Số lần đọc/download: 1271 / 37
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:10 +0700
Thợ Săn Trên Tuyết
T
ub đã chờ suốt một giờ đồng hồ dưới tuyết rơi. Anh đi đi lại lại trên vỉa hè để giữ ấm người và thò đầu ra khỏi vệ đường mỗi khi anh nhìn thấy có ánh đèn tiến lại. Tuyết rơi ngày càng dày. Tub đứng dưới mái hiên một tòa nhà. Phía bên kia đường, những đám mây phủ trắng bầu trời phía trên mái nhà và màu trắng loang ra khắp trời. Anh đổi khẩu súng săn sang vai bên kia.
Một chiếc xe tải chạy qua khúc cua, còi xé tai, đuôi xe trượt trên tuyết. Tub tiến sát mép vỉa hè, đưa một tay ra. Chiếc xe leo lên vỉa hè rồi cứ thế chạy, một nửa trên đường, một nửa trên vỉa hè. Nó không hề giảm tốc độ. Tub đứng sững một giây, tay vẫn chìa ra, rồi nhảy lùi lại. Khẩu súng săn trượt khỏi vai anh, đập xuống mặt băng và một chiếc bánh mì kẹp rơi khỏi túi áo. Chiếc xe tải phóng ngang qua chỗ anh và dừng lại ở cuối phố.
Tub nhặt chiếc bánh mì kẹp, khoác lại khẩu súng săn lên vai và bước về phía chiếc xe tải. Người lái xe đang gục người trên vô lăng, hai tay vỗ đùi và chân đập xuống sàn xe. Trông anh ta như một nhân vật phim hoạt hình đang cười. “Tub, giá mà anh nhìn thấy chính anh”, người lái xe nói. “Trông anh như một quả bóng chuyền đội mũ. Có phải không, Frank?”
Người đàn ông ngồi cạnh mỉm cười và nhìn đi chỗ khác.
“Cậu suýt cán tôi”, Tub nói. “Cậu suýt đâm chết tôi”.
“Thôi nào, Tub”, người ngồi cạnh lái xe nói. “Bình tĩnh đi. Kenny chỉ đùa thôi mà”. Anh ta mở cửa xe và dịch vào ghế giữa.
Tub gập khẩu súng săn lại rồi trèo lên ngồi cạnh người kia. “Chân tôi cóng hết rồi đây này”, anh nói. “Nếu các cậu định 10 giờ mới đến thì sao các cậu không bảo là 10 giờ mới đến?”
“Tub, từ nãy tới giờ anh chỉ toàn kêu ca phàn nàn”, người ngồi giữa nói. “Nếu anh định kêu ca rên rỉ cả ngày thì có lẽ anh nên về nhà mà kêu ca mắng mỏ mấy đứa con anh. Anh chọn đi”. Khi Tub không nói gì, anh ta quay sang người lái xe. “Được rồi, Kenny, đi thôi”.
Bọn trẻ hư hỏng nào đó đã đập vỡ kính chắn gió phía bên người lái xe, thế nên gió lạnh và tuyết xộc thẳng vào buồng lái. Máy sưởi không hoạt động. Ba người trên xe cố che chắn bằng mấy tấm chăn mà Kenny đã mang theo và kéo kín vành mũ trùm đầu. Tub cố gắng giữ ấm tay bằng cách chà chúng vào chăn nhưng Frank bắt anh dừng lại.
Họ rời khỏi Spokane rồi lái sâu vào vùng nông thôn, chạy dọc theo những hàng rào đen. Tuyết đã ngớt nhưng vẫn không thể phân biệt được ranh giới giữa trời và đất. Những cánh đồng loang lổ tuyết hoàn toàn bất động. Cái lạnh gột trắng mặt ba người và làm cho hàng râu quai nón nổi bật trên má và mép họ. Ba người dừng lại hai lần để mua cà phê trước khi họ tiến vào rừng, nơi Kenny muốn đi săn.
Tub đã muốn đi săn ở một chỗ khác; hai năm liền họ đã đi săn ở khu vực này mà không gặp bất cứ con thú nào. Frank thì không quan trọng đi săn ở đâu, cậu ta chỉ muốn thoát khỏi cái xe tải khốn khiếp. “Thấy chưa?”, cậu ta vừa nói vừa đóng sầm cửa lại. Cậu ta dạng hai chân, ngửa mặt lên trời, hai mắt nhắm lại và hít một hơi dài. “Phải hít thở cái không khí này này”.
“Đã thế”, Kenny nói. “đất này lại là đất hoang. Hầu hết đất ở quanh chỗ này đều có chủ”.
“Lạnh quá”, Tub nói.
Frank thở hắt ra. “Đừng có kêu ca nữa, Tub. Tập trung đi”.
“Tôi đâu có kêu ca”.
“Tập trung”, Kenny nói. “Nếu không thì rồi cậu sẽ thấy mình mặc váy ngủ đứng bán hoa ở sân bay đấy, Frank”.
“Kenny”, Frank nói. “Cậu lắm mồm quá”.
“Rồi”, Kenny nói. “Tôi sẽ không nói một lời nào nữa. Ví dụ như tôi sẽ không nói gì về cái cô bảo mẫu nhỉ”.
“Cô bảo mẫu nào?”, Tub hỏi.
“Chuyện riêng của hai chúng tôi ấy mà”, Frank vừa nói vừa nhìn Kenny.
Kenny cười phá lên.
“Là cậu khơi ra đấy nhé”, Frank nói.
