Never get tired of doing little things for others. Sometimes those little things occupy the biggest part of their hearts.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cuckoo's Calling
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: new wind
Upload bìa: new wind
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3213 / 102
Cập nhật: 2015-11-04 19:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: Phần Hai
on ignara mali miseris succurrere disco.
Thân mình chưa hết vấn vương
Đành thu vén lại còn thương người đời.
- Virgil, Aeneid, Quyển 1
1
“Báo chí tốn không ít giấy mực, các đài truyền hình đầu tư hàng tiếng đồng hồ vào vụ Lula Landry, nhưng dường như chưa ai đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng ta lại quan tâm vụ này đến vậy?
“Vì Lula đẹp, đương nhiên rồi, người đẹp luôn giúp báo bán chạy, kể từ khi bức ký họa người đẹp mơ màng của Dana Gibson được đăng trên tạp chí New Yorker.
“Lula da đen, hay đúng ra là có màu da cà phê sữa ngọt ngào. Báo chí liên tục nhắc nhở ta rằng đây chính là sự tiến bộ trong một ngành công nghiệp xưa nay chỉ quan tâm tới bề ngoài. (Nhưng tôi nghi lắm: biết đâu mùa này cà phê sữa lại lên ngôi? Biết đâu sau vụ Landry sẽ có nhiều cô gái da đen lao mình vào thời trang? Phải chăng sự thành công của Lula đã làm thay đổi quan niệm về cái đẹp phụ nữ? Biết đâu búp bê Barbie da đen đang bán chạy hơn búp bê da trắng?)
“Gia đình và bạn bè của Landry đương nhiên là vô cùng đau xót, và tôi cảm thông sâu sắc với họ. Thế nhưng chúng ta, đám đông ngoài cuộc không máu mủ ruột rà, không có lý do gì để thương vay khóc mướn đến vậy. Hàng ngày có biết bao nhiêu phụ nữ trẻ chết trong những hoàn cảnh cũng vô cùng ‘bi đát’ (nghĩa là chết không vì lý do tự nhiên): tai nạn xe cộ, chơi thuốc quá liều, và có đôi khi là vì họ nhịn ăn nhịn uống để có được thân hình như Lula và đồng nghiệp. Chúng ta liệu có nghĩ gì đến những cô gái mang gương mặt vô cùng bình thường đó?”
Robin dừng lại, uống một ngụm cà phê và hắng giọng.
“Một mớ dạy đời,” Strike lẩm bẩm.
Hắn ngồi trên góc bàn của Robin, dán mấy tấm ảnh vào một hồ sơ mở, đánh số và ghi chú vắn tắt từng tấm trong mục lục ở bìa hồ sơ. Robin đọc tiếp từ màn hình máy tính.
“Sự quan tâm quá đà của chúng ta, thậm chí là ngay cả nỗi tiếc thương cũng cần phải được nhìn lại. Ngay trước cú nhảy định mệnh của Landry, hàng chục ngàn phụ nữ sẵn sàng đổi chỗ với cô. Những cô gái mới lớn nức nở mang hoa đến đặt ở ban công căn hộ 4,5 triệu bảng sau khi thi thể được mang đi. Liệu cú nhảy của Lula có làm một người mẫu mới vào nghề nào đó chùn chân trên con đường tìm kiếm hư danh?”
“Vô vấn đề cho rồi!” Strike nói. “Ý tôi là nhà báo, không phải cô,” hắn vội vã nói thêm. “Tác giả là đàn bà, đúng không?”
“Vâng, một cô Melanie Telford nào đó,” Robin trả lời, quay lên đầu trang có ảnh chụp một người phụ nữ tuổi trung niên tóc vàng mặt phệ. “Anh có muốn tôi bỏ qua phần còn lại không?”
“Không, không, cứ đọc tiếp.”
Robin hắng giọng thêm một lần nữa và tiếp tục đọc.
“Câu trả lời, chắc chắn, là không.” Cái này là chỗ người mẫu mới vào nghề bị chùn chân.”
“Ừ, hiểu rồi.”
“Ừm…” Một trăm năm sau thời Emmeline Pankhurst[1], thế hệ thiếu nữ ngày nay chỉ theo đuổi việc làm sao trở thành một thứ búp bê giấy, một kiểu nhân vật tẻ nhạt với cuộc sống được tô vẽ nhưng đằng sau đó lại là sự đổ vỡ và đau khổ tột cùng, kết thúc bằng cú nhảy định mệnh từ tầng ba. Lại một lần nữa, bề ngoài là tất cả: nhà thiết kế Guy Somé nhanh chóng lên tiếng với báo giới là khi nhảy xuống Lula mặc một mẫu của ông này. Hai mươi bốn giờ sau khi Lula chết mẫu đó bán sạch. Liệu có quảng cáo nào hiệu quả hơn là việc Lula tìm đến cái chết trong trang phục của Somé?
[1. Nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng ở Anh quốc cuối thế kỷ 19, nhân vật nổi bật trong phong trào đấu tranh giành quyền bỏ phiếu cho phụ nữ. - ND]
“Không, ở đây chúng ta không tiếc thương gì cô gái này, bởi cô ta cũng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết, không có thật như hình tượng thiếu nữ Gibson mà Dana từng vẽ trên báo. Cái chúng ta khóc thương ở đây chỉ là một hình ảnh chớp nhoáng trên hàng loạt báo biếc và tạp chí bình dân; một hình ảnh từng giúp bán cho chúng ta rất nhiều quần áo, túi xách và cả một quan điểm về danh vọng mà sau cái chết của Lula cũng trở nên vô nghĩa và chóng vánh như bong bóng xà phòng. Cái chúng ta nhớ thương ở đây, nếu ta thật lòng thừa nhận, chính là những câu chuyện đời tư đầy tính giải trí của cô gái mảnh khảnh chịu chơi này; từ chuyện nghiện hút, cuộc sống phóng đãng, áo xống nọ kia và cả người yêu khi có khi không – những câu chuyện mà chúng ta từng ngấu nghiến.
“Đám tang của Lula được truyền thông nhắc đến không thua gì đám cưới của các sao trên các tạp chí bóng bẩy lòe loẹt, và ắt hẳn những nhà xuất bản của các tạp chí đó còn tiếc nuối Lula hơn nhiều người khác. Trên tạp chí, chúng ta thấy được các sao khóc Lula ra sao, còn gia đình của cô thì chỉ xuất hiện trong những tấm ảnh bé nhất, chỉ vì họ không được ăn ảnh lắm.
“Tuy nhiên có một câu chuyện về một người đi viếng Lula đã thực sự làm tôi xúc động. Tại đám tang, khi nói chuyện với một người mà cô ta không hề biết là phóng viên, cô ta kể là đã quen Lula tại trung tâm điều trị. Cô gái này ngồi ở hàng ghế cuối trong nhà thờ và lẳng lặng ra về. Cô không bán câu chuyện của mình cho báo chí, không như những người quen khác của Landry. Cô gái này làm ta cảm thấy xúc động về con người thật của Lula Landry, rằng Lula cũng có được cảm tình thực sự của một cô bạn gái bình thường. Còn đối với đám đông còn lại…”
“Bà ta không nói tên của cô gái bình thường đó à?” Strike chen ngang.
Robin im lặng dò lại bài báo.
“Không.”
Strike đưa tay gãi cằm chưa cạo sạch.
“Bristow không nhắc đến bạn bè nào của Lula ở trung tâm điều trị cả.”
“Anh nghĩ cô này quan trọng không?” Robin sốt sắng hỏi, quay ghế lại nhìn Strike.
“Gặp một người từng biết Landry trong lúc trị bệnh có thể hay hơn nhiều so với gặp bạn đi hộp đêm của cô ta.”
Strike phải nhờ Robin tìm kiếm những thông tin về Landry trên internet vì hắn chẳng còn thứ gì cho cô làm. Cô đã điện cho Derrick Wilson, người bảo vệ tòa nhà chỗ Lula ở và sắp xếp một cuộc hẹn cho Strike vào sáng thứ Sáu tại quán Phoenix ở Brixton. Thư từ hôm nay chỉ có hai bản tin và một thư đòi nợ; chưa có ai gọi điện cả, và Robin đã sắp xếp lại tất cả mọi thứ có thể sắp theo bảng chữ cái trong văn phòng, theo cả phân loại và màu sắc.
Nhớ lại khả năng google của Robin hôm trước, Strike quyết định giao cho cô công việc vớ vẩn này. Trong một tiếng đồng hồ, Robin đọc to những đoạn trích và bài báo linh tinh về Landry và người quen trong khi Strike sắp xếp lại một mớ biên lai, hóa đơn điện thoại và mấy tấm hình của vụ còn lại duy nhất mà hắn đang làm.
“Tôi đi tìm thêm vài thông tin về cái cô kia nhé?” Robin hỏi ý hắn.
“Ừ.” Strike lơ đễnh trả lời, mắt vẫn nhìn vào tấm hình chụp một người đàn ông đậm người hói đầu mặc complet và một cô gái tóc đỏ hấp dẫn mặc quần jeans bó chặt. Người đàn ông trong hình là ông Geoffrey Hook; cô gái tóc đỏ lại không hề giống Hook phu nhân chút nào. Trước khi Bristow xuất hiện, bà Hook là thân chủ duy nhất của Strike. Strike dán tấm hình vào hồ sơ của bà Hook và đánh số 12, trong khi Robin quay lại máy tính.
Sau đó cả hai im lặng, chỉ còn nghe tiếng Strike rút mấy tấm ảnh ra và móng tay cắt ngắn của Robin gõ lên bàn phím. Cách cửa vào phòng làm việc riêng của Strike đóng chặt, che đi cái giường xếp và những dấu vết dựng trại hôm qua, không khí trong văn phòng nồng nặc mùi chanh tổng hợp – Strike đã dùng rất nhiều thuốc xịt phòng rẻ tiền trước khi Robin đến. Sợ Robin nghĩ là hắn để ý đến cô theo kiểu kia khi hắn đến ngồi cùng bàn, Strike giả vờ phát hiện ra chiếc nhẫn đính hôn trước khi ngồi xuống, rồi hỏi han linh tinh lịch sự trong năm phút về hôn phu của cô. Matthew mới có bằng kế toán; để sống chung với Matthew, Robin phải chuyển từ Yorkshire xuống London tháng trước, cô đang nhận việc tạm thời trước khi có việc ổn định.
“Anh nghĩ cô ta có trong những bức hình này không?” Một lúc sau Robin lên tiếng. “Cái cô từ trung tâm điều trị đó?”
Robin vừa mở ra một trang đầy hình ảnh, toàn người mặc đồ đen đang đi theo hướng từ trái sang phải vào đám tang. Hàng rào bao quanh và những gương mặt bị làm mờ của đám đông trở thành phông nền của mỗi bức hình.
Nổi bật hơn cả là tấm hình chụp một cô gái da trắng xanh, rất cao, tóc vàng óng buộc đuôi ngựa, trên đầu cài trang sức bằng lưới và lông chim màu đen. Strike nhận ra ngay Ciara Porter, người đã ở cùng Lula trong ngày trước khi cô lìa đời, cũng là người bạn cùng xuất hiện trong những tấm ảnh nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của Lula. Trong ảnh Porter rất đẹp, buồn rười rượi bước về phía lễ tang. Có vẻ như Porter đi đám tang một mình vì không có bàn tay nào nắm lấy cánh tay dài mảnh khảnh của cô hay đặt lên tấm lưng thon ấy cả.
Bên cạnh hình của Porter là hình một cặp, có chút thích là Frieddie Bestigui, nhà xuất phim và vợ, Tansy. Bestigui trông như con bò tót, chân ngắn, ngực bệ vệ và cổ dày trục. Tóc bạc, gần như húi cua; gương mặt đầy nếp nhăn, những múi thịt chảy xệ và nốt ruồi, cái mũi gồ ra như một khối u. Nhưng trông Bestigui vẫn rất oai vệ trong áo khoác đen, bên cạnh là bà vợ gầy như bộ xương. Không thể thấy rõ mặt Tansy vì cổ áo lông của bà ta lật lên, lại thêm cặp kính râm tròn gọng khủng.
Cuối hàng là Guy Somé, nhà thiết kế thời trang. Somé da đen, gầy, mặc một cái áo khoác dài màu xanh sẫm rất kiểu cách, ôm eo và xòe ra ở dưới. Somé cúi đầu, không thể nhìn rõ nét mặt do ánh sáng chiếu thẳng vào cái đầu trọc, ba cái khuyên tai kim cương to phản chiếu đèn flash từ camera sáng lóe lên. Cũng như Porter, hình như Somé cũng đi một mình dù trong khung hình chụp anh ta cũng lọt vào một nhóm nhỏ người đi viếng không tên tuổi đằng sau.
Strike kéo ghế lại gần màn hình, mặc dù vẫn giữ khoảng cách một cánh tay giữa hắn và Robin. Một gương mặt bị cắt một nửa ngay ở góc hình chụp đám đông, không có chú thích. Strike nhận ra ngay John Bristow, nhờ cái môi trên ngắn và đám răng thỏ. Bristow đứng choàng tay qua một người phụ nữ lớn tuổi trông rất đau khổ. Tóc bà này bạc trắng, gương mặt hốc hác tiều tụy, sự thương khóc không hề che đậy của bà khiến người ta cảm động. Đứng sau hai người là một người đàn ông cao lớn, trông có vẻ kiêu kỳ, dường như đang khinh khỉnh mọi thứ chung quanh.
“Tôi không nghĩ cô ta có trong này,” Robin nói, kéo màn hình xuống, xem thêm nhiều tấm chụp những người xinh đẹp và nổi tiếng, ai cũng có vẻ buồn bã, nghiêm trong. “A… Evan Duffield.”
Duffield mặc áo thun đen, quần jeans đen và áo khoác kiểu lính cũng màu đen. Tóc anh ta cũng đen; gương mặt sắc nét hốc hác, đôi mắt xanh lạnh lùng nhìn thẳng vào ống kính. Tuy cao vượt lên nhưng anh ta trông có vẻ yếu ớt hơn hai người đứng cùng, một người đàn ông mặc complet và một người phụ nữ lớn tuổi trông rất lo lắng. Trong hình bà ta đang mở miệng, tay ra bộ như đang dọn đường phía trước. Bộ ba này khiến Strike nghĩ tới hai bố mẹ đang dắt đứa con nhỏ bị ốm ra khỏi một bữa tiệc. Strike cũng để ý rằng mặc dù trông đau khổ vô phương, Duffield vẫn kẻ mắt khá đậm.
“Nhìn mấy cái hoa kìa!”
Hình của Duffield tuột lên phía trên màn hình và biến mất; Robin dừng lại trước ảnh chụp một vòng hoa khổng lồ mà ban đầu Strike tưởng là hình trái tim, trước khi nhận ra hình hai thiên thần có cánh đứng cùng nhau, toàn hoa hồng trắng. Một tấm ảnh nhỏ đính kèm chụp cái thiệp đi cùng với vòng hoa.
“Hãy yên nghỉ nhé, thiên thần Lula. Deeby Macc,” Robin đọc to.
“Deeby Macc? Tay nghệ sĩ nhạc rap? Vậy là họ có biết nhau à?”
“Tôi không nghĩ thế; nhưng ông này từng thuê một căn hộ trong cùng tòa nhà với Lula; trước kia còn nhắc đến Lula trong vài bài hát nữa. Báo giới rất phấn khích khi nghe ông ta dọn vô đó ở…”
“Cô biết nhiều thật.”
“Chỉ là từ mấy tạp chí này nọ thôi,” Robin đáp qua loa, tay kéo chuột lên xuống trên màn hình đầy ảnh đám tang.
“Deeby, tên tiếc kiểu gì vậy chứ?” Strike buột miệng.
“Từ tên thật của ông này, hai chữ cái đầu viết tắt là D.B mà” Robin giải thích rõ ràng. “Tên thật của ông ta là Daryl Brandom Macdonald.”
“Cô là fan nhạc rap hả?”
“Không,” Robin trả lời, mắt vẫn nhìn lên màn hình. “Tôi chỉ nhớ vậy thôi.”
Cô hết nhấp chuột lên các hình ảnh trên máy rồi lại gõ phím. Strike quay lại với mấy tấm ảnh của hắn. Tấm tiếp theo chụp ông Goeffrey Hook đang hôn cô tóc đỏ, tay sờ nắn một bên mông cô này ngay bên ngoài ga tàu điện Ealing Broadway.
“Trên YouTube có một đoạn phim Deeby Macc nói về Lula sau khi cô ta chết.” Robin nói.
“Xem thử nào” Strike đáp, kéo ghế tới trước vài bước, rồi nghĩ sao đó, lại kéo lùi một bước.
Đoạn băng mờ mờ bắt đầu chuyển động. Trên màn hình xuất hiện một người đàn ông da đen, to lớn, mặc áo thun có mũ, trên ngực áo có hình một nắm đấm đính bằng khuy nhọn. Ông ta ngồi trong ghế bọc da màu đen, đối diện với người phỏng vấn không được quay hình. Tóc Deeby cạo gần hết, mắt đeo kính râm.
“…vụ tự tử của Lula Landry?” Người phỏng vấn giọng Anh, bắt đầu hỏi.
“Vụ đó thật khốn kiếp mà, quá khốn,” Deeby trả lời, tay sờ soạng cái đầu trọc. Giọng ông ta nhẹ nhàng, hơi trầm và khô khan, thoáng chút nói nhịu. “Đó là cách họ đối xử với thành công: họ tìm cho ra, phá cho bằng được. Suy cho cùng là ghen ăn tức ở, anh bạn ạ. Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ. Hãy để cho cô ấy yên, tôi nói thật. Phải đến bây giờ cô ấy mới được yên.”
“Đúng là một màn chào đón khá sốc khi anh tới London,” người phỏng vấn nói “ý tôi là chuyện cô ấy rơi ngang qua cửa sổ nhà anh?”
Deeby Macc không trả lời ngay. Ông ta ngồi im, nhìn chằm chằm vào người phỏng vấn qua đôi kính râm. Rồi ông ta nói:
“Tôi không có mặt lúc đó, ai nói với anh tôi ở nhà?”
Tay phóng viên cười gượng, căng thẳng.
“Trời đất, không không, tôi không có ý đó…”
Deeby quay đầu lại và nói với một người không xuất hiện trong phim.
“Chắc phải gọi luật sư quá?”
“Tay phóng viên lại cười nịnh nọt. Deeby quay lại nhìn anh ta, vẫn không cười gì cả.
“Deeby Macc,” tay phóng viên nói như muốn hết hơi, “cảm ơn anh đã dành thời gian nói chuyện.”
Một bàn tay da trắng đưa ra trên màn hình; Deeby giơ nắm đấm lên. Bàn tay trắng cũng co lại, hai nắm đấm cụng nhau. Có tiếng cười nhạo của một người không có trong hình. Đoạn phim kết thúc.
“Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra ngoài cửa sổ,” Strike lặp lại lời Deeby Macc, kéo ghế về lại chỗ cũ rồi lẩm bẩm “Một ý hay.”
Hắn thấy điện thoại run lên trong túi quần. Hắn rút máy ra. Có tin nhắn mới từ Charlotte. Hắn thấy run cả người, như thể vừa thoáng thấy thú dữ ăn thịt đang chầu chực.
Tôi sẽ ra khỏi nhà vào sáng thứ Sáu từ 9 giờ đến 12 giờ, phòng khi anh muốn quay lại lấy đồ.
“Hả?” Strike hỏi lại, láng máng nghe Robin đang nói gì đó.
“Tôi nói là có một bài rất ghê gớm về mẹ ruột cô ta.”
“Ok, cô đọc đi.”
Hắn bỏ điện thoại vào lại trong túi quần. Cúi đầu nhìn xuống hồ sơ của bà Hook, những suy nghĩ lúc nãy dội lại ong ong như có tiếng cồng vừa vang lên trong đầu hắn.
Charlotte cư xử đàng hoàng một cách đáng ngờ: giả vờ bình tĩnh ra vẻ người lớn. Lần này cô ta dùng một kiểu đối đầu mới, chưa bao giờ có trong tiền sử cãi vã phức tạp của hai người: “Giờ hãy hành xử như người lớn.” Biết đâu cô ta sẽ ở sẵn đó, cầm dao chực sẵn chỉ để đâm ngay vào sau vai hắn khi hắn bước vào; biết đâu hắn sẽ thấy xác cô ta trong phòng ngủ, cổ tay bị rạch, nằm trong một vũng máu đang đông ngay trước lò sưởi.
Giọng Robin vang lên đều đều như tiếng máy hút bụi. Phải cố lắm Strike mới tập trung được.
“…rao bán câu chuyện tình lãng mạn với một thanh niên da đen với hết thảy báo chí muốn mua. Nhưng với hàng xóm của Marlene Higson thì câu chuyện của bà ta chẳng có gì lãng mạn cả.
“Hồi đó bà ta làm gái,’ theo lời Vivian Cranfield, hàng xóm tầng trên của Higson lúc Landry còn nằm trong bụng mẹ. ‘Ngày giờ nào cũng có đàn ông ra vô nhà bà ta. Bà ta không bao giờ biết cha đứa nhỏ là ai, vì ai cũng có thể là tác giả mà. Bà ta cũng chẳng muốn có con. Tôi còn nhớ con nhỏ lẫm đẫm ngoài hành lang, vừa đi vừa khóc, trong khi bà ta còn bận tiếp khách. Lúc đó nó mới bé tí xíu, chỉ mặc mỗi cái bỉm, còn đi chưa vững… chắc có ai đó đã gọi cho bên Bảo trợ Xã hội, cũng còn may. Con bé được nhận nuôi thật là tốt phước.”
“Sự thật này chắc chắn sẽ khiến Landry vô cùng thất vọng, bởi cô từng nói rất nhiều trên báo về chuyện đi tìm lại người mẹ đã sinh ra cô…” Robin giải thích thêm, “bài này viết trước khi Lula chết.”
“Được rồi,” Strike đáp, đột ngột đóng tập hồ sơ rồi hỏi Robin “Đi dạo không?”
2
Camera đường phố bằng cỡ hộp giày đặt trên cột điện, trông có gì đó gian ác, mỗi cái như vậy gắn một con mắt đen trừng trừng vô cảm. Các camera quay theo các hướng đối nhau, dõi theo suốt chiều dài phố Alderbrook sôi động người và xe. Hai bên vỉa hè đầy những cửa hàng, quán bar và tiệm cà phê. Xe buýt hai tầng liên tục ngược xuôi trên làn đường riêng.
“Đây là chỗ Người bỏ chạy của Bristow bị ghi hình,” Strike quan sát, quay lưng về phía đường Alderbrook để nhìn xuống con phố Bellamy yên tĩnh hơn, dẫn thẳng đến những ngôi nhà cao lớn sừng sững như cung điện trong trung tâm khu Mayfair. “Người bỏ chạy đi qua đây mười hai phút sau khi Lula rơi xuống… đây là đường ngắn nhất từ Kentigern Gardens. Xe buýt đêm dừng ở đây. Nhưng chắc tay đó đã gọi taxi. Mặc dù mới giết người mà đi taxi thì không được thông minh lắm.”
Strike lại cắm mặt vào một cuốn sách hướng dẫn chỉ đường “London: Từ A tới Z” đã tơi tả. Hắn có vẻ như chẳng thèm lo lắng sẽ bị nhầm với khách du lịch. Mà có vậy thì cũng chẳng sao, Robin nghĩ thầm, hắn to cao như gấu thế kia.
Trong mấy ngày ngắn ngủi đi làm cho Strike, Robin đã được giao vài việc nằm ngoài hợp đồng thư ký, vậy nên khi Strike rủ đi dạo, cô cũng thấy hơi ngại. Tuy nhiên sau đó cô nhẹ nhõm nhận ra Strike không hề có ý tán tỉnh gì cả. Cuộc đi bộ khá dài, cho tới lúc này hầu như im lặng, Strike chỉ tập trung suy nghĩ và lâu lâu thì nhìn bản đồ.
Khi cả hai đến phố Alderbrook, hắn quay lại nói:
“Nếu cô nhận ra cái gì, hoặc nghĩ ra cái gì mà tôi không thấy được cô sẽ nói với chứ?”
Nghe thật hấp dẫn: Robin luôn tự hào về khả năng quan sát của mình, đây chính là lý do mà cô vẫn còn âm thầm giữ ước mơ làm thám tử như tên to cao đang đứng bên cạnh. Cô quan sát từ đầu đến cuối con đường và cố gắng mường tượng ra cảnh một người đang loay hoay trong đêm tuyết rơi, nhiệt độ dưới không, lúc hai giờ sáng.
“Đi lối này,” Strike lên tiếng khi cô chưa kịp nghĩ ra gì cả, rồi cả hai đi tiếp, dọc theo phố Bellamy. Con phố hơi uốn về phía bên trái với khoảng sáu mươi căn nhà nối tiếp, hầu như giống hệt nhau, căn nào cũng có cửa đen bóng, hàng rào thấp ở hai bên bậc tam cấp trắng sạch sẽ và mấy bụi cây cảnh tỉa tót. Thỉnh thoảng điểm vài nhà có tượng sư tử đá và bảng hiệu nhỏ bằng đồng, ghi tên tuổi nghề nghiệp; đèn chùm lấp lóe ra từ cửa sổ trên lầu. Một cánh cửa đang mở, hé lộ sàn nhà bên trong lót gạch trắng đen như bàn cờ, những bức tranh sơn dầu lồng khung vàng và cầu thang kiểu Georgian.
Strike vừa đi vừa nghĩ tới những thông tin mà Robin tìm được trên mạng lúc sáng. Đúng như Strike nghĩ, Bristow đã không hoàn toàn nói thật khi kể rằng cảnh sát không hề tìm kiếm Người bỏ chạy và kẻ đồng phạm. Giữa vô vàn những bài báo ra liên tục về Landry vẫn có những lời kêu gọi hai người đó ra gặp cảnh sát, nhưng vô vọng.
Khác với Bristow, Strike không nghĩ chuyện này cho thấy cảnh sát bất tài, hay một nghi phạm bị lọt lưới điều tra. Nội chuyện chiếc xe hơi bị báo động có trộm cũng đủ là lý do khiến họ không muốn liên lạc với cảnh sát. Hơn nữa, Strike không chắc Bristow có kinh nghiệm xem các đoạn phim chất lượng không đều từ camera đường phố. Strike từng thấy quá nhiều đoạn băng trắng đen mờ mịt đến nỗi không thể nhìn rõ mặt ai cả.
Strike cũng để ý thấy Bristow không hề nói đến hay ghi chép gì về mẫu AND tìm được trong căn hộ của em gái. Hắn đoán rằng việc cảnh sát loại hai kẻ tình nghi nói trên ra khỏi quá trình điều tra cho thấy không có mẫu AND khác lạ nào được tìm thấy ở hiện trường. Tuy nhiên Strike quá hiểu những kẻ tự nói dối mình như Bristow. Họ sẽ sẵn sàng lờ đi những thứ nhỏ nhặt như AND, hoặc lấy lý do mẫu không sạch, hoặc đổ cho một thứ âm mưu nào đó. Họ luôn lấy thứ họ muốn thấy nhưng lại mù quáng trước những sự thật hiển nhiên trái ý mình.
Những thông tin tìm được sáng nay lại gợi ý thêm một nguyên nhân tại sao Bristow khăng khăng muốn điều tra Người bỏ chạy. Trước đó Lula đã cố đi tìm nguồn gốc thực sự của mình và thậm chí từng tìm ra người mẹ đẻ - một người mà cứ cho là báo chí nói quá đi nữa thì vẫn có phần không đàng hoàng. Những chi tiết trên mạng mà Robin tìm thấy hẳn không dễ nuốt tí nào, không chỉ với Landry mà còn với cả gia đình nhận nuôi cô. Có lẽ chính sự bất ổn tâm lý của Bristow (Strike không thể giả vờ là ông này trông hoàn toàn bình thường) khiến ông ta nghĩ rằng Lula, vì đang quá may mắn mà đã đùa quá tay với số phận? Rằng Lula đã tự chuốc họa vào thân khi đi tìm nguồn gốc của mình; rằng cô ta đã đánh thức một con quỷ dữ từ quá khứ và bị chính nó giết chết? Phải chăng điều đó khiến Bristow bất an khi biết có một người đàn ông da đen ở gần hiện trường?
Strike và Robin tiếp tục đi sâu vào nơi ở của giới lắm tiền nhiều của, dừng lại ở góc phố Kentigern Gardens. Cũng như phố Belllamy, chỗ này toát lên vẻ giàu có kín đáo và lạnh lùng. Nhà cửa ở đây theo kiểu Victoria, cao lớn, tường gạch đỏ viền đá, bệ cửa sổ ốp đá nặng nề trên cả bốn tầng, mỗi cửa sổ đều có một ban công nhỏ cũng bằng đá. Cổng đá trắng hai bên, bậc tam cấp trắng dần từ vỉa hè đến những cánh cửa đen bóng. Mọi thứ đều gọn gàng, sạch sẽ, được chăm sóc cẩn thận và tốn kém. Quanh đó chỉ có vài chiếc xe đậu. Một tấm biển nhỏ thông báo phải có giấy phép mới được đậu xe trong khu này.
Không còn hàng rào cảnh sát và đám nhà báo, tòa nhà số 18 lui về tĩnh lặng, y như những tòa nhà chung quanh.
“Cô ta rơi xuống từ ban công tầng trên cùng,” Strike lên tiếng, “khoảng mười hai mét.”
Hắn quan sát kỹ mặt tiền đẹp đẽ của tòa nhà. Robin nhận thấy ban công ở ba tầng trên cùng đều rất đẹp, hầu như không có chỗ đứng giữa lan can và cửa sổ.
“Vấn đề ở chỗ,” Strike nói với Robin, mắt nheo lại nhìn ban công phía trên, “bị xô từ trên đó xuống không đảm bảo chết được.”
“Ô - không lý nào?” Robin phản đối, trong đầu tính toán cú rơi từ trên ban công cao nhất xuống mặt đường cứng.
“Cô không biết đâu. Tôi từng nằm viện một tháng với một thằng cha người xứ Wales, cũng bị rơi từ tầm cao như vậy sau khi bom nổ. Gãy dập chân và xương chậu, xuất huyết bên trong khá nhiều nhưng tới giờ vẫn sống.”
Robin liếc nhìn Strike, tự hỏi tại sao hắn lại phải nằm viện một tháng; nhưng gã thám tử đang mải nghĩ chuyện khác, chăm chăm nhìn cánh cửa ra vào.
“Khóa mật mã,” hắn lẩm bẩm, xem xét bàn phím nhỏ bằng kim loại gắn trên cửa, “có một camera đặt ngay trên cửa. Bristow không nhắc tới camera. Có lẽ mới lắp.”
Hắn đứng đó vài phút, trong đầu liên tục thử những giả thuyết khác nhau trước mặt tiền gạch đỏ của cái pháo đài giàu có này. Tại sao Lula lại chọn sống ở đây? Kentigern Gardens yên tĩnh, truyền thống và bảo thủ hẳn là phù hợp với một thể loại nhà giàu khác: mấy ông trùm người Nga và Ả Rập; các tay giám đốc đi về giữa thành phố và tư trang ở nông thôn; mấy bà giàu có cô độc sắp chết già giữa những bộ sưu tập nghệ thuật. Hẳn thấy chỗ này thật là một sự lựa chọn lạ lùng đối với Lula, một cô gái mới hai mươi ba tuổi. Theo như thông tin Robin tìm được lúc sáng, Lula có một đám bạn sành điệu, nghệ sĩ, phong cách bụi bặm đường phố chứ không hề chải chuốt kiểu thượng lưu.
“Trông rất là kiên cố an toàn nhỉ?” Robin nói.
“Ừ, đúng thế. Đó là chưa nói tới đám paparazzi chầu chực suốt đêm hôm đó.”
Strike đứng dựa lưng vào hàng rào màu đen của tòa nhà số 23, nhìn chăm chăm vào nhà số 18. Cửa sổ căn hộ của Landry cao hơn hẳn so với cửa sổ ở các tầng khác, ban công không đặt chậu cây cảnh nào cả. Strike rút gói thuốc lá từ trong túi ra mời Robin; cô lắc đầu, hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy Strike hút thuốc trong văn phòng. Bật lửa đốt thuốc, rít một hơi dài, mắt vẫn nhìn vào cánh cửa, Strike tiếp tục nói:
“Bristow nghĩ là hôm đó có ai lẻn vào rồi ra mà không bị phát hiện.”
