Books are the quietest and most constant of friends; they are the most accessible and wisest of counselors, and the most patient of teachers.

Charles W. Eliot

 
 
 
 
 
Tác giả: Kim Nhật
Thể loại: Tùy Bút
Upload bìa: nguyễn quang
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:42:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
11 Trưởng Trạm A1
iền đi được mười tám ngày thì tôi cũng nhận được quyết định thuyên chuyển do Hai Cà thủ trưởng U.50 ký tên, cử tôi làm trưởng trạm giao liên A1 đóng ở Suối Đá. Thay cho đồng chí trưởng trạm cũ về đảm nhiệm công tác khác ở C113 tức Đại đội phụ trách đường dây giao liên Khu A.
Thật là bất ngờ. Tôi không hiểu mình nên vui hay nên buồn nữa đây. Hiền đã đi rồi. Hiền đã đi rồi. Hiền đi, nàng mang theo cả niềm vui và cả một phần sức chịu đựng kiên nhẫn ở trong tôi. Có lẽ hôm nay Hiền đang ngất ngưởng ở Sài Gòn hàn huyên vui vẻ với gia đình nàng và cả gia đình tôi.
Tôi tính nhẩm, sau khi đến B2 trễ lắm là vài ngày. Đoàn Văn công của nàng khăn gói lên đường sang Khu B. Hai ngày kế tiếp đã đến đến đường 16, nếu đi ngả Phú Giáo Phước Thành. Và ba ngày đến đường 13. Dù đi ngõ Phước Sang hay Phú Giáo gì cũng vậy. Đường đi về Khu B, Minh đã kể rành rọt cho tôi nghe.
Với quyết tâm bằng mọi cách về Sài Gòn cho kỳ được của Hiền, không có gì trở ngại xảy ra, chắc chắn Hiền có mặt ở Sài Gòn hơn mười ngày nay. Còn nếu có trở ngại nào đó thì... sao nhỉ?
Tôi lo lắm. Tôi muốn được biết tin, nhưng suốt 18 ngày qua đâu có ai biết gì về chuyến đi của Đoàn Văn công đó.
Bây giờ, tôi được quyết định thuyên chuyển. Tưởng thuyên chuyển về đâu chứ Suối Đá với đây chỉ cách nhau vài giờ đường rừng, cũng thuộc phần đất Đồng Nai Thượng. Tình hình có thay đổi gì khác hơn đâu. Cơ hội? Chỉ còn là một hy vọng muộn màng.
Ở phương diện khác, quyết định thuyên chuyển trên, chứng tỏ cho chúng tôi biết rằng thời gian cải tạo lao động cả năm dài của tôi, đối với Đảng uỷ Khu A có kết quả tốt. Và người làm cho Đảng uỷ Khu A có nhận xét tốt về tôi, chắc chắn phải là Hai Minh.
Tuy Hai Minh không bàn, không nói gì với tôi điều gì nhưng tôi biết chắc rằng trong âm thầm, bằng mọi cách, Hai Minh cố giúp đỡ tôi làm cho tình thế được sáng sủa hơn. Chỉ nội cái việc hàng tháng, trong bản báo cáo chính trị, kết quả công tác của đơn vị gửi về B2, Hai Minh ghi một câu nhận xét «Vũ Hùng công tác tốt, tinh thần trách nhiệm cao, tư tưởng an tâm phấn khởi được sự thương mến của tập thể».Bấy nhiêu đó trong nhiều tháng cũng đủ gây nên một biến đổi rồi.
Và quyết định này còn nói lên hai ý nghĩa. Một là chiến sĩ hạng bét Vũ Hùng được đề bạt «lên lon» cán bộ Tiểu đội. Hai là chuyện yêu đương giữa tôi và Hiền người ta chưa biết gì cả.
Ngày đi, Hai Minh săn được một con hươu sao, tổ chức liên hoan tiễn tôi về đơn vị mới. Anh chị em trong đơn vị cũng lưu luyến bày tỏ cảm tình thân thiết. Tôi cảm động vô cùng.
Suốt hơn một năm dài theo cách mạng, qua nhiều cơ quan, nhiều đơn vị, chưa nơi nào tôi thấy tình cảm mình có thể xúc động được như nơi đây.
Hai Minh đưa tôi đến trạm A1 Suối Đá vào buổi sáng. Thái - nguyên trưởng trạm - báo cho tôi biết để chiều sẽ bàn giao công việc cũng như tập họp anh chị em trong đơn vị giới thiệu tôi.
Buổi trưa, gần đến giờ ăn, tôi xuống bếp thấy ở đây ăn gạo trắng. Tôi ngạc nhiên hỏi Thái, người trưởng trạm cũ:
- Anh Thái! Ở đây mấy anh ăn toàn gạo trắng, sướng thật.
Thái cười, giải thích:
- Cũng không toàn gạo đâu anh! Chế độ 10 mà! Khẩu phần mỗi người 10 lít một tháng.
- Té ra bữa cơm hôm nay nấu trọn lon sữa bò. Khẩu phần trong ngày?
- Đúng! Đãi anh đó!
- Ở B195 cũng được ăn gạo chế độ 10 đâu hơn tháng nay.
- Còn mấy tháng trước?
- Bắp kè với củ chụp!
- Bên này được ăn gạo chế độ 10 từ ba bốn tháng nay. Mình thì vậy. Còn các đồng chí khác, cán bộ mùa thu theo đường dây xã hội chủ nghĩa từ Bắc về Nam được hưởng chế độ đặc biệt. Chế độ 30. Mỗi ngày một lít đều đều.
- Ở đây, mình phải cấp gạo cho khách?
Thái nhăn mặt:
- Đã cấp gạo còn phải cung cấp thực phẩm vật dụng. Căng-tin của mình luôn luôn phải có cá hộp, thịt hộp, trứng, khô, thuốc, giấy, trà, đường, sữa, tiêu, hành, tỏi, ớt, mỡ, dầu, xà-bông hàng trăm thứ. Mà quân số A1 của mình chỉ có mười mấy ngoe. Lớp nào lo tải gạo; lớp nào lo tải thực phẩm rồi giao liên đưa rước khách. Ứ hơi chứ phải chơi sao anh. Lúc nào anh chị em ít sốt còn đỡ. Mấy lúc sốt nhiều, muốn khóc luôn.
- Nhưng bù lại còn có vấn đề tiếp phẩm...
- Kể cũng đỡ thiệt. Nhờ có chính sách chiếu cố cán bộ mùa thu, mình cũng có phần được hưởng nhờ. Mấy cái món trà, đường, sữa, thuốc thơm thì đây không thiếu. Nhưng tốn tiền nhiều quá. Sinh hoạt phía nhà nước phát cho tháng nào hết sạch tháng đó.
- Vậy chớ có 40 đồng, nhằm gì anh.
- Có mấy anh chị em bên 195, tháng nào còn nguyên tháng đó.
Tôi cười:
- Còn nguyên mà làm gì, anh? Thiếu thốn mọi thứ, bứt rứt thấy mồ. À, anh! Tiếp phẩm mình xuống đồng bằng tự mua lấy, tải về chia lại cho khách hay sao?
- Không, anh! Đi xuống B4, tới mấy cái kho thực phẩm ở Mã Đà chia lại thôi. Đi đồng bằng cả nửa tháng mới được một chuyến hàng, mình đâu có người làm được chuyện đó. Đi Mã Đà, mình chỉ mất bốn ngày.
Thái đột ngột hỏi tôi:
- Lâu lâu ăn thử một bữa cá mòi hộp, chiên củ hành chơi nghe anh?
Nhìn thau đựng đọt khoai mì luộc rồi dĩa đậu phộng kho với dĩa mắm ruốc xào nằm yên trên bàn, tôi bối rối không biết trả lời sao. Trả lời «không» hoá ra đạo đức giả, không thực thà mà «ừ» thì nói kỳ quá.
Ăn cá mòi thì dĩ nhiên Thái phải xuống căng-tin chia lại với quản lý, tốn tiền Thái. Buổi đầu, như vậy anh em hiểu lầm mình vòi vĩnh thì sao?
Tôi bối rối ậm ừ, không trả lời sao cả. Dù vậy, Thái vẫn đứng lên:
- Anh ngồi đây chờ tôi chút! Tôi xuống căng-tin chia cá mòi với củ hành. Tôi lên liền,
Thái bước đi ra sân. Vài phút sau Thái trở lại với hộp cá mòi Phan Thiết trên tay và một củ hành tây:
- Xin chị nuôi tí mỡ, tí tiêu là mình có một dĩa cá mòi chiên thơm phức rồi.
Thái vào bếp lấy rựa khui hộp cá mòi. Tôi phụ với Thái chẻ củ hành. Chị nuôi đứng bên bếp nhìn chúng tôi cười tủm tỉm.
Chiên xong, Thái đem lại bàn thì anh em cũng lò dò kéo tới ăn trưa. Chúng tôi vừa cầm đũa, chưa kịp ăn, bỗng có tiếng chân chạy thình thịch ngoài đường mòn vào. Chúng tôi cùng nhìn ra. Một cô gái mặc bà ba đen, đầu cột khăn, lưng mang bồng hiện đến ở đầu nhà ăn. Cô ta hổn hển gọi:
- Anh... Thái ơi! Anh Thái!
Thái đột ngột đứng dậy:
- Gì vậy? Gì vậy chị Đô?
Thì ra cô này là cô Đô. Nước da ngăm ngăm. Dáng người dong dỏng cao. Hai ống quần xăn lên đến gối. Ngực cô ta rung rinh theo bước chân đi.
Đô đứng lại ngoài sân nhà ăn, vừa thở, vừa nói:
- Có... một đồng chí... khách... gần chết rồi!
- Chị mới dẫn khách về tới à?
- Dạ!
- Đâu? Đồng chí khách đó đâu rồi?
- Khiêng võng về tới bây giờ? Đồng chí khách bị bệnh từ đêm hôm qua ở bên kia sông Đồng Nai.
Thái nhăn nhó bước ra khỏi bàn ăn:
- Chà! Phải cho khiêng ngay sang bệnh xá G3. Mình ở đây đâu làm sao được? Đi, đi anh Hùng! Mình lên xem qua một chút đi.
Tôi bước ra, theo Thái đi lên văn phòng. Đoàn cán bộ khách do một bảo vệ của trạm dẫn cũng vừa về đến. Đi đầu là cậu bảo vệ. Kế đó, chiếc võng kaki màu cứt ngựa cột dọc theo một đoạn lồ ô dài nằm trên vai của hai cán bộ khác. Chiếc võng nặng trĩu, đong đưa theo bước chân chệnh choạng của người đi trước. Dù có chiếc gậy chống, vẫn không sao giữ được thăng bằng.
Đi theo sau chiếc võng là một đoàn cán bộ trên ba mươi người. Người nào cũng đội nón vải màu xanh. Súng ngắn lủng lẳng bên hông. Chiếc ba lô to tướng trên lưng. Kẻ mặc quân phục, người mặc bà ba đen, mồ hôi nhễ nhại đứng xúm xít vào nhau.
Thái tiến ra, lên tiếng:
- Chào các đồng chí! Các đồng chí mới đến. Đồng chí này bị bệnh sao vậy?
Phía sau, một cán bộ tách khỏi đám đông, vượt lên trước:
- Ngộ độc! Đồng chí ấy bị ngộ độc. Tôi là trưởng đoàn
- Chào đồng chí! Ngộ độc gì vậy, đồng chí?
- Ngộ độc khoai mì!
- Trời đất! Ngộ độc khoai mì thì vô lý quá! Tụi tôi ở đây, ăn khoai mì thay gạo, tháng này qua tháng kia, cả năm trường, có ai ngộ độc bao giờ đâu?
- Tại đồng chí không phải chuyên môn nên đồng chí không biết đó thôi.
Thái cười tủm tỉm:
- Không cần chuyên môn cũng thừa biết là khoai mì không độc.
Anh cán bộ nhíu mày, phật ý.
- Đồng chí nói không đúng!
- Tại sao đồng chí biết tôi nói không đúng?
- Biết chứ! Bởi vì tôi là bác sĩ mà! Trong đoàn này, hơn ba mươi đồng chí chúng tôi đều là bác sĩ, y sĩ, dược sĩ. Và đồng chí này bị ngộ độc là đồng chí dược sĩ cao cấp.