“Khơi cái gì?”
“Này” Tub nói. “Thế có định đi săn không nhỉ?”
Họ bắt đầu tiến vào cánh đồng. Tub khó nhọc vượt qua hàng rào. Frank và Kenny có thể giúp anh; họ có thể nâng cao dây rào phía trên và dẫm đè lên dây rào phía dưới, nhưng họ không làm thế. Họ đứng nhìn. Có rất nhiều hàng rào và Tub thở hổn hển khi họ vào tới bìa rừng.
Họ săn suốt hai tiếng mà không thấy một con hươu nào. Không hề có dấu chân hay bất cứ dấu hiệu nào. Cuối cùng họ dừng lại ở một bờ suối để ăn. Kenny ăn một vài miếng pizza và vài thanh kẹo; Frank ăn một cái bánh mì kẹp, một quả táo, hai củ cà rốt và một miếng sô-cô-la; Tub ăn một quả trứng luộc và một cọng cần tây.
Kenny nói.
“Nếu có ai hỏi hôm nay tôi muốn được chết như thế nào thì tôi sẽ nói tôi muốn được xiên chả rồi đem nướng”. Cậu ta quay sang Tub: “Anh vẫn ăn kiêng à?” Cậu ta nháy mắt với Frank.
“Thế cậu nghĩ thế nào? Cậu nghĩ là tôi thích ăn trứng luộc à?”
“Tôi chỉ có thể nói đây là kiểu ăn kiêng duy nhất tôi từng biết mà càng ăn lại càng lên cân”.
“Ai bảo là tôi lên cân?”
“Ồ, tôi xin lỗi; tôi xin rút lại câu vừa rồi. Anh đang gầy mòn đi trông thấy. Có đúng không, Frank?”
Frank đang xòe bàn tay trên cái gốc cây mà cậu ta đã để thức ăn lên. Đốt ngón tay cậu ta có nhiều lông. Cậu ta đeo một cái nhẫn cưới to bản và trên ngón tay út bên phải có một cái nhẫn vàng, trên mặt nhẫn có một chữ F trông như bằng kim cương. “Tub”, cậu ta nói. “Mười năm nay, anh đâu có cúi người xuống nhìn hai hạt cà của anh được”.
Kenny cúi gập người xuống vì cười. Cậu ta tháo mũ, đập đập vào chân.
“Thế tôi phải làm gì?”, Tub nói. “Hoóc môn của tôi nó thế”
Họ rời khỏi rừng và đi săn dọc theo bờ suối. Frank và Kenny đi một bên, Tub đi bờ bên kia, cả ba đi ngược lên đầu nguồn. Tuyết rơi nhẹ nhưng đã đóng thành một lớp dày và khó bước. Tub nhìn khắp nơi nhưng chỉ thấy mặt tuyết bằng phẳng, không một dấu chân; sau một hồi, anh không buồn nhìn nữa. Anh thôi không tìm kiếm các dấu chân thú và chỉ cố theo cho kịp Frank và Kenny ở bờ bên kia. Rồi một lúc, anh nhận ra anh đã không còn nhìn thấy họ nữa. Gió đang thổi từ phía bên anh sang phía bên kia; khi gió lặng, thỉnh thoảng anh nghe thấy tiếng Kenny cười – và không gì khác. Anh cố gắng đi nhanh hơn, xuyên qua những bông tuyết dạt, cố gắng bạt tuyết đi. Anh nghe thấy tim mình đập và cảm thấy hai má nóng ran nhưng anh không dừng lại.
Ở khúc quanh của dòng suối, Tub bắt kịp Frank và Kenny. Họ đang đứng trên một thân cây vắt ngang sang bờ của anh. Băng đã đóng lại phía dưới thân cây. Những cây sậy phủ băng nhô lên lởm chởm.
“Có thấy gì không?”, Frank hỏi.
Tub lắc đầu.
Ánh sáng ban ngày đã gần tàn nên họ quyết định sẽ quay lại đường cái. Frank và Kenny vượt qua thân cây; rồi cả ba đi xuôi dòng suối theo đúng những dấu chân của Tub trên tuyết. Họ đi chưa được bao xa thì Kenny đứng lại. “Nhìn này”, cậu ta nói và chỉ vào mấy dấu chân hươu chạy từ bờ suối vào rừng, vết chân của Tub chạy ngang qua những dấu chân hươu. Ngay trên bờ suối là mấy đống phân hươu rõ ràng. “Anh nghĩ đấy là cái gì hả Tub?”, Kenny đá vào mấy dấu chân. “Hạt điều trên bánh kem va-ni à?”
“Chắc là tôi không để ý”.
Kenny nhìn Frank.
“Tôi bị lạc”.
“Anh bị lạc. Hay nhỉ”.
Họ lần theo dấu chân vào rừng. Con hươu đã nhảy qua một hàng rào ngập một nửa trong tuyết. Một tấm biển “Cấm săn” được đóng trên đỉnh một cái cọc rào. Kenny muốn đuổi theo con hươu nhưng Frank nói không đời nào, đừng bao giờ đùa với dân quanh đây. Cậu ta nghĩ có thể người sở hữu mảnh đất này sẽ để họ săn nếu như ba người vào xin phép. Kenny không chắc chắn lắm nhưng cậu ta nhận ra rằng cho đến lúc họ trở lại xe và lái ra đường rồi vòng trở lại thì có lẽ trời đã tối.