Thấy ngôi nhà có vẻ bất khả xâm phạm, Robin đoán ắt hẳn Strike sắp sửa chê bai giả thuyết của Brisrow, nhưng cô lầm.
“Nếu đúng vậy,” Strike nói tiếp, mắt vẫn dán vào cửa, “ắt hẳn tay đó đã lên kế hoạch từ trước, rất kỹ. Không ai có thể đi qua đám phóng viên, một cái khóa mật mã, một người bảo vệ và một cánh cửa đóng chặt bên trong, rồi lại mò được trở ra mà chỉ nhờ may mắn. Vấn đề là,” hắn gãi cằm, “tính toán trước kiểu đó không ăn khớp với một vụ giết người bừa thế này.”
Robin cảm thấy Strike nói năng hơi bị tàn nhẫn.
“Xô người ta xuống ban công trong một giây mất trí,” Strike nói tiếp, cứ như hắn đang đọc suy nghĩ của cô. “ắt hẳn phải vô cùng giận dữ, đến nỗi mù quáng.”
Hắn thấy Robin khá là dễ chịu nhẹ nhàng, không chỉ vì cô ta nuốt lấy từng lời của hắn, không làm gián đoạn sự yên tĩnh, mà còn vì chiếc nhẫn sapphire trên tay cô như một dấu chấm hết gọn gàng: giữa hai người không có thể có gì hơn cả. Rất thích hợp với hắn lúc này. Hắn tha hồ tung hứng khoe tài, theo kiểu nhẹ nhàng từ tốn – một trong những thú giải khuây ít ỏi còn lại của hắn.
“Nhưng nếu kẻ sát nhân đã ở bên trong từ trước?”
“Khả năng đó cao hơn,” Strike đáp, Robin thấy vui vui. “Và nếu tên sát nhân đã ở sẵn trong đó thì chúng ta có vài lựa chọn: ông bảo vệ, một trong hai hay cả hai vợ chồng Bestigui, hay một người khác trốn trong tòa nhà mà không ai hay biết. Nếu là ông bảo vệ hay cặp Bestigui thì rõ là không có vẫn đề gì về chuyện đi ra đi vào; họ chỉ cần quay lại vị trí trước đó. Nhưng với những người này, hành động như vậy rủi ro ở chỗ Lula vẫn có thể còn sống và đi tố cáo. Nhưng giết chóc kiểu nóng nảy, không tính toán như vậy thì có vẻ phù hợp với mấy đối tượng này hơn. Hàng xóm cãi nhau rồi xô xuống lầu chẳng hạn.”
Strike hút thuốc và tiếp tục quan sát mặt tiền tòa nhà, đặc biệt là khoảng cách giữa cửa sổ tầng một và tầng ba. Hắn nghĩ tới Freddie Bestigui, nhà sản xuất phim. Theo như thông tin Robin tìm được trên internet, lúc Lula rơi xuống Bestigui vẫn đang ngủ trên giường. Chuyện vợ của Bestigui hét lên báo động và liên tục nói rằng kẻ sát nhân vẫn còn ở trên lầu khi ông chồng đã tỉnh dậy cho thấy bà ta không nghĩ ông này là thủ phạm. Tuy vậy, Freddie Bestigui vẫn là đối tượng ở gần Lula nhất khi án mạng xảy ra. Kinh nghiệm của Strike cho thấy người ngoài thường chỉ nghĩ tới động cơ, nhưng với dân trong nghề thì cơ hội ra tay mới là hàng đầu.
Robin hỏi, vô tình khẳng định suy nghĩ của Strike.
“Nhưng tại sao lại đi gây lộn với cô ta vào lúc nửa đêm? Mà cũng đâu có nghe nói gì chuyện cô ta không thuận hòa với hàng xóm? Và rõ là Tansy Bestigui không thể là thủ phạm, đúng không? Vì nếu phải thì tại sao bà ta lại chạy xuống nhà dưới và báo cho bảo vệ?”
Strike không trả lời trực tiếp; hắn vẫn đuổi theo suy nghĩ của mình, một lúc sau, hắn mới mở miệng:
“Bristow tập trung vào quãng thời gian mười lăm phút ngay sau khi em gái ông ta đi vào bên trong tòa nhà, khi đám phóng viên đã bỏ đi và ông bảo vệ thì bị đau bụng không còn ngồi ở bàn trực. Có nghĩa là khi đó sảnh lễ tân để trống – nhưng làm sao người đứng ở ngoài biết được lúc đó Wilson không còn ngồi ở bàn? Cửa chính đâu có gương.
“Hơn nữa,” Robin nhanh nhảu cắt ngang, “muốn vào còn phải biết mật mã trên khóa.”
“Nhiều người khá bất cẩn. Trừ phi bảo vệ thay đổi mật mã thường xuyên, còn không rất nhiều người không liên quan vẫn xoay xở biết được mật mã. Xuống dưới kia xem sao.”
Họ im lặng đi hết khu Kentigern Gardens, nơi đó có một ngõ hẹp, chạy theo góc xéo ngay sau tòa nhà của Landry. Strike thấy hơi buồn cười vì cái ngõ có tên là Serf’s Wat (Ngõ Nông Nô). Ngõ này chỉ vừa đủ một chiếc xe hơi lọt qua nhưng có khá nhiều đèn đường và không có chỗ nào để trốn vì hai bên mặt đường lát sỏi là những bức tường sừng sững cao lớn, phẳng lì. Cuối ngõ là hai cánh cổng vận hành tự động chắn lối vào bãi đậu xe tầng hầm cho cả khu Kentigern Gardens.
Khi áng chừng đã đến sau lưng nhà số 18, Strike nhảy một phát lên tường, rướn người lên nhìn vào mấy khu vườn nhỏ được cắt tỉa cẩn thận. Giữa các bãi cỏ xanh mướt gọn gàng trước mỗi nhà là cầu thang đi xuống tầng hầm. Strike luận ra nếu muốn leo vào từ phía sau thì phải có thang, hoặc có một người giúp và vài đoạn dây thừng chắc chắn.
Hắn trượt xuống, khẽ rên một tiếng đau đớn khi cả trọng lượng cơ thể rơi lên chân giả.
“Không sao”, hắn nói khi Robin xuýt xoa; Robin nhìn thấy chân hắn hơi cà nhắc, cô lo là hắn bị trặc cổ chân.
Mặt đường lát sỏi làm vết trầy ở chỗ chân cụt rất đau đớn. Khớp cổ chân giả cứng nhắc làm Strike không dễ gì đi trên mặt đường gồ ghề. Hắn rầu rĩ tự hỏi liệu cú nhảy lên tường vừa rồi có đáng không. Robin xinh thì xinh thật, nhưng chẳng thể nào so sánh nổi với người đàn bà hắn mới bỏ.
3
“Em có chắc cha đó là thám tử không? Chắc không? Thám tử kiểu đó ai làm chẳng được. Ai mà không biết google.”
Matthew đang cáu kỉnh sau một ngày làm việc lê thê, một khách hàng khó tính và cuộc họp không ra gì với sếp mới. Anh không còn tâm trạng nào nghe Robin ca ngợi Strike, rất là ngây thơ và không đúng lúc.
“Ổng đâu có google gì,” Robin trả lời. “Em mới là người google trong khi ổng giải quyết một vụ khác.”
“Nghe chẳng hay ho gì cả. Cha này ngủ luôn trong văn phòng, em không nghĩ ở đây có gì kỳ kỳ hả Robin?”
“Em đã kể với anh rồi, chả mới bị bồ đá còn gì.”
“Ờ, không đá mới lạ” Matthew đáp.
Robin chồng hai cái đĩa lên nhau rồi bước ra khỏi bếp. Cô đang giận Matthew, mà cũng hơi bực Strike nữa. Đang hứng thú với việc tìm kiếm người quen của Lula Landry trên mạng, giờ nghe Matthew nói một hồi, cô ngờ ngợ nhận ra Strike đã giao cho cô một công việc vô ích, chỉ để giết thời gian.
“Nghe này, anh không có ý gì cả,” Matthew đứng ở cửa bếp nói với ra. “Anh chỉ nghĩ cha này nghe có vẻ kỳ kỳ. Rồi tự nhiên còn rủ người ta đi dạo nữa?”
“Không phải đi dạo mát kiểu đó, Matt. Tụi em đi tới hiện trường… tới chỗ mà thân chủ có nghi ngờ.”
“Robin, không cần phải bí hiểm vậy đâu” Matthew cười phá lên.
“Em đã ký cam kết giữ bí mật,” cô quay lại, gằn giọng. “Em không thể kể gì về vụ án.”
“Lại còn vụ án nữa.”
Matthew lại bật cười giễu cô.
Robin đi quanh trong bếp, bỏ mọi thứ vào tủ, đóng sầm mấy cánh cửa tủ lại. Một lúc sau, ngắm cô đi lại trong bếp, Matthew tự nhiên thấy anh đã hơi quá. Anh đi tới sau lưng Robin khi cô đang đổ đồ ăn thừa vào thùng rác, choàng tay cô, dụi mặt vào cổ Robin và vuốt ve vết bầm mà Strike đã gây ra – vụ này làm Matthew càng không ưa nổi Strike. Anh thì thầm mấy câu làm hòa vào mái tóc màu mật ong của Robin, nhưng cô ấy đẩy anh ra, tiếp tục bỏ đĩa vào bồn rửa chén.
Robin cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Ít ra Strike còn quan tâm tới những thứ cô tìm được trên mạng. Strike còn biết cảm ơn những việc cô làm.
“Tuần tới em đi phỏng vấn mấy chỗ làm chính thức nữa?” Matthew hỏi, lúc Robin vừa vặn vòi nước lạnh.
“Ba,” Cô hét trong tiếng nước chảy, dằn dỗi kỳ cọ mấy cái đĩa.
Cô đợi cho Matthew đi hẳn vào phòng khách rồi mới tắt nước. Tự nhiên, cô thấy một mảnh đậu Hà Lan đông lạnh bé xíu bị dính vào mặt chiếc nhẫn đính hôn.
4
Strike tới nhà Charlotte lúc chín giờ rưỡi sáng thứ Sáu. Như vậy Charlotte đã có nửa tiếng để đi hẳn, nếu quả là cô ta có ý định ra khỏi nhà thật chứ không nằm đó đợi hắn. Những toà nhà trắng lịch lãm, to lớn đứng hai bên đường; hàng cây tiêu huyền; tiệm bán thịt cứ như chưa bao giờ thay đổi từ những năm 50 rồi đến cả những nhà hàng sang trọng; tất cả đều có vẻ gì đó không thật và gượng ép đối với Strike. Có lẽ từ lâu hắn cũng biết rằng hắn không thể ở đây mãi, rằng hắn không thuộc về nới này.
Cho tới khi mở cửa vào nhà, Strike vẫn nghĩ Charlotte đang chờ sẵn; vậy mà khi bước qua bậc cửa, hắn biết rõ không có ai ở nhà cả. Sự im lặng làm những căn phòng trống trở lên lạnh lùng hờ hững, tiếng bước chân Strike nghe cũng to hơn khi hắn đi vào phòng khách.
Bốn cái thùng giấy đặt ngay giữa phòng, mở ra, sẵn sang cho hắn kiểm tra. Mớ đồ đạc rẻ tiền tiện dụng chồng lên nhau như mấy món lạc xoong. Hắn cầm lên vài thứ để xem kỹ bên trong, nhưng không có gì bị đập bể, xé nát hay đổ sơn lên cả. Bằng tuổi hắn, người ta có những thứ như nhà cửa, máy giặt, xe hơi, đầu máy TV, đồ nội thất, vườn tược, xe đạp leo núi và máy cắt cỏ: còn hắn chỉ vỏn vẹn bốn cái thùng toàn đồ tạp nham và một mớ kỷ niệm rối rắm.
Căn phòng khách tĩnh lặng toát lên vẻ sang trọng lịch lãm với những tấm thảm cổ xưa và bức tường hồng nhạt; bàn ghế gỗ sậm màu tinh tế và những kệ sách đầy ắp. Thay đổi duy nhất mà Strike nhận ra là ở chiếc bàn con mặt gương đặt cạnh ghế sofa. Tối Chủ nhật trên đó còn đặt tấm ảnh chụp hắn với Charlotte đang cười trên bãi biển ST Mawes. Giờ đây trong khung ảnh bạc đó là một tấm ảnh chân dung trắng đen chụp người cha quá cố của Charlotte đang cười hiền hậu nhìn Strike.
Trên bệ lò sưởi treo một bức chân dung sơn dầu vẽ Charlotte mười tám tuổi. Gương mặt thiên thần, tóc mây dài đen. Gia đình cô thuộc kiểu bỏ công đặt họa sĩ vẽ chân dung con cái: hoàn toàn xa lạ với xuất thân của Strike, cứ như một xứ sở xa xôi nguy hiểm nào đó. Nhưng cũng từ Charlotte hắn biết được rằng tiền bạc cũng có thể đi kèm với đau khổ và man rợ. Gia đình của Charlotte – những ngươi lịch lãm sang trọng, khéo ăn nói, học thức và đôi lúc màu mè, có khi còn điên rồ và lạ lùng hơn gia đình của hắn. Đó cũng chính là thứ gắn kết hai người khi hắn và Charlotte đến với nhau.
Một ý nghĩ lạc lõng xuất hiên trong đầu Strike khi hắn nhìn bức chân dung: có lẽ đây mới là lý do tồn tại của bức tranh: nó ở đó chỉ để một ngày kia, đôi mắt to màu xanh hạt dẻ sẽ nhìn theo hắn lủi thủi ra khỏi nhà. Không biết Charlotte có tính trước đến cảm giác của hắn khi đi loanh quanh trong nhà mà luôn bị cặp mắt trong tranh dõi theo? Không biết cô ta có nhận ra rằng bức chân dung kia còn đáng sợ hơn cả người thật?
Hắn quay lưng, vào những căn phòng khác, nhưng Charlotte đã dọn hết mọi thứ. Mọi dấu vết của hắn, từ hộp chỉ nha khoa tới đôi giày lính đều đã được thu gom lại bỏ vào thùng. Hắn nhìn phòng ngủ một hồi lâu, căn phòng cũng như đang nhìn lại hắn, ván sàn gỗ màu tối, màn cửa trắng và bàn trang điểm tinh tế, tất cả toát lên vẻ yên tĩnh, điềm đạm. Giường ngủ, cũng như bức chân dung, giờ đây trở thành một nhân vật đang hiện diện, đang thì thầm với hắn Còn nhớ những gì đã xảy ra ở đây không, sẽ không bao giờ có lại nữa.
Hắn lần lượt khiêng bốn cái thùng ra cửa. Khi đến cái cuối cùng, hắn bắt gặp ông hàng xóm hay cười đãi bôi đang khóa cửa. Ông ta mặc áo chơi bóng bầu dục, cổ áo bẻ lên, lúc nào cũng chực để cười mỗi khi Charlotte nói gì đó chỉ hơi dí dỏm.
“Dọn dẹp hả?” ông ta hỏi.
Strike đóng sầm cửa lại.
Hắn đứng trước gương lớn trong phòng khách, tháo chìa khóa nhà ra khỏi chùm chìa khóa rồi cẩn thận đặt xuống ngay bên cạnh bát hoa khô trên chiếc bàn hình bán nguyệt. Trong gương, bộ mặt của hắn nhăn nhó và dơ dẩn; mắt bên phải vẫn còn sưng lên; nửa vàng nửa tím. Trong yên lặng, tiếng nói từ mười bảy năm trước vọng lên trong đâu hắn: “Làm quái gì mà một đứa như mày vớ được con đó hả Strike?” Chính hắn cũng không tin được, ngay lúc này đây, khi hắn đang đứng trong căn phòng khách mà hắn sẽ không bao giờ thấy lại nữa.
Một giây điên khùng thoáng qua, giống như năm ngày trước khi hắn quyết định đuổi theo cô ta: hay là cứ ở lại, ngồi đợi Charlotte về; rồi nắm tay cô mà nói “Mình hãy thử lại một lần nữa.”
Nhưng đã thử rồi, thử đi thử lại, và lúc nào cũng vậy, khi đã bớt quyến luyến nhớ nhung, bóng ma xấu xí của quá khứ lại trồi lên, che phủ tất cả những gì họ cùng bồi đắp.
Hắn đóng cửa lần cuối. Ông hàng xóm nhiều chuyện đã đi mất. Strike nhấc bốn cái thùng đi xuống bậc tam cấp ra đến vỉa hè, chờ vẫy taxi.
5
Strike có nói trước với Robin hắn sẽ đến văn phòng muộn vào ngày làm việc cuối cùng của cô. Hắn đưa trước chìa khóa dự phòng để cô mở cửa.
Robin hơi tủi thân khi Strike nói từ “ngày cuối cùng” cứ như không. Như thể Strike đếm từng ngày cho tới khi cô nghỉ, mặc dù hai người rất hợp nhau – đương nhiên theo kiểu đàng hoàng đúng mực. Văn phòng đã trở nên ngăn nắp gọn gàng hơn bao nhiêu, nhà vệ sinh cũng sạch sẽ hơn, chuông cửa tầng dưới trông tươm tất lên nhiều sau khi cô lột mẩu giấy ghi tên nguệch ngoạc ra (cô tốn nửa tiếng đồng hồ và gãy hai cái móng tay mới cạy ra hết) và thay bằng một cái bảng tên in, bọc nhựa gọn gàng. Robin ghi lại đầy đủ tin nhắn, lại còn có thể thảo luận sắc sảo với hắn về tên sát nhân mà nhiều khả năng là không có thật trong vụ Lula Landry. Vậy mà Strike đếm từng ngày chỉ để tống cô đi.
Nhưng Strike rõ là đang túng tiền. Hắn chỉ có hai thân chủ; hình như là không có nhà cửa gì (Matthew liên tục nhắc cô chuyện đó, cứ như ngủ trong văn phòng là dấu hiệu bần hàn cùng cực); Robin cũng hiểu Strike cho cô nghỉ là hợp lý. Nhưng cô không trông gì tới ngày thứ Hai tới. Một văn phòng mới (Giải pháp Tạm thời đã gọi điện nhắn tin trước địa chỉ); một cơ quan sáng sủa, gọn gàng, bận rộn, chắc chắn là đầy đàn bà con gái nhiều chuyện như những chỗ khác, ai cũng làm những việc chẳng dính dáng gì đến cô. Robin không tin là có án mạng thật, cô biết Strike cũng không tin, nhưng cô thấy việc chứng minh điều đó thật thú vị.
Robin rất thích công việc tuần vừa rồi, mặc dù cô không thể thú thật với Matthew. Thậm chí cả việc gọi điện mỗi ngày hai lần tới hãng BestFilm của Freddie Bestigui chỉ để bị nghe từ chối cũng khiến cô thấy mình thật quan trọng, một cảm giác cô chưa bao giờ có được trong những công việc trước đó. Robin luôn thích tìm hiểu suy nghĩ của người khác: cô từng theo học tâm lý ở Đại học và chỉ vì một sự cố bất ngờ mà phải bỏ giữa chừng.
Mười giờ rưỡi, Strike vẫn chưa về, nhưng một người phụ nữ to lớn mặc áo khoác cam đội mũ len tím xuất hiện. Bà ta mỉm cười hồi hộp. Đây là bà Hook, một cái tên khá quen thuộc với Robin, cũng chính là khách hàng duy nhất của Strike, ngoài Bristow. Robin mời bà Hook ngồi và đi pha trà. (Sau khi nghe Robin lúng túng tả lại cha Crowdy hơi bị ba lăm ở tầng dưới, Strike đã đi mua mấy cái tách rẻ tiền và một hộp trà cho văn phòng)
“Tôi biết là mình đến sớm,” bà Hook nhắc lại lần thứ ba, kề môi vào tách nhấp từng ngụm trà nóng tí xíu. “Tôi chưa gặp cô bao giờ, cô mới vô hả?”
“Tôi chỉ làm tạm thời thôi.” Robin trả lời.
“Chắc cô cũng đoán được rồi, chuyện chồng tôi.” Bà Hook nói tiếp, không thèm để ý gì. “Tôi đoán chắc cô đã gặp nhiều người như tôi. Lúc nào cũng muốn biết khả năng xấu nhất. Tôi cứ sợ mãi. Nhưng tốt nhất là nên biết rõ, phải không cô? Tôi cứ nghĩ chắc Cormaran đã đến rồi. Anh ta đang đi làm vụ khác hả?”
“Vâng đúng rồi,” Robin nói, mặc dù cô nghi Strike thực ra đang làm việc gì đó liên quan tới cuộc sống riêng tư bí ẩn của hắn; vì lúc dặn trước cô là sẽ đến trễ hắn tỏ ra khá né tránh.
“Cô biết bố của anh ấy là ai không?” Bà Hook hỏi.
“Không, tôi không biết gì cả.” Robin trả lời, nghĩ bà ta đang nói đến ông bố chồng.
“Jonny Rokeby,” Bà Hook hào hứng đáp
“Jonny Rokeby,”
Robin nín thở, vừa kịp nhận ra bà ta đang nói đế bố ruột của Strike thì thoáng thấy bộ dạng to lớn của hắn phía bên kia cửa gương. Cô thấy hắn đang ôm một vật gì rất lơn.
“Phiền bà đợi chút,” Cô nói.
“Có chuyện gì vậy?” Strike hỏi, liếc mắt xung quanh, tay vẫn ôm thùng giấy khi Robin chạy vọt ra ngoài cửa gương và kịp đóng lại ngay.
“Bà Hook tới rồi,” cô thì thầm.
“Chết mẹ. Sớm cả tiếng đồng hồ.”
“Tôi biết. Tôi nghĩ chắc anh muốn, ừm, dọn phòng lại trước khi mời bả vô làm việc.”
Strike đỡ cái thùng xuống sàn nhà.
“Tôi phải mang hết đám này vô, vẫn còn ở ngoài đường.”
“Để tôi giúp,” Robin sốt sắng.
“Không được, cô cứ trở vô trong nói chuyện câu giờ. Bà đang học làm gốm và nghi ngờ ông chồng ngủ với kế toán.”
Strike đi cà nhắc xuống cầu thang, để lại cái thùng bên cửa gương.
Jonny Rokeby, thật vậy sao?
“Anh ấy đang trên đường về,” Robin nhanh nhảu nói với bà Hook rồi ngồi lại ngay ngắn vào bàn. “Anh Strike có kể bà đang học làm gốm sứ. Tôi cũng đang muốn học…”
Trong năm phút sau đó, Robin giả vờ lắng nghe bà ta kể chuyện lớp học làm gốm, chuyện anh thầy dễ thương rất hiểu học sinh. Cánh cửa gương mở ra. Strike bước vào, không ôm theo cái thùng nào cả, mỉm cười lịch sự với bà Hook. Bà ta đứng bật dậy chào hắn.
“Ôi Cormoran, mắt anh sao thế?” bà ta nói “Bị đánh à?”
“Không phải” Strike đáp. “Phiền bà đợi một chút để tôi đi lấy hồ sơ.”
“Tôi biết tôi tới quá sớm, Cormoran, tôi thật ái ngại… Nhưng tối qua tôi không tài nào ngủ được…”
“Để tôi dọn cái tách cho bà,” Robin sốt sắng và kịp thời đánh lạc hướng vị thân chủ. Bà Hook không kịp liếc nhìn văn phòng bên trong của Strike để thấy cái giường xếp, túi ngủ và ấm đun nước.
Vài phút sau, Strike xuất hiện, sực nức mùi chanh tổng hợp, bà Hook đi theo vào phòng Strike, mặt mày lo lắng căng thẳng nhìn Robin. Cánh cửa đóng lại.
Robin ngồi xuống bàn. Cô đã mở hết thư từ sáng nay. Cô lắc lư trên cái ghế xoay; rồi xích lại gần máy tính, mở trang từ điển bách khoa Wikipedia. Với vẻ lơ đễnh, cứ như vô tình, cô gõ hai từ: Rokeby Strike.
Trang Wiki hiện ra ngay lập tức, đầu trang là tấm ảnh đen trắng của một người đàn ông nổi tiếng bốn thập kỷ qua, ai nhìn cũng biết. Jonny Rokeby mặt dài cằm nhọn, cặp mắt hoang dã, rất dễ vẽ thành tranh biếm họa; mắt trái hơi xếch do bị lác nhẹ; miệng mở to gào vào micro, mồ hôi chảy ròng ròng, tóc bay trong gió.
Jonathan Leonard “Jonny” Rokeby, sinh tháng Tám năm 1948, là ca sĩ chính trong ban nhạc The Deadbeats của thập niên 70, từng được đưa vào bảo tàng Rock and Roll Hall of Fame, đạt nhiều giải Grammy…
Trông Strike chả có gì giống ông này cả; ngoại trừ hai con mắt đang không bằng nhau, mà đó chỉ là tạm thời.
Robin kéo màn hình xuống:
… album được đĩa bạch kim Hold It Back năm 1975. Chuyến lưu diễn thành công kỷ lục ở Mỹ bị gián đoạn sau vụ phát hiện ma túy ở LA và vụ bắt giữ tay guitar mới David Carr, người từng…
tới chỗ Đời sống cá nhân:
Rokeby từng kết hôn ba lần: lần đầu (1969 – 1973) với người bạn học cùng trường nghệ thuật Shirley Mullens, và có một con gái là Maimie; lần thứ hai (1975 – 1979) với người mẫu, diễn viên, nhà hoạt động nhân quyền Carla Astolfi, có hai con gái là phóng viên truyền hình Gabriella Rokeby và nhà thiết kế trang sức Daniella Rokeby, và lần thứ ba (1981 – hiện tại) với nhà sản xuất phim Jenny Graham, có hai người con trai là Edward và Al. Rokeby còn có một con gái là Prudence Donleavy với diễn viên Lindsey Fanthrope và một con trai là Cormoran với Leda Strike, một fan nữ cuồng nổi tiếng hồi những năm 70.
Bỗng có tiếng hét inh tai từ phòng Strike. Robin bật người dậy, chiếc ghế trượt ra xa. Tiếng hét mỗi lúc mỗi to và buốt óc hơn. Robin chạy ngay đến trước phòng Strike, mở cửa.
Bà Hook đã cởi bỏ áo khoác cam và mũ len màu tím, bên trong mặc áo in hoa trông như kiểu áo tạp dề mặc khi làm gốm, phủ xuống quần jeans. Bà ta đang nhảy bổ vào Strike rồi đấm thùm thụp lên ngực hắn, trong khi miệng vẫn rít lên như ấm nước đang sôi. Bà ta hét lên một hồi cho đến khi hết hơi phải ngừng lại.
“Kìa bà Hook!” Robin la lên, rồi chạy lại kéo hai cánh tay mập mạp của bà về phía sau, cố đỡ bớt cho Strike. Bà Hook trông vậy mà khỏe thật; mặc dù phải dừng lại mấy hơi, bà ta vẫn tiếp tục đấm Strike cho tới khi không còn cách nào khác, gã phải chụp lấy cả hai cổ tay của bà đưa lên.
Lúc này bà Hook mới chịu buông Strike ra rồi quay sang ôm chầm lấy Robin mà tru lên như chó.
Robin vỗ vỗ vào lưng bà ta rồi từ từ dìu ra văn phòng phía ngoài.
“Không sao, không sao mà,” Robin vừa nhẹ nhàng nói vừa đỡ bà ngồi xuống ghế sofa. “Để tôi lấy cho bà một tách trà. Không sao hết.”
“Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà.” Strike an ủi một câu rất chi là đúng mực, vẫn đứng nguyên chỗ cửa phòng trong. “Nghe những chuyện như vậy thật không dễ chút nào.”
“Tôi cứ ngh– nghĩ là Valerie,” Bà Hook rên hư hử, tay ôm lấy đầu tóc bù xù, đau khổ lắc người trên ghế sofa. “Tôi cứ ngh– nghĩ là Valerie, chứ không phải là đứa… không phải là đứa em ruột của tôi.”
“Để tôi đi lấy trà!” Robin thì thầm, hoảng hốt.
Cầm ấm đun nước đi tới gần cửa Robin mới sực nhớ ra trang Wiki về Jonny Rokeby còn nằm chình ình trên máy tính. Đang lúc nước sôi lửa bỏng như thế này mà chạy vào chỉ để tắt màn hình máy tính thì thật kỳ cục, Robin hi vọng Strike mải loay hoay với bà Hook sẽ không để ý thấy.
Bốn mươi phút sau đó bà Hook cũng uống xong tách trà thứ hai và khóc hết nửa cuộn giấy vệ sinh mà Robin “mượn tạm” từ toilet. Cuối cùng bà ta đi về, tay ôm chặt hồ sơ đầy những tấm ảnh chứng cứ và mục lục ghi rõ thời gian địa điểm của từng tấm. Ngực bà ta phập phồng nức nở, tay vẫn không ngừng quẹt nước mắt.
Strike chờ cho bà Hook đi đến cuối đường rồi mới ra khỏi văn phòng, vừa đi vừa nhân nga. Strike mua bánh mì về cho cả hai ăn trưa. Hai người vui vẻ ngồi ăn cùng nhau ở bàn Robin. Đó cũng là cử chỉ thân thiện nhất mà Strike dành cho cô trong suốt tuần qua, Robin chắc chắn hắn làm vậy vì biết cô sắp biến.
“Cô biết chiều nay tôi đi phỏng vấn Derrick Wilson không?” Strike hỏi.
“Ông bảo vệ bị đau bụng.” Robin đáp “Tôi nhớ.”
“Lúc tôi về thì chắc cô cũng xong việc rồi, vện nên tôi sẽ ký giấy ngày công cho cô trước rồi mới đi. Robin, cảm ơn cô nhiều về vụ lúc nãy…”
Strike hất đầu về phía cái ghế sofa, giờ không còn ai ngồi khóc lóc nữa.
“Không có gì. Tội nghiệp bả.”
“Ừ. Dù sao thì giờ bả cũng có chứng cứ. Và còn nữa,” hắn nói tiếp, “cảm ơn cô vì tất cả những việc cô làm tuần rồi.”
"Công việc của tôi mà." Robin nhẹ nhàng nói.
“Nếu tôi đủ tiền thuê thư ký… nhưng tôi nghĩ kiểu gì cô cũng sẽ kiếm được một việc lương cao, làm thư ký cho tay giám đốc cỡ bự nào đó.”
Robin bỗng thấy bị xúc phạm kỳ lạ.
“Tôi đâu có muốn làm mấy việc kiểu vậy.”Cô đáp.
Trong thoáng chốc cả hai đều im lặng, căng thẳng.
Strike cũng phải đấu tranh dữ dội lắm. Viễn cảnh bàn Robin bị để trống khá là u ám: có cô trong văn phòng hắn thấy rất nhẹ nhàng dễ chịu, Robin lại rất lanh lẹ được việc; nhưng tốn tiền chỉ để có người ngồi cùng thì thật kỳ cục, nếu không nói là phí phạm, hắn đâu phải đại gia giàu có gì? Giải pháp Tạm thời luôn chém đẹp tiền công tuyển dụng; thuê Robin lúc này quá xa xỉ với hắn. Strike còn thấy ấn tượng hơn với Robin ở chỗ cô không hỏi han gì về cha hắn (Strike đã kịp nhìn thấy trang Wiki về Jonny Rokeby trên màn hình). Với Strike điều này cho thấy khả năng tự kiềm chế khác thường, cũng là tiêu chuẩn mà Strike hay dùng để đánh giá người mới quen. Nhưng gì thì gì, thực tế vẫn hết sức lạnh lùng: Robin phải ra đi.
Cảm giác của Strike bây giờ giống như lúc nhỏ, khi hắn mới mười một tuổi, tình cờ bẫy được một con rắn cỏ trong cánh rừng Trevaylor và liên tục nài nỉ mợ Joan: “Cho con giữ nuôi đi mà… con xin mợ…”
“Tôi phải đi đây,” hắn nói, sau khi đã ký giấy ngày công cho Robin và vứt giấy gói bánh mì cùng với vỏ chai nước vào thùng rác dưới bàn. “Cảm ơn cô nhiều, Robin. Chúc cô tìm việc may mắn.”
Hắn với tay lấy áo khoác rồi mở cửa gương đi ra.
Khi tới đầu cầu thang, ngay chỗ mà hôm trước hắn suýt chút nữa giết Robin và ngay sau đó cứu mạng cô, tự nhiên hắn dừng lại. Giác quan thứ sáu như chú cún con đang cắn quần giữ hắn.
Cánh cửa gương mở ra ngay sau lưng Strike. Hắn quay lại. Robin xuất hiện, mặt ửng hồng.
