Books - the best antidote against the marsh-gas of boredom and vacuity.

George Steiner

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
iểm đến trên đường Butyrka là một tòa nhà năm tầng với cửa sổ bằng nhôm, loang lổ các khoảng sáng tối với những bụi cây dành dành đã chết, mọi thứ đều hết sức bình thường ngoại trừ dòng chữ ngoằn ngoèo dọc lối đi: Người Di-gan với khăn choàng rực rỡ, người Chechnya trong trang phục màu đen và người Nga với áo khoác da mỏng, họ thù địch lẫn nhau, nhưng lại có chung một nỗi tuyệt vọng; và bọn họ, từng người một, đều nghiêm túc xuất trình tại một cánh cửa sắt để được chấp nhận hoặc không trở thành hàng ngàn linh hồn ẩn phía bên kia cánh cửa.
Arkady xuất trình thẻ nhận dạng ở cửa và xuyên qua một cổng có thanh chắn bên dưới tòa nhà, dẫn vào đường hầm nơi lính canh mệt mỏi nằm dài với lũ chó của họ, đám béc giê Đức liên tục dõi theo huấn luyện viên của chúng để chờ đợi mệnh lệnh. Bỏ qua cái này. Để cái kia xuống. Lối ra ở phía xa xa tràn ngập ánh sáng ban ngày và, hoàn toàn bị che khuất từ đường phố, một pháo đài như trong truyện cổ tích với các bức tường đỏ rực cùng tòa tháp được bao quanh bởi khoảng sân quét vôi trắng; chỉ có một con hào bao quanh là bị lấp mất. Không hẳn là chốn cổ tích, mà là ác mộng thì đúng hơn. Nhà tù Butyrka đã được Nữ hoàng Catherin Đại đế xây dựng và trong suốt hơn hai trăm năm, mỗi triều đại của Nga đều dùng nó để nhốt kẻ thù của đất nước. Một lính canh được trang bị súng trường bắn tỉa theo dõi Arkady từ tháp canh nhỏ và hẳn anh ta là lính bắn súng hỏa mai. Các chảo thu vệ tinh nhô lên trên các lỗ châu mai nằm dọc theo bức tường. Dưới thời Stalin, những chiếc xe tải đen hằng đêm vẫn chở nạn nhân mới tới cùng một khoảng sân và các bức tường đỏ tươi như máu này, và mỗi câu hỏi về sức khỏe, nơi ở lẫn số phận của ai đó thì đều được trả lời bằng cùng một tiếng thì thầm: Butyrka.
Từ khi Butyrka được chuyển thành nhà tù giam giữ phạm nhân trước khi xét xử, các điều tra viên dần trở nên quen thuộc với nơi này. Arkady đi theo một lính gác xuyên qua sảnh tiếp nhận phạm nhân mới, các cậu bé nhợt nhạt như đám gà bị vặt lông, bị lột trần và ném cho mớ quần áo tù nhân. Đôi mắt mở to của chúng dán chặt vào lối đi dẫn đến các phòng giam cổ xưa có hình dáng như những chiếc quan tài, hầu như không đủ sâu để có thể ngồi vào đó, nơi lý tưởng cho các tu sĩ hành xác và là cách tuyệt vời để trải nghiệm cảm giác khủng khiếp khi bị chôn sống.
Arkady leo lên những bậc thang cẩm thạch đã bị lún do xuống cấp. Lưới sắt bao quanh dọc theo rào chắn để ngăn cản tù nhân nhảy ra và truyền tin cho nhau. Trên tầng hai, ánh sáng len lỏi từ các cửa sổ thấp tạo cảm giác như trên một con tàu sắp chìm, hoặc mí mắt đóng chặt. Người lính dẫn Arkady đi dọc theo một loạt cánh cửa đen cổ xưa với những miếng sắt chắp vá, mỗi cái đều có ô chuyển thức ăn và một lỗ nhỏ để quan sát.
“Tôi mới đến đây. Tôi nghĩ anh ta ở phòng này,” người lính nói. “Tôi nghĩ thế.”
Arkady nhìn qua lỗ quan sát. Phía bên kia cánh cửa là năm mươi gã chen chúc trong phòng giam thiết kế cho hai mươi người. Chúng là những kẻ nghiện hút, móc túi và ăn cắp vặt. Chúng phải chia ca để ngủ trong ánh sáng lờ mờ từ đèn điện và ô cửa sổ có chấn song. Trong phòng không có sự lưu thông của không khí trong lành, chỉ có mùi hôi thối của mồ hôi, cháo yến mạch xay và mùi xú uế từ nhà vệ sinh duy nhất. Hơi nóng tạo ra do quá nhiều người khiến tất cả đều phải cởi trần, những gã trẻ tuổi với nước da trắng nõn, cựu quân nhân phủ kín các hình xăm màu xanh đen. Một gã nào đó mắc bệnh lao đang ho sù sụ và tiếng thì thầm vang lên trong không khí. Vài cái đầu thấp thoáng ở lỗ quan sát, nhưng phần lớn đơn giản chỉ chờ đợi. Một người có thể phải đợi tới chín tháng ở Butyrka trước khi được xét xử.
“Không phải à? Phòng này thì sao?” Viên lính chỉ cho Arkady cánh cửa bên cạnh.
Arkady nhìn vào phòng giam. Nó có kích thước giống hệt phòng vừa rồi, nhưng chỉ giam giữ một kẻ duy nhất, một vận động viên thể hình với mái tóc ngắn nhuộm vàng hoe và áo phông đen bó sát. Gã đang tập thể dục với các sợi dây đàn hồi buộc vào chiếc giường tầng được gắn với tường và cứ mỗi lần gã kéo dây, chiếc giường lại kêu cót két. “Là người này,” Arkady đáp.
Anton Obodovsky là một tên mafia rất thành công. Gã từng là vận động viên ưu tú, một võ sĩ quyền anh khá nổi ở Ukraine trước khi làm vệ sĩ cho các ông chủ ở địa phương. Tuy nhiên, Anton rất tham vọng. Ngay khi có khẩu súng trong tay, gã liền bắt đầu cướp ô tô, theo đúng nghĩa đen là tống cổ tài xế ra khỏi xe và lái đi. Từ đó, gã bắt đầu nhận yêu cầu cho từng chiếc xe cụ thể, thành lập một nhóm chuyên cướp xe, sau đó mở rộng hoạt động sang cả Đức và hộ tống đám xe cướp được đi qua Ba Lan về Matxcova. Tại đây, hoạt động của gã rất đa dạng. Anton bảo trợ cho các công ty và nhà hàng nhỏ mà gã có thể kiểm soát được, làm thịt những công ty đó rồi rửa tiền thông qua các nhà hàng. Gã sống như một ông hoàng. Thức dậy lúc mười một giờ sáng với một ly sinh tố protein. Một giờ trong phòng tập thể hình. Giao dịch chốc lát trên điện thoại và đến thăm xưởng sửa chữa ô tô, nơi các công nhân của gã tháo rời đám xe. Gã mua sắm ở các cửa hàng không dám lấy tiền của gã, ăn ở các nhà hàng miễn phí đối với gã. Gã mặc vét đen của hãng Armani, tiệc tùng với gái mại dâm đẹp nhất, mỗi tay ôm một cô, và không bao giờ phải trả tiền cho họ. Chiếc nhẫn kim cương hình móng ngựa nói lên đây là người đàn ông may mắn. Ở một tầng lớp xã hội nhất định, gã là vua, nhưng tất nhiên gã chẳng thấy hài lòng.
“Ngân hàng mới là kẻ trộm thực sự. Mọi người mang tiền đến cho anh, anh chiếm đoạt chúng và chẳng ai động đến anh cả. Tôi kiếm được một trăm ngàn đô thì ngân hàng và các chính trị gia kiếm được hàng trăm triệu. Tôi chỉ là con muỗi so với họ.”
“Anh đã xoay xở khá tốt,” Arkady nhận xét. Trong phòng có ti vi, máy cát-xét, đầu video. Một hộp pizza của hãng Pizza Hut nằm ở đuôi giường. Trên đầu giường là chồng tạp chí xe hơi, sách hướng dẫn du lịch, băng đĩa về thúc đẩy động cơ của con người.
“Tôi ước có truyền hình vệ tinh. Nhưng tường ở đây quá dày, sóng chập chờn một cách chết tiệt.”
“Cuộc sống vốn khó khăn mà.”
Anton nhìn Arkady từ trên xuống dưới. “Nhìn áo khoác của anh kìa. Anh dùng nó để lau xe à? Thỉnh thoảng anh nên xông vào vài cửa hàng với tôi. Anh khiến tôi cảm thấy xấu hổ vì đồ mình mặc trong tù còn tốt hơn của anh đấy.”
“Tôi không có tiền để đi mua sắm với anh.”
“Để tôi. Có lẽ tôi là gã rất hào phóng đấy. Mọi thứ anh thấy ở đây đều là tôi trả tiền. Tất cả đều hợp pháp. Họ cho phép anh mua mọi thứ trừ rượu, thuốc lá hay điện thoại.” Anton chẳng ngồi yên một chỗ, cứ lượn qua lượn lại như cá mập. Một người có thể bị sái cổ chỉ vì trò chuyện với Anton, Arkady thầm nghĩ.
“Cái gì là tệ nhất?”
“Tôi không uống rượu hay hút thuốc, nên với tôi là điện thoại.” Không ai dùng điện thoại nhiều như bọn tội phạm; chúng thường ăn trộm của người khác để tránh bị ghi âm và một kẻ cẩn thận như Anton thì hẳn phải thay điện thoại hằng tuần. “Anh sẽ bị phụ thuộc. Đó là một lời nguyền.”
“Nó là nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của chữ viết tay. Trông anh rất hồng hào.”
“Tôi tập thể dục. Không ma túy, không steroid*, không hormone.”
“Xì gà không?”
“Không, cảm ơn. Tôi vừa nói với anh là tôi luôn giữ mình khỏe mạnh và trong sạch. Tôi không phụ thuộc vào thứ gì. Thật đáng thương khi thấy một người như anh lại hút thuốc.”
“Tôi rất mềm yếu.”
“Renko, anh phải quan tâm đến bản thân. Hoặc người khác. Hãy nghĩ về khói thuốc phụ*.”
“Được.” Arkady đẩy bao thuốc ra xa. Anh không muốn để Anton bực bội. Thực ra có đến ba Anton. Một Anton tàn bạo có thể dễ dàng bẻ gãy cổ bạn, một là nhà kinh doanh sáng suốt và một với đôi mắt luôn có chiều hướng lảng tránh mỗi khi vấn đề riêng tư nào đó bị đưa ra thảo luận. Hơn hết, Arkady không thích nhất là thấy Anton đầu tiên bị kích động. Anton nói, “Tôi chỉ nghĩ là ở tuổi này anh không nên ngược đãi cơ thể.”