“Cứ bình tĩnh”, Frank nói. “Dục tốc bất đạt. Nếu số con hươu đó phải chết về tay chúng ta thì thể nào ta cũng thấy nó; nếu không thì thôi”.
Họ đi ngược trở lại phía chiếc xe tải. Phần này của khu rừng chủ yếu là thông. Tuyết được che chắn khỏi ánh mặt trời nên đóng một lớp băng mỏng bên trên. Mặt băng đủ khỏe để đỡ được Frank và Kenny nhưng Tub thì liên tục sụt xuống dưới. Khi anh vung chân bước, mép băng cứa vào ống quần anh. Kenny và Frank bỏ anh lại ngày càng xa, cho đến lúc anh không còn nghe thấy tiếng họ nữa. Anh ngồi xuống một gốc cây lau mặt. Anh ăn cả hai cái bánh mỳ kẹp và một nửa gói bánh quy – ăn một cách rất chậm rãi. Xung quanh hoàn toàn vắng lặng.
Khi Tub vượt qua khỏi hàng rào cuối cùng để ra đường cái thì chiếc xe tải bắt đầu chuyển bánh. Anh phải chạy đuổi theo xe và chỉ vừa kịp bám lấy cửa sau thùng xe và leo được vào trong thùng xe. Anh nằm đó, thở hổn hển. Kenny ngoái nhìn qua gương chiếu hậu, cười toe toét. Tub bò vào chỗ khuất gió sau cabin để tránh gió. Anh kéo hai cái vành che tai xuống và dựng cổ áo lên quá cằm. Ai đó gõ vào cửa sổ nhưng Tub không ngoái lại.
Anh và Frank đợi bên ngoài trong lúc Kenny vào bên trong trang trại để xin phép. Căn nhà cũ kỹ, sơn tường đã bong lên ở hai bên sườn. Khói bay về phía tây từ ống khói trên nóc nhà và tỏa ra thành một dải mây mỏng. Phía trên sườn đồi, một dải mây màu xanh cũng đang bay lên.
“Trí nhớ của cậu quả là ngắn”, Tub nói.
“Cái gì?” Frank nói. Từ nãy đến giờ, cậu ta mải nhìn ra xa.
“Ngày xưa, lúc nào tôi cũng về phe cậu”.
“Rồi, ngày xưa anh hay về phe tôi. Thế thì sao?”
“Lẽ ra cậu không nên bỏ lại tôi trong rừng như thế”
“Anh lớn rồi, Tub. Anh có thể tự xoay sở được. Mà này, nếu anh nghĩ anh là người duy nhất có chuyện phải lo thì anh sai rồi”.
“Cậu có chuyện gì hả Frank?”
Frank đá vào một cành cây thò ra khỏi tuyết. “Không có gì”, Frank nói.
“Kenny nói chuyện cô bảo mẫu là có ý gì?”
“Kenny chỉ được cái lắm mồm”, Frank nói.
Kenny bước ra khỏi trang trại và giơ ngón tay cái lên ra hiệu mọi việc ổn cả. Cậu ta bắt đầu bước về phía bìa rừng. Khi họ vượt qua một chuồng gia súc, một con chó săn màu đen với một cái mũi chảy nước vụt ra sủa chõ vào họ. Mỗi lần sủa, con chó lại lùi lại một tí, như một khẩu thần công bị giật ngược trở lại sau mỗi lần nhả đạn. Kenny cũng phủ phục xuống trên hai tay hai chân rồi kêu ăng ẳng và sủa ngược trở lại con chó. Con chó lủi vào trong chuồng gia súc, vừa chạy vừa thỉnh thoảng lén nhìn lại.
“Đúng là chó già”, Frank nói. “Lão làng. Chắc phải 15 tuổi trở lên”.
“Già cóc đế”, Kenny nói.
Qua khỏi chuồng gia súc, họ băng ngang qua những cánh đồng. Đất ở đây không có hàng rào bao quanh và mặt băng dày nên họ có thể đi nhanh. Họ men theo bờ cánh đồng cho đến khi họ nhìn thấy dấu chân hươu và lần theo nó vào trong rừng, càng ngày càng sâu về phía những quả đồi. Những hàng cây bắt đầu mờ dần cùng bóng tối, gió bắt đầu mạnh lên, cuốn những vụn băng nhọn từ mặt đất lên châm vào mặt họ. Cuối cùng, họ mất dấu chân hươu.
Kenny chửi thề và ném cái mũ xuống đất. “Đây là ngày đi săn tồi tệ nhất trong đời tôi, chưa bao giờ tệ thế này”. Cậu ta nhặt mũ lên rồi phủi tuyết đi. “Đây là mùa đầu tiên tôi không săn được con hươu nào kể từ khi tôi 15 tuổi”.
“Vấn đề không phải ở con hươu” Frank nói. “Vấn đề là ở chuyện đi săn. Có rất nhiều yếu tố khác nhau trong tự nhiên, cậu phải thuận theo tự nhiên”.
“Cậu đi mà thuận theo chúng”, Kenny nói. “Tôi thì vào rừng là để săn hươu chứ không phải để nghe mấy cái triết lý nhảm nhí đấy. Mà nếu không tại anh béo này thì tôi đã săn được con hươu rồi”.
“Đủ rồi đấy”, Frank nói.
“Còn cậu nữa, cậu thì quá mải nghĩ đến cái cục cưng quý hóa của cậu nên dù có hươu ngay trước mặt thì cậu cũng chả nhận ra”.
“Cậu im đi”, Frank nói và bỏ đi.