“Anh Strike,” cô lên tiếng. “Chúng ta có thể thỏa thuận riêng, không cần thông qua Giải pháp Tạm thời, anh có thể trả công trực tiếp cho tôi.”
Hắn do dự.
“Làm vậy họ sẽ ghét cô. Lần sau họ sẽ không tìm việc cho cô nữa.”
“Không sao cả. Tuần tới tôi có ba cuộc phỏng vấn công việc cố định. Nếu anh cho tôi nghỉ vài buổi để đi phỏng vấn…”
“Ừ không thành vấn đề,” hắn nói, trước khi kịp đổi ý.
“Vậy thì tôi sẽ ở lại thêm một hai tuần gì đó nữa.”
Cả hai im lặng. Trong chốc lát lý lẽ và cảm xúc cãi nhau dữ dội, rồi lý lẽ choáng váng đầu hàng.
“OK… được rồi. Vậy thì, cô gọi lại cho Freddie Bestigui được không?”
“Tất nhiên rồi,” Robin đáp, cố gắng ra vẻ điềm tĩnh, mặc dù trong bụng mở cờ.
“Hẹn gặp cô chiều thứ Hai.”
Đó cũng là lần đầu tiên Strike cười với Robin. Đáng ra hắn phải thấy bực bội với bản thân mới đúng. Thế nhưng Strike bước ra ngoài đường, trong buổi chiều sớm mát mẻ, không ân hận tiếc rẻ gì, mà lại còn thấy yêu đời kỳ lạ.
6
Strike từng ngồi đếm số trường mà hắn đã học qua lúc nhỏ, khoảng 17 trường, nhưng hắn ngờ ngợ hãy còn thiếu. Hắn không tính vào đó hai tháng “giáo dục tại gia” khi ba mẹ con hắn sống trong một căn nhà bỏ hoang trên phố Atlantic ở Brixton. Bạn trai của mẹ hắn lúc đó là một nhạc sĩ da trắng theo phong trào Rastafari, có tên tự đặt là Shumba. Ông này cho rằng trường lớp chỉ củng cố những giá trị gia trưởng và vật chất, phải tránh xa ngay không thì hư hết con cái. Trong hai tháng đó Strike chỉ học được một điều duy nhất: cứ hút cỏ thì người ta trở nên trì độn và hoang tưởng, ngay cả khi hút theo kiểu tâm linh.
Strike rẽ qua chợ Brixton trên đường đi gặp Derrick Wilson. Mùi cá tươi từ các sạp có mái che, những hàng quán đầy màu sắc, ăm ắp các thể loại rau củ và trái cây nhập từ châu Phi và vùng Caribe; hàng thịt của người Hồi giáo, tiệm hớt tóc với những tấm hình chụp các kiểu tết và uốn tóc cầu kỳ, những chiếc đầu bằng xốp đội tóc giả xếp thành hàng bên cửa sổ: tất cả đưa Strike về hai mươi sáu năm trước đó, khi hắn và em gái Lucy tha hồ đi lang thang khắp đường phố Brixton trong khi mẹ và Shumba nằm gà gật trên đám gối ôm dơ bẩn ở căn nhà bỏ hoang, mơ hồ thảo luận những khái niệm tâm linh phức tạp để dạy con.
Lucy khi đó mới bảy tuổi, rất thích kiểu tóc của các cô gái Caribe. Khi cậu Ted và mợ Joan đón hai đứa từ Brixton đưa về St Mawes, Lucy ngồi ghế sau trên chiếc xe Morris Minor của cậu mợ, miệng không ngớt đòi được tết tóc có xâu hạt. Strike còn nhớ mợ Joan ra vẻ bình tĩnh đồng ý với Lucy rằng kiểu tóc đó rất xinh, mặt dù qua kính chiếu hậu, hắn thấy mợ đang nhíu mày. Mợ Joan luôn cố tránh chê bai mẹ của Strike trước mặt hai an hem hắn, nhưng càng về sau thì càng thất bại. Strike không biết cậu Ted tìm ra mấy mẹ con hắn bằng cách nào, hắn chỉ nhớ một buổi chiều hai anh em chui vào căn nhà hoang thì đã thấy ông cậu to lớn đứng ngay giữa phòng, dọa đánh dập mũi Shumba. Trong hai ngày sau, hai anh em được đưa về St Mawes, trở lại trường tiểu học cũ, gặp lại bạn bè như chưa bao giờ bỏ đi, và nhanh chóng mất đi giọng địa phương mà chúng vừa kịp bắt chước.
Hắn không cần đọc hướng dẫn chỉ đường mà Derrick Wilson chuyển cho Robin. Hắn biết quá rõ quán Phoenix ở phố Coldharbour. Ngày trước thỉnh thoảng Shumba và mẹ vẫn dẫn hai anh em đến đây: một cái quán nhỏ sơn màu nâu, giống như nhà kho trong vườn. Tại đó (nếu không phải ăn chay như mẹ và Shumba) hắn được ăn những bữa sáng nóng sốt to dùng, với trứng chiên và thịt muối chồng lên nhau và uống trà sữa màu gỗ tếch. Mọi thứ y như hắn vẫn nhớ: ấm cúng, nhỏ gọn và hơi cáu bẩn, những tấm gương trên tường phản chiếu dãy bàn ăn bằng gỗ giả dán Formica, gạch lát nền màu trắng đỏ đã đốm xỉn, trần nhà màu trắng đục như bột báng dán phủ giấy dán tường mốc meo. Một người phụ nữ chạy bàn tuổi trung niên mập lùn, tóc ngắn duỗi thẳng, đeo bông tai nhựa màu cam lúc lắc đứng sang một bên nhường đường cho Strike đi qua.
Một người đàn ông gốc Caribe to lớn ngồi một mình ở bàn ăn, đọc báo The Sun, ngay trên đầu ông có treo một cái đồng hồ quảng cáo bánh Pukka Pies.
“Derrick?”
“Dà…, anh Strike?”
Strike bắn tay Wilson, bàn tay ông ta to và khô ráp. Hắn ngồi xuống. Hắn đoán Wilson cũng phải cao gần bằng hắn. Cơ bắp và mỡ căng lên dưới tay áo len đồng phục của Wilson. Tóc ông ta cạo sát đầu, râu ria cũng được cạo sạch sẽ, mắt thuôn dài hình hạt hạnh nhân. Strike gọi món bánh nhân thịt và khoai tây nghiền từ thực đơn treo trên tường, thấy dễ chịu khi nghĩ giờ đây hắn có thể trừ bốn bảng bảy lăm xu vào công tác phí.
“Ờ, bánh với khoai tây nghiền ở đây ngon,” Wilson nói.
Wilson nói giọng London, có pha chút ngữ điệu Caribe. Giọng ông ta trầm, điềm đạm và chừng mực. Strike nghĩ ông này làm bảo vệ sẽ khiến cho người ta yên tâm.
“Cảm ơn anh đã bỏ thời giờ đến đây. Tôi rất cảm kích. John Bristow không hài lòng với kết quả điều tra vụ em gái ông ta. Ông ta thuê tôi để xem lại chứng cứ vụ án.”
“Dà,” Wilson nói “Tui biết rồi.”
“Bristow trả anh bao nhiêu tiền để nói chuyện với tôi?” Strike hỏi tự nhiên như không.
Wilson nháy mắt, rồi khoái trá cười khùng khục, có vẻ hơi tội lỗi.
“Hai xị rưỡi,” ông ta đáp. “Nhưng nếu làm vậy mà ổng thấy an ủi thì cũng được, anh hiểu không? Chả thay đổi được giề". Cổ tự xát. Nhưng anh cứ hỏi. Tui chả có phiền chi.”
Wilson gấp tờ The Sun lại. Trang nhất báo có hình Thủ tướng Gordon Brown mệt mỏi, hai mắt đều có bọng.
“Chắc anh đã làm việc với bên cảnh sát rồi,” Strike vừa nói vừa mở cuốn sổ ra đặt bên cạnh đĩa, “nhưng sẽ rất có ích nếu anh kể lại sự việc hôm đó.”
“Dà, được mà. Chút xíu nữa có khi có thêm Kieran Kolovas-Jones,” Wilson nói thêm.
Có vẻ như Wilson nghĩ Strike biết người đó là ai.
“Ai kia?” Strike hỏi.
“Kieran Kolovas-Jones. Tài xế của Lula. Nó cũng muốn nói chuyện với anh.”
“OK, hay quá,” Strike nói. “Khi nào anh ấy tới?”
“Tui không biết. Nó đang đi làm. Rảnh thì nó tạt qua.”
Người chạy bàn đặt tách trà xuống trước mặt Strike. Hắn cảm ơn bà ta rồi bấm viết. Trước khi hắn kịp hỏi, Wilson lại nói:
“Ông Bristow có kể hồi trước anh ở lính.”
“Vâng” Strike đáp.
“Cháu tui đang ở Afghanistan,” Wilson nói, nhấm một hớp trà. “Tỉnh Helmand.”
“Đơn vị nào?”
“Thông tin,” Wilson trả lời.
“Cậu ấy ở đó lâu chưa?”
“Bốn tháng. Mẹ nó vẫn không ngủ được.” Wilson tiếp. “Tại sao anh về?”
“Bị bom nổ cụt chân,” Strike trả lời, thành thật khác thường.
Đó chỉ là một phần của sự thật, nhưng là phần dễ nói nhất với người lạ. Thực ra nếu muốn hắn cũng có thể ở lại quân đội; họ rất muốn giữ hắn; nhưng mất đi cái chân chỉ là giọt nước cuối cùng tràn ly, hắn đã nghĩ tới việc giải ngũ trong mấy năm trở lại đây. Hắn biết giới hạn của mình, nếu ở lâu hơn nữa hắn sẽ rất khó rời khỏi quân đội và trở lại cuộc sống bình thường. Môi trường quân đội nhào nặn con người ta qua năm tháng, dần dần khiến người ta lúc nào cũng biết tỏ ra tuân lệnh, một tính cách cần thiết trong quân ngũ. Strike trưa bao giờ hoàn toàn hòa nhập hẳn và quyết định ra đi trước khi điều đó xảy ra. Ngay cả vậy, hắn vẫn nhớ về Cục điều tra đặc biệt SIB với nhiều tình cảm, không hề bị ảnh hưởng gì bởi chuyện cụt chân. Hắn ước gì cũng có thể nhớ về Charlotte một cách đơn giản như vậy.
Wilson nghe Strike giải thích, khẽ gật đầu.
“Xui thiệt,” ông ta bình luận, giọng trầm.
“Chẳng là gì so với nhiều người khác.”
“Ừ. Một đứa trong trung đội cháu tui mới bị bom nổ bay xác hai tuần trước.”
Wilson nhấm thêm một ngụm trà.
“Anh có thân quen gì với cô Lula Landry không?” Strike hỏi, cây viết cầm sẵn. “Anh có hay gặp cô ấy không?”
“Thì đi ra đi vô đụng mặt vậy thôi. Lúc nào cổ cũng chào hỏi, cảm ơn, lễ độ hơn nhiều so với mấy ông bà có tiền khác,” Wilson nói ngắn gọn. “Lần nói chuyện dài nhất là nói về Jamaica. Cổ định nhận một việc ở đó; cổ hỏi tui nên ở đâu, Jamaica ra làm sao. Tui từng nhờ cổ ký một cái thiệp để gởi qua Afghanistan cho thằng Jason. Chỉ ba tuần trước khi cổ mất. Sau đó mỗi khi gặp tui là cổ luôn hỏi Jason sao rồi, tui thích cổ ở chỗ đó, anh hiểu không? Tui làm bảo vệ lâu lắm rồi. Người ta luôn nghĩ là anh phải đưa lưng lãnh đạn cho họ, nhưng không thèm nhớ tới tên anh. Ờ, cổ rất được.”
Bánh nhân thịt và khoai tây của Strike mới được đem ra, nóng bốc khói. Cả hai im lặng trong một giây, kính nể nhìn cái đĩa tú hụ thức ăn. Nước miếng túa ra đầy miệng. Strike cầm dao và nĩa lên, nói tiếp:
“Giờ anh kể lại chuyện đêm đó được không? Cô Lula có đi ra ngoài đúng không, lúc đó mấy giờ?”
Ông bảo vệ gãi cánh tay, mặt mày suy tư, rồi kéo tay áo lên. Strike thấy mấy hình xăm thập giá và tên viết tắt.
“Chắc khoảng đâu bảy giờ hơn. Cổ đi với Ciara Porter. Tui nhớ chớ, tại lúc họ đi ra khỏi cửa là ông Bestigui đi vô. Tui nhớ vì ổng có nói gì đó với Lula. Tui không nghe rõ lắm. Cổ có vẻ không thích. Nhìn mặt cổ tui biết vậy.”
“Mặt cổ ra sao?”
“Giống kiểu bị xúc phạm,” Wilson nói, cứ như đã sẵn câu trả lời. “Trên màn hình tui thấy hai người đi vô xe. Tòa nhà có lắp camera ngay cửa, nối với màn hình trên bàn tui nên ai bấm chuông tụi tui đều biết.”
“Còn băng không? Tôi xem băng được không?”
Wilson lắc đầu.
“Ông Bestigui không thích vậy. Không được ghi băng gì cả. Ổng là người đầu tiên mua nhà trước khi họ xây xong nên ổng có thể đòi cái này cái nọ.”
“Như vậy cái camera giống như một cái lỗ nhìn trộm xịn thôi hả?”
Wilson gật đầu. Trên mặt Wilson có một vết sẹo mỏng từ mắt trái đến ngay giữa má.
“Đúng vậy. Xong rồi tui thấy hai cô đi vô xe. Hôm đó Kieran không có lái xe cho hai cổ vì nó phải đi đón Deeby Macc.”
“Vậy hôm đó ai lái xe?”
“Một cậu tên là Mick, từ bên công ty Execars, cũng từng lái cho Lula rồi. Tôi thấy mấy đứa phóng viên bao quanh cái xe hơi, ngay lúc xe sắp chạy. Phóng viên chầu chực ở đó cả tuần vì biết là cô Lula mới quay lại với Evan Duffield.”
“Bestigui làm gì sau khi Lula và Ciara đi khỏi?”
“Ổng tới chỗ tui lấy thư rồi lên cầu thang về nhà ổng.”
Strike liên tục phải bỏ nĩa xuống sau mỗi miếng để ghi chép.
“Sau đó có ai ra vào nữa không?”
“Có, mấy người phục vụ ăn uống – hôm đó nhà Bestigui đãi khách. Một cặp người Mỹ tới khoảng sau tám giờ, đi thẳng lên căn hộ số một của Bestigui. Sau đó không ai ra vô gì nữa cho tới khi đám đó về, khoảng nửa đêm. Xong rồi tui cũng không thấy ai nữa tới khi Lula về nhà, khoảng một rưỡi sáng.
“Tui nghe mấy đứa phóng viên kêu tên cổ bên ngoài. Khi đó đông đen. Một đám đi theo cổ về từ hộp đêm, thêm một đám đứng chực từ trước chờ Deeby Macc. Nghe nói anh ta mười hai rưỡi về tới nơi. Lula bấm chuông, tui bấm nút mở cửa cho cổ vô.”
“Cô ấy không dùng khóa mật mã à?”
“Không tại lúc đó có nhiều người, cô muốn đi vô cho lẹ. Họ cứ hét lên, đổ dồn hết về phía cổ.”
“Tại sao cổ không đi vô theo bãi đậu xe dưới tầng hầm, như vậy thì tránh được hết?”
“Ừa, nhiều khi cổ đi kiểu vậy, nếu Kieran lái vì cổ có đưa cái chìa khóa cổng vô đó cho nó. Nhưng Mick thì không có, nên phải dừng ngay trước cửa.”
“Tui chào cổ, rồi hỏi bộ ngoài trời tuyết rơi dữ hả, tại trên tóc cổ dính tuyết, cô run cầm cập tại mặc cái đầm chút xíu. Cổ nói lạnh muốn đông đá, hay đại loại thế. Rồi cổ nói, “Ước gì tụi nó biến mẹ cho rồi. Tụi nó tính đứng đó suốt đêm hay sao?” Ý cổ nói bọn phóng viên. Tui kêu tụi nó đang đợi Deeby Macc; nghe là về trễ. Trông cổ có vẻ bực bội. Rồi cổ vô thang máy và đi lên nhà.”
“Trông bực bội?”
“Ừm rất bực.”
“Bực kiểu sắp tự tử?”
“Không.” Wilson đáp “Kiểu giận dữ.”
“Rồi sao nữa?”
“Rồi,” Wilson tiếp, “Tui phải đi ra sau. Bụng tui bắt đầu sôi lên. Tui phải đi cầu. Rất gấp, anh biết không. Chắc tui bị giống như Robson. Nó cũng bị đau bụng. Tôi đi khỏi khoảng mười lăm phút. Không ráng được. Chưa bao giờ tui đau bụng tới vậy.
“Tui vẫn ngồi trong cầu lúc có tiếng người. Không,” Wilson tự sửa, “đầu điên là nghe rầm một cái. Nghe từ xa. Sau này tui nghĩ lại đó hẳn là tiếng cô Lula rớt xuống.
“Xong rồi mới có tiếng người, mỗi lúc một to, vọng xuống cầu thang. Tui kéo quần lên rồi chạy ra đại sảnh, bà Bestirui đang ở đó, chỉ mặc mỗi đồ lót, người run cầm cập, la hét quay quắt như mụ khùng. Bả nói cô Lula chết rồi, bị xô té xuống ban công, bị ông nào đó ở trên kia xô xuống.
“Tui kêu bả cứ ở yên đó, tui chạy ra cửa trước. Tui thấy cô Lula. Cổ nằm trên đường, mặt úp xuống tuyết.”
Wilson tợp thêm một ngụm trà, rồi ôm nguyên cái tách, nói tiếp:
“Một nửa đầu cô Lula vùi trong tuyết. Máu chảy ra. Tui thấy cổ bị gãy cổ. Và bị xịt… ừm.”
Tự nhiên lúc đó Strike cảm giác như ngửi thấy mùi não người, ngọt gắt và không lẫn vào đâu được. Hắn từng ngửi thấy mùi đó nhiều lần. Không sao quên được.
“Tui chạy ngược vô trong,” Wilson kể tiếp. “Cả hai ông bà Bestigui đang ở sảnh, ổng đang cố lôi bả lên lầu, trùm áo cho bả, bả thì vẫn la lối um sùm. Tui kêu hai người đi gọi cảnh sát và coi chừng thang máy; lỡ thủ phạm có chạy xuống.
“Tui chạy ra sau lấy chìa khóa chủ rồi chạy lên lầu. Trên cầu thang không có ai hết. Tui mở cửa vô nhà cô Lula…”
“Tại sao lúc đó anh không mang theo cái gì để tự vệ?” Strike cắt ngang. “Nếu anh nghĩ trong nhà cô Lula có ai đó? Lại vừa giết cổ xong?”
Im lặng. Không ai nói gì một lúc lâu.
“Tui không nghĩ là tui cần gì hết,” Wilson đáp. “Cứ nghĩ có gì tui chơi nó tay không luôn, không thành vấn đề.”
“Chơi ai?”
“Duffield,” Wilson nói nhanh. “Tui nghĩ Duffield đang ở trên đó.”
“Tại sao?”
“Tui nghĩ chắn hắn đi vô lúc tui đang ngồi cầu. Hắn biết mật mã khóa. Tui đoán chắc hắn chạy lên lầu, cô Lula mở cửa cho hắn vô. Tui có nghe hai người cãi lộn rồi. Tôi từng nghe hắn la hét giận dữ. Ừm. Nên tui nghĩ chắc hắn xô cổ té.
“Nhưng khi chạy lên nhà cô Lula, tui thấy trống trơn. Tui đi tìm mỗi phòng, không có ai hết. Tui còn mở cả tủ quần áo ra nữa, cũng không có gì.
“Cửa sổ phòng khách mở toang. Hôm đó trời lạnh dưới không. Tui không đóng cửa sổ lại, không đụng vô cái gì hết. Tui bước ra rồi bấm nút thang máy. Cửa thang máy mở liền, vì vẫn còn đứng ở tầng của cô Lula. Trong thang không có ai hết.
“Tui chạy xuống dưới nhà. Ông bà Bestigui đã trở vô nhà họ, khi tui đi ngang qua, tui vẫn nghe tiếng họ, bả vẫn la lối um sùm còn ổng thì la bả. Tui không biết họ gọi cảnh sát chưa. Tui chụp máy di động trên bàn trực rồi đi ra ngoài, đứng với cô Lula vì… tui không muốn cổ nằm đó một mình. Tui đang tính gọi cảnh sát, coi thử họ tới chưa. Nhưng chưa kịp bấm số chín thì đã nghe thấy tiếng còi hụ. Tới lẹ thiệt.”
“Chắc ông bà Bestigui gọi?”
“Ừm. Ổng gọi. Hai cảnh sát đi xe trắng đen.”
“OK,” Strike nói. “Tôi muốn làm rõ một điểm: anh tin bà Bestigui nói thật khi bà ta kể là có người trong nhà cô Lula?”
“Ờ,” Wilson đáp.
“Vì sao?”
Wilson khẽ nhíu mày, suy nghĩ. Mắt ông ta nhìn ra phía đường phố sau vai Strike.
“Lúc đó bà ta vẫn chưa nói chi tiết gì đúng không?” Strike hỏi. “Bà ta không kể là đang làm gì khi nghe tiếng người la? Không giải thích là vì sao hai giờ sáng mà bà ta còn thức?”
“Không,” Wilson đáp. “Bả không giải thích gì cả. Chỉ là cái kiểu của bả lúc đó, anh biết không. Rất là kích động. Run như chó bị mắc mưa. Bả cứ nói đi nói lại 'Có người trên lầu, hắn ném cô ta xuống.' Bả sợ lắm.
“Nhưng không có ai trên đó hết; tui có thể lấy đám con tui ra thề với anh như vậy. Nhà cô Lula trống trơn, thang máy cũng trống, cầu thang cũng không có ai. Nếu có người thật thì sau đó hắn ta đi đâu?”
“Khi cảnh sát tới,” Strike nói tiếp, quay lại với hiện trường đường phố tuyết rơi tối đen và thi thể đã bị dập nát. “Thì sao?”
“Khi bà Bestigui thấy xe cảnh sát qua cửa sổ, bả chạy thẳng xuống nhà, vẫn mặc áo ngủ, ông chồng chạy theo sau. Bả ra đường, đứng giữa tuyết tiếp tục la lối là có sát thủ trong tòa nhà.
“Lúc đó chúng quanhg bật hết đèn lên. Ai cũng đứng cửa sổ nhìn ra. Nửa khu phố thức dậy. Người ta ra đứng đầy vỉa hè.
“Một ông cảnh sát đứng lại chỗ cô Lula, rút bộ đàm ra gọi thêm người, còn ông kia thì đi với tụi tui; tui với hai vợ chồng ông bà Bestigui trở vô trong tòa nhà. Ổng biểu hai ông bà đó về lại nhà ngồi đợi, rồi ổng kêu tui dẫn đi kiểm tra khắp tòa nhà. Tụi tui đi trở lên tầng trên; tui mở cửa nhà cô Lula, cho ổng coi, chỉ luôn cửa sổ mở toang hoang. Ổng coi hết một lượt. Tui dẫn ổng ra chỗ thang máy, vẫn còn đứng trên tầng ba. Rồi tụi tui đi xuống cầu thang. Ổng hỏi tui về căn hộ tầng hai, vậy là tui mở cho ổng coi luôn vì tui có chìa chủ.
“Ở trong tối thui, báo động kêu lên khi hai tụi tui đi vô. Tui chưa kịp tìm công tắc đèn hay tắt báo động thì ông cảnh sát đâm sầm vô cái bàn giữa nhà, đánh đổ bình hoa hồng to bự chảng. Mảnh chai, nước, hoa lá văng tùm lum trên sàn. Vụ này sau đó cũng nhức đầu lắm…
“Tụi tui kiểm tra hết. Trống trơn, tất thảy tủ kệ, tất cả các phòng, cửa sổ đóng chặt, có chốt. Rồi tụi tôi trở xuống sảnh dưới.”
“Lúc đó thì cảnh sát mặc thường phục tới. Họ muốn có chìa khóa vô phòng tập thể dục, bể bơi với cả bãi đậu xe ở tầng hầm. Một ông cảnh sát đi lấy lời khai của bà Bestigui, một ông nữa chạy ra ngoài, gọi thêm người, vì chung quanh hàng xóm đổ ra đầy đường, hết nửa đang gọi điện thoại, có mấy người chụp hình búa xua. Cảnh sát đồng phục kêu gọi họ đi trở vô nhà. Lúc đó tuyết cứ rơi miết, dày lắm.
“Xong rồi họ dựng một cái lều ngay chỗ cô Lula, mấy người bên pháp y tới. Báo chí cũng vừa tới. Cảnh sát niêm phong hết nửa khu phố, quay ngang xe chặn lối.”
Strike đã làm sạch sẽ đĩa thức ăn. Hắn đẩy đĩa qua một bên, gọi thêm trà cho cả hai rồi cầm cây viết lên lại.
“Có bao nhiêu người làm việc ở tòa nhà số 18?”
“Ba bảo vệ, tui, Colin McLeod và Ian Bobson. Tụi tui làm việc theo ca, lúc nào cũng có người trực tòa nhà. Đáng ra đêm hôm đó tui không có ca trực nhưng Robson gọi điện khoảng bốn giờ chiều, kêu là bị đau bụng, không đi làm được. Vậy là tui nói thôi để tui ở lại đó làm tiếp ca nữa luôn. Tháng trước nó đổi ca một lần với tui khi tui có việc nhà. Nên tui nợ nó.
“Đáng ra tui không có mặt ở đó,” Wilson nói, và trong giây lát ông ta ngồi im, suy tư về những ngã rẽ khác nhau của mọi sự trên đời.
“Hai bảo vệ kia với cô Lula có OK không?”
“Dà, anh hỏi họ thì họ cũng sẽ nói y như tui thôi. Cổ dễ thương mà.”
“Còn ai làm ở đó nữa không?”
“Có mấy đứa quét dọn người Ba Lan. Tụi nó nói tiếng Anh tệ lắm. Anh có hỏi cũng không ra được gì đâu.”
Strike vừa nghĩ vừa viết nhanh trong cuốn sổ SIB – (hắn đã kịp chôm một mớ sổ trong lần trở lại Aldershot). Lời khai của Wilson có chất lượng cao khác thường: ngắn gọn, chính xác và chi tiết. Rất ít người trả lời thẳng vào câu hỏi như vậy; lại càng hiếm ai biết sắp xếp suy nghĩ trước khi trả lời, không cần phải hỏi dò thêm. Strike đã quen với việc đào xới trong ký ức đau khổ của người khác, giống như một nhà khảo cổ đào đám gạch vụn. Hắn từng lấy được lòng tin của những tay giang hồ, biết hù dọa những người đang sợ chết khiếp, ra mồi nhử những đối tượng nguy hiểm và đặt bẫy được cả những kẻ cực kỳ khôn khéo. Tất cả những kỹ năng đó đều không cần thiết áp dụng với Wilson, thật là phí phạm với một cuộc điều tra vô nghĩa, chỉ để thoả mãn sự hoang tưởng của John Bristow.
Tuy vậy Strike luôn làm việc hết sức kỹ lưỡng, một thói quen không bao giờ suy suyển. Hắn không thể phỏng vấn qua loa, cũng như không thể nằm ườn trên giường hút thuốc nguyên một ngày. Một phần là bản tính, một phần qua rèn luyện, hắn nghiêm túc với bản thân, cũng như với khách hàng. Hắn tiếp tục hỏi, một cách tỉ mỉ cẩn thận, đấy cũng là lý do khiên hắn vừa được trọng dụng vừa bị ghét bỏ khi còn trong quân ngũ.
“Ta trở lại một chút vào ngày trước khi cô Lula chết. Hôm đó anh đi làm mấy giờ?”
“Chín giờ, hôm nào cũng vậy. Tới nơi thì bàn giao với Colin.”
“Anh có sổ ghi lại người ra vào tòa nhà không?”
“Có, ai ra vô gì tụi tui cũng ghi hết, trừ người ở trong tòa nhà. Có một cuốn như vậy ở ngay trên bàn bảo vệ.”
“Anh có nhớ hôm đó có ai đi ra vào không?”
Wilson chần chừ.
“John Bristow có đến gặp em gái vào buổi sáng sớm, đúng không?” Strike hỏi dò. “Nhưng Lula có dặn trước là không cho ông ta lên?”
“Ổng kể với anh vậy hả?” Wilson hỏi, trông đỡ căng thẳng hơn.
“Cổ có dặn vậy. Nhưng tui thấy tội nghiệp ổng quá, anh thấy đó? Ổng đem hợp đồng gì đó cho cổ; ổng có vẻ lo lắng, nên tui để ổng đi lên.”
“Còn ai đi vào nữa không?”
“Còn Lechsinka có mặt ở đó sẵn. Một trong mấy đứa quét dọn. Nó luôn tới lúc bảy giờ sáng; khi tui tới thì nó đang lau cầu thang. Không ai vô nữa cho tới khi có một người bên công ty bảo vệ qua, để bảo trì máy báo động. Cứ sáu tháng thì phải làm một lần. Tay đó tới lúc khoảng chín giờ bốn mươi, cỡ đó?”
“Ông quen người này hả, cái người từ công ty bảo vệ đó?”
“Không, người mới mà. Trẻ lắm. Lần nào họ cũng cử người khác nhau tới. Khi đó bà Bestigui và cô Lula còn ở trong nhà nên tui mở cửa cho nó vô căn hộ tầng giữa trước, chỉ chỗ hộp điều khiển rồi để nó làm. Trong khi tui đứng đó, chỉ hộp cầu chì với nút báo động khẩn cho nó thì cô Lula đi ra ngoài.”
“Anh thấy cô ấy đi ra hả?”
“Có thấy, cổ đi ngang qua căn hộ số hai, lúc đó cửa mở.”
“Cô Lula có chào anh không?”
“Không.”
“Anh nói cô ấy lúc nào cũng chào hỏi mà?”
“Tui nghĩ lúc đó cô Lula không thấy tui. Trông cổ có vẻ vội vàng. Cổ đi thăm bà già bị ốm.”
“Tại sao cổ không nói mà anh biết?”
“Có trong kết quả điều tra,” Wilson đáp ngắn gọn. “Sau khi tui chỉ chỗ mọi thứ cho tay bảo trì, tui đi trở xuống. Khi bà Bestigui đi ra khỏi nhà thì tui kêu nó vô làm nhà bả luôn. Nó không cần tui ở lại chỉ dẫn gì nữa vì vị trí hộp cầu chì và nút báo động của các căn hộ đều giống y nhau.”
“Lúc đó ông Bestigui ở đâu?”
“Ổng đi làm rồi. Tám giờ là đi, sáng nào cũng vậy.”
Ba người đàn ông đội mũ bảo hộ, mặc áo dạ quang màu vàng bước vào quán và ngồi xuống ở bàn bên cạnh, dưới tay kẹp theo mấy tờ báo, giầy ủng dính đầy bùn đất.
“Mỗi lần anh chạy đi mở cửa cho cái người bảo trì mất khoảng bao lâu?”
“Khoảng năm phút trong căn hộ số hai,” Wilson nói. “Hai căn hộ còn lại thì chỉ mất khoảng một phút mỗi căn.”
“Người đó xong việc lúc mấy giờ?”
“Khoảng gần trưa. Tui không nhớ chính xác.”
“Nhưng anh chắc là anh ta đi khỏi?”
“Ờ đúng.”
“Còn ai tới nữa không?”
“Có mấy người giao hàng, nhưng bữa đó tính ra khá yên tĩnh so với mấy ngày trước đó.”
“Trước đó thì bận rộn lắm à?”
“Ờ, nhiều người đi ra đi vô, do Deeby Macc từ LA sắp tới. Mấy người từ bên hãng liên tục tới căn hộ số Hai, chuẩn bị sẵn sàng, mua đồ để sẵn tủ lạnh nữa.”
“Anh nhớ hôm đó giao hàng những gì không?”
“Thùng đồ cho Macc và Lula. Bình hoa hồng nữa, tui phải giúp một tay khiêng lên lầu vì bình hoa quá bự,” Wlison dang tay, môt tả bình hoa, “cái bình bự như vầy, tụi tui đặt trên bàn trong phòng khách ở căn hộ số Hai. Đó là cái bình hoa bị anh cảnh sát làm vỡ.”