“Ở tuổi tôi hả?”
“Này, kệ anh chứ, tôi đếch quan tâm.”
“Thích thế hơn đấy.”
Một nụ cười xuất hiện trên môi Anton. “Thấy chưa, tôi có thể nói chuyện với anh mà. Chúng ta hiểu nhau đấy.”
Arkady và Anton thực sự hiểu nhau. Cả hai đều biết rằng phòng giam đáng mơ ước của Anton luôn có sẵn bởi nỗ lực muộn màng để biến phòng giam cổ xưa kinh hoàng của Butyrka thành phòng đạt tiêu chuẩn nhà tù châu Âu hiện đại. Và cả hai cùng hiểu là căn phòng như vậy chỉ dành cho người trả giá cao nhất. Hai người cũng hiểu rằng trong khi đám tội phạm cai trị các đường phố, thì đám tội phạm lớn tuổi với hình xăm đẳng cấp thấp vẫn thống trị các nhà tù. Nếu Anton bị tống vào một phòng giam bình thường, gã sẽ như con cá mập bị nhét vào một cái bể với hàng ngàn con cá piranha*.
Anton chẳng thể ngồi yên một chỗ mà không vặn vẹo cơ ngực hay cơ delta*. “Anh là một người tốt, Renko. Chúng ta có thể bất đồng với nhau, nhưng anh luôn đối xử với mọi người một cách hết sức tôn trọng. Anh biết tiếng Anh không?”
“Biết.”
Anton lôi quyển tạp chí có tên là Tập san kiến trúc từ chồng báo ra và lật tới trang có bức hình một khu nghỉ dưỡng theo kiến trúc phương Tây được đặt trên sườn núi. “Colorado. Thiên nhiên tươi đẹp và một khoản đầu tư tương đối rẻ. Anh nghĩ sao?”
“Anh có cưỡi được ngựa không?”
“Tôi có thể học. Tôi sẽ cấp tiền cho anh. Tiền mặt. Anh sẽ đến đó và thương lượng, mua bất cứ thứ gì anh nghĩ là hợp lý. Có thể là một mối quan hệ tốt đẹp. Anh có khuôn mặt thật thà.”
“Tôi đánh giá cao đề nghị của anh. Anh có nghe nói về cái chết của Pasha Ivanov không?”
“Tôi đã nghe tin tức trên ti vi. Ông ta nhảy lầu hả? Tầng mười, một cách ra đi.”
“Anh có biết ông ấy không?”
“Tôi mà biết Ivanov hả? Giống như quen Chúa ấy.”
“Tối qua, anh đã để lại một lời nhắn trên di động của ông ấy về chuyện cắt đũa của ông ta. Cắt đũa của ai đó, dường như anh biết ông ấy khá rõ. Thậm chí tin nhắn đó còn có vẻ là một đe dọa.”
“Tôi không được phép có điện thoại ở đây, vậy tôi nhắn bằng cách nào?”
“Anh đã mua chuộc một lính gác và gọi từ phòng canh gác.”
Anton đứng bật dậy, vung nắm đấm như đang đấm vào một bao cát. “Chà, anh chỉ cần mua chuộc một tên thôi và như họ vẫn nói, con sâu làm rầu nồi canh.” Anh ta dừng lại và xua tay. “Tuy nhiên, nếu tôi nhắn cho Pasha Ivanov, thì là về chuyện gì?”
“Kinh doanh. Kẻ nào đó đã cướp xe tải chở dầu của NoviRus và rút sạch dầu khỏi thùng chứa. Vụ việc xảy ra trong địa bàn của anh ở Matxcova, bát súp của anh, có thể hiểu là thế.”
Anton lại vặn vẹo cơ bắp, vung tay đấm thẳng, gạt ngang, rồi móc ngược lên. Gã ta lùi lại, che chắn, dường như để tránh một cú đấm, rồi tiến lên, lăn người và chọc mạnh khiến buồng giam ngày càng nhỏ dần. Anton có thể không phải nhà vô địch, nhưng mỗi khi di chuyển, gã đều chiếm rất nhiều không gian. Cuối cùng, gã thả lỏng tay, thở phào. “Ông ta có một kẻ ngốc làm trưởng phòng an ninh, một cựu đại tá từ KGB. Họ đã bắt một đàn em của tôi lúc nó đi cùng xe tải của họ và đánh gãy chân thằng bé. Quá tàn nhẫn. Nó đặt tôi vào tình thế khó khăn. Nếu tôi không trả đũa, đám đàn em sẽ bẻ gãy chân tôi. Nhưng tôi lại chẳng muốn khơi mào một trận đánh. Tôi phát ốm về chuyện đó rồi. Thay vào đó, tôi muốn đánh phủ đầu và đồng thời dằn mặt gã đại tá ngu ngốc bằng cách gọi vào số điện thoại cá nhân của Pasha. Tôi nói hết những gì cần nói. Đó là một lời mở đầu, có lẽ hơi thô lỗ, nhưng là cách để bắt đầu một cuộc đối thoại. Tôi có các xưởng sửa chữa xe, tiệm thuộc da, một nhà hàng. Tôi là một doanh nhân đáng kính. Tôi sẽ rất sung sướng nếu được làm việc với Pasha Ivanov và học hỏi ông ta.”
“Lễ vật là gì? Anh đã đề nghị gì với ông ấy?”
“Sự bảo vệ.”
“Dĩ nhiên.”
“Dù sao, tôi cũng không thành công và chưa từng được gặp mặt ông ta. Có vẻ như khi Pasha chết, tôi đã ở trong này và tin nhắn là minh chứng.”
“May mắn nhỉ.”
“Tôi ăn ở lương thiện mà.” Anton khiêm tốn. “Anh bị bắt vì tội gì?”
“Sở hữu vũ khí.”
“Thế thôi à?”
Mang theo vũ khí chả có vấn đề gì. Anton luôn có luật sư, thẩm phán và tiền bảo lãnh, nên chẳng có lý do chính đáng nào khiến gã phải ngồi tù dù chỉ một giờ đồng hồ, chứ đừng nói đến hai đêm, trừ phi gã đang đợi vài điều tra viên vụng về đến chứng minh Anton Obodovsky vô tội. Arkady không muốn chọc tức khía cạnh nguy hiểm của Anton, nhưng anh cũng chẳng muốn mình bị lợi dụng.
Anton lấy mấy cuốn hướng dẫn du lịch ra khỏi giường. “Này, ngay khi được ra khỏi đây, tôi sẽ đi du lịch. Theo anh, tôi nên đi đâu? Đảo Síp? Thổ Nhĩ Kỳ? Tôi không uống rượu hay sử dụng ma túy, và như thế sẽ loại trừ rất nhiều địa điểm.
Tôi muốn có làn da rám nắng, nhưng tôi lại rất dễ bị đen. Anh nghĩ sao?”
“Anh muốn quần áo đẹp? Yên tĩnh? Đồ ăn ngon?”
“Phải.”
“Một nhân viên chuyên phục vụ các ý thích của anh?”
“Đúng!”
“Tại sao không ở ngay trong Butyrka?”
Zhenya nhìn chằm chằm vào thứ mà hầu hết mọi người đều gọi là đường thoát khỏi đất nước, giống như tù nhân bị xích vào một chỗ. Cư dân Matxcova đang đổ vào các quả đồi thấp nằm trong thành phố, tràn đến các căn nhà mộc mạc ở ngoại ô và vây quanh bãi biển lẫn các gian hàng giảm giá khổng lồ, và nếu đường cao tốc được chia thành bốn làn, các tài xế lập tức sáng tạo thêm hai làn nữa.
Arkady không thực sự hiểu rõ lợi ích chính đáng cho bữa tiệc ngoài trời của Hội từ thiện Bầu trời xanh của Pasha Ivanov, nhưng anh chẳng muốn đánh mất cơ hội gặp gỡ hai triệu phú Nikolai Kuzmitch và Leonid Maximov. Những người bạn thân thiết này của Ivanov chắc chắn sẽ tham dự. Suy cho cùng, họ đã đi nghỉ cùng ông ta ở St. Tropez khi một gói mìn bị phát hiện gắn trên mô tô nước của Pasha. Ngày mai, họ sẽ tản đi bốn phương tám hướng trên những chiếc phản lực cùng đám luật sư tên tuổi của mình. Vì vậy bữa tiệc là cơ hội duy nhất của Arkady và anh đã lợi dụng Zhenya để ngụy trang cho mình. Arkady cố rũ bỏ cảm giác tội lỗi bằng cách tự nhủ rằng Zhenya sẽ được thay đổi không khí.
“Có thể sẽ có bơi lội ở đây. Chú đã mang cho cháu một bộ đồ bơi để phòng trước,” Arkady nói và chỉ vào hộp quà dưới chân thằng bé. Cho đến lúc này Zhenya vẫn phớt lờ nó. Giờ thằng bé bắt đầu dùng gót chân giẫm bẹp vỏ hộp. Arkady thường để một khẩu súng lục trong ngăn chứa đồ. Anh đã nhìn xa trông rộng mà bỏ hết các tạp chí đi và thầm khen ngợi mình về chuyện đó. “Hoặc có lẽ cháu là người của đất liền.”
Ngay cả khi những chiếc xe len lỏi, lạng lách giữa lòng đường và hai bên lề, giao thông vẫn chậm như sên. “Thường nó sẽ trở nên tệ hơn,” Arkady nói. “Luôn có xe bị hỏng tấp vào lề đường. Chẳng tài xế nào ra khỏi nhà mà mang theo tuốc-nơ-vít và búa để sửa cả. Chúng ta không biết nhiều về ô tô nhưng lại biết cách dùng búa.” Zhenya hung hăng đạp cú cuối cùng lên cái hộp. “Đồng thời, kính chắn gió có rất nhiều vết nứt mà cháu phải thò đầu ra ngoài cửa sổ giống lũ chó mới có thể nhìn được. Cháu thích loại xe nào nhất? Maserati? Moskvich*?” Một hồi im lặng. “Bố chú thường chở chú trên con đường tương tự thế này trong một chiếc Zil lớn. Đường chỉ có hai làn và hiếm khi bị tắc. Bọn chú còn chơi cờ lúc đang đi nữa, tuy nhiên chú không chơi giỏi được như cháu. Phần lớn chú thường chơi đố chữ.” Một chiếc Toyota vượt qua với những đứa trẻ ngồi ở ghế sau đang chơi trò oẳn tù tì như thường lệ, những đứa trẻ hạnh phúc. Zhenya ngồi im như hóa đá. “Cháu có thích xe hơi của Nhật không? Chú đã từng đến Vladivostok* và thấy hàng đống ô tô Nga mới toanh được xuất sang Nhật đấy.” Thực tế, khi những chiếc xe đó được đưa tới Nhật, chúng liền bị biến thành phế liệu. Ít nhất, người Nhật đã rất lịch sự chờ đến khi chúng tới Nhật rồi mới nghiền nát như vỏ lon bia. “Bố cháu đi loại xe nào?”