Kenny và Tub đi theo cậu ta trở lại cánh đồng. Khi họ tiến gần tới trang trại, Kenny dừng lại, chỉ vào tấm biển cấm săn. “Tôi ghét cái biển cấm đó”, cậu ta nói rồi giương súng lên, siết cò. Tiếng súng nghe như tiếng một cành cây khô gãy xuống. Cái biển toác từ mép bên phải lên tận đỉnh. “Đấy”, Kenny nói. “Nó đã chết”.
“Thôi đi” Frank vừa nói vừa tiến lên phía trước.
Kenny nhìn Tub. Anh mỉm cười. “Tôi ghét cái cây kia”, Kenny nói và lại nổ súng. Tub vội vã đuổi theo Frank. Anh vừa định cất tiếng thì con chó từ trong trại gia súc chạy ra và sủa bọn họ. “Thôi nào, thôi nào” Frank nói.
“Tôi ghét cái con chó đấy”, Kenny nói sau lưng họ.
“Đủ rồi đấy”, Frank nói. “Cậu bỏ súng xuống đi”.
Kenny lại nổ súng. Viên đạn xuyên thẳng vào giữa hai mắt con chó. Nó gục xuống tuyết, hai chân xoạc ra hai bên, đôi mắt màu vàng mở to, trợn trừng. Ngoại trừ vết máu, trông nó giống như một tấm thảm da gấu. Máu chảy dọc mõm con chó xuống tuyết.
Cả ba đứng nhìn con chó nằm trên tuyết.
“Nó đã làm gì cậu nào?”, Tub nói, “Nó chỉ sủa thôi”.
Kenny quay sang Tub. “Tôi ghét anh”.
Tub vẩy súng từ ngang hông. Kenny giật người ra phía hàng rào rồi khuỵu đầu gối xuống. Cậu ta quỳ ở đó, hai tay ấn vào bụng. “Nhìn đi”, cậu ta nói. Hai bàn tay cậu ta đẫm máu. Trong ánh hoàng hôn, máu của cậu ta có màu xanh nhiều hơn là màu đỏ. Trông như thể nó thuộc về những bóng cây, hoàn toàn ăn nhập với chúng. Kenny từ từ nằm ngửa ra. Cậu ta thở dài mấy lần. “Anh đã bắn tôi”, cậu ta nói.
“Tôi không có cách nào khác”, Tub nói. Anh quỳ xuống cạnh Kenny. “Ôi Chúa ơi”, anh nói. “Frank, Frank”.
Frank vẫn bất động kể từ lúc Kenny bắn chết con chó.
“Frank”, Tub kêu to.
“Tôi chỉ định đùa thôi” Kenny nói. “Chỉ là một trò đùa thôi mà. Ôi!”, cậu ta nói và đột nhiên cong người lên. “Ôi”, cậu ta lại nói rồi sục gót chân vào trong tuyết, đẩy đầu mình trượt đi. Rồi cậu ta dừng lại và cứ nằm đó, người vật qua vật lại như một đô vật đang khởi động.
“Kenny”, Frank nói. Cậu ta cúi xuống và đặt bàn tay đi găng lên lông mày Kenny.
“Anh đã bắn cậu ấy”, cậu ta nói với Tub.
“Cậu ấy buộc tôi phải bắn”, Tub nói.
“Không, không, không”, Kenny nói.
Tub đang ràn rụa nước mắt nước mũi. Cả khuôn mặt anh đầm đìa nước mắt. Frank nhắm mắt lại, rồi nhìn xuống Kenny. “Cậu đau chỗ nào?”
“Khắp mọi nơi”, Kenny nói. “chỗ nào cũng đau”
“Ôi Chúa ơi”, Tub nói.
“Ý tôi là, viên đạn trúng chỗ nào?”, Frank nói.
“Chỗ này”, Kenny chỉ vào vết thương ở trên bụng. Máu đang rỉ ra chầm chậm.
“Cậu còn may đấy”, Frank nói. “Nó ở bên trái. Không trúng ruột thừa. Nếu mà trúng ruột thừa thì cậu đã toi rồi”. Cậu ta quay mặt đi và nôn xuống tuyết; hai tay quàng chặt lấy hai bên hông như để giữ ấm.
“Cậu không sao chứ?”, Tub nói.
“Trong xe có mấy viên aspirin đấy”, Kenny nói.
“Tôi không sao”, Frank nói.
“Cho tôi cơ mà”, Kenny nói.
“Chúng ta nên gọi xe cấp cứu”, Tub nói.
“Lạy Chúa”, Frank nói. “Chúng ta sẽ giải thích thế nào?”
“Thì cứ nói đúng như chuyện đã xảy ra”, Tub nói. “Cậu ta định bắn tôi nhưng tôi bắn cậu ta trước”.
“Đừng nói thế”, Kenny nói. “Mà tôi cũng không định bắn anh”.
Frank vỗ vào cánh tay Kenny. “Phức tạp làm gì cho mệt; nào đi nào”.
Tub nhặt súng của Kenny lên trong lúc họ bước về phía nhà chính của trang trại. “Không nên để súng bừa bãi”, anh nói. “Kenny có thể lại nghĩ ra cái gì đó”.
“Tôi có thể nói với anh một điều”, Frank nói. “Lần này thì anh quá đà rồi đấy. Chuyện này đúng là có một không hai”.
Họ phải gõ cửa tới hai lần thì một người đàn ông gầy gò tóc rủ mới ra mở cửa. Căn phòng phía sau anh ta mù mịt khói. Anh ta nheo mắt nhìn họ.