“Anh nói vụ này sau đó rất nhức đầu, là sao?”
“Hoa đó là của ông Bestigui gởi tặng Deeby Macc, nên khi nghe bình hoa tan tành ổng tức điên. La lối um sùm.”
“Lúc nào kia?”
“Khi cảnh sát vẫn còn ở đó. Lúc họ đang lấy lời khai của bà vợ.”
“Vừa có người chết rơi ngang qua cửa sổ nhà ông ta, mà ông ta lại đi bực chuyện bình hoa bị bể?”
“Ừa,” Wilson đáp, khẽ nhún vai. “Ổng là vậy đó.”
“Ông ta có quen với Deeby Macc không?”
Wilson nhún vai cái nữa.
“Deeby Macc có tới đó lần nào chưa?”
Wilson lắc đầu.
“Sau vụ đó ổng chuyển thẳng tới khách sạn.”
“Anh mất bao lâu để giúp người giao hàng khiêng bình hoa vô căn hộ số hai?”
“Chừng năm phút, mười phút là nhiều. Sau đó tui ngồi trực bàn cả ngày.”
“Anh có nói là có thùng đồ gởi cho Macc và Lula.”
“Có, từ một tay thiết kế nào đó, nhưng tui đưa cho Lechsinka đem lên. Áo quần cho Macc và túi sách cho cô Lula.”
“Và anh nhớ tất cả những người đi vào hôm đó đều đi trở ra?”
“Đúng rồi,” Wilson nói. “Tất cả đều ghi lại trong sổ trên bàn.”
“Bao lâu thì phải đổi mật mã khóa?”
“Sau khi cô Lula chết thì phải đổi, vì mã cũ hầu như một nửa cảnh sát ở London đều biết,” Wilson nói. “Nhưng trong suốt ba tháng cô Lula ở đó thì không thay đổi gì.”
“Anh nói tôi biết mật mã là gì được không?”
“Một chín sáu sáu,” Wilson đáp.
“Họ cứ tưởng đã an bài”?[1]
[1.“They think it’s all over”: một câu nói rất nổi tiếng ở Anh, từ câu gốc “They think it’s all over… It’s now! It’s four” (Họ tưởng là đã an bài. Giờ mới thực là xong! Bốn bàn!), trích từ lời của bình luận viên Kenneth Wolstenholme trong những phút cuối cùng của trận trung kết World Cup năm 1966 giữa Anh và Tây Đức, ngay sau khi Geoff Hurst ghi bàn, ấn định tỉ số 4-2 cho đội Anh. – ND]
“Đúng vậy,” Wilson nói. “McLeod rất khó chịu với mật mã đó, cứ đòi đổi miết.”
“Anh nghĩ có bao nhiêu người biết mật mã khóa cửa trước khi Lula chết?”
“Không nhiều lắm”
“Mấy người giao hàng? Nhân viên bưu điện? Người đọc công tơ khí đốt?”
“Mấy người như vậy thường bấm chuông, rồi tụi tui mới bấm nút mở cửa cho vô. Người trong nhà thì cũng không thường dùng, vì tụi tui ngồi đó thấy hết ai sắp vô, nên luôn mở cửa trước cho họ. Khóa mật mã là để trừ trường hợp không có ai ngồi ở bàn trực; ví dụ như khi bảo vệ đi ra đằng sau hay chạy lên lầu.”
“Mỗi căn hộ đều có chìa khóa riêng?”
“Ờ, có hệ thống báo động riêng nữa.”
“Hệ thống báo động trong nhà cô Lula hôm đó có bật lên không?”
“Không.”
“Còn bể bơi và phòng tập thể dục thì sao? Mấy chỗ đó có gắn báo động không?”
“Chỉ có chìa khóa thôi. Người trong tòa nhà đều có chìa khóa bể bơi và phòng tập, kèm với chìa khóa căn hộ. Thêm một chìa khóa nữa mở cửa ra bãi đậu xe dưới tầng hầm. Cửa này thì có báo động.”
“Báo động có được bật lên không?”
“Không biết, tui không có đó lúc họ kiểm tra. Nhưng chắc có bật. Tay bên công ty bảo vệ có kiểm tra tất cả báo động sáng hôm đó.”
“Tối hôm đó tất cả các cửa đều đóng?”
Wilson ngập ngừng.
“Không phải cái nào cũng đóng. Cửa ra bể bơi còn mở.”
“Có ai dùng bể bơi hôm đó không?”
“Tôi không nhớ.”
“Vậy cửa mở trong bao lâu?”
“Tôi không biết. Colin trực tối hôm trước đó, đáng ra hắn phải kiểm tra.”
“OK,” Strike nói. “Anh nghĩ cái người mà bà Bestigui nghe thấy là Duffield, vì anh có nghe cô Lula và Duffield cãi nhau trước đó? Khi nào vậy?”
“Trước khi họ chia tay, khoảng cỡ hai tháng trước khi cổ chết. Cổ đuổi Duffield ra khỏi nhà, hắn đập rầm rầm lên cửa, đá vào cửa, tìm cách phá, gọi cổ bằng đủ thứ tên bậy bạ. Tui đi lên lầu đuổi hắn ra.”
“Anh có phải kéo hắn không?”
“Không cần. Khi hắn thấy tui hắn lượm hết đồ đạc lên – trước đó cổ vứt áo khoác và giày hắn ra ngoài – rồi đi xuống qua mặt tui. Hắn đang say thuốc,” Wilson nói thêm. “Mắt long lên, anh biết đó, mồ hôi vã ra. Mặc áo thun rất gớm in đủ thứ hình bà rằn. Tui chẳn hiểu vì sao cổ ưa hắn được.
“Kieran tới rồi,” Wilson nói tiếp. Giọng nhẹ hẳn. “Tài xế của Lula.”
7
Một thanh niên khoảng hai lăm tuổi đi vào quán. Anh ta hơi thấp, dáng thanh và cực kỳ đẹp trai.
“Ê Derrick,” anh ta lên tiếng. Anh lái xe và ông bảo vệ chào hỏi, chụp lấy cánh tay, cụng nắm đấm thân mật. Kolovas –Jones ngồi xuống ngay bên cạnh Wilson.
Anh chàng lái xe đẹp như tranh vẽ. Một thứ cốc-tai chủng tộc khó hiểu, da màu đồng-olive, gò má góc cạnh, mũi hơi khoằm, mắt hạt dẻ tối màu với lông mi đen, tóc thẳng, ôm ra sau gương mặt. Vẻ đẹp trai sửng sốt được làm dịu bớt bằng một cái áo sơ mi và cà vạt hơi già dặn. Anh chàng mỉn cười khiêm tốn, cứ như thể đang dàn hòa với những người đàn ông khác, trước khi họ kịp ghét mình.
“Xe đâu?” Derrick hỏi.
“Đậu bên đường Electric,” Kolovas-Jones chỉ ngón cái ra phía sau vai. “Được khoảng hai mươi phút. Phải trở lại bên phía Tây lúc bốn giờ. Anh khỏe không?” anh chàng nói tiếp, đưa tay ra cho Strike bắt, rồi tự giới thiệu. “Kieran Kolovas-Jones. Anh là…?”
“Cormoran Strike. Derrick nói anh muốn…”
“Vâng,” Kolovas-Jones đáp. “Tôi không biết chuyện tôi nói ra có quan trọng hay không, chắc là không, cảnh sát không thèm quan tâm. Tôi chỉ muốn kể lại với ai đó. Tôi không có ý nói vụ cô Lula không phải là tự tử, anh hiểu không?” Kieran thêm vào. “Tôi chỉ muốn nói hết ra. Làm ơn cho một cà phê,” anh ta nói với bà chạy bàn trung niên, có vẻ không hề bị anh ta quyến rũ chút nào.
“Anh lo chuyện gì?” Strike hỏi.
“Chuyện là, tôi luôn chở cô Lula,” Kolovas-Jones nói tiếp, kể lể dài dòng theo kiểu đã tập trước rồi, Strike nhận ra ngay. “Cổ lúc nào gọi tôi.”
“Cô Lula có hợp đồng với công ty anh không?”
“À, ờ…”
“Mọi thứ đều qua ban trực,” Derrick lên tiếng. “Gói dịch vụ có hết. Nếu ai cần xe thì tụi tui gọi cho Execars, là chỗ Kieran làm.”
“Ờ, nhưng lần nào cô Lula cũng yêu cầu tôi lái,” Kolovas-Jones kiên quyết nhắc lại.
“Anh thân với cô ấy lắm hả?”
“Ờ, rất là thân thiện,” Kolovas-Jones tiếp. “Tôi với Lula, tôi không nói là gần gũi gì hết, ờ mà thực ra cũng thân. Tụi tôi rất thân thiện; không chỉ là lái xe với khách, anh hiểu không?”
"Thế à? Thân như thế nào?"
"Không, không phải chuyện đó," Kolovas-Jones nhe răng cười. "Không có chuyện đó."
Nhưng Strike cũng nhận thấy anh chàng hí hửng ra mặt khi có người nhắc tới khả năng đó.
"Tôi lái cho Lula được một năm rồi. Tụi tôi hay nói chuyện với nhau. Tại có nhiều điểm chung. Chẳng hạn như gốc gác này kia, anh hiểu không?"
“Là sao kia?”
“Tụi tôi đều là con lai,” Kolovas-Jones giải thích. “Mọi thứ trong gia đình tôi khá lộn xộn, nên tôi hiểu Lula. Cô ấy không biết có nhiều người giống mình, nhất là sau khi cô ấy nổi tiếng, rất ít khi được nói chuyện thân tình với ai.”
“Chuyện con lai với Lula quan trọng lắm hả?”
“Cổ là da đen trong gia đình da trắng, anh nghĩ sao?”
“Hồi nhỏ anh cũng giống Lula vậy hả?”
“Ba tôi nửa Caribe, nửa Wales; mẹ tôi nửa Liverpoool, nửa Hi Lạp. Lula thường nói là cô ấy ganh tị với tôi,” Anh lái xe nói, ngồi thẳng người. “Cổ nói là, ‘Ít ra anh còn biết anh ở đâu ra, mặc dù từ tùm lum chỗ.’ Và hôm sinh nhật tôi, nhé,” Anh chàng thêm vào, như thể cần phải gây ấn tượng thêm với Strike về tầm quan trọng của sự việc, “cổ tặng tôi một cái khoác Guy Somé, khoảng chừng chín trăm bảng nhé.”
Có vẻ nói tới đây Kieran chờ đợi một phản ứng từ người nghe, Strike gật đầu, tự hỏi không biết liệu Kolovas-Jones đến đây chỉ để kể chuyện anh ta thân với Lula ra sao. Thỏa mãn, anh chàng nói tiếp:
“Vậy là hôm cổ chết… ngay trước đó thì đúng hơn, tôi lái xe chở cổ đi gặp mẹ buổi sáng. Cổ không vui lắm. Cổ không bao giờ thích đi thăm bà già.”
“Tại sao không?”
“Vì cái bà đó quái bỏ cha đi được,” Kolovas-Jones trả lời. “Tôi từng lái xe chở cả hai đi một lần, hồi sinh nhật bà ta. Phu nhân Yvette là người rất kỳ khôi. Cưng ơi, cưng à với Lula, nói gì cũng đệm vô mấy chữ đó. Bà cứ bám riết cô Lula. Anh có thất rất là kỳ cục, ích kỷ và hơi sến không?
“Trở lại hôm đó, bà già cô Lula mới ra viện, vụ đó đương nhiên đâu có cái gì vui, hả. Cổ cũng không háo hức gặp bà già. Cổ có vẻ căng thẳng sao đó, không giống như trước.
“Rồi tôi nói là tối hôm đó tôi không lái cho cổ được vì mắc lái cho Deeby Macc, cổ không vui chút nào.”
“Tại sao?”
“Vì cổ thích tôi lái hơn, không đúng vậy à?” Kolovas-Jones đáp, cứ như Strike chậm hiểu. “Tôi hay đỡ cô tránh nhà báo, với cổ tôi còn là vệ sĩ mỗi khi cổ đi tới chỗ này chỗ kia.”
Wilson khẽ nhăn mặt, tỏ rõ thái độ trước chuyện Kolovas-Jones đi làm vệ sĩ.
“Vậy sao anh không đổi với người khác, rồi lái cho cô Lula thay vì Macc?”
“Tôi đổi cũng được, nhưng tôi không muốn vậy,” Kolovas-Jones thú thật. “Tôi rất mê Deeby. Lúc nào cũng muốn gặp ổng. Vậy nên Lula rất bực. Sau đó,” Kieran nói nhanh, “Tôi chở Lula về nhà bà già, rồi ngồi đợi, rồi bấy giờ tới đoạn mà tôi rất muốn kể cho anh nghe.”
“Cô Lula đi ra khỏi nhà bà già, có gì đó rất khác. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy cổ như vậy cả. Im lặng, không nói gì. Giống như bị sốc hay sao đó. Rồi cổ hỏi tôi có cậy viết nào không, cổ viết gì đó trên một tờ giấy màu xanh. Không nói gì với tôi hết. Không nói gì hết trơn. Chỉ ngồi viết vậy thôi.”
“Rồi tôi chở cổ tới Vashti, tại cổ có hẹn với bạn ăn trưa…”
“Vashti là gì? Bạn là ai?”
“Vashti là một cái cửa hàng quần áo nhỏ - người ta hay gọi là boutique. Ở trong có quán café, rất là sành điệu. Và bạn cổ là…” Kolovas-Jones bẻ đốt ngón tay, nhăn trán. “Là cái người quen với cô Lula từ hồi ở bệnh viện, hồi cô Lula đi điều trị. Tên khỉ gì ấy nhỉ? Tôi thường lái xe trở cả hai đi. Trời đất… tên gì nhỉ, Ruby? Roxy? Raquelle? Đại loại vậy. Cô ta ở nhà trọ St Elmo dưới Hammersmith. Cô ta không có nhà cửa gì.”
“Rồi, Lula đi vô Vashti, lúc sáng cổ có nói với tôi là sẽ ăn trưa ở đó, nhưng mà vô trong chỉ mới mười lăm phút thì cổ đi ra một mình, nói tôi chở về nhà. Thật kỳ cục. Và cái cô tên Raquelle hay gì đó – chút nữa có khi tôi nhớ ra – không đi chung với Lula nữa. Tờ giấy xanh cũng không có đó nữa. Trên suốt đường về Lula không nói gì với tôi hết.”
“Anh có kể với cảnh sát về tờ giấy không?”
“Có. Họ nghĩ là không đáng gì hết,” Kolovas-Jones nói. “Họ nói chắc là giấy ghi mấy thứ cần mua.”
“Anh có nhớ tờ giấy trông ra làm sao không?”
“Màu xanh dương. Giống như giấy viết thư.”
Kieran nhìn đồng hồ.
“Mười phút nữa tôi phải đi.”
“Đó là lần cuối cùng anh gặp Lula?”
“Đúng vậy.”
Kieran cạy kẽ móng tay.
“Khi anh nghe tin Lula, anh nghĩ gì trước hết?”
“Tôi không biết,” Kolovas-Jones trả lời, cắn móng tay vừa mới cạy. “Tôi sốc bỏ mẹ đi được. Ai nghĩ tới chuyện đó? Vừa gặp cổ ngay mấy tiếng trước. Báo chí nói là Duffield làm, vì tối hôm đó hai người cãi nhau trong hộp đêm. Nói thật với anh, lúc đó tôi cũng nghĩ chắc là Duffield. Thằng chó.”
“Anh biết anh ta à?”
“Tôi lái xe chở hai người đi vài lần,” Kolovas-Jones trả lời. Mũi hơi hỉnh lên, miệng mím lại, như thể có mùi gì khó chịu.
“Anh nghĩ sao về Duffield?”
“Tôi nghĩ hắn là một thằng khốn nạn bất tài.” Đột nhiên, Kieran trơn tru giả giọng ngang phè, điệu đàng: “Chút nữa mình có cần nó nữa không hả Lules? Vậy để nó đợi, nha?” Kolovas-Jones tức tối.
“Chưa bao giờ nói thẳng với tôi. Thằng ngu, chẳng ra làm sao.”
Derrick lên tiếng, ra vẻ bí hiểm. “Kieran đây còn là diễn viên nữa.”
“Chỉ toàn vai nhỏ thôi.” Kolovas-Jones giải thích “Cho tới giờ.”
Rồi anh chàng nói qua mấy bộ phim truyền hình có tham gia. Strike thấy Kieran rất muốn được người ta biết đến, khao khát danh vọng, muốn biết sự nổi tiếng đến bất ngờ, nguy hiểm và khiến người ta đổi đời ra sao. Suốt ngày chở những người nổi tiếng trong xe, mà vẫn chưa bao giờ chạm tới sự nổi tiếng. Anh chàng ắt hẳn vừa sốt ruột vừa tức tối.
“Kieran từng đi thử vai cho Freddie Bestigui,” Wilson thêm vào “Đúng không vậy?”
“Đúng vậy,” Kolovas-Jones trả lời, không có vẻ hứng thú gì cả.
“Sao hay vậy?” Strike hỏi.
“Cũng theo kiểu thường thôi,” Kolovas-Jones nói, có chút kiêu ngạo. “thông qua người đại diện của tôi.”
“Nhưng sau đó không tới đâu hả?”
“Họ quyết định thay đổi kịch bản mà,” Kolovas-Jones kể, “Họ bỏ vai đó đi.”
“OK, vậy hôm đó anh đi đón Deeby Macc từ đâu – sân bay Heathrow à?”
“Nhà ga số Năm ở Heathrow,” Kolovas-Jones trả lời, quay về với thực tế tầm thường, rồi nhìn vào đồng hồ. “Tôi phải đi đây.”
“Tôi đi ra xe với anh nhé?” Strike hỏi.
Wilson cũng vui vẻ muốn đi theo; Strike trả tiền cho cả ba người. Họ ra khỏi quán. Trên vỉa hè Strike rút thuốc lá ra mời cả hai; Wilson từ chối, Kolovas-Jones lấy một điếu.
Một chiếc Mercedes màu bạc đậu gần đó, gần góc đường Electric.
“Sau đó anh chở Deeby đi đâu?” Strike hỏi Kolovas-Jones, lúc này họ đã tới khá gần chiếc xe.
“Ổng ưa đi hộp đêm, nên tôi chở tới Barrack.”
“Anh tới đó lúc mấy giờ?”
“Tôi không biết… mười một rưỡi? Mười hai giờ kém mười lăm. Ổng có vẻ căng thẳng, nói chưa muốn đi ngủ.”
“Tại sao lại tới Barrack?”
“Tối thứ sáu ở Barrack là chỗ có hip-hop hay nhất London,” Kolovas-Jones trả lời, cười cười, như thể ai cũng biết điều đó vậy. “Ổng có vẻ thích lắm, tại tới gần ba giờ ổng mới ra lại.”
“Vậy anh chở Macc về lại Kentigern Gardens rồi mới thấy cảnh sát đầy ở đó, hay...?”
“Tôi đã nghe tin trên radio trước rồi,” Kolovas-Jones nói. “Tôi kể với Deeby khi ổng vô xe. Nhân viên của ổng bắt đầu gọi điện loạn xạ, đánh thức mấy người bên hãng đĩa hát, sắp xếp lại mọi thứ. Họ kiếm cho ổng được một phòng ở khách sạn Claridges; tôi chở ổng về đó. Năm giờ sáng tôi mới về tới nhà. Bật TV lên xem lại trên kênh Sky. Khốn kiếp không thể tin nổi.”
“Tôi cứ tự hỏi không biết ai nói trước với đám paparazzi đứng trước tòa nhà số mười tám là mấy tiếng sau Deeby mới về. Nghe đâu có ai nói vậy nên họ mới bỏ ra về hết trước khi Lula ngã xuống.”
“Vậy hả, tôi không biết.” Kolovas-Jones đáp.
Anh chàng bước nhanh hơn một chút, tới xe trước hai người còn lại và bấm mở khóa.
“Macc không mang theo hành lý gì à? Có để trong xe anh không?”
“Không, bên hãng đĩa hát cho gởi đi trước vài ngày rồi. Ổng xuống máy bay chỉ có một cái túi xách tay, và khoảng mười vệ sĩ.”
“Vậy xe anh không phải là chiếc xe đi đón duy nhất?”
“Có bốn chiếc tất cả, nhưng Deeby ngồi trong xe tôi.”
“Khi ông ta ở trong hộp đêm anh đợi ở đâu?”
“Tôi chỉ đậu xe và ngồi đợi thôi,” Kolovas-Jones trả lời. “gần phố Glasshouse.”
“Còn ba chiếc nữa ở đâu? Mấy anh không đậu cùng chỗ hả?”
“Ở London dễ gì tìm được bốn chỗ đậu xe liên tiếp hả ông bạn,” Kolovas-Jones nói. “Tôi không biết ba đứa kia đậu ở đâu.”
Lúc này Kieran đã mở cửa xe, anh ta liếc nhìn Wilson rồi lại nhìn Strike.
“Nhưng chuyện này thì liên quan gì?” Anh ta hỏi.
“Tôi muốn biết khi lái xe riêng cho khách thì ra sao thôi.”
“Chán bỏ mẹ,” Kolovas-Jones trả lời, có vẻ bực tức. “Nghề này thì tới vậy thôi. Lái xe phần lớn là ngồi một chỗ đợi.”
“Anh còn giữ chìa khóa garage tầng hầm Lula đưa không?” Strike hỏi.
“Gì kia?” Kolovas-Jones hỏi lại, mặc dù Strike cá là anh ta đã nghe rõ câu hỏi. Vẻ hằn học của anh lái xe trở nên rõ ràng hơn, không chỉ với Strike, mà còn với cả Wilson, từ đầu tới cuối ngồi yên, trừ lúc xen vào kể chuyện Kolovas-Jones là diễn viên.
“Anh còn giữ…”
“Còn, còn giữ. Tôi vẫn phải chở ông Bestigui còn gì?” Kolovas-Jones trả lời, “Thôi, tôi phải đi đây. Tạm biệt Derrick.”
Anh ta vứt điếu thuốc hút dở xuống đường và ngồi vào xe.
“Nếu anh còn nhớ ra gì nữa,” Strike dặn, “ví dụ như tên của cô bạn Lula gặp ở Vashti, anh gọi điện cho tôi nhé?”
Strike đưa danh thiếp cho Kolovas-Jones. Anh ta đã cài xong dây an toàn, cầm lấy cái danh thiếp mà không thèm nhìn.
“Khéo mà trễ mất.”
Wilson vẫy tay chào. Kolovas-Jones đóng sầm cửa xe lại, khởi động, đánh xe ra khỏi bãi và nổ máy chạy đi.
“Nói hơi bị lậm mấy vụ sao siếc nổi tiếng,” Wilson nói, khi chiếc xe đã đi hẳn, như thể đang xin lỗi giùm cho anh chàng lái xe. “Nó rất thích lái xe cho cô Lula. Nó luôn tìm cách lái cho mấy người nổi tiếng. Nó đã rất hi vọng là Bestigui sẽ cho nó thử một vai, chờ đằng đẵng hai năm trời. Nên lúc không được gì nó rất tức.”
“Vai gì vậy?”
“Một tay buôn ma túy. Phim gì đó.”
Hai người cùng về phía ga tàu điện Brixton. Trên đường có mấy nữ sinh da đen mặc váy xếp màu xanh đang túm tụm cười nói. Một cô bé có tóc tết xâu hạt làm Strike lại nghĩ đến em gái Lucy.
“Ông Bestigui vẫn còn ở đó đúng không?” Strike hỏi.
“Đúng vậy.” Wilson đáp.
“Còn hai căn hộ kia thì sao?”
“Hai vợ chồng một tay môi giới chứng khoán người Urkraine thuê căn số hai. Một tay người Nga đang hỏi thuê căn số ba, nhưng chưa ra giá.”
Một người đàn ông nhỏ thó, râu rậm, mặc áo choàng như nhà tiên tri trong Kinh thánh chạy băng qua trước mặt, lè lưỡi trêu, khiến Strike và Wilson phải dừng lại. Strike hỏi “Hôm nào anh cho tôi vào trong nhà xem được không?”
“Cũng được,” Wilson đáp sau khi liếc nhìn chân Strike. “Cứ gọi tui. Nhưng phải đợi lúc ông bà Bestigui không có nhà, anh hiểu không. Ổng khó tính lắm, mà tui thì cần việc làm.”
8
Ý nghĩ tuần tới trong văn phòng vẫn có người cùng ngồi khiến cuối tuần một mình của Strike thú vị hẳn, đỡ chán và cũng được việc hơn. Trong hai ngày cuối tuần, hắn không xếp giường lại. Hắn mở cửa phòng trong thông ra văn phòng ngoài, tận hưởng sự riêng tư. Chán mùi chanh tổng hợp, hắn mở luôn cánh cửa sổ vốn đóng rất chặt ngay sau bàn làm việc. Một làn gió trong mát lùa vào như muốn gột sạch hết mấy góc phòng mốc meo. Hắn tránh không bật đĩa nhạc hay bài hát nào có thể gợi nhớ đến những ngày buồn vui với Charlotte. Hắn chọn Tom Waits, bỏ đĩa vào chiếc máy CD mà hắn tưởng đã mất từ lâu nhưng tự dưng lại thấy ở ngay dưới đáy thùng đồ, rồi loay hoay lắp chiếc TV tiện lợi với cái ăng-ten nhỏ xíu. Xong việc hắn bỏ hết quần áo đã mặc vào một túi ni lông đen thường dùng để đựng rác rồi vác ra hiệu giặt ủi cách đó gần một cây số. Giặt đồ xong hắn treo áo sơ mi và đồ lót lên sợi dây căng giữa phòng và ngồi xem trận ba giờ chiều giữa Arsenal và Spurs.
Khi làm những việc tủn mủn đó, Strike cảm thấy y như lúc hắn nằm viện, cứ như luôn có một con ma đang dõi theo hắn. Con ma lởn vởn trong bốn góc phòng tồi tàn; thì thào với hắn mỗi khi hắn lơi tay. Nó cứ lải nhải rằng hắn đã trượt dài ra sao, tuổi tác, túng tiền, thất tình, không nhà không cửa. Ba-mươi-lăm, con ma nói thầm, mà chẳng có gì ngoài bốn cái thùng giấy và một cục nợ to đùng. Con ma khiến mắt hắn nhìn vào mấy lon bia trong siêu thị khi đi mua thêm mì ăn liền. Nó giễu cợt khi hắn phải ủi áo sơ mi ngay trên sàn nhà. Cứ thế, nó nhạo cả thói quen phải ra ngoài mỗi khi hút thuốc, như thể hắn vẫn còn trong quân đội, như thể hắn đang dùng chút kỷ luật cá nhân ít ỏi để thay đổi thực tại phũ phàng. Vậy là hắn bắt đầu hút thuốc ngay ở bàn làm việc. Đầu thuốc vứt đầy trong cái gạt tàn thiếc rẻ tiền mà hắn chôm từ một quán bar ở Đức hồi lâu lắc.
Nhưng dù gì hắn vẫn còn có một công việc, hắn liên tục nhắc mình; công việc có thu nhập đàng hoàng. Trận đó Arsenal thắng Spurs, Strike thấy vui hẳn. Hắn tắt TV, chấp luôn con ma, ngồi lại bàn và tiếp tục làm việc.
Mặc dù được tự do thu thập và sắp xếp chứng cứ, Strike vẫn làm theo quy trình của Luật điều tra hình sự. Một mặt hắn nghĩ Bristow rõ là hoang tưởng, mặt khác hắn vẫn ghi chép vô cùng kỹ lưỡng và chính xác tất cả những thông tin có được từ Bristow, Wilson và Kolovas-Jones.
Lucy gọi điện lúc sáu giờ tối khi hắn đang rất tập trung làm viêc. Lucy nhỏ hơn hắn hai tuổi nhưng lúc nào cũng tỏ ra già dặn hơn. Mặc dù còn trẻ nhưng Lucy đã có nhà riêng, một ông chồng nghiêm nghị, ba đứa con và một công việc khá vất vả. Em gái hắn dường như lúc nào cũng muốn có thêm trách nhiệm, như thể bao nhiêu cũng không đủ. Strike đoán rằng Lucy luôn muốn chứng tỏ với bản thân mình và cả thế giới rằng nó không giống người mẹ ăn chơi chút nào. Người mẹ từng tha hai anh em đi khắp nước Anh, chuyển từ trường này qua trường khác, hết ở nhà hoang đến cắm trại, chỉ để thêm nguồn cảm hứng hay người đàn ông mới. Strike có tám anh chị em tính luôn con riêng của bố và mẹ nhưng chỉ lớn lên cùng với Lucy. Mặc dù hắn thương Lucy dường như hơn bất kỳ ai trên đời nhưng hai anh em không hợp nhau, lần nào nói chuyện cũng cãi vã, gây gổ xoay quanh chừng đó chuyện. Lucy không thể che giấu nỗi lo lắng và thất vọng về hắn. Vì vậy, Strike thường không thể nói thật hết với Lucy như với bạn bè.
“Ừ, mọi chuyện ổn cả,” hắn vừa nói vừa phả khói thuốc ra ngoài cửa sổ, ngắm dòng người ra vào cửa hàng ở tầng dưới. “Công việc dạo này nhiều gấp đôi.”
“Anh ở đâu đó? Em nghe có tiếng xe.”
“Ở văn phòng. Anh phải làm mấy việc giấy tờ.”
“Thứ Bảy mà cũng đi làm? Charlotte không nói gì sao?”
“Cổ đi thăm mẹ rồi.”
“Hai người sao rồi?”
“Tốt đẹp hết.” hắn đáp.
“Chắc không đó?”
“Ừ, chắc. Greg sao rồi?”
Lucy lập tức than vãn một thôi một hồi về ông chồng tham công tiếc việc, trước khi quay lại tấn công hắn.”
“Gillespie còn đòi nợ anh không?”
“Không.”
“Stick à, anh biết không…” mỗi khi Lucy mềm mỏng gọi hắn bằng biệt danh lúc nhỏ là y như rằng cô nàng muốn thuyết phục hắn chuyện gì, “Em có tìm hiểu qua vụ này, anh có thể làm đơn xin vay từ bên quân đội để mà…”
“Dẹp mẹ nó đi Lucy.” Strike buột miệng.
“Cái gì?”
Lucy bắt đầu dỗi. Kịch bản quen thuộc. Hắn nhắm mắt lại.
“Lucy, anh không cần xin gì từ bên quân đội cả, được chưa?”
“Đâu cần phải làm cao như vậy…”
“Mấy thằng nhỏ sao rồi?”
“Tụi nó ổn hết. Nghe này Stick, em nghĩ thật không tưởng tượng được vụ Rokeby dán thuê luật sư ăn hiếp anh, ổng chẳng bao giờ cho anh đồng nào. Đáng ra ổng phải cho anh luôn, anh khổ vậy còn ổng thì…”
“Công việc đang rất tốt. Anh sẽ trả hết nợ.” Strike nói. Bên kia đường một cặp choai choai đang cãi nhau.
“Anh với Charlotte ổn hết thật hả? Tự dưng đi thăm mẹ vậy? Em tưởng là cổ với mẹ cổ không ưa gì nhau?”
“Giờ đỡ hơn nhiều rồi,” Strike nói. Con bé bên kia đường huơ tay loạn xạ, giẫm chân đùng đùng rồi bỏ đi.
“Anh mua nhẫn chưa?” Lucy hỏi tiếp.
“Tưởng em muốn anh trả nợ cho xong đã?”
“Không có nhẫn cổ cũng chịu hả?”
“Charlotte rất được. Cổ nói không cần nhẫn nhiếc gì, để tiền làm ăn trước.”
“Thật hả? Lucy cứ nghĩ Strike không biết chuyện cô chẳng ưa gì Charlotte. “Anh tới dự sinh nhật thằng Jack chứ?”
“Khi nào?”
“Em gởi thiệp cả tuần rồi mà, Stick!”
Có khi Charlotte đã bỏ cái thiệp vào một trong mấy cái thùng chưa mở. Hắn vẫn chưa lấy hết đồ đạc ra vì không có đủ chỗ chứa trong văn phòng.
“Rồi, anh sẽ tới,” hắn nói, thực bụng không hề muốn đi chút nào.