Thái ngượng nghịu, xuống nước rõ rệt:
- Bây giờ... bây giờ làm sao, đồng chí? Đưa đi bệnh xá G3 ngay bây giờ...
- Đồng chí xem kìa! Muộn rồi!
- Sao? Bộ không cứu chữa được nữa sao, đồng chí bác sĩ?
- Thôi, đồng chí thu xếp chỗ cho anh em nghỉ ngơi rồi mình giải quyết sau.
Thái hướng mắt về phía cậu bảo vệ của Trạm. Cậu ta lên tiếng:
- Mời các đồng chí khách theo tôi!
Anh cán bộ bảo hai người khiêng võng:
- Để các đồng chí kia vào trạm, có hai đồng chí theo tôi, mình khiêng võng vào văn phòng, giải quyết cho xong thủ tục.
Không ai nói thêm câu nào, lặng lẽ bước đi. Cái không khí chết chóc buồn thảm, trĩu nặng đè xuống lòng mọi người.
Một đầu cáng được gác lên chiếc bàn tre giữa nhà. Một đầu nữa được gác lên cây thanh ngang theo hàng cột. Người bác sĩ trưởng đoàn đến bên võng, khom người xuống nắm lấy cổ tay nạn nhân nghe mạch. Đoạn vạch hai mí mắt, đưa tai sờ ngực, sờ mũi. Tôi đứng dựa cột dõi, tâm trạng bâng khuâng cùng cực.
Thái cũng men đến bên võng, thì thầm:
- Còn có hy vọng gì không, đồng chí?
Giọng người bác sĩ rầu rầu:
- Đồng chí xem kìa! Toàn thân đồng chí ấy tím hẳn lại. Đồng tử nở thật to, bất động. Mạch không còn đập. Tình hình thế này, nếu đang tại phòng cấp cứu của bệnh viện 108 Hà Nội, đủ mọi phương tiện cũng không tài nào cứu được.
- Rủi sao mà rủi đến như vậy! Phải hồi mới bắt đầu ngộ độc cứu chữa kịp... may ra.
- Lúc phát hiện được bệnh trạng, chúng tôi đã họp lại hội chẩn cấp tốc, dùng mọi hình thức như cho nôn mửa, thụt tháo, trợ tim mạch, giải độc tố. Chỉ tiếc là khi phát hiện được, độc tố đã lan tràn vào máu. Chúng tôi không có lấy một giọt huyết thanh. Cố gắng lắm chúng tôi mới kéo dài được đến bây giờ. Nếu không đồng chí ấy đã hy sinh từ sáng.
Anh ta ngưng một chút, lau mồ hôi rịn ra trên trán, nói tiếp:
- Đồng chí cũng biết chúng tôi băn khoăn lo lắng, đau xót lắm chứ, nhưng giữa rừng phương tiện cứu cấp có hạn, dù có biết, có tài giỏi đến đâu cũng đành xuôi tay.
- Còn khoai mì làm sao ngộ độc được, đồng chí bác sĩ?
- Đại khái là trong cây khoai mì, trong củ khoai mì sống có một chất mủ trắng mỗi khi lột vỏ, đồng chí thấy nó chảy ra...
- Có! Tôi có thấy.
- Mủ đó chứa một chất át xít, có độc tố nguy hiểm. Khi ta lột vỏ củ khoai mì rửa sạch, coi như không còn chút ái-xít nào nữa. Nếu còn cũng không đáng kể lắm. Rồi khi đem nấu thì nhờ nhiệt độ cao, độc tố đó bị tiêu huỷ, trở nên vô hại. Nhưng để sống, nhất là khoai mì mới đào, mủ hãy còn nhiều mà cạp sống một lúc bốn năm củ, đối với những cơ thể yếu đuối, thiếu sức đề kháng như đồng chí dược sĩ đây vừa mới hết sốt rét, nó là một liều thuốc độc vô cùng nguy hiểm. Thực sự, trong việc ngộ độc khoai mì không phải đơn giản như vậy. Nhưng để đồng chí dễ nắm được vấn đề, tóm tắt đại khái như vậy...
- Nhưng đồng chí dược sĩ có biết khoai mì có chất độc không?
- Có chứ! Đồng chí ấy rất giỏi về dược chất, chuyên môn của đồng chí ấy mà! Các đồng chí dược sĩ là thầy chúng tôi về phương diện này.
Thái giương mắt, băn khoăn, đi lại bàn ngồi xuống:
- Vậy sao đồng chí dược sĩ lại ăn khoai mì sống?
- Chả là hơn tháng nay, sau khi vượt khỏi sông Ba, chúng tôi không mua được gạo, chịu đói dài, ăn uống bất thường, vất vả hết sức. Chiều hôm qua, tụi tôi kiếm được mấy gùi khoai mì. Có lẽ, trong khi chúng tôi xúm nhau lột khoai mì để nấu thì chắc vì đói quá, không chờ được nữa, đồng chí ắt cạp khoai mì sống đến no. Mãi đến lúc hơn hai giờ sáng, đồng chí ấy đau bụng dữ dội, chúng tôi ùa dậy lo cứu cấp thì đồng chí ấy hổn hển cho biết: «Tôi bị ngộ độc khoai mì sống».
Lòng tôi nghe nao nao. Trong tình cảm giữa con người bất cứ sự chết chóc nào cũng là một đau đớn, ngậm ngùi. Huống hồ, suốt bao nhiêu năm xa quê hương, thương nhớ không nguôi, nô nức chờ ngày được trở về gặp mặt lại những người thân yêu, những gì quen thuộc cũ, giờ chân mới đặt những bước đầu tiên lên mảnh đất quê hương miền Nam, niềm vui phấn khởi chưa kịp đến thì ngã lăn ra chết. Chết vì mấy củ khoai mì sống.
Một cái chết lãng, phi lý hết sức. Một cái chết tức tưởi, ấm ức, không thể chấp nhận được với một dược sĩ cao cấp. Dù phi lý, dù tức tưởi, dù không thể chấp nhận, nó cũng đã xảy ra rồi. Nghe sao buồn lặng rưng rưng. Tôi không dám nhìn chiếc võng với một thân thể tím đen, bất động. Thế là xong một kiếp người...
Giọng Thái trở nên lạc lỏng:
- Thôi, các đồng chí xuống trại tắm rửa, lo cơm nước xong đi, rồi mình sẽ liệu. Chúng tôi cũng chưa cơm nước gì.
Ăn cơm xong, tôi theo Thái trở lên văn phòng. Tại đây đã có người bác sĩ trưởng đoàn và hai người khác ngồi sẵn. Thái lên tiếng:
- Ủa, các đồng chí không ăn cơm sao?
- Chúng tôi chưa nấu xong. - Một người nói.
Thái ngồi vào bàn:
- Tôi có ý kiến đề nghị các đồng chí... là dù muốn dù không, khi có một đồng chí khác hy sinh trên đường dây, chúng tôi có một phần trách nhiệm. Đứng về nguyên tắc tổ chức...phải có một cuộc họp điểm kiểm tử vong và thảo luận việc tống táng.
Bác sĩ trưởng đoàn nói:
- Chúng tôi rất đồng ý. Chính chúng tôi có mặt ở đây cũng vì vấn đề đó. Xin giới thiệu với đồng chí, ba chúng tôi đây là Ban Chỉ Huy đoàn đi hôm nay. Đồng chí không đề nghị, chúng tôi cũng đề nghị. Vì trách nhiệm chúng tôi, phải có bản kiểm thảo tử vong báo cáo về Cục Chính Trị R và Quân uỷ.
- Tôi cũng vậy. Tôi cũng phải làm báo cáo gửi về Đảng uỷ Khu A.
Thái đi ra trước hàng hiên gọi to lên:
- Đồng chí Đô ơi! Đồng chí Đô!
Có tiếng Đô «có» ở dưới nhà ăn. Thái tiếp:
- Ăn xong, đồng chí lên đây ngay. Có việc gấp nghe.
Thái quay trở vào:
- Về phía khách thì có ba đồng chí. Ban Chỉ Huy Đoàn và cũng là cấp uỷ Đoàn. Về phía đường dây thì tôi, đồng chí Hùng và đồng chí Đô - đầu tàu chuyển giao liên hôm nay. Cũng xin nói thêm để các đồng chí rõ, đồng chí Vũ Hùng đây vừa được U.50 thuyên chuyển tới sáng nay, thay tôi làm trưởng trạm A1 này. Chúng tôi chưa kịp bàn giao thì các đồng chí đến. Ngày mai trở đi, tôi không còn trách nhiệm ở đây nữa... đi nhận một công tác khác.
Đô ba chân bốn cẳng chạy tới. Thái chỉ góc băng ngồi ở cuối bàn:
- Đồng chí Đô ngồi đây!
Thái tiếp:
- Bây giờ nếu các đồng chí đồng ý, xin một đồng chí khách làm thư ký, ghi biên bản buổi họp.
- Được, đồng chí!
Bác sĩ trưởng đoàn trả lời và lục trong xắc-cốt mang bên hông ra, lấy mấy tờ giấy trắng đưa cho người kế bên.
Thái nói:
- Trước hết, xin đồng chí Đô cho biết sự kiện xảy ra trong phạm vi hiểu biết của đồng chí!
Đô cúi xuống, bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc:
- Tôi...tôi là đầu tàu của chuyến giao liên hôm nay. Như thường lệ, sáng sớm hôm nay tôi và hai đồng chí bảo vệ đã có mặt lại địa điểm đổi trực bên này sông Đồng Nai, chờ đoàn khách đến. 6 giờ thì đoàn khách sang sông. Tôi thấy trong đoàn có một bệnh nhân khiêng võng... Khi bàn giao, ký nhận vào sổ trực đường dây với các đồng chí bên trạm I-6 thì được biết trong đoàn khách có một đồng chí bị bệnh nặng, cần phải chuyển cấp tốc về đây để đưa sang bệnh xá G3 cấp cứu. Thế là, tôi hối hả dẫn đoàn đi ngay. Thỉnh thoảng có ngừng lại chờ cho các đồng chí khách thay vai và tiêm thuốc cho bệnh nhân... Phần tôi, chỉ có vậy.
Bác sĩ trưởng đoàn tiếp theo:
- Riêng chúng tôi thì chiều hôm qua khi đến trạm bên kia sông, có gặp mấy đồng bào Thượng gùi mấy gùi khoai mì đi ngang. Chúng tôi gọi lại mua. Họ không bán. Đề nghị đổi gì họ cũng không chịu. Mà chúng tôi thì ăn củ chụp, lá bép chịu trận cả tháng nay rồi, thấy khoai mì mừng hết sức. Cuối cùng, tôi phải tháo chiếc nhẫn vàng 18 ra đổi, họ mới bằng lòng. Tôi chia đều ra cho từng Tiểu đội xúm lột để nấu. Đồng chí ấy bị sốt mấy hôm nay, vừa khỏi, giăng võng nằm bên cạnh đó xem các đồng chí khác lột mì. Có lẽ, sẵn đống khoai mì sống kế bên võng, nên đồng chí ấy thò tay lấy cạp vỏ ăn sống mà không ai để ý nên không thấy. Khoai mì nấu chín xong, vớt ra, tất cả xúm lại ăn. Đồng chí ấy ăn đâu nửa củ gì đó.
Ngưng lại nuốt nước miếng, bác sĩ trưởng đoàn nói tiếp:
- Ăn xong, tất cả chúng tôi đều đi nghỉ. Quãng hơn hai giờ khuya, đồng chí ấy gọi đồng chí nằm kế bên cho biết là đang bị đau bụng dữ dội. Cả đoàn thức dậy. Lúc tôi đến thì thấy mặt đồng chí ấy xanh ngắt, nhăn nhó rên rỉ, lăn lộn thở dốc. Mạch bắt đầu loạn nhịp. Giữa lúc ấy, đồng chí thì thào cho tôi biết là đồng chí đã ăn bốn năm củ khoai mì sống lúc chiều tối, giờ đang bị ngộ độc. Lập tức, chúng tôi mở cuộc hội chẩn cấp cứu, cho nôn mửa, thụt tháo, tiêm thuốc trợ tim mạch, giảm đâu...
Thái lên tiếng hỏi:
- Các đồng chí trạm bên T6 có hay không?