“Có được con nào không?” anh ta hỏi.
“Không”, Frank nói.
“Tôi biết mà. tôi đã nói với cậu bạn các anh như thế”.
“Chúng tôi có một tai nạn”.
Người đàn ông nhìn vượt qua Frank và Tub vào khoảng trống phía sau. “Bắn nhầm bạn hả?”
Frank gật đầu.
“Tôi bắn”, Tub nói.
“Tôi đoán các cậu muốn dùng nhờ điện thoại”.
“Nếu ông cho phép”.
Người đàn ông ngoái đầu nhìn vào trong nhà rồi bước tránh sang một bên. Frank và Tub theo ông ta vào trong nhà. Một người phụ nữ đang ngồi bên bếp lò ở chính giữa căn phòng. Bếp lò đang bốc khói mù mịt. Chị ta cứ nhìn từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu đứa bé đang nằm ngủ trong lòng. Khuôn mặt chị ta trắng và ẩm ướt; những lọn tóc được rẽ ngang trán. Tub hơ hai tay trên bếp lò trong lúc Frank đi vào bếp gọi điện. Người đàn ông chủ nhà đứng ở cửa sổ, hai tay đút túi quần.
“Bạn tôi đã bắn con chó của ông”, Tub nói.
Người đàn ông gật đầu mà không ngoảnh lại. “Lẽ ra tôi nên tự tay bắn nó. Nhưng tôi không thể”, ông ta nói.
“Anh ấy cưng cái con chó đó quá mức”, người đàn bà nói. Đứa trẻ ọ ẹ và chị ta đung đưa nó.
“Anh bảo bạn tôi bắn à?” Tub hỏi. “Anh bảo cậu ấy bắn con chó à?”
“Nó già yếu quá rồi. Không cả nhai được thức ăn nữa. Lẽ ra tôi nên tự tay bắn nó”.
“Anh mà đòi bắn được nó!”, người đàn bà nói. “Còn khuya”.
Người đàn ông nhún vai.
Frank đi từ trong bếp ra. “Chúng ta sẽ phải tự đưa cậu ấy đi thôi. Bệnh viện gần nhất ở cách đây 50 dặm và họ cũng chẳng còn cái xe cứu thương nào”.
Người đàn bà biết một lối đi tắt nhưng đường đi phức tạp nên Tub phải ghi lại. Người đàn ông chỉ cho họ chỗ tìm mấy tấm ván để khiêng Kenny. Anh ta không có đèn pin nhưng nói rằng anh ta sẽ bật đèn ngoài hiên lên.
Bên ngoài, trời tối. Mây xuống thấp và nặng; gió thổi từng đợt rét buốt. Cái cửa lưới lỏng lẻo của căn nhà cứ đập chầm chậm rồi nhanh dần lên khi gió mạnh dần. Frank đi tìm những tấm ván trong lúc Tub đi tìm Kenny. Kenny không còn ở chỗ cũ. Tub thấy cậu ta ở trên lối vào, đang nằm sấp.
“Cậu ổn chứ?”, Tub hỏi.
“Tôi thấy đau”.
“Frank nói là đạn không trúng ruột thừa của cậu mà”.
“Tôi đã cắt ruột thừa rồi”.
“Xong rồi”, Frank bước tới chỗ hai người. “Chả mấy mà bọn tôi sẽ đưa cậu tới một cái giường ấm áp”. Frank đặt hai tấm ván ở phía bên phải Kenny.
“Miễn là đừng có giao tôi cho mấy y tá nam”, Kenny nói.
“Ha ha” Frank nói. “Đấy, tinh thần phải thế mới được. Sẵn sàng nhé, nào, lên” và cậu ta lật Kenny lên tấm ván. Kenny kêu rú lên và đạp hai chân. Khi cậu ta bớt kêu, Frank và Tub nhấc tấm ván lên, khiêng dọc lối vào. Tub ở đầu cuối tấm ván và với tuyết cứ tiếp tục thốc vào mặt anh, anh khó khăn lắm mới di chuyển được. Anh cũng mệt mà người đàn ông trong nhà đã quên bật điện ngoài hiên. Khi họ vừa vượt qua căn nhà, Tub trượt chân và phải buông tay khỏi tấm ván. Tấm ván rớt xuống đất và Kenny ngã lộn ra ngoài, lăn dài dọc lối vào, vừa lăn vừa kêu gào thảm thiết. Cậu ta dừng lại ở ngay bánh trước chiếc xe tải.
“Đồ lợn béo phì nộn”, Frank kêu lên. “Anh chẳng được cái tích sự chó gì cả”.
Tub túm cổ áo Frank và ép cứng cậu ta vào hàng rào. Frank cố gỡ tay Tub ra nhưng Tub lắc cậu ta và tát qua tát lại vào mặt cậu ta cho đến lúc cậu ta đầu hàng.
“Cậu thì biết cái chó gì về béo phì, hả?”, Tub nói. “Cậu có biết gì về hoóc môn không?” Anh vừa nói vừa tiếp tục lắc Frank. “Cậu thì biết cái chó gì về tôi?”
“Được rồi, được rồi” Frank nói.
“Đừng có bao giờ mở mồm nói thế một lần nữa”, Tub nói.
“Rồi, rồi”.
“Tôi cấm cậu nói với tôi bằng cái giọng đó. Tôi cấm theo dõi tôi. Tôi cấm cười nhạo tôi”.