Nói chuyện xong hắn trở lại máy tính làm việc. Phần ghi chép từ lời kể của Wilson và Kolovas-Jones đã hoàn tất, nhưng cảm giác bực bội vẫn đọng lại. Kể từ khi giải ngũ, đây là vụ đầu tiên hắn được làm nhiều việc hơn là rình mò theo dõi kẻ này kẻ nọ. Cứ như thể ai đó muốn nhắc cho hắn biết rằng giờ hắn chẳng còn chút quyền lực nào cả. Freddie Bestigui-người ở gần Lula nhất trong đêm đó vẫn kiên quyết nấp sau đám tay chân tiểu tốt, không tài nào tiếp cận được, và cho dù John Bristow quả quyết ông ta sẽ thuyết phục được Tansy Bestigui gặp hắn, đến giờ vẫn chưa có gì là chắc chắn.
Vừa cảm thấy hơi bất lực, vừa coi thường cái nghề nghiệp chẳng đâu vào đâu của mình – có lẽ không khác mấy với thái độ của vị hôn phu của Robin, Strike quay sang tìm kiếm trên internet cho đỡ nản. Hắn tìm ra Kieran Kolovas-Jones ngay: anh chàng lái xe không hề nói dối về phim The Bill, trong phim anh ta có đúng 2 câu thoại (phân vai: Tay xã hội đen thứ hai… Kieran Kolovas-Jones). Anh ta đúng là có ông bầu riêng. Trên trang của ông bầu, Kieran được đăng một tấm hình nhỏ, cùng với danh sách các vai tham gia, trong đó có vai quần chúng trong phim bộ EastEnders và Casualty. Ảnh của Kieran trên trang của công ty Execars to hơn hẳn. Trong ảnh anh chàng đứng một mình, mặc đồng phục đội mũ kếp, trông như ngôi sao điện ảnh. Rõ là tay tài xế đẹp trai nhất công ty.
Màn đêm buông xuống bên ngoài cửa sổ; tiếng Tom Waits gầm gừ rên rỉ vẫn vọng ra từ chiếc máy CD trong góc phòng. Strike tiếp tục đuổi theo những dấu vết của Lula Landry trong thế giới ảo, thỉnh thoảng dừng tay ghi chép.
Hắn không tìm ra trang Facebook nào của Landry cả, cô ta hình như cũng chưa bao giờ dùng Twitter. Dường như Lula càng từ chối thỏa mãn sự tò mò của người hâm mộ về đời tư của mình thì người ta càng muốn lấp đầy khoảng trống của cô trong thế giới ảo. Có vô số trang mạng đăng lại hình của Lula và say sưa bình luận về đời tư của cô. Nếu một nửa thông tin trên đó là sự thật thì có lẽ Bristow đã quá ưu ái và nhẹ lời khi kể về cô em gái bê tha. Lula hư hỏng từ khá sớm. Cha nuôi của Lula là Ngài Alec Bristow, một ông già hiền lành rậm râu, người sáng lập ra công ty điện tử Albris. Sau khi Ngài Bristow qua đời vì đau tim, Lula bỏ học hai lần. Lần thứ ba thì bị nhà trường đuổi học. Tất cả những trường cô học đều là trường tư đắt tiền. Bạn cùng ký túc xá từng tìm thấy Lula nằm trong vũng máu sau khi rạch cổ tay tự tử. Lula từng sống lang thang, cảnh sát có lần tìm ra cô trong một ngôi nhà bỏ hoang. Trang web LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com, do một fan cuồng không rõ nam hay nữ lập ra còn quả quyết rằng trong thời gian đó Lula làm gái để kiếm sống.
Sau đó Lula bị điều trị bắt buộc theo Luật Sức khỏe Tâm thần, bị chuyển đến khoa có người canh giữ dành riêng cho các bệnh nhân trẻ tuổi bệnh nặng và được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Chưa đầy một năm sau, câu chuyện cổ tích bắt đầu khi một tay săn người mẫu tình cờ phát hiện ra Lula khi cô đang đi mua quần áo với mẹ ở một cửa hàng trên phố Oxford.
Trong những tấm ảnh đầu tiên, Lula lúc đó mới mười sáu tuổi, có gương mặt như Nữ hoàng Ai Cập Nefertiti. Trước ống kính Lula trông vừa trần tục vừa mong manh với đôi chân dài như hươu cao cổ và một vết sẹo ngoằn ngoèo ở mặt trong cánh tay trái. Các biên tập viên thời trang có vẻ thích đặt vết sẹo ngay bên gương mặt sắc sảo của cô, có khá nhiều hình chụp kiểu này. Sắc đẹp của Lula dữ dội đến gần như vô lý. Trong những bài cáo phó và các bài blog khóc thương, người ta nhắc đến sự quyến rũ của Lula, kèm theo đó là tính khí thất thường, dễ bùng nổ cũng nổi tiếng không kém. Báo giới lẫn công chúng xem ra vừa yêu mến Lula vừa khoái “ném đá” cô. Một nữ nhà báo nhận xét Lula là người “ngọt ngào kỳ lạ, bản tính ngây thơ không ngờ”; trong khi một nhà báo khác cho rằng Lula “nói cho cùng cũng chỉ là một bà hoàng đỏng đảnh, tính toán, xảo quyệt và cố chấp.”
Chín giờ tối, Strike đi ra phố Tàu mua một phần cơm rồi trở về văn phòng, đổi đĩa Tom Waits bằng Elbow và tiếp tục tìm thông tin về Evan Dufield trên mạng, mặc dù dường như tất cả (kể cả Bristow) đều đã chấp nhận là tay này vô can.
Nếu anh tài xế Kieran Kolovas-Jones không tỏ ra ghen tị với Duffield về mặt sự nghiệp thì Strike cũng chẳng biết tay này nổi tiếng vì cái gì. Internet cho biết rằng Duffield nổi tiếng sau một bộ phim độc lập được giới phê bình đánh giá cao. Trong phim anh ta đóng vai một nhân vật không khác mình mấy ở ngoài đời: một nhạc sĩ nghiện heroin phải trộm cắp để có tiền chích choác.
Lợi dụng danh tiếng của Duffield sau bộ phim, ban nhạc của anh ta tung ra một album khá đình đám rồi tan rã cũng ồn ào không kém khi Duffield gặp Lula. Cũng như Lula, Duffield cực kỳ ăn ảnh, ngay cả trong những tấm ảnh chụp từ xa không chỉnh sửa gì, cho thấy anh ta ăn mặc lôi thôi đi lang thang trên đường, hay những tấm chụp Duffield đang giận dữ chửi rủa phóng viên (kể ra số này khá là nhiều). Sự kết hợp giữ hai con người xinh đẹp nhưng rắc rối này dường như tăng thêm sức hút của cả hai, hễ ai quan tâm đến người này sẽ quan tâm đến người kia và ngược lại, cứ như thế.
Cái chết của cô bạn gái càng khiến Duffield thêm nổi tiếng, giờ đây hắn ta vừa được ngưỡng mộ, vừa bị gièm pha, lại nhuốm chút ly kỳ. Tên tuổi Duffield được bao quanh một vầng đen u ám thoảng mùi chết chóc: từ các fan cuồng nhất cho đến những người ghét Duffield đều tỏ vẻ thích thú trước cái ý nghĩ rằng hắn coi như đã đặt một chân sang thế giới bên kia; rằng chuyện hắn sẽ tàn lụi và bị quên lãng là không thể nào tránh khỏi. Duffield có vẻ ưa nói về chủ đề này. Trên Youtube có nhiều clip ngắn quay cảnh hắn vừa phê thuốc vừa nói lảm nhảm, bằng cái giọng y như Kolovas-Jones giả bộ. Hắn lè nhè lý luận rằng cái chết không khác gì rời khỏi một bữa tiệc, vậy thì phải đi về nhà sớm thì cũng đâu có gì đáng phải khóc.
Theo nhiều nguồn khác nhau, Duffield rời khỏi hộp đêm không lâu sau khi Lula bỏ về, khi đó hắn mang mặt nạ chó sói. Với Strike, hành động này đơn thuần là trò vớ vẩn của đám sao siếc. Lời khai của Duffield dù không thỏa mãn nhiều cư dân mạng thích tưởng tượng nhưng đủ làm cảnh sát tin rằng hắn không dính dáng gì đến sự vụ sau đó tại Kentigern Gardens.
Strike vừa tiếp tục suy đoán, vừa lướt qua các trang mạng và blog khác. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những giả thuyết hết sức quả quyết về cái chết của Lula, nhấn mạnh đến những dấu vết mà cảnh sát bỏ qua. Có lẽ Bristow cũng từng đọc qua những trang này. Trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com còn có nguyên một danh sách Những câu hỏi không có câu trả lời, trong đó câu thứ năm là “Ai đã bỏ nhỏ cho phóng viên rời khỏi hiện trường trước khi Lula rơi xuống?”; câu số chín, “Tại sao hai người đàn ông che mặt gần hiện trường lúc hai giờ sáng không ra trình diện? Họ ở đâu và là những ai?”; và câu số mười ba, “Tại sao lúc rơi xuống Lula mặc đồ khác với lúc mới vào nhà?”
Nửa đêm, Strike đọc đến vụ ồn ào mà Bristow từng nhắc tới, vừa đọc vừa uống bia. Khi vụ này nổ ra Strike cũng có nghe đến nhưng không quan tâm mấy. Hắn nhớ một tuần sau khi có kết luận vụ Lula là tự tử, người ta trạm cãi kịch liệt về tấm ảnh quảng cáo của nhà thiết kế Guy Somé. Trong ảnh hai người mẫu đứng trong một con hẻm dơ bẩn, không mặc gì trừ mấy cái túi xách che những chỗ ý nhị, thêm khăn quàng cổ và đồ trang sức. Landry ngồi vắt vẻo trên thùng rác còn Ciara Porter bò dưới mặt đất. Cả hai đều đeo cánh thiên thần: cánh của Porter màu trắng như thiên nga còn của Landry màu xanh đen ánh đồng sáng loáng.
Strike nhìn bức ảnh trong vài phút, cố phân tích xem tại sao gương mặt của Lula khiến người ta không thể rời mắt, cứ như thể cô ta thống trị cả khuôn hình. Bằng cách nào đó Lula khiến cho sự phi lý và tính dàn dựng của bức ảnh biến mất, câu chuyện trong ảnh trở nên rất thật, hoàn toàn tin được. Trong ảnh, Lula là thiên thần mắc đọa vì lòng tham, vì quá ham muốn những món đồ mà cô ta đang ôm vào người. Bên cạnh Lula, Ciara Porter đẹp thánh thiện nhưng chỉ đáng làm nền, nhợt nhạt và thụ động không khác gì một bức tượng.
Khi chọn dùng tấm ảnh này, Guy Somé chịu không ít búa rìu dư luận, trong đó có những lời khá cay nghiệt. Nhiều người cho rằng Smoé lợi dụng cái chết của Landry và quay ra nhạo báng những lời lẽ tha thiết mà người phát ngôn của Somé dành cho Lula. Tuy vậy, trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com lại cho rằng ắt hẳn Lula cũng muốn bức ảnh đó được đăng; rằng cô ta và Guy Somé là bạn cực kỳ thân thiết: Lula yêu quý Guy như một người anh trai và chắc hẳn sẽ không phản đối việc Guy dùng tấm ảnh như lời tôn vinh cuối cùng dành cho sự nghiệp và sắc đẹp của cô. Đây là một tấm ảnh biểu tượng, nó sẽ còn mãi và giữ cho Lula mãi sống động trong ký ức của chúng ta, những người vô cùng yêu quý cô.
Strike nốc hết lon bia, nghĩ về những từ cuối cùng trong câu đó. Hắn chẳng bao giờ hiểu được tình cảm thân thiết của fan dành cho những người nổi tiếng mà mình chưa một lần gặp mặt. Nhiều người khi gặp hắn cứ nhắc đến cha hắn, rằng “Jonny già” thế này thế nọ, rồi mỉm cười sung sướng như đang nói về một người bạn chung, rồi lặp đi lặp lại những truyền kỳ đăng nhan nhản trên báo cứ như đó là kỷ niệm của riêng họ. Trong một quán bia ở Trescothick, một người từng thốt lên với Strike rằng: “Quả thật, tao rành ông già mày còn hơn mày nữa!” chỉ vì anh ta kể được tên của nhạc công chơi trong album thành công nhất của Deadbeats, tay này về sau nổi tiếng vì bị Rokeby nổi giận tộng cho một cú vào kèn saxophone gãy cả răng.
Một giờ sáng. Strike gần như miễn dịch luôn với tiếng guitar bass thình thịch liên tục vọng lên từ tầng trệt và những âm thanh kẽo kẹt xì xụp thỉnh thoảng phát ra từ tầng trên, nơi tay chủ quán bar đang nấu nướng tắm giặt. Mệt mỏi, nhưng vẫn chưa thể đi ngủ, Strike lần ra thêm địa chỉ nhà Guy Somé ở đâu đó trên phố Charles, khá gần với Kentigern Gardens. Rồi hắn gõ địa chỉ www.arrse.co.uk, trụ sở giải trí trên mạng của cánh quân nhân, tự nhiên như thể đi đến quán nhậu quen thuộc sau ca làm việc dài.
Lần gần nhất hắn vào trang này đã cách nay mấy tháng. Lần đó Charlotte phát hiện ra và nhảy dựng lên như thể hắn đang xem phim con heo. Sau đó là một vụ cãi vã dữ dội vì cô ta nghĩ rằng hắn vẫn còn nhớ đời lính và không thỏa mãn với hiện tại.
Trang web viết đúng kiểu tâm lý quân nhân, bằng một thứ ngôn ngữ Strike thông thạo. Tại đây hắn lại được thấy những từ viết tắt quen thuộc; những chuyện đùa người ngoài không thể hiểu được và những mối quan tâm của người trong quân ngũ, từ người cha lo cho con bị ăn hiếp ở trường học trên đảo Síp, cho tới những chỉ trích nhằm vào Thủ tướng tại cuộc điều tra về vai trò của nước Anh trong chiến tranh Iraq. Strike đọc hết trang này đến trang khác, thỉnh thoảng bật cười, nhưng vẫn cảm nhận rõ là hắn đang dần dần đầu hàng trước cái bóng ma kia, dường như giờ đây lại đang thì thào sau cổ hắn.
Trang web đưa hắn về một thế giới khác, nơi hắn từng sống rất vui. Mặc dù cuộc sống trong quân đội không tiện nghi, lắm vất vả, mặc dù hắn trở về chỉ với một cái chân rưỡi, nhưng Strike không hề thấy tiếc lấy một ngày. Vậy mà hắn vẫn không thuộc về nơi đó, thậm chí là ngay cả khi hắn còn tại ngũ. Cái thời hắn làm lính quân cảnh, rồi lên điều tra viên, từng bị đồng đội vừa nể vừa ghét.
***
Nếu nhân viên SBI[1] muốn nói chuyện với bạn, bạn nên trả lời “Tôi không có bình luận gì, tôi muốn gặp luật sư.” Hoặc chỉ nói “Cảm ơn đã để ý tới tôi” cũng đủ rồi.
[1. Special Investigation Branch: Cục điều tra đặc biệt của quân đội Anh.]
Strike bật cười rồi nhanh chóng tắt trang web, tắt luôn máy tính. Hắn mệt đến nỗi phải mất thì giờ gấp đôi mới tháo được cái chân giả ra.
9
Sáng Chủ nhật đẹp trời, Strike lại tới Hội Sinh viên Đại học London để tắm. Một lần nữa hắn cố ý đi đứng khuỳnh khoàng, mặt mày cau có, mắt cắm xuống đất. Vẻ bặm trợn của hắn khiến không ai muốn hỏi han gì khi hắn đi ngang qua bàn lễ tân. Trong phòng thay đồ Strike đợi cho đám sinh viên đi ra hết rồi mới tắm. Hắn không muốn ai nhìn thấy cái chân giả của mình.
Sau khi đã tắm rửa sạch sẽ, cạo râu nhẵn nhụi, Strike xuống tàu điện, đi về khu Hammersmith Broadway. Hắn bước ra khỏi ga tàu, tận hưởng chút ánh nắng chiếu xuyên qua cửa kính khu mua sắm trước khi bước ra đường. Những cửa hàng xa xa trên phố King đầy người; cứ như là sáng thứ Bảy vậy. Khu Hammersmith Broadway đông đúc tấp nập, đúng kiểu một trung tâm mua sắm vô hồn, nhưng chỉ cách đó có mười phút đi bộ lại là con đường yên tĩnh, đầy cây cối dọc bờ sông Thames.
Khi đi bộ trên vỉa hè ngắm xe cộ qua lại, Strike bỗng nhớ đến những ngày Chủ nhật ấu thơ ở Cornwall, mọi nơi đều đóng cửa trừ nhà thờ và bãi biển. Khi đó Chủ nhật luôn có một dư vị riêng; sự tĩnh lặng thầm thì mà vang vọng, tiếng tách sứ va chạm nhau nhè nhẹ, mùi nước sốt thịt, chương trình TV chẳng có gì đáng xem, tẻ ngắt như những con phố đóng cửa vắng tanh. Trên bãi biển, những con sóng không ngừng vỗ bờ, hắn và Lucy chạy nhảy trên mặt sỏi, không có món gì để chơi ngoài những thứ thô sơ nhất.
Mẹ hắn từng nói rằng: “Nếu mẹ phải xuống địa ngục như lời mợ Joan thì địa ngục cùng lắm là nơi ngày nào cũng là Chủ nhật ở cái xứ thối tha này chứ gì.”
Strike rời xa khu trung tâm mua sắm đi về hướng sông Thames, vừa đi vừa gọi điện cho thân chủ.
“John Bristow nghe đây?”
“Xin lỗi cuối tuần mà vẫn làm phiền anh, John…”
“Cormoran?” Bristow ngay lập tức đổi giọng thân thiện. “Không sao cả, không có vấn đề gì hết! Anh đi gặp Wilson sao rồi?”
“Rất tốt, rất có ích, cảm ơn anh. Tôi muốn hỏi xem anh có biết một người bạn của Lula không. Lula gặp cô này ở bênh viện. Tên của cô ấy bắt đầu bằng chữ R – có lẽ là Rachel hay Raquelle, lúc Lula mất cô ta sống ở nhà trọ St Elmo dưới Hammersmith. Anh có biết gì về cô ta không?”
Bristow im lặng trong thoáng chốc. Khi nói trở lại, giọng ông ta lộ vẻ thất vọng, hơi bực bội.
“Tại sao anh lại muốn gặp cô ta? Tansy đã nói giọng người từ lầu trên là đàn ông kia mà.”
“Tôi không nghĩ cô ta là thủ phạm, nhưng có lẽ cô ta biết gì đó. Lula hẹn gặp cô ta ở cửa hàng Vashti ngay sau khi gặp anh ở nhà mẹ anh.”
“Vâng, tôi có biết chuyện này, trong báo cáo điều tra có hết. Ý tôi là… rõ là anh biết việc của anh, nhưng… tôi không nghĩ cô ta biết được gì. À… mà khoan, đợi một lát, Cormoran… tôi đang ở nhà mẹ tôi, đang có rất nhiều người… để tôi tìm chỗ nào yên tĩnh hơn chút…”
Strike nghe tiếng cử động, tiếng nói thầm “Xin lỗi,” rồi Bristow quay trở lại.
“Xin lỗi anh, tôi không muốn nói chuyện này trước mặt y tá của mẹ tôi. Thực ra lúc anh gọi tôi cứ nghĩ lại có người nào đó muốn nói chuyện Duffield. Tất cả người quen đều đã gọi cho tôi nói chuyện đó.”
“Chuyện gì kia?”
“Rõ là anh không đọc tờ News of the World. Có hết trên đó, đăng cả hình nữa. Hôm qua Duffield tự dưng đến thăm mẹ tôi. Phóng viên đứng đầy ở ngoài, phiền lắm, hàng xóm cũng khó chịu. Lúc đó tôi đang đi với Alison, chứ không tôi đã không để hắn vào nhà.”
“Anh ta muốn gì?”
“Câu hỏi hay. Ông cậu Tony của tôi nghĩ là tiền… nhưng ông này thì lúc nào cũng tiền bạc; dù sao đi nữa tôi cũng đã được ủy quyền, nên không phải lo gì cả. Chúa mới biết anh ta đến làm gì. Cũng may là mẹ tôi không biết anh ta là ai. Mẹ tôi đang uống thuốc giảm đau cực mạnh.”
“Tại sao phóng viên biết được chuyện anh ta đi thăm mẹ anh?”
“Lại một câu hỏi hay. Cậu Tony cho là hắn ta tự gọi cho phóng viên.”
“Mẹ anh sao rồi?”
“Rất nguy kịch. Họ nói có khi được thêm vài tuần nữa… cũng có thể đi bất kỳ lúc nào.”
“Tôi rất tiếc.” Strike đáp. Hắn nói lớn tiếng khi đi dưới cầu vượt, trên cầu xe cộ rất ồn ào. “Vậy nếu anh nhớ ra tên của cô bạn cùng đi với Lula đến hiệu Vashti…”
“Xin lỗi nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao anh lại quan tâm tới cô ta như vậy.”
“Lula muốn cô này đi từ Hammersmith đến tận Notting Hill chỉ để gặp có mười lăm phút rồi đi về. Tại sao không ở lại thêm? Tại sao gặp chóng vánh như vậy? Họ có cãi cọ gì không? Tất cả những gì hơi khác thường xảy ra xung quanh thời điểm vụ án đều có thể là chi tiết quan trọng.”
“Tôi hiểu,” Bristow ngập ngừng. “Nhưng… kiểu cư xử như vậy của Lula cũng chẳng có gì khác thường. Tôi có nói với anh là Lula có lúc hơi… hơi ích kỷ. Có khi nó nghĩ là chỉ gặp một chút đó thôi cũng đủ làm cho cô gái kia vui. Lula là đứa cả thèm chóng chán, nó có thể rất nhiệt tình với người ta rồi lơ họ ngay.”
Bristow có vẻ rất thất vọng với cách điều tra của Strike. Hắn thấy cần phải khôn khéo nói thêm để ông ta thấy khoản thù lao trả cho hắn cũng chưa đến nỗi phí phạm hoàn toàn.
“Ngoài ra tôi cũng muốn báo cho anh biết là tối mai tôi sẽ gặp sĩ quan Eric Wardle, người làm vụ của Lula. Tôi hi vọng sẽ có được nguyên bộ hồ sơ điều tra.”
“Tuyệt vời!” Lần này Bristow có vẻ ấn tượng với Strike. “Anh làm nhanh quá!”
“Vâng, tôi cũng có quen biết vài chỗ trong cảnh sát thủ đô.”
“Vậy thì anh sẽ có được câu trả lời về Người bỏ chạy! Anh đọc mấy ghi chép rồi chứ?”
“Vâng, rất có ích,” Strike đáp.
“Tôi đang thu xếp ăn trưa với Tansy Bestigui trong tuần này để anh gặp và nghe lời khai trực tiếp của cô ta. Tôi sẽ điện cho thư ký của anh sau nhé?”
“Vậy thì tốt quá.”
Dập máy xong Strike tự nghĩ thuê thư ký dù sao vẫn có lợi, dù không có đủ việc cho cô ta làm, trước hết là tạo ấn tượng chuyên nghiệp cho khách hàng.
Nhà trọ St Elmo dành riêng cho những người vô gia cư nằm ngay dưới cầu vượt bê tông ồn ào. So với khu nhà gạch đỏ của Lula ở Mayfair, St Elmo như một người bà con xấu xí, gồ ghề với mặt tiền luộm thuộm màu trắng; không có tam cấp đá hay vườn hoa, không có những ngôi nhà thanh lịch chung quanh. Cánh cửa sứt mẻ của St Elmo mở thẳng ra đường, bệ cửa sổ tróc sơn nhuốm vẻ đìu hiu trơ trọi. St Elmo nằm co cụm, tội nghiệp và lạc long giữa thế giới hiện đại ồn ã chung quanh. Cầu vượt chỉ cách đó chưa tới hai mươi mét nên cửa sổ tầng trên khu trọ nhìn thẳng ra lan can bê tông trên cầu và dòng xe chạy ngược xuôi không dứt. St Elmo toát lên vẻ cứng nhắc của các tòa nhà công cộng, với chuông cửa lớn màu bạc và loa được gắn ngay bên cạnh cửa, cộng thêm một camera đen xấu xí dây nhợ lòng thòng đặt trong lồng sắt bên trên.
Một cô gái hốc hác, khóe miệng nứt lở vì lạnh đang đứng hút thuốc ngay bên trong cánh cửa. Cô gái mặc áo đen thùng thình của đàn ông, trông luộm thuộm dơ dáy. Cô đứng dựa vào tường, nhìn trơ trơ về phía trung tâm mua sắm cách đó chưa tới năm phút đi bộ. Khi Strike bấm chuông, cô ta nhìn hắn đầy vẻ suy tính như thể định giá xem hắn đáng bao nhiêu.
Ngay sau cánh cửa là một sảnh nhỏ ẩm mốc, sàn lót gỗ cũ kỹ. Hai bên sảnh có hai tấm cửa gương khóa kín, đằng sau là phòng khách trống trơn và một căn phòng bên tồi tàn có đặt cái bàn đầy tờ rơi, bảng phóng phi tiêu đã cũ và bức tường đầy lỗ thủng. Ngay trước mặt Strike là quầy lễ tân có lưới sắt che chắn.
Người đàn bà đang trực vừa nhai kẹo cao su vừa đọc báo. Bà ta tỏ vẻ ngờ vực và không thân thiện mấy khi Strike xin gặp một người bạn cũ của Lula, hình như tên là Rachel.
“Nhà báo hả?”
“Không phải, tôi là bạn của một người bạn khác của cô ấy.”
“Vậy thì anh phải biết tên của cô ta chứ?”
“Rachel? Raquelle? Tên gần gần như vậy.”
Một người đàn ông hói đầu bước vào quầy, đứng ngay sau bà ta.
“Tôi là thám tử tư,” Strike đáp, hơi lên giọng, người đàn ông hói đầu quay lại nhìn, có vẻ tò mò. “Đây là danh thiếp của tôi. Anh trai của Lula Landry thuê tôi, tôi cần nói chuyện với…”
“Anh đang tìm Rochelle?” Ông hói đầu hỏi, tiến lại gần song cửa. “Cổ không có ở đây đâu anh bạn à. Cổ đi rồi.”
Đồng nghiệp của ông ta tỏ ra khá khó chịu với sự niềm nở này bèn phản ứng bằng cách bỏ ra ngoài.
“Đi khi nào vậy?”
“Được vài tuần rồi. Có khi vài tháng cũng nên.”
“Anh biết cô ta đi đâu không?”
“Trời mới biết. Chắc lại lang thang ngoài đường nữa. Cổ cứ đi đi về về. Tính cổ rất khó chịu. Bị tâm thần mà. Anh đợi chút, có khi Carrianne biết gì đó. Carrianne! Ê! Carrianne!”
Cô gái hốc hác lở miệng bước vào, mắt nhíu lại.
“Gì kia?”
“Cô có gặp Rochelle không?”
“Mắc gì tôi lại muốn gặp con đĩ khốn đó?”
“Vậy là cô không thấy nó ở đâu hả?” ông hói đầu tiếp tục hỏi.
“Không. Có thuốc không cho điếu?”
Strike đưa một điếu thuốc, cô ta giắt ngay ra sau tai.
“Nó vẫn còn lảng vảng đâu đây thôi. Janine nói có thấy nó.” Carrianne nói. “Rochelle kể là nó sắp mua nhà gì đó. Con khốn chuyên nói dối. À, rồi còn phét là Lula Landry để lại cho nó hết tiền bạc. Láo toét! Anh kiếm Rochelle làm gì?” Cô ta hỏi Strike, rõ có ý dò xem có tiền bạc gì không, hoặc nếu không có Rochelle thì cô ta thế luôn được không.
“Chỉ để hỏi vào câu.”
“Chuyện gì chứ?”
“Lula Landry.”
“Ồ,” Carrianne buột miệng, đôi mắt đầy tính toán hấp háy liên tục. “Hai đứa đó có phải bạn bè thân thiết cái chó gì. Con đĩ Rochelle chuyên nói dối, anh khỏi mất công tin.”
“Cô ta nói dối chuyện gì?” Strike hỏi.
“Cái đếch gì cũng nói dối được. Tôi cá là nó chôm hết một nửa mớ đồ mà nó giả bộ là Landry cho.”
“Thôi nào Carrianne,” ông hói đầu nhẹ nhàng chen ngang. “Họ là bạn bè thật,” ông quay qua Strike. “Lúc trước Landry thường hay cho xe đến chở Rochelle đi chơi. Làm nhiều người ở đây cay lắm đấy.” Ông hói đầu liếc về phía Carrianne.
“Con này cóc có cay gì nhé,” Carrianne nhảy vào. “Landry là con đĩ hợm hĩnh. Đẹp đẽ gì.”
“Rochelle từng kể với tôi là có một bà cô ở Kilburn,” ông hói đầu nói tiếp.
“Nhưng nghe nói chẳng ưa gì nó.” Carriane lại chen ngang.
“Anh có tên tuổi địa chỉ của bà cô đó không?” Strike hỏi. Cả hai lắc đầu. “Họ của Rochelle là gì?”
“Tôi không biết, cô có biết không Carriane? Ở đây tụi tôi thường chỉ biết tên thôi,” ông ta trả lời Strike.
Hầu như không còn khai thác được thêm gì nữa từ hai người này. Hơn hai tháng trước Rochelle có ghé lại St Elmo. Ông hói đầu biết có một thời gian Rochelle đi điều trị ở khu ngoại trú tại bệnh viện St Thomas, nhưng không biết là bây giờ còn không.
“Nó hay nổi cơn tâm thần. Uống nhiều thuốc lắm.”
“Nó có quan tâm cái đếch gì khi Lula chết đâu,” Carriane đột nhiên nói. “Nó chả thèm để ý nữa kia.”
Cả hai người đàn ông quay lại nhìn cô ta. Cô ta nhún vai, như thể vừa mới nói ra một sự thật khó nghe.
“Phiền hai người, nếu Rochelle có trở lại làm ơn đưa số của tôi cho cổ và nói cổ điện ngay cho tôi.”
Strike đưa danh thiếp cho cả hai. Người đàn ông và Carriane chăm chú xem tấm danh thiếp. Strike tranh thủ lúc họ không để ý, thó ngay tờ News of the World từ khe cửa lồng sắt và kẹp dưới lách. Hắn chào tạm biệt cả hai rồi đi về.
Hôm đó là một buổi chiều xuân ấm áp. Strike đi bộ về hướng cầu Hammersmith, sơn màu xanh lá xô thơm và những chi tiết trạm trổ cầu kỳ trên thành cầu ánh lên trong nắng. Một con thiên nga đơn chiếc lững lờ bơi dọc bên kia sông. Những tòa nhà văn phòng và cửa hiệu thấp thoáng trông như xa lắc. Hắn rẽ phải vào lối đi bộ bên cạnh bờ kè, hai bên có những tòa nhà thấp ven sông liên tiếp nhau, vài ban công nhô ra, xen kẽ là những mặt tiền phủ đầy cây đậu tía.
Strike mua một vại bia trong quán Blue Anchor rồi mang ra chỗ bàn ghế gỗ đặt ngoài trời. Hắn nhìn về dòng nước, quay lưng về phía mặt tiền quán sơn hai màu trắng xanh kiểu hoàng gia. Đốt một điếu thuốc, hắn lật tới trang bốn tờ News of the World. Trước mắt hắn là một tấm hình màu chụp Evan Duffield (cúi đầu, trong tay cầm một bó hoa trắng rất to, vạt áo khoác đen tung bay). Trên tấm hình là dòng tít: DUFFIELD ĐI THĂM MẸ CỦA LULA ĐANG HẤP HỐI.
Bài báo vô thưởng vô phạt, chỉ như phần chú thích thêm vào tấm hình. Mắt kẻ cẩn thận, vạt áo khoác tung bay, vẻ mặt đờ đẫn, hơi ma mị, trông hắn hệt như trong tấm hình chụp tại đám tang của Lula. Bài báo mô tả hắn là “Evan Duffield, nhạc sĩ kiêm diễn viên vướng vào nhiều rắc rối.”
Điện thoại di động của Strike rung lên trong túi quần. Hắn rút ra xem. Có tin nhắn từ số lạ:
News of the World trang bốn: Evan Duffield. Robin.
Hắn nhìn màn hình, nhe răng cười rồi đút điện thoại vào trong túi. Nắng ấm choáng xuống đầu và vai hắn. Mấy con chim hải âu kêu quang quác, lượn vòng vòng trên đầu. Strike khoan khoái nghĩ tới chuyện giờ đây hắn không phải đi đâu, không có ai chờ đợi, tha hồ ngồi trên băng ghế trong nắng ấm đọc báo từ trang đầu đến trang cuối.
