks trong bộ phim Big,
và mẹ tôi hi vọng rằng khoảng cách này sẽ phá vỡ sự liên kết giữa cha
tôi những phần tử cực đoan tại Masjid Al-Shams. Trên thực tế, điều
đó chẳng thay đổi được gì. Mỗi sáng cha đều chửi mắng mẹ, trích ra
những câu kinh Qur’an và từ những bài giảng của Muhammad trong
Hadith (bản ghi chép lại lời nói, hành động, và thói quen của nhà tiên
tri Hồi giáo Muhammad). Đạo Hồi nói thế này, đạo Hồi nói thế kia.
Cha tôi bỗng chốc trở thành người xa lạ với mẹ. Mỗi đêm sau khi kết
thúc công việc, ông lái xe một chặng đường dài quay lại nhà thờ cũ
của chúng tôi hoặc đến nhà thờ mới tại Brooklyn, nơi Thủ lĩnh mù
đang củng cố lại niềm tin cho những tín đồ Hồi giáo. Cha tôi bị ám
ảnh bởi sự khốn khổ của những tín đồ Hồi giáo ở Palestine, cũng
nhiều như sự ghê tởm ông biểu hiện trước sự ủng hộ của Mỹ đối với
Israel. Và đương nhiên không chỉ mình cha tôi bị ám ảnh. Trong suốt
cuộc đời mình, khi ở nhà thờ, trong phòng khách, lúc gây quỹ tại
Hamas, người ta đều nói với tôi rằng Israel là kẻ thù của người Hồi
giáo. Nhưng giờ đây, những từ ngữ mà họ dùng nặng nề hơn. Mẹ tôi
luôn lo lắng rằng sẽ có những thảm kịch chờ đợi chúng tôi phía trước.
Cuộc sống vẫn tiếp tục, sau này bà kể rằng lúc đó bà như một chiếc
“máy bay lái theo chế độ tự động” vậy, máy móc sống và làm việc, hy
sinh tất cả vì chúng tôi và chỉ cố gắng vượt qua khỏi những ngày
tháng đen tối ấy.
Rất nhiều lần cha mang tôi đến những buổi giảng đạo của Thủ
lĩnh mù. Lúc đó, vốn tiếng Ả Rập của tôi không đủ để giúp tôi hiểu hết
những gì ông ta nói, có chăng chỉ là bắt được một số từ quen thuộc,
song sự tàn bạo của ông ta khiến tôi sợ hãi. Khi cha tôi thúc giục tôi
bắt tay với Rahman sau buổi giảng đạo của ông ta, tôi chỉ e dè gật
đầu. Sau đó, họ đặt một tấm lót làm bằng chất dẻo xuống sàn và có
những người đàn ông phục vụ chúng tôi món fatteh (bánh mì Pita và
cơm được rưới nước sốt cừu) cho bữa tối. Trong vòng một giờ đồng
hồ, âm thanh giọng nói của các bậc cha mẹ và những đứa trẻ ríu rít
như những tiếng chim, khiến mọi thứ dường như trở nên ấm áp và
bình thường trở lại, sau đó chúng tôi bắt đầu ăn.
Cha tôi trở nên thân thiết với Thủ lĩnh mù đó. Chúng tôi không hề
biết rằng ông ta thúc giục cha tôi đặt cho mình một cái tên giả dùng
cho nhiệm vụ đặc biệt sau này. Cha tôi cân nhắc về việc ám sát Thủ
tướng Israel tương lai, Ariel Sharon, và sẵn sàng đi đến phá hủy
khách sạn của ông ta. Cha tôi cuối cùng từ bỏ kế hoạch đó, song đối
với một tín đồ Hồi giáo chính thống, người luôn tin tưởng triết lý
mãnh liệt của Allah như cha tôi, thì mục tiêu tiềm năng có thể ở mọi
nơi. Không lâu sau, cha tôi phát hiện ra rằng việc giết giáo sĩ Do Thái
Kahane chính là sứ mệnh thực sự của mình.