“Được rồi, Tub. Tôi hứa”.
Tub buông Frank ra và quay đi. Hai cánh tay anh buông thõng bên sườn.
“Tôi xin lỗi, Tub”, Frank chạm vào vai anh. “Tôi ra xe đây”.
Tub đứng cạnh hàng rào một lúc rồi cầm khẩu súng ở hiên lên. Frank đã đặt Kenny lên cáng và họ đưa Kenny vào thùng chiếc xe tải. Frank đắp mấy tấm phủ ghế lên người Kenny. “Ấm chưa?”, Frank hỏi.
Kenny gật đầu.
“Rồi. Nào, lùi cái xe này thế nào nhỉ?”
“Đẩy cần số sang trái và lên trên”, Kenny ngồi dậy khi Frank chui vào buồng lái. “Frank!”
“Gì?”
“Nếu nó tắc thì đừng có cố đẩy”.
Chiếc xe tải nổ máy ngay tức khắc. Frank nói.
“Phải công nhận là người Nhật giỏi. Một nền văn hóa cổ như thế, tâm linh như thế mà họ làm ra một cái xe tải thế này”. Cậu ta liếc Tub. “Thôi nào, tôi xin lỗi. tôi không biết là anh cảm thấy như thế; thề có Chúa là tôi không hề biết. Lẽ ra anh phải nói chứ”.
“Tôi có nói còn gì”.
“Bao giờ? Kể một lần xem nào”.
“Mới vài giờ trước chứ đâu”.
“Chắc là tôi không để ý”.
“Chứ còn sao, Frank”, Tub nói. “Cậu chẳng bao giờ để ý cái gì cả”.
“Tub”, Frank nói. “Chuyện bắn nhầm lúc nãy ấy mà, lẽ ra tôi nên thông cảm với anh hơn. Tôi nghĩ thế. Anh đang có nhiều chuyện phải nghĩ. Tôi muốn anh biết đấy không phải lỗi tại anh. Cậu ta buộc anh phải làm thế”.
“Cậu nghĩ thế à?”
“Tất nhiên rồi. Hoặc anh hoặc cậu ta. Tôi cũng sẽ làm như anh nếu tôi là anh, chắc chắn là thế”
Gió vẫn thổi thốc vào mặt họ. Tuyết đã biến thành một bức tường trắng di động ngay trước ánh đèn xe; tuyết xộc vào trong buồng lái qua lỗ hổng trên kính chắn gió và đậu lên người họ. Tub vỗ hai tay vào nhau và liên tục ngọ nguậy người để giữ ấm nhưng không ăn thua.
“Chắc phải dừng lại thôi”, Frank nói. “Tay tôi tê cóng cả rồi”.
Phía trước, họ nhìn thấy những ánh đèn bên đường. Đó là một quán cơm. Bãi đậu xe có rất nhiều xe jeep và xe tải. Một vài chiếc xe có những con hươu được buộc ngang trên nóc. Frank đỗ xe và họ vào chỗ Kenny nằm.
“Cậu sao rồi?”, Frank nói.
“Tôi lạnh”.
“Cậu còn tốt chán. Trong cabin còn lạnh hơn, tin tôi đi. Cậu nên sửa lại cái kính chắn gió”.
“Xem kìa”, Tub nói. “cậu ấy đã đạp chăn ra còn gì”. Những cái chăn đang nằm thành một đống cạnh thành xe.
“Kenny”, Frank nói. “cậu kêu cậu lạnh nhưng cậu lại không chịu giữ ấm. Cậu cũng phải biết điều chứ”. Frank đắp chăn lên người Kenny và gài mép chăn ở các góc.
“Chăn bị bay ra đấy chứ”.
“Thế thì phải giữ chúng”.
“Sao lại dừng xe lại?”
“Vì nếu tôi và Tub không ấm lên thì chúng tôi sẽ chết cóng và lúc đó thì cậu sẽ ra sao?”. Frank đấm nhẹ vào tay Kenny. “Cố lên một chút đi”.
Quầy bar chật ních những người đàn ông mặc áo jacket, chủ yếu màu da cam. Phục vụ bàn mang cà phê ra. “Đúng thứ chúng ta cần”, Frank vừa nói vừa ủ tay quanh cốc cà phê bốc khói. “Tub này, tôi cứ nghĩ mãi. Anh nói là tôi không để ý cái gì cả, anh đúng đấy”.
“Thôi mà”.
“Không, anh nói đúng đấy. Tôi đoán là tôi đã bận tâm về nhiều về bản thân mình. Tôi có nhiều việc phải nghĩ quá. Dĩ nhiên đấy cũng không nên là lí do”.
“Bỏ qua đi, Frank. Tôi mất bình tĩnh ấy mà. Cả hai chúng ta đều hơi mất bình tĩnh”.
Frank lắc đầu. “Cũng không chỉ có thế đâu”.
“Cậu có muốn nói về chuyện đó không?
“Nhưng anh phải giữ kín nhé, Tub”
“Chắc chắn rồi, Frank. Chỉ có tôi và cậu biết”.
“Tub, tôi nghĩ là tôi sẽ bỏ Nancy”.
“Ôi, Frank. Ôi, Frank” Tub ngả người ra sau, lắc đầu.
Frank đặt tay lên cánh tay Tub. “Tub, anh đã bao giờ thực sự yêu chưa?”
“Ờ thì..”..
“Ý tôi là yêu thực sự ấy”, Frank bóp vào cổ tay Tub. “Yêu bằng toàn bộ con người anh”.