- Tôi có thông báo, nhưng các đồng chí đó đâu có cách nào giải quyết được. Trạm thì không có thuốc gì ngoài thuốc sốt rét và thuốc đỏ. Còn bệnh viện T6 cách xa năm, sáu ngày đường.
- Hèn chi mới sáng sớm mà các đồng chí đã sang sông rồi. Bộ các đồng chí yêu cầu trạm bên ấy đưa đi sớm chứ gì?
- Phải! Vì các đồng chí ấy bảo chỉ có bên này là có bệnh xá gần nhất. Phần sau cùng thì như các đồng chí đã biết.
- Như vậy, Thái nói, trong vấn đề trách nhiệm, về phía chúng tôi, chúng tôi bị đặt trước một việc đã rồi. Đồng chí Đô trong việc dẫn đường cũng đã có tranh thủ thời gian đi nhanh, về sớm. Nếu cần kiểm thảo vấn đề trách nhiệm trong cái chết của đồng chí dược sĩ cao cấp, chỉ có về phía các đồng chí thôi.
- Chúng tôi rất đồng ý ý kiến của đồng chí. Nhưng như các đồng chí đã biết, đó là một trường hợp bất khả kháng. Khi chúng tôi biết được đồng chí ấy ngộ độc thì bệnh tình hết sức trầm trọng nguy kịch. Dù vậy, với phương châm «Còn nước còn tát» chúng tôi đã hội chẩn, đã cố gắng làm hết sức mình với những phương tiện eo hẹp của chúng tôi có. Về phần chuyên môn, chúng tôi sẽ họp cấp uỷ đoàn kiểm thảo với nhau sau. Về phần trách nhiệm chung cũng như thái độ phục vụ thì chúng tôi không thấy có một khuyết điểm nào. Để kết luận, một cách khách quan vô tư, thành thực mà nói, nguyên cớ đưa đến cái chết của đồng chí dược sĩ là tại đồng chí ấy thiếu đấu tranh tư tưởng, biết khoai mì sống ngộ độc vẫn cứ ăn, nóng nảy không đợi chờ. Kế đó, điều kiện cứu cấp, không đủ thuốc men và phương tiện cần thiết như huyết thanh ngọt và các loại thuốc đặc hiệu về giải độc, cũng như dụng cụ phụ thuộc, chỗ nằm, dưỡng khí v.v... các đồng chí đồng ý với nhận xét của tôi chứ?
Không ai nói gì cả. Điều đó có nghĩa không ai phản đối nhận xét trên. Trong hoàn cảnh, điều kiện đó mọi người đều biết, không sao có thể làm hơn được.
Thái thở dài:
- Bây giờ về vấn đề tống táng. Theo chính sách Đảng, mỗi khi có một đồng chí hy sinh, đơn vị phải cấp vải, nylon, chiếu, hòm nhưng chúng tôi ở đây, bất ngờ thế này. hòm nhưng chúng tôi ở đây, bất ngờ thế này... hòm đã không, vải, nylon cũng không nốt... nhưng để tôi cố gắng chạy thử xem.
- Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ thì đâu nói đến cái chuyện phải thế này hay thế kia, đúng theo nguyên tắc chính qui. Tuỳ theo các đồng chí. Mình biết làm sao giờ?
- Các đồng chí có ý kiến chi thêm không?
Không ai nói gì cả. Mọi người nhìn nhau rồi đứng dậy. Phiên họp kiểm điểm tử vong xem như đã xong. Thái nói câu sau chót:
- Vậy mình giải tán! Các đồng chí về ăn cơm kẻo đói bụng. À, đồng chí thư ký buổi họp, xin đồng chí viết ra làm hai bản. Các đồng chí giữ một, tôi giữ một. Tôi xin một để gửi về Đảng uỷ U.50.
Khách đi hết. Thái gọi quản lý lên văn phòng bàn việc tẩm liệm, chôn cất và việc phân công anh em.
5 giờ chiều, chúng tôi hoàn tất công việc tống táng. Do sáng kiến của anh em, tuy không làm được hòm gỗ nhưng cũng làm xong một cái hòm bằng tre, đóng đinh vuông vắn. Chúng tôi cũng làm lễ truy điệu. Ban Chỉ Huy đoàn đứng ra đọc thành tích, tiểu sử người chết và phát biểu vài cảm tưởng thương xót của mình như một điếu văn.
Thay vì chôn ở gần trạm A1, có lẽ một phần vì ngại gần nhà sẽ tạo nên ám ảnh diễn biến tư tưởng cho đơn vị, một phần muốn được cho mọi người nom thấy nên tập thể A1 đề nghị đem ra đường lớn chôn ở đó, cách xa nhà chúng tôi ở có hơn năm trăm thước.
Đưa tiễn người chết khi hạ huyệt, ba phát súng lục nổ đòn. Những kỷ vật của người chết như hình ảnh, ví tay, nhật ký, đồng hồ, bút máy v.v... được Ban Chỉ Huy đoàn giữ lại để trao về Cục Chính Trị, gửi về gia đình sau này.
Hôm sau, Thái lên đường về C113 nhận nhiệm vụ mới. Nhưng không phải vì thế mà công việc điều khiển công tác ở trạm A1 chỉ có một mình tôi. Ngoài tôi còn quản lý cũ ở đây, được đề cử làm phó trạm.
Công việc của một Trạm đường dây, như «đường dây ông Cụ» này đưa khách từ Bắc về Nam hay ngược lại. A1 chúng tôi chỉ chịu trách nhiệm một chặng đường. Bên kia sông Đồng Nai thuộc trách nhiệm T6. Về phía Nam, tại sông Mã Đà, đã có trạm A2.
Việc điều hành công tác đã có nề nếp cũ, nhiệm vụ của tôi, kể ra thực chẳng có gì đáng kể, ngoài chuyện mỗi tháng làm một bản báo cáo công tác của đơn vị và giải quyết, trả lời những vấn đề liên quan đến khách. Nặng nhất, phải kể là công tác tiếp phẩm, cung cấp cho khách, gạo và những thực phẩm cần thiết ở chặng đường đầu mới bước chân về đến miền Nam.
Theo nguyên tắc tổ chức, công việc nội bộ là công việc của người chỉ huy phó đơn vị. Đối với tôi, ở A1, tôi không quyền đã đành mà cũng không thích, không muốn dính dáng đến vấn đề này. Tôi chỉ là một quần chúng ngoài Đảng, lại được ghép vào thành phần tiểu tư sản trí thức. Người ta đâu có cho phép tôi chen vào công việc lãnh đạo nội bộ đó.
Bởi vì nói đến công tác lãnh đạo nội bộ, là nói đến công tác Đảng, Đoàn, mà một anh chàng không Đảng, không Đoàn như tôi thì quyền gì dám chen vào công việc của họ.
Người ta cử tôi làm trưởng trạm A1 chỉ là một sự dò xét, một thử thách, đặt vật thí nghiệm vào nhiều môi trường để xem phản ứng. Có thế thôi. Kể ra cũng thực buồn cười, khi người ta đặt tôi vào công tác của một trưởng trạm đường dây.
Ở đây chúng tôi có sáu cây súng: 1 K50, 1 Mouilles, 2 carbine, 1 trường Mas, và 1 trường Nga bá đỏ. Số súng này, quân lực B1/U.50 chỉ cấp có hai cây: 1 Mi và 1 trường Mas. Số còn lại, do khách đi trên đường dây - cán bộ mùa thu - trên đường về Nam cho. Vì rằng, bất cứ cán bộ nào được chỉ định về Nam, ngoài súng cá nhân, bắt buộc phải mang còn được khuyến khích mang thêm súng. Khả năng có thể mang nổi bao nhiêu cứ mang. Mục đích làm giàu thêm vũ khí cho miền Nam, miễn đến miền Nam thì thôi. Không bị ràng buộc bởi một nguyên tắc, luật lệ nào. Do đó, trên đường dây, khách có quyền cho các trạm tùy theo cảm tình của mình.
Nhờ vậy, vũ khí được coi như là vũ khí riêng của chúng tôi, ngoài giấy tờ sổ sách và quyền kiểm soát của B1. Ngay đến việc đạn dược cũng vậy, B1 cấp cho mỗi cây súng không quá 20 viên. Mất một viên, sử dụng một viên cũng phải báo cáo nêu rõ lý do.
Lý do chính đáng như phải tự vệ, hoặc trường hợp bất khả kháng thì thôi. Nếu không, đơn vị trưởng phải làm bản tự kiểm, bị khiển trách. Trong lúc mọi đơn vị tĩnh tại của Hậu Cần Khu A tức U.50, súng nào cũng thiếu đạn, ở đây, nhờ xin khách được nên chúng tôi có rất nhiều, tha hồ sử dụng không cần phải báo cáo.
Lợi dụng phương tiện trên, hàng ngày chúng tôi cố thu xếp công việc, gồng gánh cho nhau để truất ra hai người, cho đi săn giộc và các loại thú rừng khác: mển, cheo, heo rừng, min, bò rừng, đặc biệt là hươu theo các bàu ở sông Đồng Nai.
° ° °
Qua cái Tết đầu năm 1965, đến tháng ba tôi lại được gọi về trình diện tại B1 và U.50, nhận công tác mới. Vậy là nhận xét của tôi trước đây hoàn toàn đúng. Việc Đảng uỷ U.50 «lên lon» cho tôi, đưa tôi đến làm trưởng trạm A1 chỉ là một sự thử thách, thí nghiệm.
Nếu tôi tiến bộ, ngoan ngoãn, trung thành, tôi sẽ được Đảng tín nhiệm và giao tôi những công tác quan trọng hơn. Tôi lại sẽ được «lên lon», sẽ xa Đồng Nai Thượng, sẽ gặp nhiều cơ hội mà tôi đã kiên nhẫn đợi chờ.
Lệnh trình diện lại B1, tức Ban Tham mưu, tức văn phòng Ban Chỉ Huy U.50, nó báo cho tôi biết điều đó. Tuy ngoài mặt tôi cố làm ra vẻ bình thường nhưng trong lòng, tôi mừng vô hạn.
Tôi lên đường vào ngày hôm sau, theo giao liên của trạm đến trạm A2 ở bờ sông Mã Đà. Nghỉ lại đây một đêm với anh em A2. «Người nhà» cả, nên ngoài sự tiếp đón nồng hậu, vui vẻ, tôi còn được anh em cho biết nhiều tin lạ.
Đồng chí thủ trưởng U.50 của tôi tức bí thư Đảng uỷ Khu A, là thiếu tá Hai Cà được Cục Chính Trị cho «lên lon» và thuyên chuyển công tác, đưa sang làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ lực R mới thành lập: Q 764. Trước đây, R có ba Trung đoàn chủ lực là Q 761, Q 762, Q 763 với ám số 271, 272, 273. Ba Trung đoàn này đã được điều động về Bà Rịa, Hàm Tân, Xuyên Mộc để mở «chiến dịch Bình Giả» từ tháng 12-1964 đến nay.
Bây giờ, chủ lực R có thêm một Trung đoàn nữa, mà Trung đoàn trưởng là Hai Cà. Anh em giải thích cho tôi biết, theo quy chế lục quân miền Bắc, cấp bậc thiếu tá tương đương với chức vụ Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng phải là trung tá. Hai Cà được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 764, rõ ràng đó là sự đề bạt, «lên lon».
Trung đoàn này, do sự tập họp giữa Tiểu đoàn D800 của I-1 (quân khu 1) gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Bình Dương, Biên Hoà, Phước Tuy, Bình Tuy với ba Đại đội C101, C103, C116 của U.50 và một Tiểu đoàn mới từ miền Tây đưa lên.
Trước giờ, để bảo vệ Khu A, U.50 có ba Đại đội vũ trang chiến đấu. Nay ba Đại đội này bị R rút đi ra khỏi U.50. Biến chuyển cho Khu A không chỉ có ngần ấy. R ra lệnh giải tán các đơn vị sản xuất tự túc chuyên trồng rẫy của Khu A như C102, C101, C106, C108, B195. Những đơn vị này tập trung lại, thành lập Tiểu đoàn Thanh Niên Xung Phong đầu tiên đi làm công tác vận tải chiến lược, chuẩn bị cho một chiến dịch mới sắp mở ở Khu A.
Rẫy bái, hoa màu sản xuất lâu nay, xem như không cần đến nữa. Bởi tình hình miền Nam bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới.