Arkady hy vọng thằng bé nhắc đến một chiếc xe để bằng cách nào đó có thể truy tìm được, nhưng Zhenya chỉ co người vào sâu trong áo khoác và kéo mũ sụp xuống mặt. Bên kia dải đường nhằm tưởng nhớ những chiếc bẫy xe tăng, trông như những miếng jack* khổng lồ, đánh dấu sự tiến bộ mới nhất của Đức so với Matxcova trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Giờ đây, bãi tưởng niệm trở nên thật nhỏ bé khi đứng cạnh kho chứa hàng của siêu thị bán lẻ của hãng Ikea và bị che khuất bởi từng đoàn xe chất đầy đồ nội thất với màu sắc dịu mát của Thụy Điển. Những quả khí cầu dùng để quảng cáo của các hãng Panasonic, Sony, JVC đung đưa theo gió phía trên gian hàng âm thanh. Các cửa hàng bán đồ làm vườn cung cấp bồn tắm cho chim và các tượng lùn bằng sứ. Trông Zhenya cũng giống như vậy, Arkady thầm nghĩ, một bức tượng lùn canh vườn khốn khổ với mũ vải vành rủ, sách và bộ cờ vua.
“Ở đó sẽ có nhiều đứa trẻ khác nữa,” Arkady hứa hẹn. “Trò chơi, âm nhạc, đồ ăn.”
Mỗi chiêu bài Arkady tung ra đều bị đáp trả với vẻ khinh miệt. Anh đã chứng kiến nhiều bậc cha mẹ rơi vào tình cảnh này, mỗi lời gợi ý đều là một dấu hiệu của sự ngu ngốc và chắc chắn trong tiếng Nga không có từ ngữ nào xứng đáng để đáp trả. Và Arkady, với tất cả niềm cảm thông, luôn thở phào nhẹ nhõm vì anh chẳng phải ông bố, bà mẹ ấy. Nhưng bây giờ, anh cũng không chắc tại sao một người chưa lập gia đình như anh lại phải chịu đựng sự khinh rẻ đó. Các nhà xã hội học đang lo ngại về tỉ lệ sinh giảm mạnh ở Nga. Anh nghĩ nếu các cặp vợ chồng bị buộc phải dành một giờ trong xe với Zhenya, chắc hẳn sẽ chẳng còn đứa trẻ nào được sinh ra nữa. Họ sẽ chui qua cửa và trốn mất tăm.
“Sẽ rất vui,” Arkady nói.
Cuối cùng, Arkady cũng đến được vùng ngoại ô của các câu lạc bộ thể dục, quán bar espresso cùng tiệm thuộc da. Nhà cửa ở đây không còn là nhà gỗ truyền thống với mái chảy và khu vườn xiêu vẹo nữa, thay vào đó là những căn biệt thự bề thế với cột chống kiểu Hy Lạp, bể bơi và máy quay an ninh. Nơi lối đi hẹp dần dẫn đến một con đường thôn dã, nhân viên bảo vệ của Ivanov chỉ chỗ cho anh đậu xe ở lề đường đằng sau một dãy SUV kềnh càng. Arkady vẫn mặc chiếc áo khoác vải bạt tồi tàn như lúc đến Butyrka, còn Zhenya trông hệt như bị bắt làm con tin, nhưng bảo vệ đã tìm thấy tên Arkady trong danh sách. Rồi giống như kẻ đột nhập, Arkady và Zhenya bước qua cánh cổng sắt đến một bãi cỏ rộng hàng trăm mét vuông được trang trí thành không gian vũ trụ.
Những con ngựa nhỏ màu hồng và lạc đà không bướu màu xanh chở trên lưng đám trẻ nhỏ chạy quanh một vòng tròn. Một nghệ sĩ tung hứng các mặt trăng. Một ảo thuật gia uốn những quả bóng bay thành những chú chó sao Hỏa. Một nghệ sĩ vẽ mặt cho bọn trẻ với sơn và chất bột lấp lánh, trong khi một người sao Kim, với thân hình bị kéo dài do trọng lực yếu trên sao Kim, sải bước trên cà kheo. Những đứa bé mới chập chững biết đi chơi đùa bên dưới một phi thuyền bơm khí được buộc xuống đất bằng dây thừng và những đứa lớn hơn xếp hàng chơi tennis, cầu lông hoặc nhún nhảy ở khu Trọng lượng thấp với các dây cáp đàn hồi.
Danh sách khách mời cũng rất đáng chú ý: Vận động viên bơi lội đoạt giải Olympic với đôi vai rộng, ngôi sao điện ảnh với mái tóc được làm rối một cách có chủ ý, những gương mặt truyền hình với hàm răng trắng bóng, ngôi sao nhạc rock đằng sau cặp kính đen, những cây viết nổi tiếng với cái bụng phệ vì bia rượu nhô ra ngoài quần jean. Trái tim Arkady chợt lỗi một nhịp khi nhận ra nhà phi hành vũ trụ, anh hùng thời tuổi trẻ của mình, được thuê đến đây chỉ để làm cảnh.
Tuy nhiên, tinh thần chủ đạo hôm nay vẫn là Ivanov. Một bức ảnh của Pasha được treo ở lối vào cùng một vòng kết từ hoa đậu ngọt và hoa cúc. Đó là bức ảnh một Ivanov sôi nổi, nhăn mặt đóng kịch giữa hai chú hề đang làm xiếc, mang lại không khí vui vẻ cho khách mời để họ có thể chơi đùa, chứ không thấy đau buồn. Bức ảnh được chụp không lâu trước đó, nhưng trông ông thật trẻ trung, tinh nghịch và sống động, không giống ông của những ngày gần đây. Nó như lời cảnh báo: Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Lính gác cổng hẳn đã gọi điện báo trước vì Arkady có cảm giác một luồng sóng chú ý dõi theo anh từ đám khách dự tiệc lẫn sự chuyển động của đám vệ sĩ với điện đàm liên lạc gắn ở tai. Bọn trẻ dính đầy kẹo bông chạy đi chạy lại. Đàn ông tụ tập quanh các phên nướng đang phục vụ món cá tầm xiên que và thịt bò ngay trước căn nhà của Ivanov, kích thước to gấp mười căn nhà bình thường, nhưng ít nhất cũng được xây dựng theo kiến trúc của Nga, chứ không phải đánh cắp ý tưởng từ đền thờ nữ thần Athena của Hy Lạp cổ đại.
Lúc đầu, một DJ chơi các bản nhạc Nga sôi động, tiếp theo mọi người sẽ hát karaoke. Các quầy rượu riêng biệt phục vụ champagne, Johnny Walker*, Courvoiser*. Các bà vợ là những người phụ nữ mảnh mai, cao ráo trong các nhãn hiệu thời trang Ý và những đôi giày cao cổ bằng da cá sấu hoặc đà điểu. Họ ngồi ở bàn, tại những vị trí có thể quan sát cả con cái lẫn đức ông chồng, đồng thời lo lắng dõi theo một lớp các cô gái trẻ trung, nổi bật trong đám đông, thậm chí còn cao và thon thả hơn họ. Timofeyev đang đứng xếp hàng đợi lấy đồ ăn cùng công tố viên Zurin, người đang cẩn thận quan sát đám đông như kính ngắm với vẻ chờ đợi. Đó không phải là dấu hiệu tốt vì tuy ông ta có vẻ nhìn khắp nơi nhưng lại chăm chú vào Arkady.
Timofeyev có vẻ nhợt nhạt và run rẩy, không giống hình ảnh một người vừa được ngồi vào vị trí cầm cương cả tập đoàn NoviRus. Xa hơn về phía trên, Bobby Hoffman, người Mỹ của ngày hôm qua, đứng một mình, nhấm nháp đĩa đầy ú thức ăn.
Trong sòng bạc ngoài trời vừa được dựng lên và cho dù ở khoảng cách khá xa, Arkady vẫn nhận ra những người bạn tốt của Ivanov: Nikolai Kuzmitch cùng Leonid Maximov. Họ khá trẻ trung trong chiếc quần jean giản dị, không mặc đồ mafia đen xì, cũng chẳng lủng lẳng vàng bạc một cách phô trương. Dù tay chia bài sẽ đẩy về phía họ cả tiền mặt lẫn phỉnh bạc*, nhưng Kuzmitch và Maximov vẫn nhoài người qua mặt bàn bọc nỉ, quơ lấy chúng như những cậu bé nghịch ngợm.
Điểm khác biệt của Thế hệ Nga mới: Họ là những người trẻ tuổi và rất có đầu óc. Với số lượng nhiều bất thường, họ trở thành những người đỡ đầu và nhân vật rất được yêu mến của các học viện uy tín đột nhiên bị phá sản. Và không chấp nhận bị chôn vùi trong đống đổ nát, họ vươn lên, xây dựng lại thế giới, trở thành các triệu phú, mỗi người đều có tiểu sử của bậc thiên tài và can đảm. Họ tự coi mình như những ông trùm trộm cướp ở miền Tây hoang dã, chẳng ai nhận ra mọi vận may lớn đều bắt nguồn từ tội ác? Có phải là vận may không? Matxcova có hơn ba mươi tỉ phú, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào trên thế giới.
Kuzmitch, một sinh viên của Học viện Kim loại quý hiếm, bán titan từ một kho chứa không được bảo vệ và mạo hiểm đánh cược sự nghiệp vào niken và thiếc. Maximov, một nhà toán học, thì được giao nhiệm vụ lên danh sách số lượng tham dự một cuộc đấu giá; lúc đó, Bộ Hóa học ngoại lai bán một phòng thí nghiệm và vụ đấu thầu hứa hẹn sẽ là cuộc hỗn loạn. Maximov đưa ra một ý tưởng hay hơn: đấu giá tại một địa điểm không được công bố. Những người chiến thắng đầy bất ngờ, Maximov và con cháu của một người trong bộ, đã biến phòng thí nghiệm đó thành nhà máy sản xuất rượu, khởi đầu vận may của Maximov trong lĩnh vực rượu vodka và ô tô nhập ngoại.