“Tôi không biết. Nếu cậu nói thế thì tôi không biết”.
“Thế tức là anh chưa. Không phải tôi có ý gì nhưng mà nếu anh không biết thì tức là anh chưa từng”. Frank bỏ tay Tub ra. “Đây không phải là chuyện yêu đương vớ vẩn đâu”.
“Thế cô ấy là ai?”
Frank ngập ngừng. Cậu ta nhìn vào cái cốc không. “Roxanne Brewer”.
“Con gái lão Cliff Brewer ấy hả? Con bé bảo mẫu ấy hả?”
“Anh đừng có phân chia người ta thành loại này loại khác như thế, Tub. Đấy chính là cái làm cho mọi thứ hỏng bét. Và đấy là lý do mà cả cái nước này đang lao xuống địa ngục”.
Tub lắc đầu. “Nhưng mà con bé đó chắc không quá..”.
“Mười sáu. Cô ấy sẽ lên 17 vào tháng Năm này”. Frank mỉm cười. “Ngày 4 tháng Năm, lúc 3 giờ 27 phút chiều. Ôi, Tub, một trăm năm trước đây thì người ta đã coi cô ấy là một bà già ế chồng vào tuổi 17. Juliet chỉ có 13”.
“Juliet nào? Juliet Miller á? Lạy Chúa, Frank, con bé ấy còn chưa cả có ngực. Nó vẫn còn đang thích nuôi ếch”.
“Không phải Juliet Miller. Juliet và Romeo. Tub, anh không thấy là anh luôn phân loại người ta thành loại này loại khác sao? Người này là ông chủ, cô kia là thư ký, anh kia lái xe tải, cô kia mới có 16 tuổi. Tub, cái người mà anh gọi là cô bé trông trẻ này, cái người mà anh gọi là 16 tuổi này, ngay cái đầu ngón tay của cô ấy cũng chứa nhiều thứ hơn hầu hết những gì chúng ta chứa trong người. Tôi nói anh nghe, cô ấy thực sự đặc biệt”.
“Tôi biết là bọn trẻ con thích con bé”.
“Cô ấy đã chỉ cho tôi những thế giới mà tôi không cả biết là có tồn tại”.
“Thế Nancy nghĩ gì về chuyện này?”
“Nancy vẫn chưa biết”.
“Cậu chưa nói với cô ấy sao?”
“Chưa. Chuyện ấy không dễ. Cô ấy đã quá tốt với tôi bao nhiêu năm nay. Rồi còn phải nghĩ đến bọn trẻ nữa”. Ánh sáng trong mắt Frank lạc đi và cậu ta lấy mu bàn tay dụi mắt. “Chắc anh nghĩ tôi là thằng tồi”.
“Không đâu, Frank. Tôi không nghĩ thế”
“Nhưng mà anh nên nghĩ thế”
“Frank, khi cậu có một người bạn thì điều đó có nghĩa là cậu có một người luôn đứng về phía cậu, bất kể thế nào. Ít nhất tôi nghĩ bạn bè là như thế”
“Anh nói thật lòng chứ Tub?”
“Dĩ nhiên rồi”.
“Anh không biết là nghe anh nói vậy tôi vui thế nào đâu”.
Kenny đã cố ra khỏi xe tải. Cậu ta đã vượt qua khỏi thành xe, đầu vẫn còn nhô lên phía trên thành xe. Tub và Frank đặt cậu ta trở lại sàn xe và đắp chăn lên. Cậu ta chửi thề và đánh răng lập cập. “Tôi đau, Frank”.
“Lẽ ra cậu đã không đau thế nếu cậu cứ nằm yên. Giờ chúng ta sẽ tới bệnh viện. Hiểu không? Cậu nói đi, tôi sẽ đến bệnh viện”.
“Tôi sẽ đến bệnh viện”.
“Nhắc lại xem nào”.
“Tôi sẽ đến bệnh viện”.
“Rồi, giờ thì cậu cứ nhắc đi nhắc lại câu đó và chẳng mấy chốc chúng ta sẽ đến bệnh viện”.
Họ đi được vài dặm thì Tub quay sang Frank. “Tôi mới làm một việc rất tệ”, Tub nói.
“Việc gì?”
“Tôi bỏ quên tờ giấy chỉ đường ở cái bàn trong quán rồi”.
“Không sao. Tôi còn nhớ mang máng”.
Tuyết đã ngớt và mây bắt đầu quang trên những cánh đồng nhưng trời không ấm lên và sau một lúc thì cả Frank và Tub lại rét cóng và run lập cập. Frank suýt nữa không cua nổi xe qua một khúc cua và họ quyết định dừng lại ở trạm nghỉ tiếp theo.
Toilet trong trạm có một cái máy sưởi tay tự động và họ thay phiên nhau đứng trước cái máy, vừa mở phanh áo khoác và áo lót để cho dòng khí nóng thổi vào mặt và ngực.
“Những gì cậu kể với tôi lúc trước” Tub nói. “Cảm ơn cậu đã tin tôi”.
Frank ngọ nguậy những ngón tay trước cái máy sưởi. “Tôi nghĩ thế này, Tub ạ, không có ai có thể là ốc đảo. Ai cũng phải tin tưởng một ai đó”.
“Frank này”.
Frank chờ.