10
Robin đứng nghiêng ngả chen chúc với đám khách đi tàu trên tuyến Bakerloo phía bắc. Gương mặt ai cũng xám xịt và căng thẳng, đúng kiểu sáng thứ Hai. Robin thấy điện thoại trong túi áo rung lên. Loay hoay mãi cô mới rút ra được, khuỷu tay tình cò chạm vào chỗ mềm mềm không biết là bộ phận gì của người đàn ông hôi miệng mặc complet đứng bên cạnh. Khi thấy tin nhắn từ Strike, trong giây lát Robin thấy vô cùng phấn chấn, gần bằng lúc cô phát hiện tin Duffield trên báo hôm qua. Cô kéo màn hình điện thoại xuống, đọc:
Hôm nay tôi đi ra ngoài. Chìa khóa đằng sau bồn cầu. Strike.
Robin không bỏ lại điện thoại vào túi mà giữ chặt trong tay lúc tàu rung lắc rầm rầm qua những đường hầm tối. Cô nín thở cố né mùi khó chịu của ông mập. Robin đang rất bực. Hôm qua cô và Matthew đi ăn trưa với hai người bạn cùng học đại học với Matthew ở quán The Windmill on the Common, cũng là quán yêu thích của Matthew. Khi Robin thấy hình của Evan Duffield trên báo News of the World ở bên cạnh, cô đứng bật dậy xin phép chạy ra ngoài, ngay giữa câu chuyện của Matthew chỉ để nhắn tin cho Strike.
Sau đó Matthew nói cô thật bất lịch sự, đã vậy còn không thèm giải thích gì cả, cứ tỏ vẻ bí hiểm.
Robin nắm chặt lấy dây vịn tay trên tàu. Tàu chậm dần lại, ông mập đổ về phía cô. Robin thấy mình thật ngu ngốc, rồi thấy bực cả Matthew và Strike, đặc biệt là tay thám tử vì hắn chẳng có vẻ quan tâm gì đến hành động không bình thường của bạn trai cũ của Lula Landry.
Robin đi qua đám đông lộn xộn và gạch đá trên phố Denmark, lấy chìa khóa đằng sau bồn cầu như Strike dặn, gọi điện thoại cho văn phòng của Freddie Bestigui nhưng chỉ được một giọng con gái trịch thượng từ chối thẳng thừng. Tới lúc này, tâm trạng của Robin vô cùng tồi tệ.
Cùng lúc, Strike đi qua địa điểm diễn ra giây phút lãng mạn nhất trong đời của Robin, mặc dù hắn hoàn toàn không biết gì. Sáng hôm đó, một đám choai choai người Ý ngồi đầy trên những bậc thang ngay dưới chân tượng thần Tình yêu. Strike đi dọc bên phía St James, hướng về phố Glasshouse.
Lối vào hộp đêm Barrack chỉ cách vòng xoay Piccadilly Circus một quãng đi bộ ngắn ngủi. Đây là nơi Deeby Macc được đưa đến ngay khi vừa xuống máy bay từ Los Angeles và ông ta thích đến nỗi ở lại tới ba tiếng đồng hồ. Mặt tiền hộp đêm trông như xây bằng bê tông công nghiệp, trên đó gắn mấy chữ cái BARRACK màu đen sáng bóng theo chiều dọc. Hộp đêm có tất cả bốn tầng. Như Strike đoán, trên cừa ra vào có lắp camera an ninh. Strike áng chừng cự ly bao phủ của camera cũng phải đến hết gần con đường. Hắn đi quanh tòa nhà, quan sát những lối thoát hiểm và vẽ sơ đồ cả khu vực.
Đêm trước đó Strike lại tiếp tục tìm kiếm trên internet. Giờ đây Strike đã biết khá rõ mối liên hệ giữa Deeby Macc với Lula Landry. Nghệ sĩ rap này từng nhắc đến cô người mẫu trong lời ba bài hát trong hai album khác nhau. Trong nhiều cuộc phỏng vấn, ông ta nói đến Lula như một người phụ nữ lý tưởng, một người bạn tâm giao chưa bao giờ gặp. Rất khó để biết Macc nghiêm túc tới mức nào trong những cuộc phỏng vấn đó, thứ nhất vì ông ta có một khiếu hài hước kiểu tỉnh khô, rất thích châm biếm, thứ hai là phóng viên nào tiếp cận Macc cũng đều tỏ ra vừa ngưỡng mộ vừa sợ hãi.
Từng là dân anh chị thứ thiệt, phải đi tù vì những tội liên quan tới súng và thuốc phiện ở Los Angeles, Deeby Macc giờ đây đã là triệu phú, bên cạnh sự nghiệp ca hát còn có rất nhiều công việc ăn nên làm ra. Chẳng bất ngờ gì khi báo giới trở nên “phấn khích” – từ Robin dùng, khi có tin rò rỉ là công ty thu âm của Macc thuê riêng cho ông ta căn hộ ngay dưới căn của Lula. Dư luận say sưa suy đoán chuyện gì sẽ xảy ra khi Deeby Macc chỉ cách người yêu trong mộng một tầng lầu. Nhân vật mới hấp dẫn này liệu sẽ ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ sóng gió giữa Landry và Duffield. Những câu chuyện vô bổ còn được gia giảm thêm với những lời bình luận, đương nhiên là bịa hết, từ “bạn” của cả hai người – “Macc đã gọi điện cho Lula mời đi ăn tối,” “Lula đang chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ ngay trong căn hộ khi Macc đến London”. Những phỏng đoán kiểu đó át hết phản ứng giận dữ của một vài nhà báo lẻ tẻ khác trước chuyện người ta cho phép nhập cảnh một kẻ từng hai lần tù tội lại còn hát thứ nhạc (mà theo họ là) vinh danh quá khứ tội lỗi.
Khi thấy không còn khai thác thêm được gì từ những con phố bao quanh Barrack, Strike đi tiếp, ghi chú lại những vạch vàng hạn chế đậu xe ở xung quanh, các biển cấm đậu xe tối thứ Sáu và những công trình gần đó có lắp camera. Ghi chép xong, Strike thấy nên tư thưởng cho mình một tách trà và một cái bánh mì kẹp thịt muối, tính vào công tác phí. Hắn vào một quán cà phê nhỏ, uống trà ăn bánh và đọc tờ Daily Mail của ai đó bỏ lại.
Điện thoại đổ chuông ngay lúc Strike vừa mới bắt đầu tách trà thứ hai và đang đọc đến vụ Thủ tướng bị hớ vì càm ràm một nữ cử tri cao tuổi là “mù quáng” mà không biết là micro vẫn chưa tắt.
Một tuần trước đó khi Robin gọi, Strike không bắt máy, để cuộc gọi vào thẳng hộp thư thoại. Nhưng hôm nay thì khác.
“Chào Robin, cô sao rồi?”
“Tốt. Tôi gọi vì có mấy tin nhắn cho anh.”
“Cô nói đi,” Strike đáp, rút cây viết ra.
“Alison Creswell, thư ký của John Bristow vừa gọi – cổ nói là đã đặt một bàn ở Cipriani một giờ chiều mai để ông Bristow giới thiệu anh với Tansy Bestigui.”
“Tuyệt vời.”
“Tôi có gọi lại cho công ty của Freddie Bestigui. Họ bắt đầu bực rồi. Họ nói ông ta đang ở LA. Tôi để lời nhắn yêu cầu ông ta gọi cho anh.”
“Tốt”
“Peter Gillespie lại gọi nữa.”
“Ừm,” Strike đáp.
“Ông ta nói là việc gấp, phiền anh gọi lại ngay khi có thể.”
Strike sém chút nữa mở miệng nhờ Robin gọi lại cho Gillespie và nhắn hắn đi chết đi cho rồi.
“Được rồi, tôi sẽ gọi. À, cô nhắn tin cho tôi địa chỉ của hộp đêm Uzi được không?”
“Được thôi.”
“Nhờ cô tìm thêm số của Guy Somé. Ông này là nhà thiết kế thời trang.”
“Đọc là ghi, chứ không phải gai,” Robin nói.
“Gì kia?”
“Tên của ông ấy. Anh phải đọc theo kiểu tiếng Pháp là ghi.”
“À, hiểu rồi. Vậy cô tìm số ông ta giùm tôi được không?”
“Được,” Robin đáp.
“Rồi gọi luôn và hỏi là ông ta có cho tôi gặp được không. Để lại lời nhắn nói rõ tôi là ai, làm việc cho ai.”
“Được thôi.”
Strike nhận ra sự lạnh lùng trong giọng của Robin. Một hai giây sau đó, hắn đoán ra lý do.
“À còn nữa, cảm ơn cô vụ nhắn tin hôm qua,” hắn nói. “Xin lỗi vì tôi không nhắn lại ngay cho cô được; lúc đó tôi ở chỗ không tiện lắm. Nhưng phiền cô gọi luôn cho Niegel Clemént, người đại diện của Duffield và xin một cuộc hẹn, được vậy thì tốt quá.”
Sự lạnh lùng của Robin tan biến ngay, đúng ý Strike; giọng nói của cô cũng trở nên ấm áp hơn nhiều, gần như là phấn khích.
“Nhưng rõ là Duffield vô can còn gì? Anh ta có chứng cứ ngoại phạm chắc chắn!”
“Ừm, để coi,” Strike đáp, tỏ vẻ bí hiểm. “À còn nữa Robin này, nếu có thêm một thư dọa giết, mấy cái đó hay tới vào thứ Hai…”
“Tôi nghe đây?” Robin hăng hái.
“Cô cứ lưu nó lại,” Strike nói.
Strike ngờ ngợ - thật khó tin vì Robin lúc nào cũng nghiêm nghị, nhưng rõ là ngay lúc đó hắn có nghe tiếng Robin lầm bẩm “Lưu cái đầu anh,” trước khi cô dập máy.
Sau đó Strike tiếp tục làm những việc tẻ nhạt nhưng cần thiết. Sau khi Robin nhắn tin địa chỉ, Strike đi ngay đến hộp đêm Uzi ở Nam Kensington. Hoàn toàn đối lập với Barrack; lối vào của Uzi nhỏ và kín đáo như lối một căn nhà riêng cao cấp. Trên cửa cũng có gắn camera an ninh. Strike đón xe buýt đi về phố Charles, nơi có nhà của Guy Somé và đi bộ theo con đường ngắn nhất từ đó về nhà cũ của Landry.
Tới cuối buổi chiều Strike thấy đau chân kinh khủng. Hắn dừng lại nghỉ một lát, ăn thêm bánh mì rồi đi đến quán Feathers gần trụ sở cảnh sát London để gặp Eric Wardle.
Quán Feathers cũng là một quán bia theo kiểu Victoria với những ô cửa sổ rất lớn chạy từ trần tới gần chạm sàn. Cửa sổ nhìn ra một tòa nhà màu xám to sừng sững kiểu những năm 1920, trang trí bằng mấy bức tượng của Jacob Epstein. Bức tượng gần nhất ngồi ngay trước lối vào, nhìn thẳng ra cửa sổ quán bia. Đó là tượng một vị thần đang ngồi, nét mặt dữ tợn, được một đứa bé trai đứng trước choàng tay ôm cổ, đứa bé vặn người quay hết chim chóc ra đằng trước. Lâu dần rồi người ta cũng không thấy sốc nữa.
Bên trong quán Feathers, các thể loại máy trò chơi kêu leng keng, đèn màu sắc sỡ chớp nháy liên tục. Trên tường treo TV màn hình phẳng, chung quanh là ghế bọc da. TV đang chiếu trận West Bromwich Albilo gặp Chelsea nhưng không bật tiếng. Thay vào đó giọng Amy Winehouse rền rĩ thét gào từ những chiếc loa giấu khắp quán. Tên các loại bia được sơn lên bức tường màu kem ngay trên quầy bar. Đối diện đó là cầu thang rộng bằng gỗ tối màu với những bậc thang uốn lượn và tay vịn bằng đồng thau sáng loáng dẫn lên tầng một.
Strike đứng xếp hàng chờ gọi đồ uống, tranh thủ quan sát chung quanh. Quán đầy đàn ông, hầu hết đều cắt tóc ngắn kiểu lính. Có ba cô gái da nâu hơi ngả cam, nhìn là biết vừa mới đi tắm nắng nhân tạo về. Ba cô đứng quanh một cái bàn cao, liên tục hất ra sau mớ tóc nhuộm duỗi thẳng đơ. Cả ba mặc đầm bó sát ngắn cũn cỡn dát kim sa lấp lánh và mang giày cao chót vót, thỉnh thoảng lại làm bộ nghiêng người qua một bên. Các cô giả vờ không để ý đến người ngồi uống bia một mình duy nhất trong quán. Đó là một anh chàng đẹp trai, gương mặt non tơ, mặc áo khoác da thuộc ngồi bên quầy bar cạnh cửa sổ. Anh chàng nãy giờ cũng đang nhìn các cô rất kỹ, ra vẻ sành sỏi. Strike gọi một vại bia Doom Bar rồi tiến về phía anh chàng đẹp trai.
“Cormoran Strike,” hắn tự giới thiệu khi tới bàn của Wardle. Kiểu tóc của Wardle khiến hắn thấy ghen tị, như vẫn ghen tị với hầu hết những tay đàn ông khác. Wardle ắt hẳn không bao giờ bị đặt biệt danh là “Tổ chim”.
“À, tôi cũng đoán là anh,” anh cảnh sát lên tiếng, bắt tay Strike. “Anstis có nói anh rất to con.”
Strike kéo ghế ra, Wardle nói luôn không rào đón gì.
“Vậy anh có gì cho tôi?”
“Tháng rồi có một vụ đâm chết người ở Ealing Broadway. Nạn nhân Liam Yates? Người từng cung cấp thông tin cho cảnh sát, đúng không?”
“Ừ, anh ta bị đâm ngay vào cổ. Nhưng tụi tôi biết đứa nào làm,” Wardle vừa nói vừa cười ra vẻ trịch thượng. “Một nửa bọn trộm cướp ở London đều biết. Nếu thông tin của anh chỉ có vậy…”
“Nhưng anh không biết nó đang ở đâu, đúng không?”
Wardle liếc nhanh về phía mấy cô gái đang giả bộ ngó lơ, rồi rút ra một cuốn sổ từ trong túi áo.
“Nói đi.”
“Hiệu cá cược Betbusters trên phố Hackney có một nhân viên nữ tên là Shona Holland. Cô này đang thuê căn hộ chỉ cách Betbusters có hai dãy phố. Hiện giờ trong nhà cô ta có một vị khách không mời, tên là Brett Fearney, trước đây thường đánh đập chị cô ta không ra gì. Nghe đâu tay này rất dữ, đừng hòng từ chối hắn chuyện gì mà yên.”
“Anh có địa chỉ cụ thể không?” Wardle hỏi, tay vẫn viết liên tục.
“Tôi mới đưa cho anh tên người ta cộng với một nửa số nhà còn gì. Chịu khó làm thám tử một chút vậy nhé?”
“Anh nói có được thông tin này từ đâu nhỉ?" Wardle hỏi, vẫn tiếp tục viết vào cuốn sổ đặt trên đầu gối.
“Tôi chẳng nói gì cả,” Strike đáp, kề miệng vào ly bia.
“Chắc anh quen biết nhiều chỗ hay lắm hả?”
“Rất hay. Và bây giờ, bánh ít có đi thì bánh qui có lại…”
Wardle đút cuốn sổ vào trong túi, bật cười.
“Mấy thứ anh vừa nói biết đâu toàn là rác rưởi.”
“Không có chuyện đó. Chơi đẹp chứ, Wardle.”
Tay cảnh sát nhìn Strike trong chốc lát, có vẻ vừa buồn cười vừa nghi ngờ.
“Anh muốn gì nào?”
“Tôi đã nói trên điện thoại rồi: chút thông tin nội bộ về vụ Lula Landry.”
“Anh không đọc báo hả?”
“Thông tin nội bộ, tôi nói rồi. Thân chủ của tôi nghi ngờ có gì đó mờ ám.”
Wardle cau mặt lại.
“Anh ăn chia gì với báo lá cải hả?”
“Không,” Strike đáp. “Anh của cô ta thuê tôi.”
“John Bristow?”
Wardle nốc một hơi dài, mắt vẫn dán vào đùi của cô gái gần nhất, nhẫn cưới trên tay anh ta phản chiếu lại ánh đèn đỏ từ máy trò chơi gắp bóng gần đó.
“Ông ta vẫn khăng khăng về mấy đoạn phim đó hả?”
“Ông ta có nhắc tới.” Strike thừa nhận.
“Tụi tôi cũng cố theo dấu của hai người da đen trong phim. Có phát lời kêu gọi ra trình diện. Không ai ra mặt hết. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên… xe hơi gần đó có phát báo động ngay lúc họ chạy qua… hoặc biết đâu lúc đó họ đang cố bò vào trong xe cũng có. Xe Maserati đàng hoàng. Rất ngon lành.”
“Anh nghĩ họ ăn trộm xe hả?”
“Tôi không nói là họ tới đó chỉ để trộm xe; biết đâu là chỉ tình cờ thấy rồi mới ra tay – chẳng biết thằng ngu nào lại đậu con xe Maserati như vậy? Nhưng lúc đó gần hai giờ sáng, nhiệt độ thì dưới không. Hai tên đó không có lý do chính đáng gì để tới Mayfair cả. Sau này tụi tôi có điều tra nhưng không có ai giống như vậy sống ở khu đó.”
“Không biết họ từ đâu tới, rồi sau đó đi đâu à?”
“Với người mà Bristow nghi ngờ, tức là cái người đi về nhà cô ta trước khi cô ta rơi xuống thì tụi tôi biết chắc lúc mười một giờ mười lăm anh ta xuống xe buýt số ba mươi tám ở phố Wilton. Không ai biết anh ta làm gì trước khi đi ngang qua camera ở phố Bellamy đúng một tiếng rưỡi sau đó. Mười phút sau khi Landry nhảy xuống, anh ta lại xuất hiện trên cùng một camera, rồi chạy hết phố Bellamy và rất có thể rẽ qua phố Weldon. Có một đoạn băng có hình một người giông giống anh ta – cao, da đen, mặc áo thun dày có cổ, quàng khăn kín mặt ngay trên phố Theobalds khoảng hai mươi phút sau.”
“Phải rất nhanh mới chạy từ đó đến Theobalds chỉ trong hai mươi phút,” Strike bình luận. “Ra hướng Clerkenwell đúng không? Cũng phải ba, bốn cây số. Vỉa hè lại đóng băng nữa.”
“Ừ, nên có thể không phải là anh ta. Đoạn băng rất mờ. Bristow rất nghi ngờ chi tiết che mặt, nhưng hôm đó âm 10 độ, tôi cũng phải đội mũ trùm kín mặt đi làm. Mà bất kể anh ta có tới phố Theobald thật hay không thì cũng không ai nhận ra anh ta cả.”
“Còn người kia?”
“Chạy như bay về phía phố Halliwell, cách hiện trường khoảng một trăm tám chục mét, không ai biết sau đó đi đâu.”
“Còn trước đó thì sao?”
“Có thể tới bất kỳ hướng nào. Không có băng hình nào cả.”
“Nghe nói ở London có tới mười ngàn camera an ninh kia mà?”
“Không phải ở đâu cũng có. Camera không có tác dụng gì, nếu không được duy trì và theo dõi thường xuyên. Phố Garriman vừa mới được lắp một cái, nhưng Meadowfield hay Hartley thì vẫn chưa có. Anh cũng giống y những người khác, Strike à. Anh muốn viện quyền tự do công dân để nói dối vợ là đi làm rồi đi hộp đêm coi gái nhảy, nhưng cũng lại muốn tụi tôi phải coi chừng nhà anh suốt hai mươi bốn tiếng, phòng khi có ai nhảy vào từ cửa sổ buồng tắm. Làm gì có chuyện được cái chai mà không mất cái lọ.”
“Tôi chẳng muốn chai lọ gì cả,” Strike nói. “Tôi chỉ hỏi anh biết gì về người bỏ chạy thứ hai.”
“Cũng che mặt kín mít, y như người đầu vậy; chỉ thấy hai bàn tay. Nếu anh ta có ý đồ gì với chiếc Maserati và thấy sợ thì theo lý, anh ta sẽ chui ngay vào một quán bar rồi sau đó đi ra cùng với nhiều người khác. Gần phố Halliwell có quán Bojo’s, có thể anh ta đã chui vào đó rồi trà trộn trong đám nhậu nhẹt. Nhưng tụi tôi cũng kiểm tra hết rồi,” Wardle nói, chặn trước câu hỏi của Strike. “Không ai nhận ra người trong băng cả.”
Hai người ngồi im lặng trong giây lát, tiếp tục uống bia.
“Thậm chí nếu có tìm ra hai tên đó,” Wardle đặt ly bia xuống bàn rồi nói tiếp “cùng lắm là chỉ có thêm lời khai chứng kiến Landry nhảy xuống. Trong căn hộ của cô ta không có mẫu AND lạ nào cả. Không có ai ở trong tòa nhà lúc đó mà không có lý do chính đáng cả.”
“Nghi vấn của Bristow không chỉ từ mấy đoạn băng. Ông ta có gặp Tansy Bestigui.”
“Đừng có nhắc tới con mụ chết tiệt đó trước mặt tôi,” Wardle bực tức.
“Tôi phải nhắc tới bà ta, vì thân chủ của tôi tin bà ta nói thật.”
“Lại thế nữa? Chưa chán à? Thôi thì để tôi nói hết với anh về cái quý bà Bestigui này nhé?”
“Anh cứ nói,” Strike đáp, một tay ôm lấy ly bia trước ngực.
“Carver và tôi đến nơi khoảng hai mươi, hai lăm phút sau khi Landry rơi xuống đường. Cảnh sát đồng phục đã có mặt ở đó. Tansy Bestigui vẫn còn bị kích động mạnh, lắp ba lắp bắp, vừa run vừa gào rằng sát thủ còn nấp trong nhà.
“Bà ta kể lúc hai giờ sáng bà ta bò ra khỏi giường để đi tè; đột nhiên nghe tiếng hét tùa căn hộ trên tầng ba rồi thấy Lula rơi xuống qua cửa sổ.
“Cửa sổ mấy căn hộ ở đó đều là kính ba lớp, hay đại loại như vậy, vừa giữ kín nhiệt và hơi máy điều hòa ở bên trong vừa cách ly bọn họ khỏi tiếng ồn của đám dân đen bên ngoài. Lúc tụi tôi phỏng vấn bà ta trong nhà, xe cảnh sát và hàng xóm đứng đầy đường nhưng người ở trong không hề biết gì nếu không thấy ánh đèn xanh chớp liên tục. Cứ như ở trong kim tự tháp vậy.
“Vậy là tôi nói với bà ta, ‘Bà có chắc là có tiếng la hét không Bestigui? Chỗ này cách âm khá tốt.’
“Nhưng bà ta vẫn khăng khăng. Còn thề thốt là nghe không sót một từ. Theo lời bà ta, Landry hét lên ‘Quá muộn rồi,’ và giọng đàn ông nói lại ‘Mày là đồ dối trá chết tiệt.’ Ở đây từ chuyên môn gọi là ảo thanh. Kiểu như tưởng tượng ra âm thanh sau khi hít cocaine vô tội vạ đến nỗi não chảy ra đằng mũi.”
Wardle nốc thêm một hơi dài.
“Dù vậy, sau đó tụi tôi cũng có làm thực nghiệm và chứng minh được rằng là bà ta không thể nghe được gì. Ngay hôm sau hai vợ chồng Bestigui dọn qua nhà một người bạn để tránh báo chí, vậy là tụi tôi cắm vài đứa trong căn hộ của họ, cho một đứa chạy lên ban công nhà Landry la hét om sòm. Đám trong căn hộ tầng một không thể nghe được gì cả. Tất cả đều tỉnh táo không hề say xỉn và cố căng tai ra mà nghe.
“Nhưng trong khi tụi tôi chứng minh bà Bestigui nói nhảm thì bà ta đã kịp gọi cho cả nửa dân số London rồi lu loa rằng bà ta là nhân chứng duy nhất trong vụ án mạng Lula Landry. Báo chí ra tay liền, vì trước đó mấy người hàng xóm có nghe bà ta la hét là có kẻ đột nhập. Báo chí đã xử và kết án Evan Duffield trước cả khi tụi tôi quay lại nói chuyện với bà Bestigui.
“Tụi tôi nói thẳng là đã chứng minh được rằng bà ta không thể nào nghe được gì cả. Nhưng rõ là bà ta vẫn không muốn thừa nhận mình bị ấm đầu. Bà ta đang nổi như vậy, báo chí vây quanh như thể bà ta là Lula Landry tái sinh. Vậy là bà ta bịa tiếp ‘Ơ, lúc đó tôi không nói à? Tôi có mở cửa sổ. Đúng rồi, có mở cửa sổ cho thoáng.”
Wardle cười nhạt.
“Giữa lúc nhiệt độ dưới không, lại có tuyết rơi.”
“Lúc đó bà ta chỉ mặc mỗi đồ lót đúng không?”
“Trông y như cái bừa cào hai trái quýt bằng nhựa,” Wardle bật ra câu so sánh quá ngọt đến nỗi Strike chắc rằng hắn không phải là người đầu tiên nghe những từ đó. “Tụi tôi vẫn tiếp tục điều tra theo hướng mới; tụi tôi lấy dấu vân tay trên cửa sổ, rõ ràng là bà ta không hề mở cửa. Không có dấu vân tay nào trên chốt cửa hay bất kỳ đầu; lao công đã dọn nhà vào buổi sáng trước khi Landry chết và sau đó vẫn chưa quay lại. Tất cả mọi cửa sổ đều được khóa chặt và chốt lại khi tụi tôi có mặt, vậy nên chỉ còn một kết luận thôi, đúng không? Bà Tansy Bestigui là một kẻ dối trá khốn nạn.”
Wardle uống cạn ly.
“Làm ly nữa nhé,” Strike nói rồi đi thẳng ra quầy bar mà không đợi Wardle trả lời.
Hắn để ý thấy Wardle tò mò nhìn theo ống chân hắn khi hắn trở lại bàn. Giả như vào lúc khác, hắn đã đá ống chân giả vào chân bàn rồi nói luôn “là bên chân này.” Nhưng hắn không làm vậy. Hắn đặt xuống bàn hai vại bia mới mua và món da lợn chiên giòn, hơi bực mình vì quán này khá bày vẽ, da lợn mà bày trong đồ sứ màu trắng. Hắn tiếp tục câu chuyện. “Nhưng đúng là Tansy Bestigui nhìn thấy Landry rơi qua cửa sổ phải không? Bởi vì Wilson nói là ông ta nghe tiếng thi thể rới xuống ngay trước khi bà Bestigui bắt đầu la hét.”
“Có thể là bà ta thấy thật, nhưng lúc đó bà ta không hề đi tè như đã kể. Bà ta thực ra đang phê vài tép trong buồng tắm. Tụi tôi có tìm thấy mấy tép thuốc đã cắt sẵn.”
“Phê chưa hết, đúng không?”
“Ừ, Chắc là nhìn người ta rớt qua cửa sổ xong thì ngán quá.”
“Từ nhà tắm nhìn thấy được cả cửa sổ à?”
“Ờ, sít sao.”
“Các anh tới đó khá nhanh, đúng không?”
“Cảnh sát đồng phục có mặt sau tám phút, còn tôi và Carver tới nơi sau khoảng hai mươi phút.” Wardle nâng ly lên, như thể chúc mừng thành tích của ngành.
“Tôi có nói chuyện với Wilson, là người trực bảo vệ hôm đó,”
“Vậy hả? Tay đó rất được việc,” Wardle đáp, giọng kể cả. “Vụ đau bụng không phải lỗi của ông ta. Nhưng ông ta chẳng đụng vô thứ gì và có đi kiểm tra kỹ càng sau khi Landry rớt xuống. Rất khá.”
“Mấy người trực bảo vệ ở đó hình như không cẩn thận lắm về chuyện mật mã khóa cửa.”
“Ai cũng vậy thôi. Có bao nhiêu là mã số với cả mật khẩu phải nhớ mà. Tôi cũng vậy.”
“Bristow rất quan tâm đến chuyện gì xảy ra trong vòng mười lăm phút khi Wilson đang ngồi trong nhà vệ sinh.”
“Tụi tôi cũng vậy, nhưng chỉ quan tâm khoảng năm phút thôi, trước khi tụi tôi nhận ra rằng bà Bestigui là một con nghiện thích nổi tiếng.”
“Wilson có nói là hôm đó cửa hồ bơi không khóa.”
“Thế ông ta có giải thích được làm cách nào một tên giết người lẻn vào hồ bơi rồi đi ra mà không qua mặt ông ta không? Cái hồ khốn nạn,” Wardle tiếp, “to gần bằng cái hồ bơi chỗ tôi tập thể dục, mà chỉ để cho ba người dùng. Còn có một phòng ở tầng trệt ngay sau ban trực. Rồi cả bãi đỗ xe dưới tầng hầm. Trong căn hộ thì lát đá hóa nọ kia… mẹ kiếp, nhà ở mà cứ như khách sạn năm sao nào.”
Anh chàng cảnh sát ngao ngán lắc đầu trước sự phân hóa giàu nghèo bất công.
“Đúng là một thế giới khác,” anh ta nói.
“Tôi cũng muốn biết về căn hộ tầng giữa,” Strike lên tiếng.
“Của Deeby Macc?” Wardle hỏi lại. Strike ngạc nhiên khi thấy Wardle cười đầy vẻ thật tình. “Căn đó thì sao?”
“Anh có đi vào trong không?”
“Có vào xem, nhưng Bryant đã kiểm tra hết rồi. Trống trơn. Cửa sổ chốt chặt, hệ thống báo động có kích hoạt và hoạt động bình thường.”
“Bryant là người chạy đâm vào cái bàn và làm vỡ bình hoa?”
Wardle cười khẩy.
“Biết vụ đó nữa à? Lão Bestigui không được vui lắm. Ờ thì rõ. Hai trăm bông hồng trắng cắm trong lọ pha lê to bằng cái thùng rác. Lão đọc được ở đâu rằng Macc mỗi khi trình diễn đều đòi phải có hoa hồng trắng,” Wardle nói, cứ như thể Strike chẳng biết gì về giới nghệ sĩ, rồi loay hoay giải thích thêm “Nghệ sĩ họ hay đòi có vài thứ đặc biệt trong phòng thay đồ trước khi diễn. Tôi cứ nghĩ anh phải biết mấy chuyện này.”
Strike lơ luôn câu cạnh khóe của Wardle. Hắn hơi thất vọng, nghĩ người quen của Anstis hẳn phải khá hơn thế này.
“Anh có biết tại sao Bestigui tặng hoa cho Macc không?”
“Nịnh bợ chứ gì nữa? Chắc muốn dụ Macc đóng phim. Lão tức sôi máu khi nghe chuyện Bryant đánh đổ bình hoa. Hét ầm cả nhà.”
“Không ai thấy có gì lạ à? Ông ta đi tức tối vụ hoa lá ngay trong khi hàng xóm vừa rớt xuống đường vỡ cả đầu?”
“Lão này tởm không chịu được.” Wardle bình phẩm đầy cảm xúc. “Quá quen với chuyện lúc nào cũng được người khác tung hô mà. Mới đầu còn dám đối xử với tụi tôi như lính của lão, sau mấy tỉnh ra là làm vậy thực không khôn ngoan chút nào.
“Nhưng lão la hét không phải chỉ vì mấy cái hoa. Thực ra lão đang cố hét át tiếng bà vợ, để bà ta bình tĩnh lại. Lão cứ chen ngang khi tụi tôi phỏng vấn bà. Lão già đó cũng to con lắm.”
“Ông ta lo chuyện gì à?”
“Lo là nếu con mụ kia cứ gào oang oang rồi lẩy bẩy như chó mắc mưa thì người ta sẽ biết là mụ vừa phê thuốc. Chắc lão cũng biết trong nhà có thuốc. Nên không muốn cảnh sát xông vào. Vậy là lão cố đánh lạc hướng bằng cách la hét om sòm vụ cái bình hoa năm trăm bảng.