***
Đây là một trong những ký ức cuối cùng của tôi về cha khi ông
còn là một người tự do: Đó là một buổi sáng thứ Bảy ở Jersey. Cuối
hè. Cha đánh thức tôi và em trai dậy sớm – sau buổi cầu nguyện
trước khi mặt trời mọc chúng tôi đã buồn ngủ trở lại rồi – và bảo
chúng tôi chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Chúng tôi mặc quần áo và
đờ đẫn theo cha ra xe. Chúng tôi lái xe, lái xe và lái xe mãi: ra khỏi
vùng ngoại ô xanh rì bóng cây, đi qua vùng Bronx đông nghịt người và
căng thẳng, tiến về phía Long Island. Hai giờ trôi qua như gấp đôi đối
với anh em tôi. Cuối cùng, chúng tôi đến một nơi có một tấm biển
màu xanh da trời lớn: Bãi bắn CALVERTON SHOOTING RANGE.
Chúng tôi tiến vào một bãi cát, và tôi thấy chú Ammu Ibrahim
đang đợi chúng tôi, cùng với một chiếc xe khác chở những người bạn
của cha tôi. Chú tôi đứng dựa lưng vào chiếc xe trong khi những đứa
con trai của chú thì chạy nhảy vui vẻ xung quanh, đá tung từng lớp
cát. Chú mặc một chiếc áo phông in hình tấm bản đồ Afghanistan và
một dòng khẩu hiệu: GIÚP ĐỠ LẪN NHAU BẰNG THIỆN CHÍ VÀ
LÒNG TRUNG THÀNH. Những người đàn ông chào hỏi nhau và sau
đó một trong những người bạn của cha mở nắp chiếc rương mà ông
ta mang theo, chiếc rương đầy những khẩu súng lục và AK-47.
Điểm ngắm của họ là những hình người không mặt màu đen
được dựng đối diện những bờ đất dốc. Trên đầu mỗi hình nhân có
thắp một bóng đèn vàng, và trên đỉnh những ngọn đồi phía trên là
một hàng thông. Thỉnh thoảng sẽ có một con thỏ lon ton chạy ra,
hoảng hốt bởi tiếng đạn nổ, sau đó gấp gáp vọt trở lại.
Cha và chú Ammu bắn trước, sau đó đến những đứa trẻ chúng
tôi. Chúng tôi thay phiên nhau bắn được một lúc. Tôi không hề biết
rằng cha mình đã trở thành một tay thiện xạ từ lúc nào. Đối với tôi,
khẩu súng trường này quá nặng, và tôi không hề có hứng thú tập bắn
như những cậu em họ của mình, chúng luôn trêu chọc tôi mỗi lần tôi
bắn trúng bờ đất thay vì mục tiêu, khiến viên đạn rạch trên nền cát
một rãnh nhỏ.
Những đám mây là là bay ngang qua bãi bắn bao phủ hết mọi vật
trong bóng râm. Một cơn mưa bóng mây chợt ập xuống. Trong lúc
chúng tôi chuẩn bị kết thúc vào lượt bắn cuối cùng của tôi, thì một
điều kỳ lạ bỗng xảy ra: Tôi vô tình bắn vỡ bóng đèn trên đầu một hình
nộm khiến nó vỡ và nổ tung, hình nộm đó bốc cháy.
Tôi vội vã chạy về phía cha, cả người đông cứng lại trong nỗi sợ
hãi rằng mình đã làm sai điều gì đó.
Lạ lùng thay, cha tôi bỗng nở nụ cười và gật đầu một cách hào
hứng.
Bên cạnh ông, chú Ammu bật cười. Hai người họ là anh em thân
thiết. Chú Ammu chắc hẳn biết về kế hoạch giết Kahane của cha tôi.
“Ibn abu,” chú nói với một nụ cười tươi rói.
Tôi mất nhiều năm dằn vặt với nghĩa hàm ý của hai từ chú Ammu
thốt ra lúc đó, cho tới tận khi tôi nhận ra rằng chú tôi đã đánh giá
hoàn toàn sai lầm về tôi.
“Ibn abu.”
Cha nào con nấy.