Tuy nhiên, ví dụ điển hình nhất chính là Pasha Ivanov, một nhà vật lý, con cưng của Viện vật liệu chịu nhiệt cực cao, người bắt đầu chẳng có gì trong tay ngoài một quỹ ma và rồi một ngày, ông ta để mắt đến Công ty tài nguyên Siberia, một doanh nghiệp khổng lồ chuyên chế biến gỗ, sở hữu các nhà máy cưa và hàng trăm ngàn héc ta rừng thẳng tắp nhất nước Nga. Ông lập kế thả con săn sắt, bắt con cá rô. Ivanov đã mua vài món nợ vụn vặt của Siberia và kiện ra tòa với tội danh tham nhũng. Công ty tài nguyên Siberia thậm chí còn không biết về vụ kiện cho đến khi quyền sở hữu được chuyển giao cho Ivanov. Nhưng ban lãnh đạo của công ty lại không chịu bó tay. Họ cũng đệ đơn kiện lên thẩm phán và tòa án riêng. Một cuộc vây hãm được kéo dài cho đến khi Ivanov liên kết với lực lượng quân sự địa phương. Pasha Ivanov đã thuê những sĩ quan và binh lính nhiều tháng không được trả lương, phá vỡ hàng phòng thủ ở cổng các xưởng cưa. Tuy xe tăng không trang bị súng máy nhưng vẫn là xe tăng và Ivanov đã cưỡi chiếc đầu tiên đi xuyên qua.
Đây là lần đầu tiên Arkady được thâm nhập sâu đến như vậy vào thế giới của những kẻ siêu giàu. Tuy nhiên, Zhenya lại cảm thấy cực kỳ khốn khổ. Khi Arkady nhìn bữa tiệc qua đôi mắt Zhenya, mọi màu sắc đều trở nên ảm đạm. Thứ thằng bé nhìn thấy là những đứa trẻ giàu có với điện thoại di động, bố mẹ, sự tự tin, trong khi cậu bé phải ở trại mồ côi bị bỏ rơi theo đúng nghĩa đen. Trò lừa bịp mà Arkady đã lên kế hoạch cho thấy nó chính là một thử nghiệm ngu ngốc và độc ác. Cho dù Zhenya có hằn học hay xa lánh mọi người thế nào thì thằng bé cũng chẳng đáng bị đối xử thế này.
“Chuẩn bị về à?” Timofeyev hỏi.
“Bạn của tôi cảm thấy không được khỏe.” Arkady hất đầu về phía Zhenya.
“Thật đáng xấu hổ, nó còn quá trẻ mà lại chẳng khỏe mạnh.” Timofeyev làm cử chỉ yếu ớt với một nụ cười. Ông ta khụt khịt, nắm chặt chiếc khăn tay với vẻ sẵn sàng. Arkady chú ý tới vài đốm nâu trên áo sơ mi của ông ta. “Tôi nên thành lập một tổ chức từ thiện như thế này. Tôi nên thực hiện thường xuyên hơn. Anh có biết Pasha và tôi lớn lên cùng nhau không? Chúng tôi học cùng trường, làm cùng viện nghiên cứu khoa học. Nhưng sở thích của chúng tôi lại hoàn toàn khác nhau. Tôi chưa bao giờ thích tán tỉnh phụ nữ. Tôi quan tâm đến thể thao hơn. Chẳng hạn như Pasha có một con dachshund, còn tôi có chó săn.”
“Ông không nuôi nữa à?”
“Thật đáng tiếc, không, tôi không thể. Tôi… Tôi chỉ có thể nói rằng cuộc điều tra là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm, đưa ra mọi thông tin chúng tôi có.”
“Cuộc điều tra nào?” Chắc chắn không phải cuộc điều tra của Arkady.
“Pasha từng nói vấn đề không phải là có tội hay vô tội, đôi khi cuộc đời một con người đơn giản chỉ là chuỗi phản ứng dây chuyền.”
“Có tội về chuyện gì?”
“Theo anh, trông tôi có giống quái vật không?”
“Không.” Arkady thầm nghĩ Lev Timofeyev có thể là đối tác và là kẻ xúi giục, lừa đảo để tước đoạt hết khoản tiết kiệm của các góa phụ, nhưng chắc chắn không phải là quái vật. Timofeyev trông giống một vận động viên đã từng rất tráng kiện, bị bó chặt lại trong bộ đồ của ông ta. Có lẽ là do quá đau buồn bởi cái chết của người bạn nối khố, nhưng gò má xanh xao và hõm sâu của ông ta lại khiến Arkady nghĩ tới bệnh tật, có lẽ là đấu tranh nội tâm.
“Tôi không phải quái vật. Pasha và tôi đã cố gắng giúp đỡ. Bất cứ ai với thông tin tương tự cũng sẽ rút ra kết luận giống hệt nhau.”
“Ví dụ?”
“Nắm rõ vấn đề, mọi thứ đều trong tầm kiểm soát. Chúng tôi đã thực sự nghĩ thế.”
“Vấn đề gì?” Arkady cực kỳ bối rối. Lev Timofeyev dường như đã đột ngột chuyển sang một hướng hoàn toàn khác.
“Tôi nhận được một lá thư nói rằng mình nên lấy danh nghĩa cá nhân để xin lỗi, trực tiếp. Ai mới được chứ?”
“Tôi không biết. Một lá thư đe dọa à? Ông còn giữ nó không?”
Rina gọi to từ sòng bạc. Cô ta thật rực rỡ, tỏa sáng trong bộ jumpsuit* màu bạc theo đúng tinh thần ngày hôm nay. “Arkady, anh đang tìm ai đó hả?”
Zhenya biến mất, không còn ở bên cạnh Arkady mà hiện đang đứng cạnh các bàn chơi bài. Có vài bàn chơi poker hoặc blackjack, nhưng bạn bè của Rina lại chọn chơi rulet truyền thống và Zhenya đang đứng đó, ôm chặt cuốn sách của mình, nghiêm túc đánh giá từng món cược mỗi khi chúng được đưa ra. Arkady cáo lỗi với Timofeyev và hứa sẽ quay lại.
“Tôi muốn giới thiệu anh với vài người bạn của tôi, Nikolai và Leo,” Rina nói. “Họ rất hài hước và đang thua rất nhiều tiền. Ít nhất là cho đến khi người bạn nhỏ của anh tới.”
Nikolai Kuzmitch, nhân vật lũng đoạn thị trường niken, có vóc dáng hơi thấp, là kiểu người liến thoắng, đặt cược rất nhanh và ở tất cả các góc của bàn quay. Leonid Maximov, ông vua vodka, từng trải với điếu xì gà trên môi. Ông ta tỏ ra thận trọng hơn, dù sao cũng là một nhà toán học, và sử dụng hệ thống cấp số nhân đơn giản đã từng hủy hoại Dostoyevsky: tăng gấp đôi, rồi lại gấp đôi vào ô màu đỏ, màu đỏ, màu đỏ, màu đỏ, màu đỏ. Nếu hai người này bị thua mười hay hai mươi ngàn đô la trong một vòng quay của trò rulet, cũng chỉ là để làm từ thiện và sẽ mang lại danh tiếng cho chính họ. Thực tế số tiền thu được là để làm từ thiện đã làm mất tính cạnh tranh của trò chơi, một dấu hiệu của sự huênh hoang, cho đến khi Zhenya xen vào giữa hai nhà triệu phú. Với mỗi lần cược đầy phô trương của Kuzmitch, Zhenya lại ném cho ông ta một cái nhìn thương hại kiểu như đang nhìn một kẻ ngốc, và mỗi lần tăng cược gấp đôi một cách thiếu sáng tạo của Maximov vào ô màu đỏ lại khiến Zhenya phải thở dài khinh bỉ. Khi Maximov chuyển tiền cược sang ô màu đen thì Zhenya liền bật cười vì tính khí thất thường của ông ta; Maximov thay đổi vị trí các phỉnh bạc trên ô màu đen và Zhenya, vẫn không thay đổi sắc mặt, dường như hơi đảo mắt.
“Một cậu bé làm người ta nhụt chí nhỉ?” Rina nói. “Cậu ta gần như khiến trò chơi lâm vào thế bế tắc.”
“Thằng bé có năng lực đó,” Arkady thừa nhận. Đồng thời anh cũng nhận ra Timofeyev đã hòa vào đám đông.
Kuzmitch và Maximov tỏ vẻ chán ghét lúc rời bàn chơi, nhưng vẫn dành hai nụ cười giống nhau cho Rina và một sự chào đón chuyên nghiệp cho Arkady với ẩn ý rằng họ chẳng có gì phải sợ hãi một điều tra viên; họ đã mua và bán rất nhiều nhà điều tra trong suốt những năm qua.
Kuzmitch mở lời, “Rina nói rằng anh đang hoàn tất một số vấn đề về Pasha. Rất tốt. Chúng tôi muốn mọi người cảm thấy được yên tâm. Ngành kinh doanh ở Nga đã hoàn toàn bước sang giai đoạn mới. Những thứ thô sơ đã trở nên lạc hậu.”
Maximov đồng tình, và trong đầu Arkady chợt liên tưởng tới hình ảnh động vật ăn thịt đang chê bai thịt sống. Nhưng họ không phải mafia. Một người được cho là biết cách tự bảo vệ và sở hữu đội quân riêng nếu cần thiết phải thế. Nhưng đó chỉ là một giai đoạn, và lúc này khi họ đã có tài sản trong tay, họ kiên quyết ủng hộ trật tự và pháp luật.
Arkady hỏi họ liệu có khi nào Ivanov đề cập đến bất kỳ lo ngại hay mối đe dọa nào, nhắc đến bất kỳ cái tên mới, những người cần tránh, hay đến sức khỏe của bản thân hay không. Không, cả hai đồng thanh đáp, ngoại trừ gần đây Ivanov chẳng còn là chính mình nữa.
“Ông ấy có nói đến muối không?”
“Không.”
Maximov bỏ điếu xì gà ra để nói, “Lúc nghe tin về Pasha, tôi đã chết lặng. Dù là đối thủ cạnh tranh, nhưng chúng tôi rất tôn trọng và quý mến nhau.”
Kuzmitch lên tiếng, “Hỏi Rina mà xem. Pasha và tôi có thể đánh nhau vì chuyện kinh doanh cả ngày, nhưng vẫn tiệc tùng như bạn bè suốt đêm.”
“Thậm chí chúng tôi còn đi nghỉ cùng nhau nữa,” Maximov tiếp lời.
“Như ở St. Tropez hả?” Arkady hỏi. Bom và mọi thứ ấy, anh thầm hỏi?
Họ nhăn nhó như thể anh vừa thêm thứ gì đó khó chịu vào nắm đấm của mình. Arkady nhận ra đại tá Ozhogin đã đến và thì thầm vào tai công tố viên Zurin. Đám nhân viên an ninh bắt đầu di chuyển về hướng bàn chơi rulet và Arkady cảm giác thời gian của anh với nhóm chóp bu đang bị giới hạn. Kuzmitch nói rằng ông ta định tự lái máy bay tới Istabul để thư giãn vài ngày. Maximov sẽ đi cùng sáu, bảy cô gái dễ thương và Arkady cũng có thể đi cùng. Mọi chuyện đều có thể thu xếp. Lời mời hàm chứa ẩn ý rằng có quá nhiều cô gái cho hai người đàn ông. Tất nhiên, Rina còn được chào đón hơn nữa.
“Họ giống như câu lạc bộ của các chàng trai ấy,” cô ta nói với Arkady. “Những chàng trai tham lam.”
