If you truly get in touch with a piece of carrot, you get in touch with the soil, the rain, the sunshine. You get in touch with Mother Earth and eating in such a way, you feel in touch with true life, your roots, and that is meditation. If we chew every morsel of our food in that way we become grateful and when you are grateful, you are happy.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Ngôn Tình
Nguyên tác: The Cat Who Went To Heaven
Dịch giả: Hoàng Thạch Quân
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 17
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1266 / 21
Cập nhật: 2017-05-20 08:49:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
3
áng hôm sau chàng họa sĩ nhìn thấy cô mèo cuộn tròn nằm trên chiếc gối dựa của mình như một cục bông.
“À! ta thấy ngươi biết chọn chỗ êm ái nhất rồi đấy!” chàng nói. May ngay lập tức đứng dậy, và đi ra ngoài làm vệ sinh buổi sáng một cách hết sức kỹ lưỡng và khéo léo. Khi bà giúp việc đi chợ về và nấu một bữa ăn khiêm tốn, May không đi đến gần lò bếp, mặc dù cặp mắt của nó thỉnh thoáng vẫn liếc về phía đó và hàng ria trắng như sợi bông của nó giật nhẹ vì đói. Cô mèo có mặt ở trong phòng khi bà lão giúp việc mang một chiếc bàn thấp và đặt nó trước cậu chủ. Tiếp đến là một tô canh cá - có trời mà biết bà lão giúp việc đã xoay xở bằng cách nào để có được con cá đó! - nhưng May giữ đúng phép tắc và hướng mắt nhìn đi nơi khác.
“Phải nói là,” chàng họa sĩ lên tiếng, hài lòng vì hành vi của cô mèo, “nó hiểu rằng nhìn chằm chằm vào người ta ăn là không lịch sự. Cô ả đã đuợc nuôi dạy rất đúng phép. Bác mua nó của ai vậy?”
“Lão mua nó của một người đánh cá ở ngoài chợ,” bà lão nói. “Nó là cô chị cả trong một gia đình mèo. Cậu biết đấy, không có chiếc thuyền nào ra khơi mà không mang theo một con mèo để xua đuổi những con quỷ biển.”
“Xì!” chàng họa sĩ thốt lên. “Mèo không xua đuổi lũ quỷ. Chúng là họ hàng với nhau. Những con quái vật biển để yên cho một chiếc thuyền cho phải phép lịch sự với con mèo, chứ không phải vì sợ nó.”
Bà lão không cãi lại. Bà biết rõ vị trí mình. May tiếp tục ngồi quay mặt vào tường.
Chàng họa sĩ nhấp một, hai muỗng canh. Rồi chàng nói với bà giúp việc, “Nhân tiện bác làm ơn mang cho May một chén cơm khi bác mang cơm lên cho cháu. Chắc là nó đói rồi.”
Khi chén cơm được mang ra, chàng lịch sự gọi con mèo lại. Sau khi đã được mời theo đúng phép tắc, May thôi không nhìn về phía bên kia căn phòng nữa, và đến ngồi cạnh cậu chủ. Nó ăn cẩn thận, từ tốn để khỏi làm dơ chiếc cằm trắng của mình. Mặc dù cô mèo hẳn đang rất đói, cô chỉ ăn một nửa phần cơm của mình, như thể cô để dành phần còn lại cho ngày hôm sau, cố gắng hết sức để không trở thành một gánh nặng cho cậu chủ của mình.
Ngày tháng cứ như vậy trôi qua. Mỗi buổi sáng chàng họa sĩ yên lặng quỳ trên chiếu và vẽ những bức tranh nhỏ tuyệt đẹp mà không ai mua: những bức tranh vẽ các võ sĩ đeo hai thanh gươm; các quý bà xinh đẹp đang vấn những mái tóc dài như suối; những con quỷ đang phồng mang thổi gió; và một số bức tranh nhỏ hài hước vẽ những con thỏ đang chạy dưới ánh trăng, hay những con chồn lông xám mập ú vỗ bụng như vỗ trống. Trong khi chàng làm việc thì bà lão cầm những đồng tiền ít ỏi cuối cùng của họ đi chợ; thời gian còn lại bà dành để nấu nướng, giặt giũ, lau chùi và may vá để giữ cho căn nhà trơ trọi và số quần áo cũ sờn của họ được tươm tất. Sau khi nhận ra cô chẳng giúp được gì cho ai, May yên lặng ngồi ngoài nắng, ăn rất ít, và thường bỏ ra hàng tiếng đồng hồ liền ngồi cúi đầu trước bức tượng Phật đặt trên một kệ thấp.