Việc trồng rẫy, chẳng có nghĩa gì hết, chẳng giải quyết được gì hết cho nhu cầu vĩ đại của chiến trường sắp tới.
U.50 bây giờ không còn là U.50 nữa, mà được đổi thành Đoàn 30. Việc thay đổi ám số đó để giữ bí mật, địch không biết đó là đơn vị nào, ở đâu, nhiệm vụ tính chất thế nào. Để thay cho Hai Cà, Cục Hậu Cần R cử thiếu tá Mười Thiện từ Cục Hậu Cần bên Khu B sang thay.
Tình hình Khu A, nay rộn rịp biến chuyển dữ dội. Bệnh viện G2 được phát triển thêm, mở rộng ra trở thành Bệnh viện 16 trung tâm Khu A.
Bệnh xá G3 ở Bù Cháp Đồng Nai Thượng cũng bị giải tán kéo về gần Sông Bé, được bổ sung thêm thành lập bệnh viện Đội 17.
Tôi ngồi nghe mà lòng ngơ ngẩn, hoang mang. Từ A1 về đây, đi phà một buổi đường rừng, thế mà cho đến sáng nay trước khi lên đường tôi chẳng hay biết gì hết. Không ai nói cho tôi nghe gì hết về tình hình biến chuyển đó. Tôi chợt nghĩ đến lệnh trình diện tại B1 của tôi.
Tôi sẽ nhận công tác mới gì đấy? Tôi sẽ làm gì trong chiến dịch sắp tới. Và chiến dịch nhắm vào cứ điểm nào ở vùng Khu A này nhỉ?
Tôi không biết nhưng tôi mang máng hiểu rằng, vì có chiến dịch nên tôi mới phải rời khỏi A1 về trình diện tại B1.
Sáng ra, anh em A2 mách cho tôi biết, nếu tôi muốn đi nhanh và khoẻ thì đừng đi theo đường dây. Vì theo đường dây tôi phải lội bộ hay ngày nữa mới đến B1. Hiện tại, có một đoàn xe cam nhông vận tải, từ Sông Bé chở gạo lên mấy kho ở ngã ba bên kia cầu dây Mã Đà hồi chiều hôm qua. Gạo đã xuống hết. Sáng nay đoàn xe đó chạy về bờ sông Bé để chuyển hàng nữa. B1 đóng gần sông Bé, trên đường xe vận tải đi qua. Tội chi phải lội bộ cho mệt. Đi xe hơi cho nó khoái.
Nghe anh em mách, tôi mừng hết sức. Theo sự chỉ dẫn, tôi khoác bồng lên vai, rảo bước đi về phía cầu dây khi sương mù còn phủ trắng ngọn cây rừng.
Cầu dây bắt ngang ngọn sông Mã Đà. Tuy là ngọn sông nhưng Mã Đà vẫn sâu và rộng. Bề ngang có đến 20 thước. Về mùa nắng, nước rút thu về giữa lòng sông. Hai bên bờ lởm chởm những đá tảng bị nước xói mòn. Nước giữa lòng sông vẫn chảy xiết, ào ào nổi bọt trắng xóa, văng tứ tung qua những gộp đá chắn ngang.
Tôi leo mấy bậc thang cây để bước lên cầu. Đúng với nghĩa cầu dây, vì là cầu dây nên bộ phận công binh Khu A treo cầu lơ lửng ngang sông, cách mặt đất có đến 5 thước. Hai đầu cầu là hai cây rừng to hơn 1 thước đường kính, có cháng ba. Mây nước sợi to bằng cổ tay, ba sợi bện lại thành một cho chắc, cột chặt, căng thẳng song song nhau từ cháng ba bên này sông sang cháng ba bên kia sông. Khoảng cách hai sợi dây mây, nói cách khác, bề ngang cầu quảng một thước rưỡi.
Hai sợi dây như lan can, tay vịn của một cầu treo. Từ đó, những sợi mây tàu, mây cát nhỏ hơn cột treo hai thân cây rừng bằng bắp tay có gác ngang dày đặc từng đoạn cành cây ngắn, khít vào nhau làm mặt cầu. Muốn sang sông, từ mặt đất phải bước lên thang 5 thước mới đến được đầu cầu. Bấy nhiêu đó cũng đã toát mồ hôi hột. Và khi qua cầu, cầu đong đưa như đưa võng làm những kẻ nhát không tài nào dám qua một mình. Lúc nào cũng chực rơi tõm xuống sông sâu, lởm chởm đá.
Thực ra, công binh Khu A không thể làm khác hơn được.
Vì rằng bắc cầu ngang sông, muốn «che» được mắt phi cơ trinh sát LI9 hay những loại khác, phải lựa quảng nào có tàng cây che kín lòng sông. Sông đã rộng, hiếm có chỗ nào kín như chỗ này.
Nếu bắc cầu thấp, từ khoảng trống ngoài kia, khi phi cơ nghiêng cánh nhìn xéo vào sẽ phát hiện một cách dễ dàng. Mà phi cơ phát hiện được, bom sẽ phá huỷ cầu và con đường mòn cũng sẽ bị phát giác theo, rồi ăn bom nốt. Do đó, để đạt yêu cầu «Kín đáo» không còn cách nào khác hơn là phải bắc cầu dây càng sát ngọn cây chừng nào, càng tốt chừng ấy.
Tôi bước lên cầu với cảm giác đưa võng, ớn lạnh sống lưng. Tôi không có gan nhìn xuống dòng nước chảy xiết, sâu thẳm những đá bên dưới và cũng không còn lòng nào nhìn cảnh lạ của rừng hoang, đứng từ một điểm giữa không trung chênh vênh.
Sang đến bên này cầu, tôi thở phào nhẹ nhõm. Dù vậy, khi quay mặt tuột 5 thước thang với cái bồng trên lưng tôi cũng không sao khỏi run tay. Người ta thường nói câu «qua sông bạc đầu». Ở trường hợp tôi hôm nay, câu nói đó cũng không ngoa chút nào. Như vậy không hiểu những anh chị em tải gạo, tải thực phẩm khi qua cầu này thì họ làm gì sao nhỉ?
Một dọc xe cam nhông sáu chiếc đậu thành hàng ở Ngã ba «Ông Tư Trần». Tại sao ngã ba này gọi là ngã ba Ông Tư Trần, tôi đành chịu, không thể nào hiểu nổi. Ông Tư Trần là ai? Dĩ nhiên ông ta phải là một nhân vật đặc biệt của Khu A.
Ngã ba này, một ngã qua cầu dây Mã Đà theo đường dây ra miền Bắc. Một ngã đi về hướng Đồng Xoài. Và một ngã chạy về phía Lộ Ủi rồi qua bàu Đồng Triêng, bàu Chân Ra xuống thẳng bờ sông Bé.
Sáu chiếc xe hàng, cũ có, mới có, nằm im lìm giữa đường. Bên trên, tàn cây rừng che kín mít. Bề ngang có đường xe rộng chừng 4 thước. Con đường này cũng do công binh Khu A dọn dẹp để cho xe vận tải lưu thông, chở hàng chiến lược, chở thực phẩm chuyển từ bờ sông Bé đến đây cho vào các kho dự trữ.
Mấy anh em tài xế, «lơ xe» đang quây quần từng nhóm lo ăn bữa sáng vừa nấu xong bên vệ đường. Vậy là xe chưa chạy. Tôi mừng hết sức, tiến đến nhóm gần nhất, làm quen:
- Chào mấy anh!
Ba thanh niên đang ngồi bệt dưới đất ăn cơm, đều ngẩng đầu nhìn tôi. Không ai lên tiếng trả lời. Tôi nói tiếp:
- Xe mình đây, chừng nào chạy về sông Bé mấy anh? Tôi xin mấy anh cho quá giang đến phòng Thường Trực.
Một thanh niên ngoài ba mươi, lớn nhất trong ba người để ca cơm xuống đất:
- Đồng chí quá giang hả? Cái gì chớ cái đó dễ ợt. Có gì khó khăn đâu. Xe xuống hàng rồi,trống không, cả Đại đội quá giang còn được huống gì mỗi mình đồng chí. Sao? Đồng chí cần đi gấp lắm không?
- Không! Cũng không gấp gì lắm.
Cậu thanh niên ngồi bên vui vẻ:
- Vậy thì anh ngồi nghỉ chơi, ở đi với tụi tui.
Cậu ta quay người nhìn về mấy nhóm kia:
- Mấy tay kia họ sửa soạn chạy ngay bây giờ. Nhưng qua khỏi cầu Công Binh thì họ đậu lại, tổ chức đi đánh cá suối nhậu chơi. Chiều tối họ mới xuống sông Bé.
- Còn mấy anh?
- Tụi tui chưa chạy bây giờ đâu! Còn đi lấy xăng rồi hạ cây xoài mút đằng kia«quất» một bụng cái đã!
Tôi nghĩ bụng, mấy ông trời này có đi ít nhất cũng phải ba bốn tiếng đồng hồ nữa, vậy mà rủ mình ở lại đi cùng. Chi bằng quá giang mấy xe kia chạy liền có phải sướng hơn không. Nhưng không hiểu cầu Công Binh ở chỗ nào và từ đó đến Phòng Thường Trực bao xa. Nếu gần, họ ngừng lại ở cầu Công Binh, mình lội bộ có hề chi. Tôi hỏi:
- Từ cầu Công Binh đến Phòng Thường Trực gần xa?
- Đi bộ chừng hơn một tiếng đồng hồ. Nếu gấp thì anh theo mấy tay đó. Mà... tội cha gì phải đi bộ, anh! Ở lại ăn xoài mút với tụi tôi. Đàng nào bốn năm giờ chiều anh cũng tới Phòng thường trực rồi.
Nghe nói đến xoài mút, tôi thấy muốn ở lại ngay. Từ trước đến giờ, trái cây rừng, tôi mới được ăn qua trái trường. Mấy anh chị em B195, rồi trạm A1 kể cho tôi nghe, rừng ở đây có nhiều loại trái cây ngon lắm. Nào là xoài mút, lôm chôm, dâu, gùi, vải v.v... Đặc biệt là xoài mút.
Ngon chẳng thua xoài cát, xoài hòn. Dâu, lôm chôm, vải chẳng khác loại trồng ở Búng, Lái Thiêu. Nghe kể mà ham, nhưng ăn chả ăn được lần nào. Vùng rừng Đồng Nai Thượng tôi đã ở qua, không có loại cây này. Do đó tôi muốn được thưởng thức một lần cho biết.
Vậy thì... ở đây có xoài mút, người ta sắp sửa hạ cây xuống, tại sao mình không ở lại ăn chơi? Thực tội cha gì phải đi gấp! Vả mình có việc gì phải đi gấp đâu? Tôi hỏi lần nữa:
- Anh liệu 5 giờ chiều này có đến Phòng Thường trực không?
- Đến chớ! Nói vậy chớ không tới 5 giờ đâu. Ba giờ chiều cũng dư sức tới rồi. Tôi chạy lẹ cho.
Thì ra anh ta là tài xế. Anh ta cho biết như vậy vững quá rồi. Tôi mỉm cười gật đầu. Anh ta tiếp:
- Thôi anh lột bồng ra liệng lên xe đi. Tụi này cũng ăn rồi đây nè. Mình lên xe đi lấy xăng chút xíu thôi.
Tôi xách bồng liệng lên xe. Anh em cũng vừa xong bữa ăn. Anh tài xế hỏi tôi:
- Anh ở đơn vị nào?
- A1 của C113.
- Ờ, anh ở đường dây mà! Anh ăn sáng chưa?
- Rồi! Mới ăn xong bên trạm A2.
Anh ta tháo khăn quấn cổ lau miệng, mở cửa xe:
- Bây giờ anh ngồi đây chơi chút nghen! Tôi xách xe đi đổ xăng. Chút xíu trở lại liền.
Anh ta cho xe nổ máy, vọt chạy đi theo ngỏ hướng về phía Đồng Xoài. Hơn năm nay, sống giữa rừng sâu của Đồng Nai Thượng, ngoài tiếng phi cơ tôi không được nghe một thứ tiếng động cơ nào khác. Quanh năm suốt tháng, triền miên với tiếng gió rừng, tiếng chim và tiếng vượn hú xa xa. Hình ảnh của chiếc xe hàng vận tải và tiếng nổ rì rầm lẩn với mùi khói xăng gây trong lòng tôi một cảm giác vui vui, ấm cúng làm sao. Nó gợi cho tôi một cái gì quen thuộc cũ với vô số kỷ niệm chợt đến một cách mơ hồ, lẫn lộn vào nhau, không rõ nét.