“Còn Pasha?”
“Chủ tịch câu lạc bộ.”
“Rina đã dắt mũi ông ấy,” Kuzmitch nói.
“Nếu có thể gặp một cô gái như Rina thì tôi cũng tình nguyện bị dắt mũi,” Maximov đùa cợt. “Như vốn dĩ, rượu, phụ nữ và bài hát đều có thể gây chết người.”
“Hai người đang ở đâu khi nghe tin về cái chết của Pasha?” Arkady hỏi.
“Tôi đang chơi bóng quần*. Huấn luyện viên của tôi có thể xác nhận, tôi đã ngồi bệt xuống sàn tập và khóc.” Kuzmitch trả lời, “Tôi đang ở Hồng Kông. Và lập tức bay về vì lo lắng cho Rina.”
“Tất cả các câu hỏi này. Đó là vụ tự tử phải không?” Maximov hỏi.
“Thật bi thảm, phải.” Zurin nhoài lên bàn. Ông ta giữ chặt hai vai Zhenya. “Văn phòng tôi sẽ xem xét mọi vấn đề, nhưng chẳng có lý do gì để mở cuộc điều tra. Chỉ là một sự kiện đáng buồn thôi.”
“Vậy thì tại sao…?” Kuzmitch nhìn vào Arkady.
“Chỉ là cẩn thận thôi. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể đảm bảo sẽ không có thêm bất kỳ câu hỏi nào nữa. Ông vui lòng thứ lỗi cho chúng tôi chứ? Tôi cần nói vài lời với điều tra viên của mình.”
“Istabul,” Kuzmitch nhắc nhở Arkady.
“Cho anh ta vài ngày nghỉ phép,” Maximov nói với Zurin. “Anh ta đã làm việc quá vất vả rồi.”
Ngài công tố kéo Arkady ra xa. “Vui vẻ chứ? Làm sao cậu vào được đây?”
“Tôi được mời tới, tôi và bạn tôi.” Arkady nắm lấy tay Zhenya.
“Để tra hỏi và tung tin đồn à?”
“Ông có biết tôi nghe được tin đồn gì không?”
“Là gì?” Zurin kéo Arkady và Zhenya tiếp tục bước đi. “Tôi nghe thấy họ đã hứa hẹn cho ông làm giám đốc một công ty. Họ tìm cho ông một chiếc ghế trong phòng giám đốc và bây giờ ông sống nhờ vào đó.” Zurin kéo Arkady đi nhanh hơn.
“Giờ cậu đã xong việc. Cậu đi quá xa rồi đấy.”
Ozhogin chợt thế chỗ Zurin, nắm chặt vai Arkady bằng ngón cái của đô vật ép sát vào xương. “Renko, cậu sẽ phải có tinh thần học hỏi nếu muốn làm việc cho phòng an ninh NoviRus.” Viên đại tá vỗ lên đầu Zhenya, thằng bé liền nhăn nhó, siết chặt tay Arkady.
“Sao cậu dám đến đây?” Zurin gặng hỏi.
“Chính ông đã bảo tôi đi hỏi han mà.”
“Nhưng không phải ở một sự kiện từ thiện.”
“Cậu có biết về chiếc đĩa Hoffman dùng để trao đổi với chúng tôi không?” Ozhogin cho Arkady nhìn qua chiếc đĩa CD màu bạc.
“À, hẳn đây chính là nó,” Arkady đáp. “Hôm nay ông định bẻ tay hay chân đây?”
“Cuộc điều tra của cậu đã kết thúc,” Zurin nói. “Lẻn vào một bữa tiệc và kéo theo một cậu bé vô gia cư là không thể tha thứ được.”
“Thế có nghĩa là tôi sẽ bị thuyên chuyển công tác hả?”
“Có nghĩa là bị kỷ luật,” Zurin mệt mỏi nói, như thể ông ta vừa đặt xuống một tảng đá. “Nghĩa là cậu được nghỉ việc.”
Arkady cũng cảm thấy nên nghỉ việc. Đồng thời anh còn thấy nên cách xa Zurin một chút. Thậm chí sự phản bội là niềm tự hào của họ.
Quay lưng, anh và Zhenya rời đi, tránh xa khỏi đám người trọng yếu, vượt qua các phi hành gia, kẹo bông và vỉ nướng thịt đang bốc khói, các gương mặt truyền hình cùng lạc đà không bướu màu hồng lẫn người ngoài hành tinh trên cà kheo. Một quả pháo hoa được bắn lên từ sân tennis, bay cao hàng trăm mét và nổ tung thành hoa giấy. Khi những cánh hoa cuối cùng rơi xuống, Arkady và Zhenya đã ra khỏi cổng. Trong khi đó, Bobby Hoffman lại đang đợi sẵn ở xe của Arkady, ấn chặt khăn tay vào cái mũi đẫm máu, nghiêng đầu để tránh làm dây máu vào chiếc áo vét Ivanov tặng mình.
Trên đường đi, Zhenya ném cho Arkady một cái nheo mắt đầy quan tâm. Arkady đã rơi từ vị trí đỉnh cao của nước Nga mới xuống bị đá đít ra khỏi cửa với tốc độ chóng mặt. Sự xuống dốc này mau lẹ tới nỗi đến Zhenya cũng phải chú ý.
“Chuyện gì sẽ xảy ra?” Hoffman hỏi.
“Ai biết? Một công việc mới. Tôi đã học luật tại Đại học Matxcova, có thể tôi sẽ trở thành một luật sư. Anh thấy tôi có thể làm luật sư được không?”
“A!” Hoffman suy nghĩ một giây. “Thật hài hước, nhưng có gì đó ở anh làm tôi nhớ đến Pasha. Anh không thông minh, có Chúa biết, nhưng có tính cách giống Pasha. Anh không thể biết ông ấy thấy chuyện gì đó vui hay buồn. Giống như cách ông ấy cảm nhận nhiều hơn, chả có gì quan trọng? Đặc biệt là trước khi chết.”
Arkady hỏi Zhenya, “Có tính cách giống một người đã chết có phải là chuyện tốt không? Còn tùy hả? Chú đồng ý.”
Zhenya vẫn chưa ăn gì. Họ rẽ vào một quán bánh nhân thịt và nhận thấy, phía cuối quán, một ngôi nhà vui nhộn bằng hơi, không phải tàu tên lửa mà là một túp lều giản dị dựng trên những chiếc chân gà. Một hàng rào xương và đầu lâu được bơm hơi dựng xung quanh túp lều, đứng trên mái là một mụ phù thủy với cái mũi màu xanh cùng hàm răng thép sắc bén, Baba Yaga cùng chày và cối mụ dùng để bay. Trong cuốn truyện cổ tích của Zhenya, Baba Yaga ăn thịt những đứa trẻ đi lạc vào lều của mụ. Nhưng túp lều này lại chứa đầy bọn trẻ đang nhảy nhót trên sàn nhà bằng lò xo phủ kín những quả bóng cao su nhiều màu sắc, các cô bé, cậu bé trượt ra từ một cửa và chạy vào cửa khác trong lúc mụ phù thủy bằng máy cười khành khạch một cách ghê tởm phía trên nóc. Zhenya đặt bộ cờ xuống, bước vào túp lều kỳ diệu của mụ phù thủy.
Hoffman nói, “Cảm ơn vì đã cho đi nhờ. Tôi không lái xe ở Nga. Chạy xe ở đây giống như đi trong vòng tròn không bao giờ kết thúc ở Khải Hoàn Môn ấy.”
“Tôi không biết đấy. Mũi anh thế nào?”
“Bị Ozhogin đấm. Thậm chí còn chưa hẳn là đấm. Cho tôi xem cái đĩa, với lên và thình lình máu phun ra, chỉ nhằm mục đích sỉ nhục.”
“Hôm nay là ngày của những cái mũi chảy máu. Timofeyev cũng bị chảy máu mũi.” Lúc này, Arkady chợt nhớ lại, trong băng video an ninh Ivanov cũng giữ chặt chiếc khăn tay ở mũi giống hệt như vậy.
Hoffman gập người về phía trước. “Tôi đã nói chưa nhỉ, ông ta rất thích anh.”
“Tôi không biết tại sao.” Viễn cảnh va phải Ozhogin lần nữa khiến Arkady muốn cải thiện bản thân, nâng tạ, tập luyện thường xuyên hơn. Anh châm một điếu xì gà. “Anh giấu chiếc đĩa ở đâu?”
“Tôi biết Ozhogin sẽ kiểm tra căn hộ của mình, vì thế tôi cất nó vào tủ đựng đồ tập thể hình. Tôi thực sự đã dán ngược nó lại, nó hoàn toàn vô hình. Tôi không biết làm cách nào ông ta tìm được nó.”
“Anh có thường xuyên tập thể hình không, Bobby?”
“Mỗi…” Hoffman nhún vai.
“Thấy chưa.”
“À, bây giờ họ đã có cái đĩa, vấn đề là rời khỏi đây hay vào tù. Tôi đã chọc tức họ. Khốn kiếp, tôi sẽ về nước.”
“Còn Rina?”
“Để tôi kể với anh về Rina.” Bobby nhặt vụn bánh khỏi áo vét. “Cô ấy là một đứa trẻ đáng yêu, Pasha đã cho cô ấy một khởi đầu tốt và trong vòng một năm, điều quan trọng nhất trong đời cô ấy sẽ là các buổi trình diễn thời trang. Rồi cô ấy sẽ điều hành quỹ tài trợ của Pasha, nó sẽ khiến cô ấy bận rộn. Mọi người đều chiến thắng, ngoại trừ anh và tôi. Còn tôi sẽ bị tống cổ về nước.”
“Chỉ còn lại tôi.”
“Ở cuối cùng của chuỗi thức ăn. Tôi sẽ nói với anh chuyện này, công ty rồi sẽ chết.”
“NoviRus hả?”
“Thối nát. Tất cả những gì cần để giữ nó nguyên vẹn chính là Pasha.” Bobby chạm nhẹ vào mũi. “Có thể Timofeyev từng là nhà khoa học xuất sắc, nhưng trong kinh doanh thì ông ta hoàn toàn vô dụng. Không đầu óc, cũng chẳng trí tưởng tượng. Tôi không bao giờ hiểu tại sao Pasha vẫn giữ ông ta lại. Chưa nói tới chuyện Timofeyev sẽ sụp đổ trước mắt mọi người. Sáu tháng nữa, và rồi anh sẽ biết ai là người điều hành ở NoviRus. Ozhogin. Ông ta là một cảnh sát. Chỉ là, anh không thể điều hành một doanh nghiệp phức tạp nếu là một cảnh sát, anh cần trở thành một vị tướng. Kuzmitch và Maximov không thể đợi được. Khi bọn họ xong việc với Ozhogin, anh sẽ không thể lần ra dấu vết của ông ta. Đó chính là chuỗi thức ăn, Renko. Tìm hiểu chuỗi thức ăn và anh sẽ hiểu toàn bộ thế giới.”