“Khi tôi nói chuyện hoóc môn ấy mà, chuyện đấy không đúng đâu. Sự thật là tôi ăn quá nhiều. Lúc nào cũng ăn. Sáng rồi tối, rồi trong nhà tắm, rồi ở trên đường”. Anh quay người và để cho dòng khí nóng thổi vào lưng. “Tôi thậm chí còn giấu thức ăn cả ở cái máy nhả giấy lau tay ở cơ quan”.
“Thế hoóc môn của anh hoàn toàn bình thường à?”. Frank đã bỏ giày và tất ra. Cậu ta giơ chân phải, rồi chân trái lên cái máy sưởi.
“Ừ, chẳng làm sao cả”.
“Alice có biết chuyện này không?”. Cái máy sưởi tắt đi và Frank bắt đầu buộc dây giày.
“Không ai biết. Đấy chính là điều tệ nhất. Béo cũng chả sao – tôi chẳng bao giờ muốn gầy cả – nhưng mà tệ nhất là phải nói dối. Phải sống hai mặt, cứ như là điệp viên hay là dân giết người thuê. Tôi hiểu mấy loại người đó. Tôi biết họ cảm thấy thế nào. Lúc nào cũng phải nghĩ xem mình nên nói gì và làm gì. Lúc nào cũng cảm thấy như người khác đang quan sát mình, đang cố bắt quả tang mình. Không lúc nào được là mình cả. Ví dụ như tôi phải khăng khăng ra vẻ chỉ ăn một quả cam vào bữa sáng nhưng rồi sau đó tôi lại ăn thốc ăn tháo trên đường đi làm. Nào là bánh quy Oreo, rồi là kẹo Mars, rồi là kẹo Twinkies, rồi là Sugar Babies, rồi Snickers”. Tub liếc nhìn Frank rồi quay đi. “Thật là kinh tởm, phải không?”
“Ôi Tub, ôi Tub”, Frank lắc đầu. "Đi nào”. Cậu ta cầm vào cánh tay Tub và dẫn anh vào khu ăn uống. “Bạn tôi đang đói”, cậu ta nói với cô phục vụ. “Cô làm ơn mang ra bốn suất bánh kếp, thật nhiều bơ và mật”.
“Frank”.
“Ngồi xuống đi”.
Khi họ mang thức ăn ra, Frank xắn một tảng bơ lớn và phết lên những cái bánh kếp. Rồi cậu ta đổ cả lọ mật lên trên, dàn đều khắp đĩa. Frank ngả người về trước, chống cằm lên một bàn tay.
“Ăn đi, Tub”.
Tub ăn mấy miếng lớn, rồi bắt đầu lau miệng. Nhưng Frank giật lấy giấy ăn khỏi tay Tub. “Không cần lau”, Frank nói. Tub lại ăn. Mật chảy ròng ròng dưới cằm anh, nhỏ xuống thành một hàng râu. “Chén đi, Tub”, Frank nói và đẩy một chiếc dĩa6 nữa ngang qua bàn cho Tub. “Ăn cho đã đi”. Tub cầm dĩa lên tay trái, hạ thấp đầu và bắt đầu ăn ngấu nghiến. “Ăn sạch đĩa”, Frank nói khi những cái bánh kếp đã biến mất. Tub cầm lần lượt từng cái đĩa lên và liếm sạch sẽ. Anh ngả lưng ra sau, cố gắng thở đều.
“Tuyệt vời”, Frank nói. “Anh no chưa?”
“No rồi”, Tub nói. “Tôi chưa bao giờ no đến thế”
Những tấm chăn của Kenny lại bị vun thành đống ở thành xe.
“Chắc là lại bị gió thổi”, Tub nói.
“Mấy cái chăn này chả được tích sự gì cho cậu ấy”, Frank nói. “Tốt nhất là dùng vào việc khác vậy”.
Kenny lầm bầm. Tub nghiêng đầu xuống. “Gì cơ? Nói to lên”.
“Tôi sẽ đến bệnh viện”, Kenny nói.
“Đúng rồi”, Frank nói.
Những cái chăn giữ họ ấm. Gió vẫn thổi vào mặt và tay Frank nhưng dù sao họ cũng ấm hơn. Tuyết mới trên mặt đường và trên những thân cây lấp lánh sáng dưới ánh đèn xe. Những khoảng sáng hình chữ nhật từ ô cửa sổ các trang trại bên đường nổi lên trên nền tuyết xanh của các cánh đồng.
“Frank này”, Tub cất tiếng sau một lúc. “cái người chủ trang trại lúc nãy ấy mà. Anh ta nhờ Kenny bắn chết con chó”.
“Anh đùa hả?” Frank ngả người về phía trước. “Ôi cái thằng Kenny. Có trời mới hiểu được các trò của nó”. Cậu ta phá ra cười và Tub cũng cười.
Tub quay người về phía thùng xe, mỉm cười. Kenny nằm ngửa, hai cánh tay bắt chéo trên bụng, vừa ngắm những ngôi sao vừa mấp máy môi. Ngay phía trên đầu là chòm sao Thần Nông và phía dưới chân Kenny, về hướng bệnh viện là sao Polaris, sao Bắc Cực, người dẫn đường cho các thủy thủ trên biển. Khi chiếc xe chạy vòng qua những quả đồi uốn lượn, những ngôi sao cũng chạy qua chạy lại giữa hai mũi giày của Kenny nhưng không bao giờ ra khỏi tầm nhìn của cậu ta. “Mình sẽ đến bệnh viện”, Kenny nói. Nhưng cậu ta đã nhầm. Ở cách đây một quãng xa, họ đã rẽ nhầm một lối khác.