Hai mươi phút sau, lấy xăng vào xe xong, anh tài xế cho xe quay về chỗ cũ đậu lại. Tắt máy xe, anh ta đẩy cửa nhảy xuống, phủi tay:
- Xong rồi, anh!
Hai anh em «lơ xe» nãy giờ ngồi tán hươu tán vượn với tôi bên vệ đường đứng lên, tiến lại cửa xe lấy xuống mỗi người một cây súng trường Nga bá đỏ, khoác vào vai. Thì ra hai anh em này đi theo không chỉ làm nhiệm vụ «lơ xe» phụ khuân vác, áp tải mà còn bảo vệ, giữ an ninh cho xe.
Anh tài xe nhảy lên thùng xe phía sau đưa xuống hai cái rựa to:
- Rựa nè mấy chư vị! Hai chư vị xách rựa vô thay phiên đốn lần lần đi. Tao ở ngoài này đứng gác, có gì tao la lên. Chừng nào mệt, ra gác thay, tao vô đốn cho.
Hai anh em kia lấy rựa, xăm xăm tách vào rừng, dẫm lên những cành khô kêu răng rắc.
Tôi lấy làm lạ. Không hiểu anh tài xế này gác gì? Gác ai? Tôi hỏi:
- Sao lại phải gác anh?
Anh tài xế cười:
- Phải gác chớ! Thiệt! Trái cây rừng không ai trồng hết mà mỗi lần muốn ăn cực hết sức.
- Vậy chứ sao anh! Muốn ăn phải đi hái, đi đốn mới có chứ! Nếu không cũng phải đi lượm. Cây cao trật ót thế kia, không chịu cực làm sao có ăn.
- Đâu phải chuyện đó. Anh ta đã cải. Cực chuyện khác.
- Cực chuyện gì vậy anh? Cực chuyện gác hả?
- Ừ! Sợ Ban Chỉ Huy U.50 hay mấy ông cán bộ bắt gặp. Mấy ổng kiểm thảo, ghi lý lịch mình thì nguy lắm.
- Ủa! Đốn xoài mút ăn có gì mà kiểm thảo với ghi lý lịch?
- Vậy anh không được nghe phổ biến lịnh của Đảng Uỷ Khu A sao? Hai ba năm nay rồi?
- Đâu biết! Tôi mới đến Khu A năm ngoái. Ở B195 với A1 tôi có nghe nói về chuyện này đâu.
- B1 đứng về phương diện phòng vệ, ra lịnh cấm đốn cây vì sợ trống rừng. Sợ phi cơ phát hiện vùng mình ở.
- À...à... tôi chưa biết! Mới nghe anh nói lần đầu.
Kể ra B1 làm thế cũng phải. Ý thức bảo vệ thực cao. Hèn chi mấy anh em này đốn xoài mút phải gác ngoài đường là vậy. Sợ có người trông thấy.
Anh tài xế vui vẻ:
- Nhưng kẹt cái là... B1 thì vậy. Còn B2 ra lệnh cấm leo trèo. Muốn ăn trái rừng làm sao thì làm chớ không được leo. Leo rủi ro té chết làm sao? Rồi B5, quân y, cấm ăn trái cây rụng, mất vệ sinh, dễ gây bệnh hoạn. Anh nghĩ coi, cây rừng thì cao, đốn thì cấm, trèo không cho, lượm không được. Ngặt cái là xoài mút, lôm chôm, dâu rừng ngon bạt mạng mà bắt, nhịn thèm chịu sao thấu?
Tôi chỉ biết cười trừ. B1 cấm đúng. B2 cũng đúng. B5 cũng đúng. Nhiệm vụ của họ, họ phải lo. Quân lực lo việc bảo vệ căn cứ. Chính trị sợ có những cái chết lãng, ảnh hưởng tư tưởng ảnh hưởng chính sách. Quân y phải lo phòng bệnh... Nguyên tắc mà!
Anh tài xế nhướng mắt, khoa tay:
- Đảng uỷ khuyến khích «cải hoạt», cố gắng tìm chất tươi, rau cải, trái cây để bảo đảm cho chiến sĩ có sức khoẻ, công tác phục vụ cách mạng. Mà như vậy anh nghĩ có mâu thuẫn không?
Anh ta cười, nói tiếp:
- Hồi cái thời ông Năm Quốc Đăng còn làm Thủ trưởng Khu A kìa! Ổng khó trời đất! Lính, cha nào phất phơ gặp ổng là teo dái hết.
- Gì dữ vậy?
- Vậy anh chưa nghe anh em kể chuyện ổng sao?
- Chưa!
- Ổng nóng dữ lắm. Có một lần, mấy anh em Cảnh vệ B1 lui cui lo đón xoài mút ăn, quên gác đường. Tình cờ ổng đi ngang, đến chừng ổng vô sát bên đít mới hay. Mấy anh em kia phát hoảng, liệng xoài, bỏ súng lủi chạy trốn. Ổng la lên, biểu đứng lại. Đứa nào chạy ổng bắn. Nhưng rồi mấy anh em đó, họ cũng chạy mất hết. Ổng chửi thề một hồi, ngồi xuống ăn xoài đã rồi ổng lượm mấy cây súng của mấy anh em B1 mang hết lên vai. Ra đường giao cho cận vệ của ổng để mang về văn phòng Đảng uỷ. Mấy anh em kia thấy ổng mang súng đi mất, kêu trời như bộng. Mất súng có nước chết chớ về đơn vị ăn nói làm sao?
Tôi hỏi:
- Rồi mấy anh em đó chạy theo xin?
- Không! Chưa kịp chạy theo xin thì ổng đã trở vô. Đi rón rén rình bên bụi mây nước sát bên. Thình lình ổng nhảy ra lấy gậy phang vô giò một thằng ngã quỵ. Ổng hét lên: «Chạy hả? Chạy hả?». Rồi ổng hỏi: «Ê! Chú ở đơn vị nào? Thủ trưởng chú là thằng nào? Thủ trưởng chú biểu chú đốn xoài hả? Chú biểu mấy đồng chí của chú chạy về đơn vị kêu thủ trưởng của chú tới liền bây giờ gặp tui coi».
- Mấy ông kia chạy kịp không?
- Run quá, chạy gì nổi. Một thằng bị quất vô giò té bò càng ngồi đó, còn hai thằng nữa cứ đứng run, lắp bắp nói không ra tiếng.
- Có ông nào chạy đi kêu thủ trưởng của mình không?
- Đi gấp chớ! Một lát, Trung đội trưởng Cảnh vệ ba giò bốn cẳng chạy tới. Ổng chờn vờn quơ gậy tính đập nữa làm thằng Trung đội trưởng phải né lia lịa. Ổng hỏi: «Chú sai lính chú đốn xoài hả?» Thằng kia xanh máu mặt, chối lia. Ổng ra lịnh: «Chú với mấy thằng lính của chú làm sao cây xoài sống lại thì làm. Xúm vô khiêng cây xoài trồng lại đi». Mấy thằng kia nói cây xoài lớn quá, cả trăm người khiêng chưa nổi, có ba bốn đứa làm sao được. Ổng hét lên: «không được cũng phải được! Có sức làm, có sức chịu. Phải trồng cây xoài lại cho sống y như cũ. Nếu không bỏ tù hết. Trồng xoài đi, xong rồi làm bản tự kiểm xách đến văn phòng Đảng Uỷ đổi súng».
- Rồi sao nữa?
- Thì đành ngồi nhìn nhau chịu trận chớ làm sao! Chờ ổng đi xa, thầy trò lót tót kéo nhau về nhà làm bản tự kiểm, mang đến văn phòng Đảng Uỷ... đổi súng.
Tôi cười. Anh tài xế còn cười to hơn:
- Hì...hì! Từ đó đến bây giờ, ở Khu A này thằng nào muốn ăn xoài, ăn lôm chôm, ăn dâu đều phải coi chừng, canh gác đàng hoàng mới dám mò vô rừng đốn cây.
- Bây giờ ổng đâu còn ở Khu A mà lo.
- Ừ! Bây giờ ổng về khu E rồi. Ổng làm thủ trưởng khu E. Khu E là khu rừng Sát với rừng Bà Rịa, Hàm Tân, Xuyên Mộc, núi Thị Vải đó. Ổng là người lập Khu A này, công trạng dữ lắm. Ổng đi, ông Hai Cà thay thế cũng khó đâu thua gì ổng. Rồi từ đó, đơn vị nào, cấp chỉ huy cũng dặn lính, cấm đốn cây gắt eo. Lôi thôi đơn vị biết, bị phê bình, kiểm thảo thấy mồ tổ, chớ phải chơi đâu.
Mấy chiếc xe kia rồ máy chạy đi. Tôi băn khoăn nhìn theo cho đến khi chúng khuất dạng ở khúc quanh trước mặt. Tôi chợt khám phá ra rằng, đoàn xe sáu chiếc này, không chiếc nào thùng sau có mui. Mui xe che mưa nắng cho hàng hoá bị tháo bỏ, chỉ còn thớt cây trống lổng.
Tôi hỏi anh tài xế:
- Xe sao không có mui, anh? Mỗi khi chở gạo, chở hàng gặp trời mưa hư hết làm sao?
- Hồi mới lấy về, xe nào cũng có mui hết chớ nhưng anh nghĩ coi, xe chạy theo đường mòn trong rừng thế này, có mui cao nghệu, cản nhánh cây, cọ quẹt hoài làm sao chạy? Rồi còn cái chuyện cất giấu, ngụy trang tránh máy bay, khó khăn. Cho nên đem chiếc nào về cũng phải phá mui ra. Trời mưa, đậy nylon, hề gì!
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, xe này mình lấy chứ không phải mua à?
- Ừ! Lấy xài còn không hết. Việc gì phải bỏ tiền ra mua?
- Xe nầy lấy, lấy của ai và lấy ở đâu? Ai bỏ cho mình lấy dễ vậy?
- Thì ba C101, C103, C116 của Khu A chứ ai. Lấy ở đường 16, đường 13 của bọn tư sản, của địch. Dễ ợt. Khó khăn gì. Anh biết hôn, đường 16 là đường Sài Gòn, Phước Thành, Đồng Xoài, Phước Long đó, hàng ngày xe hàng qua lại cả trăm chiếc. Muốn lấy, mình chỉ cần một Tiểu đội súng ra đón đường, chận lại là rồi.
Anh tài xế móc gói thuốc rê, vấn một điếu, châm lửa bập bập:
- Thường thường, C116 của mình có trách nhiệm cảnh giới, kiểm soát đường 16. Muốn «mượn nhẹ» chiếc nào, hôm đó dẫn theo các đồng chí tài xế. Một tổ nhảy ra đứng chận đường. Xe ngừng lại. Một đồng chí mình bước tới mời mọi người trên xe xuống hết, xét giấy xe. Nếu xe chưa đóng thuế cho mình, hoặc xe của những tên phản động ác ôn thì cứ việc tịch thâu. Còn xe của bọn tư sản đóng thuế cho mình rồi thì mình ký giấy mượn tạm. Đồng chí phụ trách việc đó, làm biên nhận là nhân danh Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chúng tôi là đơn vị gì đó có mượn ông A, ông B một chiếc xe hàng vận tải hiệu gì, số mấy vào lúc mấy giờ ngày tháng năm v.v... Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trả lại hoặc bồi thường xứng đáng nếu có hư hao, mất mát khi nước nhà độc lập, giải phóng hoàn toàn. Dưới đó ký tên, đóng dấu. Giao cho chủ xe, hoặc tài xế xe đó đem về trao lại cho tụi tư sản. Vậy là xong thủ tục rồi. Tài xế của mình leo lên lái vô rừng, chạy về đây.
- Anh có tham gia vụ này lần nào không mà anh biết rành quá vậy?
Anh ta cười, hãnh diện:
- Sơ sơ mới hai lần thôi. Một lần ở Bà Đả! Một lần ở Dinh Điền hai.
- Găng ha!
- Ừ, găng thiệt!
- Mấy chiếc xe này coi bộ nó rệu, cũ mèm hết rồi.