“Nó đang cầu nguỵên với đấng Giác Ngộ,” bà giúp việc ngưỡng mộ nói.
“Nó đang bắt ruồi đấy,” chàng họa sĩ nói. “Con mèo đốm của bác làm gì bác cũng cho là kỳ diệu.” Có lẽ chàng hơi xấu hổ khi nhớ ra rằng gần đây chàng ít khi cầu khấn Đức Phật vì trong lòng có nhiều mối lo âu.
Nhưng một ngày nọ chàng buộc phải thừa nhận rằng May không giống như những con mèo khác. Chàng đang ngồi trong phòng riêng của mình ngắm chim sẻ bay ra bay vào những bụi tú cầu ở ngoài sân, thì thấy May từ một chỗ nấp nhảy lên vồ lấy một con chim. Trong tích tắc đôi cánh màu nâu, mái đầu đen, cặp chân khẳng khiu, đôi mắt sợ hãi của con chim đã nằm gọn trong bộ móng mèo. Chàng họa sĩ định vỗ tay xua mèo thả chim ra, nhưng trước khi chàng kịp làm thì chàng thấy May tỏ vẻ ngập ngừng và rồi từ từ, từ từ, nó nâng một chiếc móng trắng lên, và rồi một chiếc nữa khỏi mình con chim sẻ. Hoàn toàn bình yên, không một vết thương, con chim vỗ mạnh cánh và bay đi.
“Thật là tấm lòng từ bi!” chàng họa sĩ kêu lên, và mắt chàng đẫm lệ. Chàng biết rõ con mèo của mình đang đói và chàng biết rõ cảm giác đói là như thế nào. “Ta thật xấu hổ khi gọi một con mèo như vậy là yêu tinh,” chàng nghĩ thầm. “Không chừng, nó còn đức hạnh hơn một vị thầy tu.”
Ngay lúc đó, vào đúng giây phút đó, bà lão giúp việc xuất hiện, cố gắng hết sức để giấu sự kích động của mình.
“Cậu chủ!” bà mở miệng nói ngay khi lấy lại được bình tĩnh. “Cậu chủ! Vị sư trụ trì đang ở đây, ngay ở phòng bên, và muốn gặp cậu. Cậu nghĩ, cậu nghĩ... sư thầy đến đây để làm gì?”
“Sư thầy muốn gặp cháu sao?” chàng họa sĩ gần như không thể tin vào tai mình, bởi vì sư trụ trì là một người rất quan trọng và không có thời gian đi thăm viếng những họa sĩ nghèo không được mấy ai coi trọng. Sau khi bà giúp việc gật đầu lia lịa cho đến khi nó muốn rớt xuống đất, thì đến lượt chàng họa sĩ cũng trở nên kích động như bà lão. Nhưng chàng nhanh chóng trấn tĩnh bản thân.
“Chạy! Chạy ra chợ mua trà và bánh!” chàng kêu lên, nhét vào tay bà lão vật quý giá cuối cùng mà chàng có, đó là chiếc bình hoa vốn thường đứng ở góc phòng với một bó hoa. Dù biết căn phòng sẽ trở nên trơ trọi khi không có chiếc bình, chàng họa sĩ cũng không ngần ngại: không một vị khách nào rời khỏi nhà chàng mà không được tiếp đãi tử tế. Chàng xấu hổ khi nghĩ rằng chàng đã bắt vị sư chờ đợi dù chỉ là một phút và đã không tự mình chạy ra đón nhà sư ở ngay cửa ra vào. Chàng gần như không nhận thấy May đang cọ mình vào mắt cá chân chàng một cách khích lệ khi chàng vội vã ra khỏi phòng.