Arkady quan sát Zhenya nảy lên rồi khuất khỏi tầm nhìn. Anh hỏi Hoffman, “Anh biết gì về Anton Obodovsky?.”
“Obodovsky à?” Bobby rướn mày. “Một gã thô lỗ, mafia địa phương, ăn trộm vài xe tải chở dầu của bọn tôi và rút sạch dầu. Gã ta khá can đảm, tôi phải nói thế. Ozhogin đã từng chỉ gã cho tôi thấy một lần trên phố. Obodovsky khiến gã đại tá lo lắng. Tôi thích thế.”
Khi cuối cùng Zhenya cũng rời khỏi ngôi nhà vui vẻ, họ lên xe về nhà. Hoffman và Zhenya chơi cờ mà không cần dùng đến bàn cờ, đọc to các nước đi của mình, tiếng cậu bé lanh lảnh “từ E2 sang E4” vang lên từ ghế sau, Hoffman nhanh chóng tự tin đáp trả từ ghế trước “B7 sang B6.” Arkady có thể theo kịp mười nước đi đầu, và sau đó giống như đang lắng nghe cuộc trò chuyện của các robot, vì thế anh tập trung hơn vào viễn cảnh ảm đạm của mình.
Chắc chắn không thể bị sa thải do thiếu năng lực được. Thiếu năng lực đã trở thành quy tắc theo luật cũ, khi mà các công tố viên không phải đối mặt với thách thức trong phòng xử án từ các luật sư mới nổi, với các bằng chứng cùng lời thú tội luôn thuận tiện ngay cạnh tay. Uống rượu thì nghe có vẻ được nuông chiều quá: Một điều tra viên say rượu cuộn tròn ở ghế sau của xe được đối xử như một bà già ốm yếu. Tuy nhiên, tham nhũng đòi hỏi phải khéo léo. Trong khi tham nhũng vừa là dầu bôi trơn vừa là nhiên liệu trong đời sống nước Nga, một điều tra viên bị cáo buộc tham nhũng luôn khiến dư luận phẫn nộ. Có một bức tranh theo kiểu ‘The Sleight Ride’ vẽ cảnh một tay xà ích đánh xe tam mã ném một cô gái đang khiếp sợ cho bầy sói đang đuổi theo. Zurin chính là tay xà ích đó. Ông ta sưu tập tài liệu về các điều tra viên của mình và mỗi khi báo chí đến gần, ông ta liền ném cho họ một nạn nhân. Arkady chẳng có lý do gì để cảm thấy hoảng sợ hay ngạc nhiên.
Anh hỏi Hoffman, “Timofeyev bị cảm lạnh hay bị chảy máu cam?”
“Ông ta nói bị cảm lạnh.”
“Áo sơ mi của ông ta có vài vết bẩn trông giống như vết máu khô.”
“Có thể chúng chảy ra từ cái mũi đang khụt khịt của ông ta.”
“Pasha có hay bị chảy máu mũi không?”
“Thỉnh thoảng,” Hoffman đáp. Anh ta vẫn đang mải mê với ván cờ.
“Ông ấy có bị cảm lạnh không?”
“Không.”
“Dị ứng?”
“Không. G5 tới F3.”
Zhenya đáp trả, “H4 tới G3.”
“Ông ấy có đi khám không?” Arkady hỏi.
“Chắc không đâu.”
“Ông ấy bị hoang tưởng à?”
“Tôi không biết, tôi chưa bao giờ thấy ông ấy như thế. Không rõ ràng lắm vì ông ấy vẫn sử dụng được đồ vật. G3 tới H5.”
“G3 tới H2, chiếu tướng,” Zhenya đáp.
“G1 tới H2.”
“C6 tới H3, chiếu tướng.”
Hoffman vung tay lên như đang hất đổ bàn cờ. “Khốn kiếp!”
“Thằng bé rất giỏi,” Arkady lên tiếng. “Ai biết, với những trò giải trí này hả?”
Zhenya thắng thêm hai ván nữa trước khi Arkady trả nó về trại trẻ. Arkady đưa thằng bé tới cửa và Zhenya bước qua mà không thèm ngoái lại, biểu thị thái độ vừa nhiều hơn vừa ít hơn vẻ khinh bỉ. Hoffman vừa nói chuyện điện thoại xong khi Arkady trở vào xe.
“Thằng bé là người Do Thái,” Hoffman lên tiếng.
“Họ của nó là Lysenko, không phải họ của người Do Thái.”
“Tôi vừa chơi cờ với nó. Nó là người Do Thái. Anh có thể thả tôi ở ga tàu điện ngầm Mayakovsky được chứ? Cảm ơn.”
“Anh thích Mayakovsky à?”
“Ý anh là nhà thơ ấy hả? Chắc chắn. ‘Hãy nhìn tôi, thế giới, và ghen tị với tôi. Tôi có hộ chiếu của Liên Xô!’ Rồi ông ta bắn tung đầu mình. Sao lại không thích chứ?”
Lúc lái xe, Arkady liếc nhìn Hoffman suốt, không phải để thắc mắc về quốc tịch của Zhenya, mà vì Hoffman không còn dáng vẻ sụt sùi, yếu nhược như hôm trước. Gã đàn ông Hoffman đó không thể chơi cờ với bất cứ ai. Còn Hoffman này lại đi từ thơ ca tới khoe khoang nhẹ nhàng, không buộc tội cụ thể người nào về hàng loạt mưu đồ lừa gạt trong kinh doanh, các công ty trước đây và những vụ đấu giá bí mật, mà Hoffman và Ivanov đã cùng nhau tiến hành.
“Anh cảm thấy thế nào?” Arkady hỏi.
“Khá thất vọng.”
“Anh đã bị làm nhục và sa thải. Đáng lẽ anh nên cảm thấy tức giận mới phải.”
“Có chứ.”
“Và anh còn làm mất cái đĩa.”
“Con át chủ bài của tôi đấy.”
“Xem ra anh đã chịu đựng khá tốt.”
“Tôi không thể thắng đứa bé đó. Anh có thể chẳng đánh giá cao nó, Renko, nhưng trình độ chơi cờ của nó rất xuất sắc.”
“Chắc chắn là thế. Giữ cái đĩa, giấu đi, lợi dụng tôi và vụ điều tra đáng thương của tôi để nâng tầm quan trọng của nó, rồi cuối cùng lại để Ozhogin tìm được nó trong tủ đồ tập thể hình của anh, thật kỳ lạ. Anh cài gì vào cái đĩa đấy? Chuyện gì sẽ xảy ra cho NoviRus nếu cái đĩa được kích hoạt?” Trời tối hẳn. Họ lái xe chạy qua tấm biển quảng cáo sáng rực mà trước đây đăng khẩu hiệu. Giờ nó được dùng để quảng cáo rượu cognac được ủ trong thùng. Ánh đèn neon màu vàng, tròn như đồng xu trên tấm biển gắn trước cửa một sòng bạc, chiếu sáng dãy xe Mercedes và SUV.
“Tôi không biết anh đang nói về chuyện gì.” Hoffman vặn vẹo trên ghế. “Góc này được rồi.”
“Chúng ta vẫn chưa tới ga mà.”
“Này, đồ ngu, tôi nói xuống đây là được rồi.”
Arkady đỗ lại, Bobby đẩy người ra khỏi xe. Arkady nhoài qua ghế, kéo cửa kính xuống.
“Đây là lời tạm biệt của anh đấy hả?”
“Renko, anh xéo đi? Anh không hiểu được đâu.”
“Tôi hiểu là anh đang quẳng cho tôi một đống lộn xộn.”
“Anh chẳng biết gì hết.”
Các lái xe bị kẹt phía sau Arkady la hét bảo anh tránh ra. Còi hiếm khi được sử dụng trừ trường hợp cần đe dọa. Một cơn gió thổi tung những mảnh giấy dọc theo con phố.
“Tôi không biết cái gì?” Arkady hỏi.
“Bọn chúng giết Pasha.”
“Ai?”
“Tôi không biết.”
“Bọn chúng đẩy ông ta xuống à?”
“Tôi không biết. Còn gì quan trọng nữa chứ? Anh bỏ cuộc rồi mà.”
“Không có gì gọi là bỏ cuộc hết. Cũng chẳng có cuộc điều tra nào cả.”
“Biết Pasha nói gì không? ‘Mọi thứ đều bị chôn vùi, nhưng chẳng có gì bị chôn vùi đủ lâu.’”
“Rina cũng nói thế.”
“Và có vài tin nóng hổi đây. Rina là một con điếm, tôi là một thằng đê tiện, còn anh là kẻ thất bại. Đó là tất cả cơ hội chúng ta có. Toàn bộ nơi này đều khốn nạn. Tôi lợi dụng anh hả, thì sao chứ? Người lợi dụng người mà. Đó chính là chuỗi phản ứng dây chuyền mà Pasha đã nói. Anh mong muốn gì từ tôi hả?”
“Giúp đỡ.”
“Như kiểu anh vẫn cần làm việc phải làm ấy hả?” Bobby ngước lên bầu trời xám xịt, nhìn những đồng xu vàng trên biển hiệu sòng bạc, rồi nhìn mũi giày của mình. “Bọn chúng đã giết Pasha, đó là tất cả những gì tôi biết.”
“Ai đã làm?”
Bobby thì thầm, “Tiếp tục giữ gìn đất nước chết tiệt của anh đi.”
“Làm sao…,” Arkady dợm nói nhưng chiếc Mercedes đầu tiên trong dãy vọt lên trước và bật cửa sau. Bobby Hoffman chui tọt vào trong, sập cửa lại, nhốt mình trong khung thép và kính màu. Dù chẳng phải đến tận lúc này Arkady mới nhìn thấy chiếc va li trên ghế, hẳn chiếc xe đậu ở đây là có chủ đích chứ không phải vô tình. Đúng lúc đó một chiếc Sedan chầm chậm đi ngang qua trong lúc Arkady đuổi theo bằng con Zhiguli. Hai xe lần lượt lướt qua ga tàu điện ngầm Mayakovsky và tiếp tục hướng về phía bắc đại lộ Leningrad. Chỗ nào đáng để đi tới? Đã quá tối cho một cuộc đi dạo trên bãi biển đầy nắng ở Serebryaniy Bor và quá muộn cho cuộc đua ở Hippodrome. Nhưng phía đó có sân bay. Các chuyến bay đêm từ Sheremetyevo đi khắp mọi nơi và Hoffman ra vào đó đủ thường xuyên để có thể hối lộ nửa nhân viên sân bay. Anh ta có thể mua vé tới Ai Cập, Ấn Độ hoặc tới một nước trong Liên bang Xô Viết cũ, bất cứ nơi nào không có hiệp ước dẫn độ về Mỹ. Anh ta sẽ được đi qua cửa an ninh, dẫn vào khoang hạng nhất và được mời champagne. Bobby Hoffman, một kẻ chạy trốn từng trải, đang trốn qua biên giới lần nữa và một khi qua được cửa an ninh, anh ta sẽ thoát khỏi tầm với của Arkady.