- Ừ! Xe vận tải của mình bên này sông Bé chỉ có sáu chiếc anh thấy đó. Đem trồng hành được hết rồi. Ngày nào cũng sửa tới sửa lui, tôi đâm bực với nó. Chỉ có bên kia sông Bé, đoàn xe bên đó vừa nhiều lại vừa toàn xe «mới cắt chỉ». Tối nào nó cũng chạy hà rầm sáng đêm xuống Bình Mỹ, Vĩnh Tân chở hàng chiếc lược. Gạo, thực phẩm đem về chất ở bờ sông Bé để chuyển về bên này.
- Sao mấy anh không đề nghị xin xe mới chạy cho sướng như người ta?
- Có, có chớ! Tuần rồi tụi tui có đề nghị báo cáo lên Đảng uỷ. Anh Ba Vinh B1 cho biết, trễ lắm là tuần tới thế nào tụi tui cũng có xe mới. Mà toàn là loại xe máy dầu. Đời bây giờ, ai thèm xài máy xăng.
Mải mê lo nói chuyện, chợt có tiếng cây ngã xuống cái ào. Anh tài xế buột miệng:
- Rồi! Hai thằng này, giỏi thiệt. Nó hạ cây rồi. Nó chẳng thèm bắt mình thay phiên. Vô anh!
Anh tài xế nhanh chân rẽ vào rừng, về hướng cây xoài mút vừa bị đốn ngã. Tôi hấp tấp vạch lá bước theo.
Cây xoài mút to hơn vòng tay một người ôm, suông đuột, cao đến hơn hai mươi thước, bị rựa đốn ngã nằm dài dưới đất. Nhiều trái vẫn còn dính trên cành, vàng tươi mơn mởn, chưa chịu rụng.
Lâu nay, nghe anh chị em ca tụng xoài mút ở rừng được liệt vào hàng ngon đệ nhất. Vừa ngọt vừa thơm làm nước miếng chảy tuôn ra đầy miệng vì thèm. Cái ăn bằng tai nó làm tôi nôn nao, ao ước mãi cái ngày ăn bằng miệng, thử xem nó ngon đến chừng nào cho biết. Nỗi nôn nao, ao ước đó, không ngờ thành sự thật ngày hôm nay. Giữa lúc tôi không ngờ nhất. Trái chín rụng đầy, vương vãi tứ tung trên mặt lá rừng khô. Tôi chộp lấy một trái. Vàng lườm. Da nó căng cứng, mọng lên. Trái xoài mút là thế này đây ư? To bằng ngón chân cái tròn quay. Hình thức của nó chẳng giống trái xoài chút nào. Tôi đưa lên mũi ngửi. Mùi thơm từ cuống xông lên nhè nhẹ. Chà, thơm xoài thật. Giống mùi thơm của xoài thanh ca, xoài voi.
Tôi định lột vỏ, nhưng chợt thấy trước mặt anh tài xế cho nguyên trái tong vào miệng, cắn mút lia lịa mấy cái đoạn phun cả hột cả vỏ ra. Anh ta lắp ngay vào một trái khác, nhanh như máy. Trông anh ta ăn cũng đủ thấy ngon một cách hả hê. Mắt anh ta sáng rỡ. Má anh ta bự ra. Ôi chao.
Bắt chước anh ta tôi chả cần xem trái xoài mút trên tay sạch hay dơ, hay gì gì nữa, đưa lên miệng cắn một phát làm nước ngọt vỡ ra. Thấm vào lưỡi, vào môi mát rượi.
Tôi ăn một lúc hơn hai mươi trái. Dù vỏ nó dày hột nó to, từng ấy cũng đủ làm cho tôi no nóc ách. Bấy giờ tôi mới bắt đầu quan sát đến cây.
Thân nó tròn lẳn, da sù sì, không giống cây xoài chút nào. Lá xoài mút lại càng khác lạ hơn nữa lá tròn xoe, mốc thích như những lá điều cằn cỗi. Ấy thế mà trái nó lại thơm mùi xoài. Có lẽ vì mùi thơm đó và vì trái nhỏ, hột to, ăn phải mút mút nên người ta đặt tên cho nó là xoài mút chăng?
Anh tài xế hỏi tôi:
- Từ ngày lên chiến khu đến giờ, anh ăn xoài mút được mấy lần rồi?
- Chưa anh! Lần này là lần đầu tiên đó!
Anh ta cười:
- Thế nào? Anh phát biểu... cảm tưởng coi?
- Ngon! Ngon thiệt. Danh bất hư truyền.
- Mùi vị nó đâu có khác xoài vườn chớ?
- Giống hệt! Chỉ khác cái lá, cái cây, cái trái. Nói chung hình thức, dáng dấp nó không giống cây xoài. Ừ, anh! Rừng này có loại xoài vườn như ở quê mình không anh?
- Có chớ! Hằng hà sa số, thiếu gì! Có nhiều chỗ xoài mọc thành rừng, chớ đâu phải một hai cây. Cũng như nhiều chỗ mọc toàn dâu, lôm chôm, vải, như vườn người ta trồng. Nhiều nhất là khu vực gần sông Bé, Lộ Ủi. Bây giờ là bắt đầu tới mùa trái cây rồi đó.
Nghe anh ta nói phát mê. Tôi hỏi tiếp:
- Chắc mấy năm nay, anh ăn mòn răng hết rồi. Nhưng đi kiếm nó có khó không anh? Làm sao mình biết chỗ nào có mà kiếm?
- Ồ, dễ ợt. Thiếu gì! Đi dài theo đường, chịu khó dòm sâu vào hai bên rừng, có thì thấy liền, chớ cần gì phải lội kiếm đâu xa, anh. Ngay như cây xoài mút bữa nay, hồi nãy tôi lội vô đây ỉa, tình cờ dòm lên thì thấy nó đó thôi. Dọc theo đường xe biết bao nhiêu mà kể, ngặt nó chưa chín. Có cây này sao nó chín sớm...
- Mùa trái cây năm nay, cây xoài này là cây mấy anh hạ đầu tiên?
- Ừ! Còn anh từ ngày lên đây chưa được ăn lần nào, thiệt sao?
- Thiệt chứ! Anh coi trên sông Đồng Nai, đâu có gì...
- Ừ! Trên đó thì «hẻo» lắm! Chỉ có cá, thịt là nhiều, dễ kiếm.
- Còn loại xoài như xoài vườn có ngon không anh?
- Cha... cái đó hơi kẹt đa! Tôi chưa được ăn lần nào...
- Ủa, anh mới nói nó mọc như rừng ấy mà!
- Cây thì không thiếu. Nhiều cây hai ba người ôm chưa giáp. Nhưng từ ngày lên rừng đến giờ, không năm nào thấy nó có trái. Chỉ có loại xoài mút này năm nào cũng đều đều. À, anh biết cây thanh trà không?
Tôi ngơ ngác, không hiểu:
- Thanh trà.... loại bưởi thanh trà đó hả?
- Không, thanh trà là cây thanh trà. Trái nó bằng ngón tay, bóng lưởng. Da nó mỏng dính, vàng vàng, đo đỏ, ngọt ngọt, chua chua, thơm mùi xoài. Lá nó tròn tròn, nhỏ nhỏ như lá khế đó?
- Tôi nhớ rồi. Biết! Tôi biết! Sao anh?
- Rừng này nhiều lắm. Anh em ở đây, có nhiều người không biết, cũng kêu nó là xoài mút.
- Còn vải, dâu, lôm chôm? Nó có khác loại mình trồng không!
- Không! Cây, lá, trái của nó giống hệt như loại mình trồng ở vườn. Vải thì trái cũng chín đỏ, có gai, cơm dày... Nhưng tuỳ cây. Cây nào ngọt thì ngọt lịm như đường cát. Cây nào chua, chua té đái chớ chẳng chơi. Đâu cũng vậy. Còn lôm chôm ở đây lạ cái là ruột nó vàng tươi như nghệ. Vỏ vàng, vỏ đỏ gì ruột cũng vàng. Dâu với lôm chôm ở đây sai lắm anh. Một cây mình có thể hái đựng ba bốn bồng không hết. Hai chục người chắc gì xúm lại ăn hết một cây đâu.
Chúng tôi vừa nói chuyện, vừa hái trái chín, gom lại thành một đống to. Sau đó cho vào hai bồng cột lại mang ra xe. Tôi cũng bỏ đầy hai túi áo bà ba những trái vàng bóng, ngon lành nhất.
Tôi nghĩ lẩn thẩn thứ này mà được đem về Sài Gòn, chắc chắn được mọi người ưa chuộng, bán đắt hơn nho tươi. So với nho, nó vừa lạ mắt, vừa hiếm, vừa ngon ngọt, thơm hơn nhiều. Sau này, yên ổn, hết chiến tranh, không nghề ngỗng gì làm, cứ lên rừng này hái trái rừng về bán cũng dám thành triệu phú chớ chẳng chơi.
° ° °
Ngồi trên xe, tôi nghe nao nao, là lạ, vừa bâng khuâng vừa hả hê, vừa như ngỡ ngàng không sao diễn tả được cảm giác đó. Trước mặt sau lưng, chung quanh rừng cao chớn chở xanh ngắt một màu. Đường mòn trước mặt, tôi tưởng chừng như một đường hang rỗng. Hai bên vách là những thân cây dựng đứng, sát vào nhau. Bên trên, vòm lá lợp kín, âm u.
Thỉnh thoảng qua vài chỗ trống, nắng nhuộm vàng đám cỏ tranh non. Tiếng máy xe nổ rì rầm. Mùi xăng hăng hăng. Gió thốc vào xe vun vút. Đường lồi lõm lại nhiều rễ cây, đồi con, dốc nhỏ nối tiếp nhau nên ngồi trên xe tôi có cảm giác như ngồi trên ghe, căng buồm vượt sóng giữa một ngày gió lớn, trồi lên hụp xuống trên sông Cửu Long những năm tôi còn bé.
Dọc theo đường, những tàu lá mây đầy gai buông thõng. Những sợi dây xanh, những cành cây thấp quất vào ca-bin xe lộp bộp. Kính chắn gió trước mặt, nó đã vỡ tự bao giờ, trống lổng. Đường kẻ viền xung quanh rỉ sét, đầy bùn.
Ngồi kế bên anh tài xế, chốc chốc tôi phải khom người xuống, hoặc né sang bên để tránh những cành cây đầy lá đập vào khung kính trống trơn. Tôi nghĩ đường thế này, kính nào không vỡ? Mà dù có còn, chắc tài xế cũng phải đập cho vỡ ra, liệng đi để tránh tai nạn kính vỡ nửa chừng khi xe chạy, phang vào mắt.
Xe chạy qua mấy ngọn suối khô, trũng sâu xuống, bò lên thật vất vả. Tôi chợt thấy mấy hố bom to đào loang lờ bờ suối, cách đấy không đầy mười thước. Cây ngã chồng lên nhau. Và, phía trên nhiều cành bị bom tiện đứt, xười ra.
Tôi đưa mắt nhìn anh tài xế. Anh ta cũng liếc mắt nhìn tôi, thản nhiên:
- Năm ngoái, tôi bị ba chiếc khu trục nó mần chỗ này nè! Đó, mấy cái lỗ bom còn đó.
Tôi vụt đâm ra hồi hộp hỏi:
- Xe mình đang chạy ào ào thế này, phi cơ bay đến làm sao biết mà tránh được, anh?
- Coi vậy chớ khó lộ lắm, anh! Rừng sâu thế này, tàng cây kín mít nó khó phát hiện được mình lắm. Mà nó có tới, hai chư vị ngồi sau thùng xe sẽ gõ cabin hay bắn súng báo động cho mình hay. Mình ngừng xe lại, dông cho xa, nhằm gì! Có gì, bất quá nó mần cái xe thôi.
- Anh có chạy đêm không?
- Có chớ! Thường lắm!
- Đèn xe mấy anh làm sao?
- Tụi này gắn chụp giả. Che bớt pha để ánh sáng nó bớt chói lên trên. Hai chư vị ngồi phía sau thì ngó lên trời cảnh giới. Hễ phát hiện đèn phi cơ hay có tiếng phi cơ, báo động thì mình tắt đèn, ngừng liền.
- Vậy có lần nào chạy đêm anh gặp phi cơ không?