“Tôi có đọc đâu đó là lão ta đang làm thủ tục li dị mụ vợ. Tôi chẳng ngạc nhiên gì. Lúc nào báo chí cũng chực chờ chung quanh lão, vì lão nổi tiếng khoái kiện tụng mà. Con mụ Tansy mở miệng, ắt hẳn lão rất bực. Báo chí thì luôn tranh thủ. Cho đăng ngay lại mấy vụ xa xưa, như chuyện lão ném đĩa vào đầu nhân viên, đấm vào mặt người ta khi đang họp hành. Còn cả vụ lão phải trả cho bà vợ trước một đống tiền để bà ta khỏi đem chuyện giường chiếu ra kể trước tòa. Lão ta rất nổi tiếng kiểu khốn nạn như vậy.”
“Anh không nghi ngờ gì ông ta à?”
“À có chứ, tụi tôi cho ngay vào diện nghi ngờ, lão ta có mặt hiện trường, lại có tiền sử bạo lực. Mặc dù vậy khả năng đó cực kỳ thấp. Nếu bà vợ biết lão ta là thủ phạm, hoặc lão ta đi ra khỏi nhà lúc Landry rớt xuống, tôi cá là bà ta đã kể hết vì lúc tụi tôi tới bà ta rất hoảng loạn. Nhưng bà ta lại nói là khi đó lão đang ngủ, trên giường chăn mền khá lộn xộn, đúng kiểu là có người vừa nằm đó.
“Hơn nữa, thậm chí nếu lão ta đi ra khỏi nhà mà bà vợ không hay biết, rồi chạy lên nhà Landry, chúng ta vẫn không thể giải thích được làm sao lão lại có thể qua mặt Wilson. Vì nếu làm vậy thì lão không dùng thang máy, nên chắc chắn khi chạy xuống đã phải đụng ngay Wilson ở cầu thang.”
“Vậy là chỉ dựa vào thời gian mà xác nhận vô can à?”
Wardle chần chừ.
“Ừm, thì vẫn có khả năng đó chứ. Cứ cho là Bestigui có thể chạy nhanh hơn tuổi tác và cân nặng cho phép và đẩy xong Lula là lao ngay xuống lầu đi. Nhưng mà không hề có ADN của lão ta trong nhà Landry, rồi làm sao lão ta đi ra khỏi nhà mà bà vợ không biết, và đâu có cớ gì khiến Landry mở cửa cho lão vào. Tất cả bạn bè của Landry đều đồng ý là cô ta chẳng ưa gì Bestigui. Với cả,” Wardle uống cạn ly bia rồi nói tiếp “Bestigui là loại người sẵn sàng thuê sát thủ nếu muốn làm thịt ai đó. Lão ta chẳng dại gì mà tự làm cho bẩn tay.”
“Làm ly nữa không?”
Wardle nhìn đồng hồ.
“Để tôi mua,” anh ta nói rồi đi về phía quầy bar. Ba cô nàng đứng quanh cái bàn tròn tự nhiên im lặng, nhìn theo anh ta thèm thuồng. Wardle mua hai ly bia mới, cười điệu một cái với các cô rồi quay trở lại bàn. Các cô vẫn nhìn theo.
“Anh nghĩ gì về khả năng Wilson là thủ phạm?” Strike hỏi.
“Rất thấp,” Wardle trả lời. “Ông ta không thể có đủ thời gian chạy lên rồi chạy xuống gặp Tansy Bestigui ở tầng trệt. Có điều lý lịch của ông ta rất xạo. Ông ta được nhận vô làm chỉ vì bốc phét là đã từng làm cảnh sát.”
“Hay thật. Vậy không làm cảnh sát thì làm gì?”
“Làm bảo vệ suốt thôi. Ông ta nói là nhờ khai dối mà có được công việc bảo vệ đầu tiên, khoảng mười năm trước, nên cứ phải giữ lý lịch như vậy.”
“Ông ta có vẻ thích Landry.”
“Ừ đúng thế. Trông vậy mà già rồi đó,” Wardle nói tiếp, chẳng ăn nhập gì. “Cỡ ông nội ông ngoại rồi chứ chẳng chơi. Người Caribe da đen họ không có già nhanh như người mình, hả? Nói thật tôi nghĩ có khi trông anh còn già hơn ổng.” Strike tự nhủ không biết Wardle nghĩ hắn bao nhiêu tuổi.
“Bên pháp y có kiểm tra trong căn hộ của Lula không?”
“Có chứ,” Wardle đáp, “nhưng chủ yếu là vì ở trên muốn làm cho thật kỹ, loại trừ hết mọi nghi ngờ có thể. Trong vòng hai mươi bốn tiếng sau đó tụi tôi đã chắn chắn vụ này là tự tử rồi. Nhưng tụi tôi vẫn làm tiếp, trong khi cả thế giới xúm vào theo dõi từng phút.”
Wardle nói, không che đậy nổi sự tự đắc.
“Lao công sáng hôm trước có dọn hết cả tòa nhà – em đó người Ba Lan, rất sexy, nhưng tiếng Anh dở như hạch, được cái lau bụi rất kỹ - nhờ vậy mà dấu vết hiện trường rất rõ ràng. Không có gì khác thường cả.”
“Như vậy thì chắc phải có vân tay của Wilson, vì ông ta đi kiểm tra tất cả sau khi cô ta rơi xuống?”
“Ừ có, nhưng không ở chỗ nào khả nghi cả.”
“Vậy theo như anh nói thì hôm đó chỉ có ba người ở trong cả tòa nhà. Deeby Macc lẽ ra cũng có mặt nhưng...”
“... anh ta đi thẳng từ sân bay về hộp đêm,” Wardle tiếp lời Strike. Một lần nữa, anh chàng cảnh sát cười tự nhiên, mặt mày vui vẻ hẳn. “Hôm sau tôi phỏng vấn Deeby ở khách sạn Claridges. Anh ta to con ghê. Như anh vậy,” Wilson nói thêm, liếc nhìn thân hình bệ vệ của Strike, “chỉ có điều nhìn ngon lành hơn.” Strike nhận cú đâm thọc mà không thèm phản ứng. “Đúng là cựu xã hội đen thứ thiệt. Vào tù ra tội ở LA. Sém chút nữa là không được cấp visa vào Anh quốc luôn.
“Anh ta có nguyên một đoàn tùy tùng,” Wardle kể tiếp. “Đứng đầy phòng, ai cũng đeo nhẫn đầy tay, xăm trổ đầy cổ. Anh ta to con nhất hội. Deeby ngầu thiệt, tưởng tượng đang đi trong hẻm vắng mà đụng phải anh ta thì ngán thiệt. Anh ta lịch sự hơn Bestigui cả khối lần. Còn hỏi tôi làm cảnh sát mà sao không có súng.”
Anh chàng cảnh sát cười tươi rói. Strike nghĩ thầm, cái tay Eric Wardle này là nhân viên cục điều tra tội phạm mà cũng lậm sao siếc y chang như anh lái xe Kieran Kolovas-Jones.
“Phỏng vấn có chút xíu à, Macc vừa xuống máy bay, còn chưa đặt chân tới Kentigern Gardens. Làm cho đủ thủ tục. Cuối cùng tôi nhờ anh ta ký tên đĩa CD mới ra,” Wardle nói thêm, như không kìm được. “Khi tôi đưa cái đĩa ra cả phòng nhộn nhạo cả lên. Deeby Macc rất khoái chí. Con vợ tôi cứ đòi đem bán trên eBay nhưng tôi muốn giữ...”
Wardle tự nhiên ngừng nói, như thể nhận ra vừa vô ý nói quá nhiều. Strike thấy buồn cười, hắn bốc thêm một mớ da lợn chiên giòn.
“Còn Evan Duffield thì sao?”
“Thằng đó hả,” Wardle đáp. Vẻ ưu ái hâm mộ của anh cảnh sát khi kể về Deeby Macc lập tức biến mất; anh ta cau mặt lại. “Thằng oắt con dở hơi. Nó làm tụi tôi bực muốn khùng từ đầu tới cuối. Sau khi cô ta chết thì nó cũng đi thẳng vô trại cai nghiện luôn.”
“Tôi có đọc thấy. Ở đâu vậy?”
“Trung tâm an dưỡng Priory, chứ còn chỗ nào? An với chẳng dưỡng.”
“Vậy anh phỏng vấn anh ta khi nào?”
“Ngay hôm sau, nhưng đầu tiên phải kiếm cho ra nó đã; nhân viên của nó chặn đủ đường. Cùng một thể loại như cha Bestigui. Không muốn tụi tôi biết gì cả.” Wardle lại nhăn mặt, nói tiếp “Con vợ tôi cứ nói là nó thật sexy. Anh có vợ con gì không?”
“Không.” Strike đáp.
“Anstis kể là anh giải ngũ để chuẩn bị cưới một cô đẹp như siêu mẫu.”
“Vậy Duffield nói gì khi anh phỏng vấn?”
“Hai người cãi nhau to tiếng ở hộp đêm Uzi. Có rất nhiều nhân chứng vụ đó. Cô ta bỏ về. Nó kể là năm phút sau đó nó đi theo cô ta. Nó đội mũ mẽo giả làm chó sói gì đó. Cái mũ che hết cả đầu, giống y thật, đầy đủ lông lá. Nó nói là lấy từ một đợt chụp hình thời trang.”
Wardle tỏ vẻ khinh bỉ rõ rệt.
“Nó thích đội những thứ như vậy khi đi tới chỗ này chỗ kia, để chọc tức bọn paparazzi. Sau khi Landry bỏ về, nó cũng lên xe, tài xế đã đậu xe đợi sẵn ở ngoài, rồi về Kentigern Gardens. Tài xế cũng xác nhận như vậy. Thôi được,” Wardle tự sửa lời, “tài xế xác nhận là có lái xe chở một người đàn ông đội mũ hóa trang chó sói, đoán là Duffield vì người ngợm giống Duffield, mặc đồ y chang vậy, giọng nói cũng giống y, chở về Kentigern Gardens.”
“Nhưng lúc ở trong xe anh ta không hề mở cái mũ ra?”
“Từ hộp đêm Uzi về nhà cô ta chỉ có mười lăm phút. Đúng là không mở mũ, thằng ranh con chết tiệt.
“Duffield kể tiếp là tới nơi thì thấy paparazzi đứng đầy đường nên quyết định không vào nữa. Nó biểu lái xe chở tới Soho, rồi nhảy xuống đi bộ. Nó đi tới căn hộ của thằng buôn thuốc trên phố d’Arblay, rồi ở lại đó phê luôn.”
“Vẫn còn đội mũ chó sói?”
“Không tới đây thì cởi ra rồi,” Wardle giải thích. “Thằng buôn thuốc tên là Whycliff, nghe nói dân học trường tư đàng hoàng nhưng giờ còn nghiệp ngập hơn cả Duffield. Nó có khai đầy đủ là Duffield tới gặp nó lúc khoảng hai rưỡi sáng. Lúc đó chỉ có hai đứa tụi nó trong nhà. Cũng có thể là Whycliff bao che cho Duffield nhưng bà ở tầng trệt cũng khai là có nghe thấy chuông cửa, và có thấy Duffield đi lên lầu.
“Sau đó Duffield rời chỗ của Whycliff khoảng bốn giờ sáng, lại tiếp tục đội cái mũ chó sói dở hơi. Nó đi ra chỗ xe chờ sẵn; chỉ có điều tài xế đã lái xe đi mất tiêu. Tay tài xế sau đó khai là hiểu lầm ý nó. Tay tài xế cũng coi Duffield chẳng ra gì, lúc tụi tôi lấy lời khai thấy hắn tỏ rõ thái độ luôn mà. Duffield không trả tiền nong gì vì xe là của Landry thuê.
“Vậy là sau đó Duffield không một xu dính túi, đi bộ suốt quãng đường về chỗ của Ciara Porter ở Notting Hill. Có vài người nói là có thấy một người đàn ông đội mũ chó sói đi bộ đúng tuyến đường đó, còn có cả băng ghi hình nó xin hộp diêm từ một người đàn bà trong garage mở cửa suốt đêm bên đường.”
“Anh có nhận ra gương mặt của Duffield trong băng không?”
“Không, vì khi nói chuyện với bà này nó chỉ đẩy cái mũ lên, trên hình chỉ thấy mỗi cái mõm chó sói. Nhưng bà ta nói đúng là Duffield.
“Nó tới nhà Porter khoảng bốn rưỡi sáng. Porter cho nó ngủ lại trên ghế sofa. Được một tiếng sau thì Porter nghe tin Landry chết nên đánh thức nó dậy để báo. Sau đó là màn khóc lóc ỉ ôi như kịch rồi đi thẳng vào trại.”
“Anh có tìm thư tuyệt mệnh trong căn hộ của Landry không?” Strike hỏi.
“Có chứ. Bên trong căn hộ không có gì cả, trên laptop cũng không có, nhưng chẳng có gì ngạc nhiên. Cô ta nhảy xuống trong cơn bốc đồng mà? Cô ta bị rối loạn lưỡng cực, vừa mới cãi nhau với thằng đó, tức quá, chịu không nổi nên nhảy xuống, vậy cũng như thằng đó gián tiếp xô cổ vậy, anh hiểu ý tôi mà.”
Wardle lại xem đồng hồ và uống cạn ly cuối cùng.
“Tôi phải đi đây. Con vợ ở nhà chắc đang điên. Tôi nói chỉ đi có nửa tiếng thôi.”
Ba cô gái da nâu đã đi mất, không biết từ lúc nào. Ra khỏi quán, cả hai cùng châm lửa đốt thuốc một lúc.
“Tôi ghét vụ cấm hút thuốc trong nhà ghê gớm,” Wardle vừa nói vừa kéo dây khóa áo lên đến cổ.
“Như vậy là anh đồng ý rồi?” Strike hỏi
Ngậm thuốc lá trong miệng, Wardle mang găng tay vào.
“Chưa biết.”
“Thôi nào, Wardle,” Strike nói tiếp, đưa cho tay cảnh sát một cái danh thiếp, Wardle hờ hững cầm lấy như chơi. “Tôi vừa nộp cho anh Brett Fearney còn gì.”
Wardle cười phá lên.
“Chưa, chưa nộp niếc gì cả.”
Anh ta bỏ danh thiếp của Strike vào túi, rít một hơi thuốc, phả khói rồi nhìn Strike, vừa tò mò vừa nể nang.
“Thôi được rồi. Nếu tụi tôi bắt được Fearney, anh sẽ có được bộ hồ sơ.”
11
“Người đại diện của Evan Duffield nói là anh ta sẽ không trả lời thêm bất kỳ một câu hỏi nào về Lula Landry nữa,” Robin báo với Strike ngay sáng hôm sau.
“Tôi có nói rõ là anh không phải là nhà báo, nhưng ông ta rất kiên quyết. Còn nhân viên của Guy Somé thì thô lỗ còn hơn cả đám tay chân của Freddie Bestigui. Cứ như tôi đang xin gặp Giáo hoàng không bằng.”
“Được rồi” Strike đáp. “Để tôi coi có nhờ được Bristow không.”
Hôm đó cũng là lần đầu tiên Robin thấy Strike mặc complet. Cô thấy hắn không khác gì một vận động viên bóng bầu dục đang trên đường đi lưu đấu quốc tế: to con bệ vệ, áo khoác và cà vạt sẫm màu khá bảnh tỏng. Strike đang quỳ xuống lục tung một cái thùng giấy mà hắn mang về từ nhà Charlotte. Robin quay mặt đi, cố tránh nhìn đống đồ đạc của hắn. Hai người vẫn tránh nhắc chuyện Strike đã dọn vô ở luôn trong văn phòng.
“À ha” hắn reo lên, sau khi tìm ra một cái bì thư màu xanh giữa đám thư từ riêng. Đó là thiệp mời dự sinh nhật thằng cháu của Strike. “Khỉ thật,” hắn buột miệng khi mở thư.
“Có chuyện gì vậy?”
“Trong này không ghi nó mấy tuổi cả,” Strike đáp, rồi giải thích “thiệp mời sinh nhật thằng cháu tôi.”
Robin khá tò mò về gia đình của Strike. Hắn chưa bao giờ nói gì với Robin về đám anh chị em rối rắm, người cha nổi tiếng và người mẹ có phần tai tiếng của mình. Vậy nên cô không dám hỏi thêm gì cả mà tiếp tục mở đám thư từ vớ vẩn.
Strike đứng dậy, đẩy cái thùng giấy vào một góc phòng và đi tới bàn Robin.
“Cái gì vậy?” hắn hỏi, chỉ tay vào bản photo một bài báo đặt trên bàn.
“Tôi giữ lại cho anh,” Robin rụt rè trả lời. “Anh tỏ ra quan tâm khi đọc được bài báo về Evan Duffield... Tôi nghĩ có khi anh cũng muốn đọc bài này, nếu anh chưa đọc.”
Tờ photo được cắt rất gọn gàng. Bài báo viết về nhà sản xuất phim Freddie Bestigui, từ tờ Evening Standard hôm qua.
“Tuyệt vời; tôi sẽ mang theo đọc trên đường tới chỗ ăn trưa với vợ ông ta.”
“Sắp li dị rồi,” Robin nói thêm. “Trong bài báo có nói hết. Ông này có vẻ không may mắn trong tình cảm lắm.”
“Theo như Wardle thì ông ta cũng không phải là người dễ ưa gì.” Strike đáp.
“Làm sao mà anh nói chuyện được với bên cảnh sát?” Robin hỏi, không nhịn được nữa. Cô rất nóng lòng muốn biết cách thức và diễn biến điều tra.
“Qua một người bạn,” Strike đáp. “Tôi quen hồi ở Afghanistan, anh đó làm cảnh sát London kiêm lính dự bị.”
“Anh từng ở Afghanistan hả?”
“Ờ” Strike mặc áo khoác, răng cắn bài báo về Freddie Bestigui và thiệp mời sinh nhật thằng Jack vì bận tay.
“Anh làm gì ở Afghanistan vậy?”
“Đi điều tra một trường hợp Bị giết trong khi làm nhiệm vụ,” Strike đáp. “Tôi làm bên quân cảnh.”
“Ồ,” Robin buột miệng. Chuyện Strike làm lính quân cảnh không hề khớp với ấn tượng của Matthew về một tên bịp bợm vô dụng.
“Sao anh không làm nữa?”
“Bị thương,” Strike trả lời.
Hắn từng nói về vụ bị thương với Wilson rất trần trụi, nhưng hắn không thể nói thẳng như vậy với Robin. Hắn có thể tưởng tượng ra vẻ kinh ngạc trên gương mặt cô, mà hắn đang không cần thêm sự thương hại nào từ cô cả.
“Đừng quên gọi cho Peter Gillespie,” Robin nhắc với theo, khi Strike vừa bước ra khỏi cửa.
Strike đọc bài báo khi ngồi trên tàu điện đến ga Broad Street. Theo đó, Freddie Bestigui thừa kế tài sản từ người cha là ông trùm ngành vận tải. Rồi ông ta lại kiếm được thêm rất nhiều tiền bằng cách sản xuất những bộ phim có tính thương mại cao nhưng giới phê bình thì khinh ra mặt. Ông ta đang kiện hai tờ báo đưa tin rằng ông ta quấy rối một nhân viên nữ còn trẻ và sau đó bịt miệng cô ta bằng tiền. Những cáo buộc trên báo đều được rào trước đón sau với những từ như “được cho là”, “theo đó thì”, nhưng đều xoáy vào hành vi quấy rối tình dục có tính bạo lực, có khống chế bằng vũ lực. Nội dung các cáo buộc xuất phát từ “một nguồn rất gần gũi với người được cho là nạn nhân,” trong khi cô nhân viên thì đã từ chối kiện tụng hay phát biểu gì với báo chí. Chuyện Freddie đang làm thủ tục ly dị Tansy được nhắc đến ở đoạn cuối cùng. Trước khi kết thúc, bài báo nhắc lại rằng cặp vợ chồng không hạnh phúc này ở cùng một tòa nhà với Lula Landry trong đêm cô ta tự tử. Bài báo gợi cho người đọc một ấn tượng kỳ lạ, như thể chuyện nhà Bestigui hình như đã ảnh hưởng đến quyết định nhảy lầu của cô Landry.
Strike chưa bao giờ giao du với giới hay lui tới nhà hàng Cipriani. Khi đi trên phố Davies, trong ánh nắng ấm áp rọi trên lưng và thấp thoáng quanh những tòa nhà gạch đỏ, Strike tự dưng nghĩ rằng sẽ thật kỳ quặc nếu hắn tình cơ gặp con riêng của cha hắn ở Cipriani. Khả năng đó không hề nhỏ. Những nhà hàng như Cipriani là nơi đám con cái chính thức của Jonny Rokeby thường lui tới. Lần cuối cùng Strike có liên lạc với ba người trong số đó là lúc ở bệnh viện Selly Oak để tập vật lý trị liệu. Gabi và Danni cùng gửi hoa đến, Al có tới thăm một lần, cười rất to nhưng sợ không dám nhìn xuống chân hắn. Khi Al về rồi, Charlotte nhại lại giọng nói và vẻ mặt rúm ró của anh ta. Charlotte đúng là có tài bắt chước. Cô ta quá xinh, nên không ai nghĩ rằng cô ta còn có thể rất hài hước nữa. Nhưng Charlotte đúng là vui tính.
Nội thất của nhà hàng gợi phong vị rất Art Deco, với quầy bar và ghế gỗ bóng loáng mềm mại, khăn vải màu vàng nhạt phủ lên bàn tròn, bồi bàn cả nam lẫn nữ đều mặc áo jacket trắng, cổ đeo nơ. Strike nhận ra ngay thân chủ của mình giữa đám đông đang dùng bữa, tiếng trò chuyện xen tiếng dao nĩa chạm nhau lanh canh. Anh ta ngồi ở một bàn dành cho bốn người và đang nói chuyện với hai người đàn bà, thay vì chỉ một như Strike nghĩ. Cả hai đều có mái tóc nâu dài, bóng mượt. Trông bộ mặt thỏ của Bristow rất sốt sắng, như thể chỉ chực chiều chuộng hay mua vui cho hai người kia.
Ông luật sư đứng bật dậy chào Strike khi thấy hắn rồi giới thiệu ngay Tansy Bestigui. Bà ta chìa ra bàn tay gầy guộc, lạnh lùng, không cười. Ông ta giới thiệu tiếp em gái của Tansy là Ursula May, bà này còn không thèm đưa tay ra. Sau màn gọi đồ uống và chuyển thực đơn (Bristow tỏ ra rất hồi hộp, nói hơi nhiều) hai chị em quay qua nhìn Strike. Cái nhìn chằm chằm soi mói, dường như chỉ những người thuộc một tầng lớp nhất định mới có quyền nhìn như vậy.
Cả hai đều tinh tươm, đẹp đẽ như búp bê cỡ người thật vừa mới được lấy ra từ hộp xốp. Đúng y kiểu gái nhà giàu mảnh khảnh, mặc quần jeans bó sát nhìn như không có mông, gương mặt rám nắng hoàn hảo, trán sáng bóng. Mái tóc của cả hai đều sẫm màu, óng mượt, rẽ ngôi giữa. Đuôi tóc tỉa gọn sắc như có thước đo.
Khi Strike vừa ngẩng mặt lên khỏi tờ thực đơn, Tansy nói ngay, không rào đón:
“Anh có đúng là (bà ta kéo dài giọng) con trai của Jonny Rokeby không?”
“Kết quả xét nghiệm ADN nói vậy.” Hắn trả lời.
Bà ta có vẻ như không chắc là hắn đang đùa hay vô lễ thật. Hai con mắt màu sẫm kéo gần lại nhau, lớp Botox và mỡ độn vẫn không thể che giấu hết vẻ dằn dỗi trên gương mặt.
“Anh nghe đây, tôi đã nói với John rồi,” Bà ta lạnh lùng nói. “Tôi sẽ không công khai phát biểu gì nữa, anh rõ chưa? Tôi sẽ nói cho anh biết hôm đó tôi nghe thấy gì, vì tôi muốn anh chứng minh là tôi nói đúng, nhưng anh không được nói với ai chuyện tôi gặp anh.”
Cổ chiếc áo lụa mỏng manh của bà không cài nút, để lộ một lớp da phẳng màu kẹo sữa phủ quanh chỗ xương ức trồi lên, trông không gợi cảm mà lại hơi kỳ quái. Nhưng ngay dưới đó lại là cặp vú tròn căng nhô ra từ lồng ngực hẹp, như thể hôm đó bà ta mượn tạm hàng họ của một người bạn đầy đặn hơn. “Vậy thì chúng ta nên gặp ở chỗ kín đáo hơn,” Strike bình luận.
“Không, ở đây cũng được, vì ở đây không ai biết anh cả. Anh chẳng giống cha chút nào cả, phải không? Tôi có gặp ông ta ở nhà Elton hồi hè năm ngoái. Freddie cũng có biết ông ta. Anh có hay gặp Jonny không?”
“Có gặp hai lần.” Strike đáp.
“Ồ,” Tansy buột miệng.
m thanh cụt ngủn đó chứa cả sự ngạc nhiên lẫn khinh bỉ.
Bạn bè của Charlotte khá giống hai người này: tỉa tót, học trường xịn, mặc đồ hiệu, tất cả đều tỏ ra kinh hãi trước chuyện Charlotte cặp bồ với một gã dềnh dàng luộm thuộm như Strike. Hắn từng phải tiếp xúc với những người như vậy hàng mấy năm trời, cả trên điện thoại lẫn trong những cuộc gặp gỡ ở ngoài. Hắn còn nhớ cái kiểu ăn nói cảnh vẻ hay nuốt nguyên âm, những câu chuyện về mấy ông chồng làm môi giới chứng khoán, rồi cả cái điệu bộ cứng rắn nóng nảy mà Charlotte không bao giờ bắt chước được.
“Tôi thấy chị tôi không nên nói chuyện với anh chút nào,” Ursula đột ngột lên tiếng. Cứ như thể Strike là tên bồi bàn vừa tháo tạp dề tới ngồi cùng với họ. “Em nghĩ chị đang mắc sai lầm lớn, Tanz à.”
Bristow lên tiếng: “Ursula, Tansy chỉ...”
“Làm gì là quyền của tôi,” Tansy gằn giọng với em gái, như thể Bristow chưa hề lên tiếng hay chỗ ngồi của ông chỉ có không khí vậy. “Tôi chỉ nói những gì tôi nghe thấy, có vậy thôi. Không được ghi vào hồ sơ vụ án; John đồng ý rồi.”
Rõ là bà ta chỉ coi Strike như hạng tôi tới. Hắn thấy bực không chỉ vì giọng điệu của hai người, mà còn vì Bristow đã hứa hẹn trước chuyện không ghi chép.
Lời khai của Tansy liệu có ích gì nếu không được lưu lại làm chứng cứ trong hồ sơ?
Ngay sau đó, cả bốn người im lặng đọc thực đơn. Ursula là người đầu tiên đặt thực đơn xuống. Bà ta đã kịp uống hết một ly rượu, rót tiếp một ly nữa và liếc mắt nhìn quanh nhà hàng, vẻ bồn chồn. Bà thoáng dừng mắt ở một nhân vật hoàng tộc trẻ tuổi, tóc vàng óng rồi lảng mắt đi chỗ khác.
“Chỗ này hồi trước toàn là những nhân vật hay ho; kể cả vào buổi trưa. Cyprian thì chỉ muốn tới Wiltons, mà ở đó toàn mấy tay đóng bộ cứng nhắc...”
“Cyprian là chồng của bà à?” Strike hỏi.
Strike biết chắc hỏi như vậy không khác gì kim châm vào bà ta, vì hắn vừa vượt qua ranh giới vô hình giữa hai người. Rõ là bà ta nghĩ hắn đang tự cho mình quyền nói xen vào, chỉ vì hắn ngồi cùng bàn với họ. Bà ta khẽ cau mày. Bristow nhanh nhảu lên tiếng để lấp đi sự im lặng khó chịu.
“Đúng rồi, Ursula là vợ của Cyprian May, một trong những thành viên cấp cao của công ty.”
“Vậy nên tôi được giảm giá khi làm thủ tục ly dị,” Tansy nói thêm, khẽ cười chua chát.
“Và ông chồng cũ sẽ nổi điên lên nếu báo chí lại nhảy vào,” Ursula lên tiếng, đôi mắt sẫm màu nhìn chằm chằm vào mắt Strike. “Bên công ty vẫn còn đang cố dàn xếp điều khoản ly dị. Nếu ồn ào trở lại thì phần của Tansy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Anh nên kín tiếng là hơn.”
Strike cười nhạt, quay lại phía Tansy:
“Như vậy bà cũng có quen biết Lula Landry, đúng không bà Bestigui? Em rể của bà là đồng nghiệp của John mà?”
“Nhưng không ai nhắc tới chuyện đó cả,” bà ta đáp, trông có vẻ bắt đầu phát chán.
Bồi bàn trở lại để ghi các món ăn. Sau khi anh ta đi khỏi, Strike rút cuốn sổ và cây viết ra.
“Anh làm gì vậy?” Tansy lớn giọng hỏi, vẻ hốt hoảng “Không được viết gì lại hết! John?” Bà ta quay qua phía Bristow, ông ta nhìn Strike vừa bối rối vừa có vẻ xin lỗi.
“Anh nghe mà khỏi ghi có được không hả Cormoran?”
“Không sao cả,” Strike nhẹ nhàng đáp, rút điện thoại ra đặt thế vào chỗ cuốn sổ và cây viết. “Bà Bestigui...”
“Anh gọi tôi là Tansy cũng được,” bà ta đáp, có ý đấu dịu sau khi phản đối cuốn sổ.
“Cảm ơn bà rất nhiều,” Strike nói tiếp, thoáng chút mỉa mai. “Bà quen biết Lula thế nào?”
“Không quen gì cả. Cô ta chỉ ở đó có ba tháng. Gặp nhau thì chào vậy thôi. Cô ta không ưa gì tụi tôi hết, vì tụi tôi không đủ sành điệu. Nói thật ở chung tòa nhà với cô ta rất là chán. Phóng viên ngày nào cũng chầu chực ngay trước cửa. Tôi đi tập thể dục cũng phải trang điểm.”
“Tôi tưởng trong tòa nhà có phòng gym?” Strike hỏi.
“Nhưng tôi tập Pilates với Lindsey Parr,” Tansy đáp, có vẻ bực tức. “Anh nói y hệt Freddie; lúc nào cũng càm ràm là tôi không dùng mấy thứ có sẵn trong nhà.”
“Freddie có thân với Lula không?”
“Gần như không quen biết, nhưng không phải là do lão ấy muốn vậy. Lão từng dụ Lula đóng phim; rất nhiều lần mời cô ta xuống nhà chơi. Cô ta không bao giờ nhận lời cả. Lão còn đi theo chân Lula tới tận nhà của Dickie Carbury dịp cuối tuần trước khi cô ta chết. Hôm đó tôi đi chơi với Ursula.”
“Tôi không hề biết chuyện đó,” Bristow lên tiếng, hơi hoảng hốt.
Strike để ý thấy Ursula nhếch mép cười với chị. Hắn có cảm giác như bà ta nãy giờ vẫn đang tìm cách nhìn Tansy đầy ẩn ý nhưng Tansy lờ hẳn đi.
“Thực ra sau đó tôi mới biết,” Tansy nói với Bristow. “Freddie cậy cục có được một vé mời dự tiệc từ Dickie. Hôm đó đủ mặt hết; Lula, Evan Duffield, Ciara Porter – nguyên một băng nghiệp ngập chuyên chường mặt lên báo ra vẻ sành điệu nọ kia. Freddie chắc hẳn lạc lõng lắm. Tuổi lão ta cũng không già hơn Dickie bao nhiêu, nhưng trông cứ như ông cụ,” bà ta hằn học nói thêm.
“Chồng bà có kể gì thêm về dịp cuối tuần đó không?”
“Không kể gì hết. Ba tuần sau đó tôi mới biết, do Dickie lỡ miệng nói ra. Tôi chắc là lão Freddie đi chỉ để o bế Lula.”
“Ý bà là,” Strike hỏi tiếp, “ông Bestigui quan tâm tới cô Lula theo kiểu kia, hay…?”