Arkady chẳng có thẩm quyền gì để ngăn Hoffman lại. Anh chỉ đơn giản muốn hỏi anh ta là cái gì đã bị chôn vùi. Và Bobby có ý gì khi nói rằng Pasha bị giết bằng cách nào đó. Pasha Ivanov có bị đẩy ngã hay không? Tài xế của Hoffman với tay đặt cái đèn màu xanh trên nóc xe và phóng vùn vụt trên làn đường cao tốc. Arkady đập vào chiếc đèn hiệu ưu tiên của mình, lượn lách từ làn đường này sang làn đường khác để thu hẹp khoảng cách. Chẳng ai đi chậm cả. Chắc hẳn người Nga đã có lời thề từ khi mới sinh ra là không bao giờ được để mình bị chậm, Arkady thầm nghĩ, cũng như các phi công Nga vẫn luôn cất cánh bất kể thời tiết ra sao.
Tuy nhiên, giao thông vẫn bị chững lại, mọi phương tiện chen lấn quanh đống lửa giữa đường. Đầu tiên, Arkady nghĩ đó là một vụ tai nạn, cho đến khi nhìn thấy những người đang nhảy quanh đống lửa, thực hiện động tác chào mừng kiểu Hitler, đập vỡ kính chắn gió và đèn của mấy xe đang chạy qua bằng đá và que sắt. Lúc đến gần hơn, anh thấy không phải gỗ mà là một chiếc xe cháy đen, biến dạng trong ngọn lửa và tỏa ra mùi cay sè của nhựa cháy. Năm mươi người hoặc hơn đập phá một chiếc xe buýt. Một phụ nữ nhảy xuống từ cửa xe và la hét. Rồi một chiếc ô tô ba bánh của hãng Zaporozhets không lớn hơn xe máy là mấy xẹt ngang qua trước mặt Arkady và đâm vào thanh chắn bùn xe anh. Bên trong có một người đàn ông cùng một phụ nữ, có lẽ là người Ả Rập. Bốn gã đàn ông cạo trọc mang theo một khẩu ngữ màu đỏ trắng bao vây chiếc xe. Gã to con nhấc bổng phần đầu chiếc xe lên khiến bánh của nó quay tít trong không khí, trong khi một gã khác đập vỡ cửa kính xe bên ghế khách bằng đầu của thanh gỗ dùng để căng biểu ngữ. Arkady đưa mắt nhìn tháp ánh sáng của sân vận động Dynamo rực rỡ phía trước và cuối cùng cũng hiểu được chuyện gì đang xảy ra.
Đội Spartak đang thi đấu. Câu lạc bộ bóng đá Dynamo được cảnh sát bảo trợ và Spartak là đội yêu thích của các nhóm trọc đầu như Đồ tể điên hay Đồng hồ quả quýt. Đám trọc đầu cổ vũ đội tuyển của mình bằng cách nện bất kỳ người hâm mộ Dynamo nào chúng gặp trên đường. Đôi khi bọn chúng cũng rất quá khích. Gã trọc đầu đang nâng con xe Zaporozhets đã xé toạc áo mình, khoe bộ ngực vạm vỡ xăm hình đầu sói cùng chữ thập ngoặc*. Đồng bọn của gã nện cú cuối cùng vào kính chắn gió bằng đầu thanh giăng biểu ngữ và túm tóc, kéo người phụ nữ ra ngoài qua ô kính bị vỡ, hét to, “Lê cái mông dơ bẩn của chúng mày ra khỏi ô tô của nước Nga!.” Người phụ nữ dần hiện ra với gò má bị cứa rách, mái tóc cùng bộ quần áo lùng bùng của người Hồi giáo lấp lánh những mảnh vỡ của kính an toàn, Arkady nhận ra đó là bà Rajapakse. Hai gã trọc khác đang dùng gậy sắt đập liên hồi vào cửa kính phía ông Rajapakse.
Arkady thậm chí còn không ý thức được mình đã ra khỏi con Zhiguli. Anh thấy mình chĩa súng vào đầu gã trọc đang nâng xe.
“Hạ cái xe xuống.”
“Mày thích bọn da đen à?” Gã cơ bắp nhổ nước bọt vào áo khoác Arkady.
Arkady đạp mạnh đầu gối gã. Anh không biết có đạp gãy nó không nhưng có tiếng răng rắc đầy mãn nguyện vang lên. Lúc gã lăn ra đất, gào rú, Arkady bước tới gã cổ động viên của Spartak đang ghìm chặt người phụ nữ vào mui xe. Vì bọn đầu trọc đang chật kín trên đường và hộp đạn của anh chỉ có mười ba viên, nên Arkady lựa chọn kế sách an toàn nhất.
“Nếu mày…,” gã dợm nói lúc Arkady nện báng súng vào gã.
Khi Arkady đi vòng qua xe, hai gã trọc đầu cầm gậy sắt tự lùi lại, tạo cho mình vài khoảng trống. Đó là hai gã thanh niên cao lớn với giày đinh và khớp ngón tay rướm máu.
Một gã nói, “Mày có thể thắng một chọi một, nhưng không thể đánh được hai người bọn tao.”
Arkady nhận ra một điều. Súng của anh không có hộp đạn. Anh đã tháo ra lúc đi cùng Zhenya. Và anh chẳng bao giờ lên nòng sẵn một viên. Súng của anh giờ chỉ là đồ bỏ.
“Thật sao?” anh hỏi, nhìn chằm chằm vào gã đầu tiên rồi chuyển sang gã còn lại. “Đứa nào không có mẹ?”
Đôi khi các bà mẹ là những con quái vật, nhưng họ luôn quan tâm con mình có bị chết trên đường phố hay không. Và lũ con trai biết điều đó. Sau một hồi do dự, nắm tay siết chặt trên cán gậy của chúng lỏng dần. Chúng ghê tởm Arkady vì mưu mẹo hèn hạ ấy, nhưng cả hai đều rút lui và kéo theo hai gã đồng bọn bị thương. Trong lúc đó, cuộc ẩu đả đã lan rộng. Cảnh sát ùa ra từ các xe tải và đám đầu trọc đã đập vỡ xe buýt bị lộ diện lúc bỏ chạy. Vợ chồng Rajapakse gạt mảnh kính vỡ khỏi chỗ ngồi, Arkady đề nghị đưa họ tới bệnh viện bằng xe của mình, nhưng họ gần như vội vàng tránh xa anh, quay đầu xe và rời khỏi hiện trường.
Rajapakse hét lớn từ cửa xe bị đập vỡ, “Cảm ơn cậu, giờ thì làm ơn đi đi. Cậu là một thằng điên, cũng giống như bọn chúng.”
Giơ cao thẻ nhận dạng của mình, Arkady bước tới cạnh chiếc xe bị cháy. Nạn nhân của đám đầu trọc đang nằm dài trên đường và vỉa hè, thổn thức bên cạnh tấm kính vỡ, áo và giày bị xé rách. Anh tới tận chỗ hàng cảnh sát đang đứng tạo thành một rào chắn muộn màng quanh sân vận động. Hoffman đã khuất khỏi tầm nhìn, khắp nơi đều là mảnh kính vỡ lấp lánh nhỏ như những hạt gạo.
Người điều hành thang máy mà Arkady đã từng hỏi han trước đây là cựu nhân viên an ninh của điện Kremlin. Lúc các tầng vùn vụt trôi qua, ông ta nhìn Arkady từ trên xuống dưới.
“Cậu cần mật mã.”
“Tôi biết mật mã đó.” Arkady đeo găng tay cao su vào. Ông ta tỏ ra buồn bực, cho thấy các kỹ năng đào tạo của hệ thống giám sát cũ. Lên đến tầng mười, ông ta vẫn cảm thấy không đủ chắc chắn liền rút di động ra.
“Tôi phải gọi cho đại tá Ozhogin trước.”
“Nếu gọi điện, nhớ nói với đại tá về sự cố an ninh của tòa nhà ngày Ivanov chết, ông đã khóa thang máy lúc mười một giờ trưa và kiểm tra các căn hộ từng tầng một như thế nào nhé. Giải thích tại sao ông không báo cáo về sự cố đó luôn thể.”
Thang máy rung nhẹ rồi dừng lại ở tầng mười. Người điều hành lắc lư vẻ không vui. Cuối cùng ông ta nói, “Trong thời kỳ Xô Viết, chúng tôi canh gác từng tầng một. Còn bây giờ chúng tôi dùng máy quay. Chúng không giống nhau.”
“Ông đã kiểm tra căn hộ của Ivanov chưa?”
“Tôi không có mật mã.”
“Và ông không muốn gọi tới đội an ninh NoviRus để nói với họ tại sao ông cần nó à?”
“Chúng tôi đã kiểm tra phần còn lại của tòa nhà. Tôi không biết tại sao người lễ tân lại cảm thấy lo lắng. Anh ta nói hình như đã trông thấy bóng người, hay thứ gì đó. Tôi bảo nếu anh ta lỡ mất thứ gì đấy thì người theo dõi màn hình ở NoviRus sẽ thấy nó. Theo ý kiến của tôi, chẳng có gì xảy ra cả. Không có sự cố nào hết.”
“Chà, giờ ông biết mật mã rồi. Sau khi để tôi vào, ông có thể làm bất cứ điều gì mình muốn.”
Cánh cửa thang máy trượt ra và Arkady bước vào căn hộ của Ivanov lần thứ ba. Ngay khi cánh cửa đóng lại, anh liền bấm nút khóa trên bảng điều khiển ở tiền sảnh, giờ người điều hành có thể gọi bất kỳ ai vì như Zurin đã nói, căn hộ là pháo đài cô lập với thế giới bên ngoài.
Với các bức tường trắng cùng sàn đá cẩm thạch, căn hộ thật xinh đẹp và Arkady tháo giày ra để tránh làm bẩn sàn. Anh bật điện ở từng phòng một và nhận ra có người đã đến trước mình. Ai đó đã xóa sạch dấu vết cầu nguyện của Hoffman trên sô pha; cốc rượu đã được rửa và gối tựa thì được vuốt phẳng phiu. Bộ sưu tập ảnh của Pasha Ivanov với những người nổi tiếng và quyền lực vẫn duyên dáng trên tường phòng khách, tuy nhiên lúc này trông nó có vẻ buồn bã. Bức ảnh bị thiếu duy nhất là ảnh cá nhân Pasha chụp cùng Rina ở bàn cạnh giường trong phòng ngủ, vì thế Arkady đoán là Rina đã tới. Và chẳng nghi ngờ gì là Ozhogin cũng đã tới vì văn phòng đã bị dọn sạch những thứ có thể lưu trữ dữ liệu của NoviRus như: máy tính, đĩa nén, sách, đĩa CD, tập tài liệu, điện thoại và máy nhắn tin,… cho dù chúng bị mã hóa hay không. Tất cả băng hình và đĩa đã biến mất khỏi phòng chiếu phim. Tủ thuốc trống trơn. Arkady phải đánh giá cao tính chuyên nghiệp triệt để như thế.