Trong phòng bên, vị sư ngồi bất động tọa thiền. Chàng họa sĩ cúi thấp đầu chào, khẽ hít thở, và rồi im lặng ngồi chờ để được tiếp chuyện với vị sư. Chàng có cảm giác như cả một thế kỷ trôi qua trước khi vị sư ngẩng đầu lên và cái nhìn vô định biến mất khỏi mắt ông. Lúc này chàng họa sĩ cúi đầu chào lần nữa và nói rằng sự hiện diện của ông là niềm vinh dự cho ngôi nhà này.
Nhà sư đi thẳng vào vấn đề.
Ông nói, “Chùa của chúng tôi muốn có một bức tranh vẽ cảnh Đức Phật tạ thế để treo trong chùa. Có nhiều họa sĩ đã được đề nghị nhưng chúng tôi không biết chọn ai, vì vậy chúng tôi đã viết tên từng họa sĩ một vào một mảnh giấy và đặt chúng trước chân dung Đức Phật trong chánh điện. Sáng hôm sau tất cả các mẩu giấy đều bị thổi dạt sang một bên trừ mẩu giấy ghi tên anh. Vì vậy chúng tôi biết đó là ý nguyện của Đức Phật. Biết được đôi chút về hoàn cảnh của anh, ta đã mang theo đây một khoản tiền ứng trước để anh yên trí vẽ tranh. Chỉ một ao nước tĩnh lặng mới phản chiếu được hình ảnh rõ ràng. Nếu như bức tranh thành công, như chúng tôi hy vọng, thi tiền đồ của anh sẽ trở nên vững vàng, bởi vì bất cứ những gì được sự hậu thuẫn của chùa đều được ưa chuộng trong thị trấn.” Nói đến đây nhà sư rút từ thắt lưng ra một chiếc túi nặng.
Chàng họa sĩ không nhớ chàng đã cám ơn vị sư như thế nào, hay mời ông dùng trà, hay cúi đầu chào tiễn ông ra cánh cửa nhỏ hẹp nhà chàng ra sao. Cuối cùng chàng cũng có cơ hội có được tiếng tăm và tiền tài. Chàng có cảm giác như tất cả chuyện này chỉ là một giấc mơ. Tại sao Đức Phật lại chọn chàng mà không phải ai khác? Thời gian gần đây chàng quá buồn nên không thường xuyên cầu khẩn ngài và bà giúp việc thì quá bận rộn. Có lẽ nào Đức Phật đã lắng nghe lời cầu nguyện của một con mèo nhỏ bé? Chàng sợ rằng mình sẽ thức dậy và nhận ra toàn bộ câu chuyện chỉ là một ảo tưởng và túi tiền chỉ chứa đầy lá khô. Có lẽ chàng không bao giờ trở lại thực tại nếu không bị đánh thức bởi một âm thanh kỳ quặc.
Đúng hơn thì đó không phải là một mà là hai âm thanh trộn lẫn nhau. Nó không giống bất cứ âm thanh nào mà chàng họa sĩ đã từng nghe. Vốn là người luôn tò mò, chàng hòa sĩ bước vào nhà bếp để xem cái gì gây ra âm thanh ấy, và dĩ nhiên ở đó không có ai khác ngoài bà giúp việc và cô mèo May. Bà lão đang khóc vì vui, còn cô mèo thì đang kêu gừ rừ vì sung sướng, và khó có thể nói ai đang kêu to hơn ai. Trước cảnh tượng đó chàng họa sĩ đã phải bật cười to, nhưng đó không phải là tiếng cười buồn bã xưa nay của chàng, tiếng cười này nghe giống như tiếng cười của một cậu bé, và chàng ôm chầm lấy cả hai. Bây giờ thì có đến ba âm thanh mừng rỡ trong gian bếp cũ kỹ.
Con Mèo Trời Con Mèo Trời - Elizabeth Coatsworth Con Mèo Trời