- Hoài! Mới tháng trước nè! Tụi này chạy một đoàn bốn chiếc, đèn pha rọi sáng rừng. Bữa đó, tụi này cũng ở trên này về sông Bé để đón hàng qua sông. Khi chạy tới cầu công binh có một chiếc phản lực trờ tới, phát hiện được. Nó quần theo.
- Mấy anh không hay sao?
- Nó đảo qua một vòng tụi này mới hay. Chiếc phản lực đó nó khôn lắm. Bay đêm mà nó không đốt đèn.
- Găng ha!
- Anh em bảo vệ bắn súng báo động là tụi này tắt hết đèn liền. Nhờ trời có trăng, xe tôi chạy đầu, nên tôi ráng chạy thầm thêm khúc nữa để thoát khỏi cái khu vực bị nó phát giác. Vậy mà rốt cuộc cũng hổng khỏi nó.
- Nó mần anh tơi bời?
- Ừ, nó quăng một hơi năm, sáu trái bom một lượt. Trái gần tôi nhứ chừng hai chục thước. Tụi này còn đang ở trên xe bỗng nổ «oành, oành, oành» tá hoả tam tinh. Đất văng tứ tung. Miểng phang trúng thùng xe nghe xèng xèng. May không đứa nào bị thương. Tụi này nhảy xuống đất nằm mẹp chịu trận. Mấy loạt bom sau nó bỏ lạc sâu vô rừng...
Anh ta chép miệng:
- Chà! Lần đó may thiệt! Chút xíu nữa «ông Cuốc» kêu, «qua phần» hết rồi. Kết quả, tụi này chỉ có một chư vị bị té trầy đầu gối thôi.
Nói xong anh ta cười tay nhịp nhịp vào vô-lăng lắc cái đầu có vẻ khoái trá lắm.
Ở chiến khu thế này, đi xe sướng thiệt nhưng kể cũng nguy hiểm quá. Tôi đang nghĩ lan man, bỗng anh tài xế cho xe chậm lại rồi ngưng hẳn. Hai anh thanh niên ngồi ở thùng sau nhảy xuống đất huỳnh huỵch. Tôi lấy làm lạ hỏi anh tài xế:
- Xe hư hả anh?
Anh tài xế thản nhiên, mở cửa xe bung ra:
- Không! Mình ngừng lại để ngụy trang. Trước mặt đây là «lộ ủi Trần Lệ Xuân». Bề ngang rộng lắm. Hai bên đường còn bị phi cơ rải chất độc hoá học khai quang, cây cối rụng lá trống trơn. Xe mình phải chạy trên lộ ủi một khoảng, chừng vài cây số nên phải ngụy trang đề phòng phi cơ phát hiện.
Anh ta nhảy xuống đất. Tôi nhảy xuống theo. Tất cả lo bẻ những cành cây tươi đầy lá xanh chất lên xe. Trên nóc ca-bin, quanh cản xe, thùng xe, vè xe, hông xe, chỗ nào cũng toàn cành lá, xanh rì, lởm chởm như một đống lá cây.
Xong tất cả lại leo lên xe. Anh tài xế gài số quay sang tôi:
- Lộ ủi này do Trần Lệ Xuân nó ra lệnh làm để chở cây súc đem về Sài Gòn kinh tài riêng cho tụi nó đó.
- Sao anh biết rõ vậy?
- Đảng cho biết. Đường này nó làm từ hồi 58 tới giờ. Phía trên đụng với Đồng Xoài ở lộ 16. Phía dưới chạy thẳng tới sông Đồng Nai. Bên kia sông Đồng Nai cũng có một con lộ chạy thẳng tới Tà Lài. Chỗ xe mình đâm ra đây, cách cầu sắt Mã Đà chừng bốn cây số. Trước kia, tại cầu sắt Mã Đà tụi nó đóng đồn đâu hơn một đại đội. Còn là trường huấn luyện biệt kích gì nữa đó. Tụi nó đang ủi đất làm sân bay chưa xong thì bị mình đánh, phải rút đi.
Anh ta rú ga cho xe vọt tới. Qua một khúc quanh, lộ ủi rộng thênh thang hiện ra trước đầu xe. Cách đường chừng năm thước, anh ta lại thắng cho xe ngừng lại lần nữa. Tôi chưa kịp hỏi lý do tại sao ngừng, anh ta khoá «công tắc», tắt máy, thò đầu ra cửa:
- Ê! Nghe cho kỹ nghe! Tai tao nãy giờ lùng bùng quá.
Ở phía sau, một người đáp lại:
- Êm ru. Chẳng có gì đâu. Trưa, giờ này mấy thằng phi công mắc đi ngủ hết rồi. Thôi, dông đi. Bảo đảm trăm đó!
Thì ra anh ta ngừng xe lại trước khi leo lên lộ để nghe ngóng tiếng phi cơ. Anh ta cười:
- Xong rồi anh! Ra đây mình xả hết ga, rút qua khoảng đường trống, chui vô rừng phía bên kia là khoẻ liền.
- Sao mình không mở con đường ngang đây, tiện biết mấy?
- Bên kia đường dốc lắm, lại có con suối chạy cặp theo lộ, bất tiện lắm. Bên trong toàn rừng tre gai dày đặc, làm sao mở đường cho nổi.
Anh tài xế lại mở công tắc, cho máy nổ. Chiếc xe bò ra lộ. Mặt lộ thật rộng, trải đá đỏ, bằng phẳng không khác gì xa lộ Biên Hoà. Chỗ xe chường ra đến mặt lộ là đỉnh một con dốc cao. Đường hai phía thoai thoải chạy tít mãi về hai phía Đông và Tây. Phía Đông là cầu sắt Mã Đà. Phía Tây chạy về Đồng Xoài.
Xe đổ dốc lao thật nhanh, gió lùa mát mặt. Và những cành lá khua chạm vào xe rào rào như trời đang đổ một trận mưa.
Rừng trước mặt thấp xuống. Chân trời rộng hiện ra. Mây đùn cao ngất giữa nền xanh thăm thẳm, nắng chói chang nổi sao trên mặt đường.
Lâu rồi, nhiều tháng nay tôi chưa hề nhìn thấy được chân trời. Chân trời hôm nay rộng quá. Gió trên đỉnh dốc cao làm tôi nghe lâng lâng, sảng khoái dị thường. Nó gợi cho tôi một cái gì bình dị, thanh thản như một con diều chao trên không trung đầy gió lộng, giữa khung trời tự do thênh thang.
Nó còn hiện lên trong đầu tôi cùng một lúc những kỷ niệm cũ, ở Đồng Tháp, ở U Minh, ở Sài Gòn và đường vào chiến khu ngày nay. Cái hôm tôi rời Vĩnh Kim, ngồi trên xe từ Mỹ Tho về Sài Gòn, khung cảnh hôm đó cũng tương tự như hôm nay. Chỉ khác cái là đây không có ruộng vườn, không có những ngôi nhà thoạt ẩn, thoạt hiện, khói quyện sau mấy khóm tre và những cánh đồng quang đãng, thẳng cánh cò bay.
Xe xuống đến cuối con đường dốc, chợt có tiếng gõ vào ca-bin gấp rút lần với tiếng la lạc giọng:
- Phản lực nghe! Phản lực. Ghé lại mau!
Anh tài xế mắt láo liêng, lách cho xe chạy sát vào bìa rừng và thắng lại một cách gấp rút. Đầu tôi chúi nhủi về phía trước, hoang mang. Tôi tất tả nhảy ra khỏi xe, rơi tòm vào giữa bụi rau mui cao đến ngực. Mắt hướng lên trời, dớn dác nhìn bốn phía. Hồi hộp lạ.
Hai chiếc phản lực bay cao, sóng đôi nhau bay chếch từ hướng Nam về hướng Tây. Tiếng rền rĩ của nó càng lúc càng lớn dần. Tôi quan sát chung quanh tìm vị trí để chạy đến núp. Anh tài xế, ngồi phía trước tôi, lên tiếng:
- Nó bay chỗ khác, không thấy mình đâu. Đừng lo anh! Mấy thằng Mỹ mắt đục, thấy cái cóc khô gì.
Hai chiếc phản lực càng ngày càng xa, rồi mất hút ở cuối chân trời. Tiếng động cơ cũng không còn nữa. Anh tài xế cười toét miệng, chửi thề một câu:
- Tổ cha mày, trưa không chịu ngủ. Sướng hổng chịu, cứ muốn cực, phá đám người ta. Tao mà về tới Sài Gòn, thế nào cũng tới kiếm mày.
Anh ta leo lên xe. Tôi lên theo. Anh ta lại cho xe nổ máy:
- Đường quẹo trước mặt kia kìa. Ba trăm thước nữa, mình lủi vô rừng là yên chí. Tha hồ hát bội tối ngày.
Anh ta quay sang tôi:
- Anh thử ngóc đầu ra ngoài phụ nhìn với tụi nó xem mấy chiếc phản lực có trở lại không? Đừng báo hại mới bò ra giữa lộ, nó trở lại thì phiền lắm.
Thế là yên ổn. Suốt trên quãng đường xe, không một tai hoạ phiền phức nào xảy ra. Qua khỏi lộ ủi, bàu Đồng Triêng, bàu Chân Ra, cầu Công Binh, giờ đây là khu vực «Mã Đà dưới». Đồng Nai Thượng xa rồi. Xa vời vợi, có lẽ lần đi này tôi từ biệt hẳn không bao giờ trở lại.
3 giờ 30 chiều, anh tài xế cho xe dừng lại kế bên một con đường mòn phía trái. Anh ta vội nói với tôi:
- Anh tới chỗ rồi đây! Theo con đường này, anh đi chừng 20 phút là tới phòng Thường Trực.
Tôi khoác bồng lên vai, đưa tay bắt tay anh ta, từ giã:
- Xin phép anh! Rất cám ơn anh. Có ngày mình sẽ gặp lại!
Anh ta cười:
- Ối, phép tắc gì anh! Ờ, chừng nào anh trở về đồi Bù Cháp? Coi có nhằm ngày xe lên, tôi chở cho. Cứ ba ngày lên một chuyến. Như bữa nay xuống ngày mai nghỉ, ngày mốt lên. Mốt anh về chưa?
Tôi cảm động trước lòng tốt và tình cảm của anh ta dành cho tôi. Tôi lắc tay anh ta mạnh hơn:
- Cảm ơn anh! Tôi được lệnh về trình diện tại B1 để nhận công tác mới. Chắc không bao giờ trở về Đồng Nai Thượng nữa rồi.
- Ừ, nếu vậy, về đây mình lại gặp nhau thường.
Tôi xuống xe, lững thững rẽ vào đường mòn. Chiếc xe hàng chạy đi. Tôi vụt nhớ ra rằng, cho đến bây giờ chưa biết anh tài xế và hai cậu kia tên là gì? Thuộc A nào, B nào...? Cả tên của tôi anh ta cũng không biết. Tệ thật. Vậy mà đã như quen nhau lâu lắm.
Gần hai mươi phút sau, tôi vào đến Phòng Thường Trực. Phòng Thường Trực có bốn nhà cất thành một chòm. Một nhà cho khách nghỉ chân. Một nhà kho chứa đồ đạc và căng-tin. Một nhà ăn nối liền với nhà bếp và một nhà làm văn phòng.
Bốn nhà cất theo kiểu «tứ trụ» ở bốn góc. Giữa là một khoảng sân trống và đám cỏ thấp. Qua cổng bảo vệ, tôi gặp một người khách, hỏi thăm văn phòng và tôi đến căn nhà nhỏ ở góc trong cùng.
Trên chiếc bàn vuông nhỏ một máy điện thoại màu trắng nằm tênh hênh. Một người đàn ông nằm trên võng phía sau bàn, đưa lúc lắc.
Chà! Lần đầu tiên kể từ ngày vào chiến khu, tôi được thấy một cái máy điện thoại. Giữa rừng hoang, cái máy điện thoại là hình ảnh của văn minh khoa học. Nó gây cảm giác cho mọi người một cái gì tiến bộ, hiện đại hoá, lớn mạnh vượt bực của cả một guồng máy chiến tranh ở đây.
Tôi bước vào nhà. Người đàn ông, à, anh thanh niên ngồi trên võng ngồi dậy, giương mắt nhìn tôi.
Tôi lên tiếng:
- Chào đồng chí! Tôi muốn gặp đồng chí Trưởng Phòng thường trực?