Anh không biết chính xác mình đang tìm kiếm gì, nhưng đây là cơ hội cuối cùng nên anh phải xem xét tất cả. Anh chợt nhớ tới một câu truyện cổ tích của Ireland, con yêu tinh chỉ có đầu, chân và chỉ có thể nhìn thấy nó qua đuôi mắt. Nếu nhìn thẳng nó sẽ biến mất. Vì tất cả đồ vật trực quan đều đã bị gỡ bỏ, Arkady buộc phải dựa vào những dấu vết mờ mờ. Hoặc vết tích của những thứ đã bị mang đi.
Tất nhiên, căn nhà của một người thuộc Thế hệ Nga mới thì không thể có vết tích gì được. Không lịch sử, không nghi ngờ, không rắc rối pháp lý, chỉ có viễn cảnh tươi sáng của tương lai. Arkady tìm thấy cây gậy trượt tuyết khác trong tủ đồ và cố thử cạy cửa sổ mà Ivanov đã nhảy hoặc bị ngã xuống. Rèm cửa bị gió cuốn lên, làm lộ ra khung cửa. Mắt Arkady cay sè vì làn không khí mát lạnh.
Đại tá Ozhogin đã lấy đi mọi thứ liên quan đến công việc kinh doanh. Thứ Arkady thấy được là đêm cuối cùng của Pasha Ivanov lúc còn sống, nhưng lại chẳng có gì liên quan đến kinh doanh cả. NoviRus khó có thể bị sụp đổ. Nó có thể sớm xảy ra dưới sự quản lý của Timofeyev, nhưng cho đến lúc Ivanov trút hơi thở cuối cùng, NoviRus vẫn là một tập đoàn giàu mạnh, thèm khát, ngấu nghiến các công ty khác với tốc độ không thay đổi, biết tự bảo vệ mình trước các đối thủ khổng lồ và những kẻ săn mồi tầm thường tương tự. Có lẽ một ninja* đã trèo xuống từ mái nhà như người nhện hoặc Anton đã trốn thoát khỏi các trạm gác ở Butyrka; hoặc một sát thủ chuyên nghiệp mà Arkady có rất ít hy vọng tóm được. Nhưng cửa sổ bị cạy từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Đồng thời, Arkady có cảm giác Pasha Ivanov đang chạy trốn một thứ gì đó mang tính cá nhân hơn. Ông ta hầu như cấm tất cả mọi người, bao gồm cả Rina, bước vào đây.
Arkady nhớ lại trông Ivanov như thế nào lúc về căn hộ, một tay áp chặt khăn tay vào mặt, tay còn lại ôm chặt chiếc cặp ca táp trông có vẻ nhẹ chứ không giống chất đầy bản báo cáo tài chính. Chiếc cặp đựng gì lúc Arkady nhìn thấy nó trên giường nhỉ? Một chiếc tất chuyên dụng đi máy bay. Có lẽ khi về nhà, Ivanov đã vào thẳng văn phòng và nhận được tin về vụ đầu tư thất bại thảm hại nào đó chăng? Trong trường hợp đó, Arkady hình dung một Ivanov ủy mị sẽ tự động viên mình bằng hai ly scotch để lên tinh thần trước khi cạy cửa sổ. Nhưng theo Arkady nhớ được từ cuộn băng ghi hình thì đó là một Ivanov với tâm trạng thất thường, chần chừ trong xe, vội vàng bước vào tòa nhà, cười đùa với một người thuê nhà về mấy con chó, lên thang máy với quyết tâm đáng sợ và thêm một cái nhìn tạm biệt vào máy quay an ninh lúc bước ra. Liệu có phải ông ta đang vội vàng đi gặp ai đó không? Ông ta lấy gậy trượt tuyết là vì nghe tiếng người nào chăng? Nhưng tại sao lại chỉ có một chiếc tất, mà không phải một đôi? Bởi vì nó không được sử dụng để đi vào chân. Rồi ông ta vào phòng tắm, có lẽ, nhưng không phải để uống thuốc ngủ. Ivanov là kiểu người chủ động, không phải loại thụ động chờ tác dụng của thuốc an thần. Ông ta đã nói chuyện với bác sĩ Novotny đủ nhiều để làm bà ta lo lắng, và rồi bỏ bốn buổi trị liệu cuối cùng. Tất cả những diễn biến Arkady biết chính xác đêm cuối cùng của Ivanov trong căn hộ này là ông ta đã bước vào cửa chính và ra bằng cửa sổ, còn sàn tủ quần áo của ông ta thì phủ đầy muối. Có cả muối trong dạ dày của Pasha. Ông ta đã ăn muối.
Điện thoại trong phòng ngủ reo vang. Đại tá Ozhogin. “Renko, tôi đang lái xe đến đấy. Tôi muốn cậu rời khỏi căn hộ Ivanov và xuống đại sảnh ngay lập tức. Tôi muốn gặp cậu ở đó.”
“Tại sao? Tôi không làm việc cho ông.”
“Zurin đã sa thải cậu.”
“Thì sao?”
“Renko, tôi…”
Arkady cúp máy.
Ivanov bước vào phòng ngủ, đặt chiếc cặp lên giường, để điện thoại ở mép giường. Mở cái cặp, chăm chú nhìn vào những thứ bên trong mà không ý thức được rằng mình đã làm rơi điện thoại xuống thảm và đá nó vào gầm giường, rồi sau đó Victor đã tìm thấy. Ivanov đã dốc gì ra khỏi cái tất: một viên gạch, một khẩu súng hay một thỏi vàng? Arkady thực hiện lại từng động tác, cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh đó nhằm lần ra dấu vết vô hình. Pasha mở tủ quần áo to lớn và thấy muối phủ kín sàn tủ. Phải chăng Pasha biết thông tin sắp tới thế giới sẽ thiếu muối trầm trọng? Người tốt là những kẻ tử tế. Người thông minh sẽ tránh xa tiền bạc*. Pasha vội vã về nhà để ăn muối và mọi thứ ông ta mang theo bên người lúc nhảy ra khỏi cửa sổ cũng là một lọ muối. Arkady lộn ngược cái tất. Không có muối.
Thứ lấy ra từ chiếc tất vẫn còn trong căn hộ này chăng? Ivanov đã không mang nó theo. Như Arkady nhớ được, mọi người đều tập trung vào các vấn đề của công ty và chiếc tất thì không hề phù hợp để nhét ổ đĩa máy tính hay một bảng tính vào.
Điện thoại lại reo vang.
Ozhogin nói, “Renko, đừng cúp….”
Arkady dập luôn và dứt dây cáp ra. Vấn đề của đại tá là ông ta không có gì để uy hiếp anh. Nếu Arkady là người có sự nghiệp hết sức hứa hẹn, dọa dẫm sẽ có tác dụng. Nhưng ngay khi bị sa thải khỏi văn phòng công tố viên, anh lại cảm thấy được tự do.
Chậm lại một bước. Đôi khi một người suy nghĩ quá nhiều. Arkady trở về với chiếc giường, lặp lại động tác mở cặp tài liệu, dốc thứ gì đó ra khỏi chiếc tất và đi đến tủ quần áo. Khi cánh cửa tủ mở ra, đèn trong tủ liền bật lên, tỏa ra thứ ánh sáng màu trắng sữa chiếu lên tấm đệm muối. Chẳng ai mang xẻng tới xúc đi. Trên mặt lớp muối vẫn còn lưu dấu vết của hành động mà Arkady đã thấy trước đó: xúc muối chỗ này và đặt thứ gì đó lên chỗ kia. Arkady thấy một hàng chấm nâu của máu khô trên chỗ muối Ivanov nghiêng người qua. Ivanov đã lấy thứ trong chiếc tất, đặt nó lên đống muối và rồi… sao? Nó không còn trong căn hộ, Ivanov cũng chẳng mang theo nó; lọ muối có lẽ được dùng để xúc muối nhưng quá nhỏ so với dấu vết còn lại. Arkady kéo ngăn đựng áo sơ mi dài tay lồng vào nhau đặt trên kệ bằng gỗ tùng lam. Anh lật qua chúng và chẳng tìm thấy gì, đóng ngăn tủ lại, chợt nghe thấy tiếng lạch cạch.
Arkady vội kéo ngăn tủ ra lần nữa, ở sâu phía trong, bên dưới một chiếc áo, anh tìm thấy chiếc khăn tay dính đầy máu bọc quanh một máy đo phóng xạ, kích cỡ bằng máy tính bấm tay. Muối bám quanh gờ nối trên lớp vỏ nhựa màu đỏ của nó. Arkady cầm vào một góc máy để tránh làm mất dấu vân tay, bật lên và thấy con số hiển thị trên bảng điện tử đang nhảy đến 10,000 lần/phút. Arkady nhớ lại từ các khóa huấn luyện quân sự rằng mức phóng xạ trung bình là vào khoảng 100. Anh càng đưa nó lại gần đống muối thì số liệu hiển thị càng tăng. Nó lên đến 50,000 và rồi đứng im.
Arkady lùi xa tủ quần áo. Anh thấy nổi gai ốc, miệng khô đắng và thầm nghĩ phát hiện này đã thay đổi toàn bộ tình hình, thật thú vị. Anh nhớ Ivanov đã ôm chặt cặp tài liệu có chứa máy đo này như thế nào trong thang máy, và sự ngập ngừng, cái liếc mắt nhìn lại máy quay gắn trong thang máy. Bây giờ, Arkady đã hiểu được tại sao ông ta lại do dự. Pasha đã phải dùng hết nghị lực mới có thể bước qua được ngưỡng cửa. Arkady tắt, bật cái máy cho đến khi nó cài đặt lại. Anh đi một vòng quanh căn hộ xinh đẹp, trắng tinh của Pasha và con số hiển thị trên máy nhảy nhót một cách ngoạn mục, thay đổi theo từng bước chân, dẫn anh đi giống như một người mù với cây gậy trong đám cháy, anh chỉ cảm nhận được mọi thứ qua dụng cụ đo này. Phòng ngủ bốc cháy, văn phòng bốc cháy, phòng khách bốc cháy và tại cửa sổ đang mở, rèm cửa bị thổi tung bởi cơn gió đêm đang thì thầm một cách tuyệt vọng lẫn gắt gỏng, chỉ ra cách nhanh nhất để thoát khỏi ngọn lửa vô hình.
Chó Sói Cắn Chó Nhà Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith Chó Sói Cắn Chó Nhà