“À, tôi biết lão thích Lula quá đi chứ. Lão ta lúc nào cũng khoái gái da đen hơn gái tóc vàng. Nhưng có một thứ lão ta còn mê hơn nữa, là làm sao lôi kéo mấy đứa đang nổi đình nổi đám vào phim. Lão ta làm mấy tay đạo diễn tức điên vì suốt ngày cố chèo kéo cho được bọn này để báo chí chú ý. Tôi cá là lúc đó lão đang hi vọng nài được Lula ký hợp đồng với lão.” Tansy nói thêm, tỏ ra khôn ngoan bất ngờ, “Tôi chẳng lạ nếu lão đã sắp đặt sẵn cho cô ta với Deeby Macc. Cứ tưởng tượng bọn nhà báo sẽ phản ứng ra sao, hai người này trước giờ đã quá rùm beng rồi mà. Freddie rất có tài mấy chuyện đó. Lão ta ghét báo chí dòm ngó đời tư bao nhiêu thì thích báo chí chú ý vào phim của lão bấy nhiêu.”
“Ông nhà có quen Deeby Macc không?”
“Không, trừ khi có làm quen được sau khi tụi tôi chia tay. Trước khi Lula chết lão còn chưa gặp Macc bao giờ. Trời đất, lão nhắng cả lên khi nghe tin Macc chuẩn bị dọn vô ở đó. Chưa gì đã nói chuyện mời anh ta thử vai.”
“Thử vai gì?”
“Tôi không biết,” bà ta cấm cảu. “Bất kỳ vai gì. Macc có sức hút rất lớn; Freddie dễ gì bỏ qua cơ hội như vậy. Có khi lão ta còn viết sẵn một vai dành riêng cho Macc nếu anh ta quan tâm. Rồi lão sẽ chạy theo o bế anh ta. Rồi kiểu gì cũng khoe là có bà ngoại người da đen.” Giọng Tansy đầy khinh bỉ. “Khi gặp người nổi tiếng da đen lão ta luôn giở trò đó, cứ khoe khoang là có bà ngoại người Malay. Làm như kinh lắm.”
“Có đúng bà ngoại ông ta là người Malay thật không?” Strike hỏi.
Bà ta bật cười khẽ.
“Tôi không biết. Tôi đã bao giờ gặp ông bà của Freddie đâu? Lão Freddie già khú đế rồi. Tôi chỉ biết nếu có hơi tiền thì lão ta nói gì cũng được.”
“Vụ làm phim với cả Lula và Macc có đi đến đâu không?”
“À, chắc chắn là Lula rất khoái chí khi lão mời; hầu hết đám gái người mẫu đều thèm một cơ hội để chứng tỏ mình làm được gì đó hơn là chỉ nhìn vô camera mà. Nhưng cô ta chưa ký cọt gì cả, đúng không John?”
“Theo tôi biết thì chưa,” Bristow đáp. “Mặc dù… nhưng đó lại là chuyện khác,” ông ta hạ giọng lẩm bẩm, mấy nốt hồng đỏ lại lấm tấm trên mặt. Bristow ngập ngừng. Thấy Strike vẫn nhìn chăm chú ông ta liền nói tiếp:
“Vài tuần trước ông Bestigui có tới thăm mẹ tôi, không báo trước gì cả. Mẹ tôi đang rất ốm, và… tôi không muốn…”
Bristow nhìn Tansy, hết sức bối rối.
“Anh cứ nói, tôi không quan tâm,” bà ta nói, có vẻ không quan tâm thực sự.
Bristow chu miệng, khụt khịt mũi, đám răng thỏ tạm thời biến mất.
“Chuyện là, ông ta muốn nói chuyện với mẹ tôi để làm một bộ phim về cuộc đời của Lula. Ông ta cố tỏ ra tế nhị, chu đáo nọ kia. Muốn được gia đình tôi ủng hộ, muốn có được sự đồng ý chính thức, anh biết đó. Lula mới mất có ba tháng… Mẹ tôi đau khổ không tưởng được. Không may là lúc ông ta tới tôi không có ở nhà,” Bristow nói, ý là thường thì ông ta luôn ở bên canh chừng bà mẹ. “Thực ra tôi ước gì mình có mặt lúc đó. Tôi cũng muốn nghe ông ta trình bày thử. Ý tôi là, tôi chẳng thiết gì chuyện phim phiếc, nhưng nếu ông ta có thuê người tìm hiểu về cuộc đời Lula thì biết đâu ông ta lại biết thêm điều gì khác?”
“Điều gì kia?” Strike hỏi
“Tôi không biết. Chuyện về Lula khi còn nhỏ chẳng hạn? Trước khi nó về với nhà tôi.”
Bồi bàn mang món khai vị đặt trước mặt cả bốn người. Strike đợi cho anh ta đi hẳn, rồi hỏi Bristow tiếp:
“Ông có bao giờ nói chuyện với ông Bestigui chưa? Có bao giờ hỏi xem ông ta biết gì khác về Lula mà gia đình không biết chưa?”
“Việc đó rất khó,” Bristow trả lời. “Khi cậu Tony nghe tin, cậu gọi ngay cho ông Bestigui để phản đối việc ông ta quấy rầy mẹ tôi, theo như tôi biết hai người cãi nhau kịch liệt. Tôi nghĩ ông Bestigui không muốn gặp thêm người nào nữa trong gia đình tôi đâu. Tất nhiên ở đây cũng có cái mắc míu là công ty của tôi đang làm thủ tục ly dị cho Tansy. Thực ra cũng không có gì, vì công ty chỗ tôi là công ty hàng đầu về luật hôn nhân gia đình, Ursula lại là vợ của Cyprian, nên chuyện Tansy thuê tụi tôi cũng là tất nhiên… Nhưng tôi chắc ông Bestigui sẽ không niềm nở gì với gia đình tôi.”
Mặc dù tập trung vào ông luật sư nhưng Strike vẫn giữ tầm nhìn bao quát rất tốt. Ursula vừa nhếch mép cười với bà chị. Hắn tự hỏi không biết bà ta cười chuyện gì. Uống tới ly rượu thứ tư rồi thì tâm trạng vui vẻ lên cũng là phải thôi.
Strike ăn xong món khai vị, quay sang Tansy. Bà ta vẫn đang khều qua đẩy lại mớ đồ ăn còn y nguyên trên đĩa.
“Bà với ông nhà ở đó bao lâu thì Lula dọn vào?”
“Khoảng một năm.”
“Lúc cô ấy dọn vào có ai ở căn hộ tầng giữa không?”
“Có,” Tansy trả lời. “Hai vợ chồng người Mỹ và đứa con trai nhỏ ở đó được khoảng sáu tháng, nhưng không lâu sau khi Lula dọn tới thì họ về Mỹ. Sau đó bên công ty quản lý không tìm được ai muốn thuê cả. Khủng hoảng kinh tế mà, anh biết rồi đó. Nhà ở đó giá cắt cổ. Vậy là để trống cho tới khi hãng đĩa thuê cho Deeby Macc.”
Cả hai chị em chợt nhãng đi khi một người đàn bà đi ngang qua. Người này mặc áo khoác bằng len móc mà theo quan điểm thẩm mỹ của Strike là vô cùng dị hợm.
“Áo khoác Daumier-Cross,” Ursula lên tiếng, hai mắt nhíu lại trên ly rượu. “Nghe đâu đặt hàng phải đợi chừng sáu tháng kia…”
“Không phải, áo Pansy Marks-Dillon chứ,” Tansy nói. “Mặc vào là được xếp vào nhóm biết ăn mặc đẹp nhất ngay, nếu ông chồng có gia tài khoảng năm chục triệu bảng. Freddie giàu mà bần tiện nhất thế giới; tôi mua đồ mới toàn phải giấu giếm, hoặc giả bộ là đồ nhái. Nhiều khi lão ta chán không chịu được.”
“Trông cô lúc nào cũng xinh đẹp mà,” Bristow lên tiếng, mặt ửng hồng.
“Còn anh thật tử tế,” Tansy đáp, giọng chán nản.
Người bồi bàn trở lại để dọn đĩa.
“Anh đang nói gì ấy nhỉ?” Bà ta hỏi Strike “À, vụ mấy căn hộ. Deeby Macc dọn vô… chỉ có điều chưa kịp tới nơi thì đã dọn ra lại. Freddie tức điên lên khi biết tin. Vì lão ta đã lỡ mua hoa hồng để sẵn trong đó. Khéo vẽ trò rẻ tiền.”
“Bà có quen biết gì với Derrick Wilson không?” Strike hỏi tiếp.
Bà ta chớp mắt.
“Ông ta làm bảo vệ; tôi quen kiểu gì? Thấy cũng được. Freddie hay nói là khá nhất trong đám đó.”
“Thật sao? Tại sao vậy?”
Bà ta nhún vai.
“Tôi không biết, anh đi mà hỏi Freddie. Chúc may mắn,” Bà ta nói thêm, cười khẩy. “Có mà trời sập thì lão mới chịu nói chuyện với anh,”
“Tansy,” Bristow lên tiếng, hơi nghiêng về phía bà ta. “Sao cô không kể lại cho Cormoran nghe là hôm đó cô nghe thấy gì?”
Strike ước gì Bristow đừng can thiệp.
“À,” Tansy đáp. “Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi khát nước.”
Giọng bà ta không hề có cảm xúc. Strike để ý bà ta đã sửa lại câu chuyện, không còn giống với lời khai bên cảnh sát.
“Tôi đi vào nhà tắm. Khi tôi đi ra phòng khách, ngay trước phòng ngủ, tôi nghe có tiếng la hét. Cô ta nói ‘Muộn rồi. Đã xong hết rồi,’ và một người đàn ông nói, ‘Mày là con láo toét khốn nạn,’ rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.”
Tansy đưa tay ra hai bên, làm động tác giật giật, diễn tả lại tư thế rơi xuống của Lula.
Bristow đặt ly rượu xuống bàn, trông ông ta như sắp nôn. Món chính được mang ra. Ursula lại uống rượu. Tansy và Bristow đều không động đũa. Strike cầm nĩa lên bắt đầu ăn, cố không ngấu nghiến món rong biển puntarelle và cá cơm.
“Tôi la lên,” Tansy thầm thì. “Tôi không thể nhịn được, cứ la lên. Tôi chạy khỏi căn hộ, Freddie đang ngồi đó, tôi chạy xuống cầu thang. Tôi chỉ muốn nói với bảo vệ là trên lầu có người lạ, kêu họ lên bắt người đó đi.
“Wilson từ phòng sau chạy ào ra. Tôi kể hết với ông ta, ông ta chạy ngay ra đường để xem cô Lula, thay vì chạy lên cầu thang. Ngu quá sức. Biết đâu lúc đó ông ta chạy liền lên cầu thang thì đã bắt được tên đó rồi! Sau đó Freddie đi xuống và cố đưa tôi lên nhà lại, vì khi đó tôi mặc đồ sơ sài.
“Wilson quay trở vào nói là cô ta đã chết, rồi nhờ Freddie gọi cho cảnh sát. Freddie gần như kéo tôi lên lầu… lúc đó tôi bị kích động mạnh… rồi lão gọi 999 từ phòng khách nhà tôi. Rồi cảnh sát đến. Và không ai tin lời tôi cả.”
Bà ta nhấp một ngụm rượu, đặt ly xuống và khẽ nói:
“Nếu Freddie biết chuyện tôi đi gặp anh, lão sẽ nổi đóa.”
“Nhưng cô chắc chắn mà, phải không Tansy,” Bristow lại chen ngang, “chắc chắn là cô nghe thấy tiếng người đàn ông trên đó?”
“Đương nhiên rồi,” Tansy đáp. “Tôi vừa mới nói còn gì? Chắc chắn là trên đó có người.”
Điện thoại di động của Bristow đổ chuông.
“Xin phép,” ông ta lẩm bẩm. “Alison… hả?” ông ta trả lời điện thoại.
Strike nghe thấy giọng trầm của bà thư ký, nhưng không nghe rõ từng từ.
“Xin phép tôi đi ra ngoài một lát,” Bristow nói, trông có vẻ bối rối, rồi đứng dậy đi ra khỏi bàn.
Gương mặt mịn màng của cả hai chị em lộ vẻ thích thú đầy ác ý. Họ liếc nhìn nhau. Ursula đột ngột quay sang hỏi Strike:
“Anh gặp Alison chưa?”
“Chỉ gặp thoáng qua.”
“Anh có biết hai người đó cặp nhau không?”
“Có biết.”
“Thật tội nghiệp,” Tansy nói. “Cô ta cặp với John, nhưng lại thích mê Tony. Anh gặp Tony chưa?”
“Chưa.” Strike trả lời.
“Tony là một trong những thành viên cấp cao trong công ty, cũng là cậu của John, anh biết không?”
“Biết.”
“Rất phong độ. Đâu có thèm để mắt tới Alison. Nên chắc cô ta xài đỡ John vậy.”
Vụ thất tình đơn phương của Alison dường như khiến hai chị em rất thỏa mãn.
“Mấy người trong văn phòng có biết vụ này không?”
“Biết chứ,” Ursula hào hứng. “Cyprian nói cô ta thật không biết xấu hổ, cứ bám lấy Tony như con chó con.”
Có vẻ như Ursula không còn ác cảm với Strike nữa. Hắn chẳng ngạc nhiên gì. Hắn đã gặp nhiều người như vậy. Dường như ai cũng thích nói; rất ít ngoại lệ; vấn đề là làm sao để người ta nói. Một vài người, chẳng hạn như Ursula thì cứ rượu vào lời ra; có người thì thích được chú ý; cũng có người chỉ cần đứng gần người khác là nói. Một số người sẽ mở máy liên tục nếu rà trúng đài: chẳng hạn nói về sự vô tội của mình, hay tội lỗi của người khác; hay bộ sưu tập hộp bánh quy tiền chiến của mình; hay như quý bà Ursula May này là chuyện tình đơn phương của cô thư ký kém sắc.
Ursula nhìn Bristow ngoài cửa sổ. Ông ta đứng trên vỉa hè, nói rất nhiều vào điện thoại, thỉnh thoảng đi qua đi lại. Ursula có vẻ đã bắt đầu nóng máy, bà ta nói tiếp:
“Tôi biết thừ ông ta đang nói gì. Mấy người thừa kế của Conway Oates đang càm ràm vụ công ty xử lý di chúc. Conway Oates là tay tài phiệt người Mỹ, anh biết không? Cyprian và Tony đang đau đầu vụ đó, bắt John chạy đứ đừ để o bế họ. John lúc nào cũng nhận phần thiệt.”
Giọng bà ta nghe có vẻ cay độc hơn là thông cảm.
Bristow trở lại bàn, trông rất bối rối.
“Xin lỗi, Alison phải chuyển cho tôi vài tin nhắn,” ông ta phân trần.
Bồi bàn trở lại dọn đĩa. Strike là người duy nhất ăn sạch sẽ. Khi người bồi bàn đi xa, Strike lên tiếng:
“Bà Tansy, bên cảnh sát loại lời khai của bà vì họ nghĩ là bà không thể nghe được gì cả.”
“Nhưng họ sai, phải không?” bà ta sầm mặt ngắt lời Strike. “Tôi có nghe rõ ràng.”
“Mặc dù cửa sổ đã đóng chặt?”
“Cửa sổ mở,” bà ta nói, không nhìn thẳng vào mắt ai cả. “Hôm đó rất bí. Tôi mở cửa sổ khi đi rót nước.”
Strike chắc chắn nếu tiếp tục ép, bà ta sẽ không chịu trả lời gì nữa.
“Bên cảnh sát cũng có nói là bà dùng cocaine.”
Tansy hừ giọng, vẻ thiếu kiên nhẫn.
“Thôi được,” bà ta nói. “Lúc ăn tối tôi có xài một chút, được chưa? Cảnh sát phát hiện ra chỗ còn dư trong buồng tắm khi họ khám nhà. Tối hôm đó tụi tôi phải tiếp hai vợ chồng nhà Dunnes. Phát ngấy lên được. Ai nghe họ nói chuyện cũng phải làm vài tép mới sống nổi. Nhưng tôi không hề tưởng tượng ra tiếng nói trên lầu. Sự thật là có một người đàn ông trên đó, ông ta giết Lula. Chính ông ta giết Lula,” Tansy lặp lại, trừng mắt nhìn Strike.
“Bà nghĩ là sau đó ông ta đi đâu?”
“Làm sao tôi biết được? John trả tiền cho anh để anh điều tra kia mà. Ông ta lẻn ra bằng cách nào đó. Có thể là leo qua cửa sổ đằng sau. Có thể trốn trong thang máy. Cũng có thể đi ra từ dưới hầm đậu xe. Tôi làm sao biết ông ta trốn ra bằng cách nào, tôi chỉ biết ông ta có ở đó.”
“Tụi tôi tin cô mà,” Bristow vội vã đỡ lời. “Tụi tôi tin cô, Tansy à. Cormoran phải hỏi những câu như vậy để mà… hình dung hết sự việc hôm đó.”
“Cảnh sát cố chứng minh là tôi nói dối,” Tansy nói tiếp, lơ Bristow và nhìn thẳng vào Strike. “Họ tới quá trễ, thủ phạm đã đi mất rồi, nên đương nhiên là họ phải tìm cách bao che. Nếu không ở trong hoàn cảnh của tôi, suốt ngày phải đối mặt với báo chí, anh không thể nào hiểu được. Như sống trong địa ngục vậy. Tôi phải đi an dưỡng để tránh xa hết. Tôi không tin nổi là báo chí được phép làm những việc như vậy ở cái đất nước này; tất cả chỉ vì tôi nói thật, nực cười là ở chỗ đó. Đáng ra tôi ngậm miệng quách cho xong. Nếu biết trước vậy, tôi đã không nói gì hết.”
Bà ta xoay chiếc nhẫn kim cương quanh ngón tay.
“Khi Lula rớt xuống thì Freddie vẫn còn ngủ đúng không?” Strike hỏi tiếp.
“Đúng rồi.” bà ta trả lời.
Tansy đưa tay lên trán, làm như đang vuốt tóc. Người bồi bàn quay lại đem theo thực đơn tráng miệng. Strike không thể hỏi thêm gì cho tới khi tất cả đều đã gọi món. Cũng chỉ có Strike dùng món tráng miệng; bà người còn lại đều chỉ gọi cà phê.
“Vậy Freddie ra khỏi giường lúc nào?” hắn hỏi Tansy ngay khi người bồi bàn vừa đi khỏi.
“Ý anh là sao?”
“Bà nói ông ta còn nằm trong giường khi Lula rơi xuống, vậy ông ta tỉnh dậy khi nào?”
“Khi nghe tiếng tôi la hét,” bà ta trả lời, như thể câu hỏi quá thừa. “Tôi làm lão thức dậy còn gì?”
“Vậy ông ta phải di chuyển rất nhanh.”
“Tại sao?”
“Bà nói là: ‘Tôi chạy khỏi căn hộ, Freddie đang ngồi đó, tôi chạy xuống cầu thang.’ Vậy là Freddie đã có mặt trong phòng khách trước khi bà chạy xuống báo với Derrick?”
Tansy sựng lại vài giây.
“Đúng rồi,” bà ta nói, vuốt mái tóc hoàn hảo, tay che ngang mặt.
“Vậy là ông ta đang ngủ mà chỉ mất có mấy giây để ra ngồi tỉnh táo trong phòng khách? Bởi vì lúc nãy bà kể là bà bắt đầu la lên và chạy xuống ngay sau đó?”
Lại một thoáng lặng ngắt.
“À,” bà ta nói tiếp. “À… tôi không biết. Tôi nghĩ lúc đó tôi hét lên… có thể hét trong lúc bất động… có lẽ tôi đứng im một lúc… tôi quá sốc mà… rồi Freddie chạy ào ra từ phòng ngủ, rồi tôi mới chạy qua mặt lão.”
“Bà không dừng lại để kể vừa mới thấy gì à?”
“Tôi không nhớ.”
Bristow lại nhấp nhổm muốn nói chen. Strike đưa tay lên cản; nhưng Tansy đã kịp đổi đề tài, Strike đoán là bà ta đang tránh nói đến ông chồng.
“Tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện làm sao sát thủ lẻn vô được, chắc hẳn là hắn đã đi theo Lula ngay buổi sáng hôm đó, vì Derrick Wilson hay bỏ bàn trực để đi vệ sinh. Tôi nghĩ sau vụ này đáng ra phải đuổi thẳng Wilson. Tôi biết chắc ông ta hay chuồn ra phòng sau để ngủ. Tôi không biết làm cách nào sát thủ lại biết mật mã khóa, nhưng tôi chắc hắn đi theo đường đó.”
“Bây giờ bà có thể nhận ra giọng của người đó không? Giọng người la hét tối hôm đó ấy?”
“Chắc không,” bà ta nói. “Chỉ là giọng đàn ông thôi. Có thể là bất kỳ ai. Chẳng có gì đặc biệt. Sau đó tôi có nghĩ, Phải chăng là Duffield?” bà ta nói, vẫn nhìn chăm chú vào Strike, “bởi vì trước đó tôi từng nghe Duffield la hét trên lầu. Lần đó Wilson phải tống cổ nó ra còn nó thì cứ cố đá vào cửa nhà Lula. Tôi chẳng hiểu sao một cô gái xinh như vậy mà lại theo một thằng như Duffield,” bà ta bổ sung.
“Nhiều người thấy anh ta sexy mà,” Ursula thêm vào, tay rót nốt chỗ rượu trong chai vào ly, “nhưng tôi chẳng thấy hấp dẫn chỗ nào. Trông lôi thôi gớm ghiếc thì có.”
“Mà lại,” Tansy tiếp, vừa nói vừa xoay tròn chiếc nhẫn kim cương, “chẳng có tiền bạc gì.”
“Nhưng bà không nghĩ đó là giọng của Duffield?”
“À, như tôi nói đó, cũng có thể,” bà ta đáp, nhún nhẹ vai vẻ thiếu kiên nhẫn. “Nhưng anh ta có chứng cứ ngoại phạm còn gì? Nhiều người nói không hề thấy anh ta ở Kentigern Gardens đêm đó. Rồi cả chuyện anh ta ở nhà Ciara Porter còn gì? Con đĩ.” Tansy nói thêm, cười khẩy. “Bồ của bạn thân cũng chơi.”
“Họ ngủ với nhau à?” Strike hỏi
“Ơ, thế anh nghĩ gì?” Ursula bật cười, cứ như câu hỏi quá ngây thơ. “Tôi quá biết Ciara Porter, nó biểu diễn trong một chương trình từ thiện tôi làm. Vừa lầy vừa dốt.”
Cà phê và món tráng miệng kẹo bơ của Strike được mang ra.
“Xin lỗi anh, John, nhưng rõ là Lula không biết chọn bạn,” Tansy nói, nhấp cà phê espresso. “Ciara, rồi cả Bryony Radford. Mặc dù con đó chẳng phải bạn bè gì, nhưng nếu là tôi thì tôi không đời nào đi tin một đứa như vậy.”
“Bryony là ai vậy?” Strike giả vờ hỏi (hắn vẫn còn nhớ người này).
“Chuyên viên trang điểm, chém rất đẹp. Cũng là một đứa chẳng ra gì,” Ursula nói. “Tôi có thuê nó một lần, hồi đi dự tiệc của Tổ chức Gorbachev và sau đó gặp ai nó cũng nói…”
Ursula tự nhiên dừng bặt, đặt ly rượu xuống và cầm tách cà phê lên. Strike mặc dù thấy không có liên quan nhưng vẫn khá tò mò không biết Bryony đã nói gì. Hắn vừa định mở miệng thì Tansy cắt ngang.
“À rồi còn cái đứa gớm ghiếc mà Lula hay đưa về nhà nữa, John, anh nhớ không?”
Tansy nhìn Bristow, nhưng ông này có vẻ ngơ ngác.
“Anh nhớ không, cái con… da đen gớm ghiếc mà thỉnh thoảng Lula lại kéo về. Hình như là dân lang thang. Nó… hôi rình. Nó mà vừa từ thang máy ra là biết ngay. Lula còn cho nó xài bể bơi nữa. Tôi cứ tưởng bọn đen không biết bơi chứ?”
Bristow hấp háy mắt liên tục, mặt đỏ lựng.
“Chẳng biết Lula chơi gì với con đó,” Tansy nói. “Chắc anh phải nhớ chứ John. Nó mập ú. Rất lôi thôi. Trông hơi khùng khùng.”
“Tôi không…” Bristow lẩm bẩm.
“Có phải là Rochelle không?” Strike hỏi.
“À đúng rồi, chắc nó đó. Hôm đám tang nó cũng đi,” Tansy nói. “Tôi để ý thấy. Nó ngồi ngay đằng sau.”
“Bây giờ anh nghe đây,” bà ta giương cặp mắt sẫm màu nhìn thẳng vào Strike, “việc hôm nay không có gì chính thức cả. Không thể để Freddie biết tôi có gặp anh. Tôi sẽ không đụng chạm gì tới bọn báo chí nữa. Làm ơn tính tiền,” Bà ta nói như sủa vào người bồi bàn.
Khi hóa đơn được đem ra, bà ta đưa luôn cho Bristow mà không nói gì thêm.
Hai chị em Tansy chuẩn bị ra về. Cả hai hất mái tóc nâu bóng mượt ra sau, bắt đầu mặc những chiếc áo khoác đắt đỏ. Vừa lúc đó cánh cửa nhà hàng mở ra. Một người đàn ông cao gầy mặc comlet, khoảng chừng sáu mươi tuổi bước vào và đi thẳng tới bàn của bốn người. Tóc ông ta ngả bạc, trông rất quý phái, áo quần không chê vào đâu được. Đôi mắt xanh tái của ông ta toát lên một vẻ lạnh lùng khó tả. Ông ta bước đi nhanh nhẹn, dứt khoát.
“Thật là ngạc nhiên,” ông ta nhẹ nhàng cất tiếng khi tiến tới ngay giữa hai người đàn bà. Chỉ Strike nhìn thấy ông ta bước vào, cả ba người kia đều sốc và xem ra chẳng vui vẻ gì khi thấy ông ta. Tansy và Ursula sững sờ giây lát, Ursula vẫn đang rút chiếc kính râm ra khỏi túi.
Tansy hoàn hồn trước.
“Cyprian,” bà ta nói, đưa má cho ông ta hôn. “Ngạc nhiên vậy!”
“Cứ tưởng em đang đi mua sắm chứ Ursula?” ông ta nói, nhìn bà vợ trong khi hôn nhẹ xã giao lên má Tansy.
“Tụi em đi ăn trưa luôn, Cyps à,” bà ta nói ngay nhưng mặt bắt đầu tái. Strike cảm thấy không khí chung quanh ám đặc lại.
Người đàn ông lớn tuổi liếc mắt về phía Strike rồi đảo sang Bristow.
“Tôi cứ tưởng Tony làm vụ li dị cho chị, đúng không Tansy?” ông ta hỏi.
“Đúng vậy,” Tansy đáp. “Hôm nay không có dính gì tới công việc cả, Cyps. Chỉ là ăn uống xã giao thôi.”
Ông ta mỉm cười lạnh lùng.
“Vậy để tôi đưa hai quý cô về,” ông ta nói.
Hai người nhanh chóng chào Bristow, không đá động gì đến Strike và đi theo chồng Ursula ra cửa. Khi cánh cửa đóng lại, Strike quay sang hỏi Bristow:
“Chuyện gì vậy?”
“Người đó là Cyprian,” Bristow đáp. Ông ta lập cập rút thẻ tín dụng ra đặt trên hóa đơn. “Cyprian May. Chồng của Ursula. Thành viên cấp cao bên công ty. Ông ta sẽ không hài lòng nếu biết Tansy đi gặp anh. Tôi không biết làm sao ông ta biết được mình ở đây. Chắc là hỏi Alison.”
“Tại sao ông ta không muốn Tansy nói chuyện với tôi?”
“Tansy là chị vợ của ông ấy,” Bristow vừa nói vừa mặc áo khoác. “Ông ta sợ Tansy lại nói gì bậy bạ lần nữa. Kiểu gì tôi cũng sẽ bị rủa một trận cái tội năn nỉ Tansy gặp anh. Chắc giờ này ông ta đang gọi cho ông cậu tôi để càm ràm.”
Strike để ý thấy tay Bristow vẫn còn run.
Bristow ra về trong chiếc taxi do nhà hàng gọi giúp. Strike đi bộ ra khỏi Cipriani, vừa đi vừa tháo lỏng cà vạt, mải suy nghĩ đến suýt chút nữa thì bị một chiếc xe đằng sau đâm vào khi băng qua phố Grosvenor. Chiếc xe bấm còi inh tai, làm hắn giật cả mình.
Sau cú lay tỉnh kịp thời đó, Strike đi thẳng tới bức tường phai màu cạnh hiệu làm đẹp Elizabeth Arden Red Door Spa. Hắn tựa lưng vào tường, châm thuốc và rút điện thoại di động ra. Vừa nghe vừa tua nhanh đoạn ghi âm, hắn canh tới đoạn Tansy mô tả những việc xảy ra trước khi Lula rơi xuống.
… ngay trước phòng ngủ, tôi nghe có tiếng la hét. Cô ta nói “Muộn rồi. Đã xong hết rồi,” và một người đàn ông nói, “Mày là con láo toét khốn nạn,” rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.
Strike nghe được cả tiếng ly rượu của Bristow đặt xuống mặt bàn. Hắn tua ngược và nghe lại.
… nói “Muộn rồi. Đã xong hết rồi,” và một người đàn ông nói, “Mày là con láo toét khốn nạn,” rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.
Hắn nhớ lại điệu bộ của Tansy diễn tả cánh tay Landry buông xuống và vẻ kinh hoàng trên gương mặt lạnh như băng của bà ta. Bỏ điện thoại vào túi, hắn rút sổ ra ghi chép.
Strike đã gặp rất nhiều người nói dối. Hắn có thể ngửi ra ngay. Hắn biết rõ Tansy là một trong số đó. Rõ ràng bà ta không thể nghe thấy gì từ trong căn hộ. Từ đó cảnh sát kết luận hôm đó bà ta không nghe được gì cả. Thế nhưng, ngược hẳn với suy nghĩ trước đó của Strike và mặc cho tất cả bằng chứng đến lúc này đều cho thấy Lula Landry tự tử, hắn lại có cảm giác Tansy thực sự tin là bà ta có nghe tiếng cãi nhau trước khi Landry rơi xuống. Đó là phần nói thật duy nhất trong câu chuyện của bà ta, chút sự thật ít ỏi le lói giữa những lời bịa đặt.
Strike đứng thẳng người dậy, tiếp tục đi về phía đông dọc theo phố Grosvenor, lần này để ý xe cộ hơn, nhưng trong đầu vẫn nghĩ tới vẻ mặt, giọng nói và kiểu cách của Tansy khi mô tả những giây cuối cùng của Lula Landry.
Tại sao bà ta nói thật chỗ quan trọng nhất, nhưng tại bao quanh đó bằng những lời dối trá? Tại sao bà ta nói dối chuyện đang làm gì khi nghe thấy tiếng hét? Strike nhớ đến câu nói của nhà tâm lý học Alfred Alder: “Không có lý do gì để nói dối, trừ khi sự thật cũng đáng sợ không kém.” Hôm nay Tansy chịu đến Cipriani, coi như nỗ lực cuối cùng để tìm một người chịu tin lời bà ta, nhưng cùng lúc phải tin luôn những sự dối trá đi kèm.
Hắn đi nhanh, không để ý đến chân phải đang nhức nhối. Cuối cùng hắn nhận ra mình vừa mới đi dọc hết phố Maddox và tới phố Regent. Mái hiên màu đỏ của cửa hàng đồ chơi Hamleys vẫy gọi từ xa. Strike sực nhớ hắn định mua quà sinh nhật cho cháu trên đường về.
Strike bước vào, lơ đãng lướt qua cái thế giới sặc sỡ, đầy tiếng cót két và đèn chớp nháy liên tục chung quanh. Cứ vậy hắn đi từ tầng này đến tầng khác, không để ý cả những tiếng rì rì, vo ve của mấy chiếc máy bay đồ chơi đang lơ lửng và những con lợn máy liên tục ụt ịt chạy qua dưới chân. Cuối cùng, sau hai mươi phút, hắn tới gian hàng búp bê quân đội Hoàng gia. Hắn đứng đó, lặng yên, nhìn chăm chăm vào hàng ngũ lính hải quân và lính nhảy dù, nhưng hình như chỉ nhìn mà không thấy gì cả. Hắn còn không nghe cả tiếng thì thầm của mấy vị phụ huynh đứng gần đó. Họ đang cố đẩy mấy đứa trẻ con đi vòng qua người đàn ông to lớn đang mải nhìn vào hư vô, không dám lên tiếng nhờ hắn đứng nhích qua một bên.
Con Chim Khát Tổ Con Chim Khát Tổ - Robert Galbraith (J.k.rowling) Con Chim Khát Tổ