- Tôi đây! Tôi là Bọ - chịu trách nhiệm Phòng thường trực. Có chuyện gì đó đồng chí?
- Tôi vừa nhận được lệnh về trình diện B1 để nhận công tác mới. Nhờ đồng chí cho người đưa tôi đến B1 gặp anh Ba Vinh.
- Đồng chí có giấy tờ... xin lỗi. Đồng chí cho tôi xem quyết định của đoàn 30 hay giấy giới thiệu...
- Có đây.
Tôi để bồng xuống băng ngồi. Anh ta quan sát tôi từ đầu đến chân và ngừng hơi lâu trên bụng tôi. Tôi hiểu cái nhìn đó. Ở bụng tôi có sợi thắt lưng Mỹ, sau vạt áo bà ba đen phủ ngoài.
Cái bình ton nước, tấm nylon nóc, tấm nilon choàng lủng lẳng đeo quanh, đội áo phồng ra. Anh chàng Bọ, trưởng Phòng thường trực này muốn xem tôi có đeo súng ngắn hay không. Không có súng ngắn là loại «tép riêu», không cần quan tâm trong việc đối xử. Nếu có súng ngắn, tức là loại sĩ quan, loại «cán bộ mùa thu», việc đối xử nhất định phải khác... Nhưng tôi còn khuya mới được cấp súng ngắn. Tôi làm gì đủ tiêu chuẩn....
Trong lúc tôi thò tay vô túi móc bóp, anh ta lạnh lùng bỏ tôi.
- Đồng chí ở đâu tới đây?
- Ở A1, trạm đường dây A1.
- Tên gì?
- Vũ Hùng!
Anh ta gật gật đầu:
- Ừ, tôi có nghe tên đồng chí. Thôi, đồng chí khỏi lấy giấy tờ chi mất công.
Anh ta thò tay nắm lấy ống điện thoại:
- Đồng chí để đồ đó, ngồi chơi một chút, để tôi quay điện thoại báo cáo, xin chỉ thị anh Ba!
Tôi ngồi xuống ghế đẩu trước bàn. Bọ nắm cần quay quay điện thoại rè rè:
- Allo! Allo! Dạ, đây là Phòng Thường Trực xin nói chuyện với anh Ba B1... Dạ em là Bọ đây anh Ba! Báo cáo anh Ba, có đồng chí Vũ Hùng ở A1 vừa tới Phòng Thường Trực xin vô gặp anh Ba... Dạ... dạ... dạ. Vậy hả anh Ba?...
Bọ gác điện thoại xuống giá, nhoẻn miệng cười. Gương mặt «nước đá» khó, «đăm đăm» của anh ta ban nãy, tươi dần. Không biết Ba Vinh đã nói gì với anh ta nhỉ? Anh ta ngồi xuống bàn, vui vẻ:
- Anh chờ một chút nhá, anh Hùng! Mười lăm phút nữa, anh Ba Vinh sẽ đến đây làm việc với anh. Đi dọc đường, trưa anh đã ăn cơm chưa?
- Chưa anh. Nhưng ăn xoài mút no rồi. Để chiều ăn một thể!
- Ủa, làm sao anh có xoài ăn hay vậy? Ở quanh đây chưa có xoài chín.
- Gặp mấy anh em vận tải trên cầu dây Mã Đà. Họ đốn tôi ăn ké thôi! Tôi quá giang xe mấy anh em đó về ngang đây.
- À... à... hèn chi! Tưởng anh đi bộ, mới giờ này tới đây, tài thiệt!
Tôi mở bồng, lấy bảy tám trái xoài mút đưa cho Bọ
- Còn mấy trái... anh ăn chơi cho vui.
Mắt Bọ sáng rỡ. Môi anh ta nhúc nhích, nuốt ực nước miếng trước khi cười, ngượng nghịu:
- Dạ... cám ơn anh! Mời anh....
- Tôi ăn rồi! No nên ngán rồi.
Anh ta đưa một trái xoài lên miệng cắn, «phát biểu ý kiến» ngay:
- Ừ... Ừ... Ngọt! Ngọt thiệt. Ngon...
Tôi cười và biết lúc này là lúc thuận tiện nên hỏi dò những điều mà tôi đang khao khát muốn biết về tin tức của Hiền. Tôi vờ như không chú ý lắm:
- Tôi nghe mình ở đây thành lập Đoàn Văn công II Quân Giải Phóng. Vậy Đoàn đó chắc đã đi về Khu B rồi hả anh?
- Đi lâu rồi anh!
- Chà! Đi theo đường dây, ít ra chục bữa mới tới Khu B. Đường xa quá mà!
- Không lâu dữ vậy đâu. Họ đi tự lực. Đi tự lực thì lẹ hơn, vì họ đâu phải vòng vo tam quốc như đường dây. Nhưng tôi nghe anh em nói chuyện, trong đoàn có chuyện lôi thôi, báo cáo về Đảng uỷ.
Tôi hồi hộp, nhìn ngay mặt anh ta:
- Chắc có một cô nào đó bỏ đoàn trốn đi chứ gì? Phải không anh?
- Ừ! Ủa! Sao anh biết rõ vậy?
Tôi chợt thấy mình hớ hênh nhiều quá. Bối rối một thoáng, tôi trấn tĩnh ngay được:
- Không... mà... tôi nghe mấy anh em đường dây ở trạm A2 nói đó thôi. Có đúng vậy không anh?
Bỏ thêm một trái xoài mút khác vào miệng. Bọ lúng búng trong miệng:
- Đúng! Anh nghe đúng đó! Trong đoàn có con Hiền, con nhỏ được coi như hoa khôi, đẹp nhứt Đoàn. Nó trốn lại đường 13, khi đoàn Văn công qua lộ ban đêm, để về thành đầu giặc. Đúng là cái con học sinh phản động. Nó là gián điệp chắc?
Tôi mừng thật sự. Mừng đến mất bình tĩnh và nóng nảy hơn bao giờ hết. Tim tôi nhảy thình thình như đánh trống. Tôi nhìn sững Bọ:
- Hiền à? Cô Hiền à? Mình có bắt lại được không?
- Không! Bị trời tối. Qua lộ một lúc, kiểm điểm lại mới hay. Anh em Cảnh vệ vác súng trở lại kiếm, thấy thoáng đàng xa, rượt theo bắn hai loạt K.50. Nhưng không bắt được. Hình như nó bị thương thì phải! Theo báo cáo của đoàn báo về Đảng Uỷ, các đồng chí ấy cho biết có phát hiện được dấu máu.
Tôi nghe mình ngồi không vững. Mái nhà nghiêng đi càng lúc càng sâu. Tôi trân mình... Hiền bị trúng đạn ư? Máu Hiền đã chảy đó ư? Em có sao không Hiền? Em bị thương ở đâu? Em còn sống hay đã chết? Người ta bảo em là gián điệp, là về thành đầu giặc. Người ta nhục mạ em. Tự do là một cái gì vô cùng quý giá, mà em phải đánh đổi bằng máu, phải không em?
Thương em quá, Hiền ơi! Lạy trời, cầu mong em không hề gì... em về đến gia đình với vết tích của... tự do.
Hình ảnh của Hiền hiện ra rõ nét trước mặt tôi... Tôi thoáng nghe, hình như tiếng của Bọ văng vẳng:
- Anh Hùng! Anh làm sao vậy?
Và hình như tôi đã trả lời Bọ:
- Có lẽ tại tôi đi đường xa nên khó chịu, mệt chút thôi! Không sao đâu anh.
Tôi không hiểu Bọ đã nghĩ gì, phản ứng ra sao nhưng tôi thì tôi đứng dậy rời khỏi chiếc ghế đẩu, bước ra sân. Tôi hành động như một cái máy với sự điều khiển của tiềm thức. Chợt trong đầu tôi vang lên câu nói: «Hãy bình tĩnh, đừng để người đọc được ý nghĩ mình, cảm xúc của mình. Nguy hiểm đó, chứ chẳng phải chuyện bình thường đâu!»
Qua khoảng rừng thưa, nắng giọt xuống sân những mảng ánh sáng vàng. Và gió rừng đi qua, mát lạnh làm da tôi nổi gai ốc. Tôi hoàn toàn tỉnh hẳn.
Tôi quay vào nhà. Không biết nét mặt, da dẻ tôi lúc đó ra sao nhưng tôi cố nhăn nhó, nhíu mày, cùng với một nụ cười bất đắc dĩ, chép miệng:
- Lạ quá! Khi không, tôi đang nói chuyện với anh, có một luồng gió nhẹ qua vậy mà bỗng nhiên tôi nổi gai ốc, choáng váng tưởng đâu xỉu tại chỗ. Sức khoẻ tôi dạo này kém thiệt. Mấy ông thầy thuốc họ bảo anh em mình bị sốt rét mất máu nhiều quá nên hay có những cơn choáng thình lình. Anh có lần nào bị choáng thình lình giống như tôi vậy không anh Bọ?
Cái vẻ ngạc nhiên, nhăn nhíu trên gương mặt Bọ biến mất. Anh ta cười:
- Vậy mà tôi tưởng anh bị gì đó chớ! Ừ, anh! Cái gì chớ thiếu máu như anh em mình nó hay xây xẩm mặt mày lắm. Cái đó thì tôi bị hoài. Bây giờ anh đỡ chưa?
- Đỡ rồi! Tôi vừa dứt sốt thì tôi lên đường đến đây ngay!
Bọ chớp mắt, lộ vẻ thông cảm rõ rệt:
- Vậy anh nằm nghỉ chút đi. Anh nằm trên võng tôi nè. Chút xíu anh Ba Vinh ảnh ra tới.
Tôi theo lời Bọ, bước lại võng nằm xuống. Anh ta quên mất chuyện Hiền. Và tôi thở dài, nhẹ nhõm trong nỗi buồn vô hạn. Tôi nắm mắt và nghe nóng ở bờ mi.
- Anh nằm cho khỏe đi, Bọ nói. Để tôi xuống bếp kiếm một bình ton nước sôi đem về pha trà uống chơi. Đi đường xa, mệt, uống mấy hớp cái tỉnh liền hè.
Bọ nói xong, bước đi ngay. Thế là thoát. Tôi nhủ thầm như vậy. Tôi đã đánh lạc hướng kịp thời. Bọ chắc không phát giác ra sự liên hệ giữa tôi và Hiền, cùng phản ứng đột ngột của tôi qua tin Hiền bị thương khi trốn ở đường 13.
Đến chừng Bọ trở lại, tôi đã ngồi dậy với nét mặt bình thường. Cùng đi với Bọ còn có một người đàn ông đứng tuổi, quảng 40. Người gầy, cao với khuôn mặt xương. Chân đi cà nhắc, chống chiếc gậy đen bóng thật đẹp. Anh ta mặc bộ quân phục đen. Thắt lưng Mỹ với khẩu súng ngắn xệ xuống, lủng lẳng bên hông. Đôi mắt to và đôi chân mày thật đậm, to bản, xếch lên.
Vừa trông thấy tôi, anh ta nhoẻn miệng cười. Mấy chiếc răng vàng ở hàm trên của anh ta đập vào mắt tôi. Anh ta lớn tiếng:
- A! Anh Hùng! Chào anh!
Tôi cũng đứng dậy, nghiêng đầu:
- Dạ, chào anh!
Anh ta cà thọt, bước vọt tới, mạnh bạo, nhanh nhẹn chìa tay ra bắt lấy tay tôi, bóp thật mạnh. Bàn tay xương xẩu của anh ta làm tay tôi đau điếng. Giữa lúc đó, Bọ lên tiếng giới thiệu:
- Xin giới thiệu với anh, anh Ba Vinh, thủ trưởng B1, Tham mưu trưởng Khu A.
Ba Vinh ngồi xuống ghế đẩu, tiếp theo với giọng nói rổn rảng của «con nhà võ».
- Chà! Từ ngày anh tới Khu A đến giờ, hai năm rồi, nghe tiếng anh thì nhiều, mãi bây giờ mới gặp mặt. Ờ, Bọ! Làm bậy nồi trà uống, chú!
- Dạ có đây anh Ba.
Tôi tiếp theo:
- Dạ, thưa anh! Anh xem cái nơi đèo heo hút gió của Đồng Nai Thượng, xa quá. Anh không có dịp đi công tác trên đó. Còn tôi, từ ngày đến Khu A, được mấy anh phân công tác ở lì một chỗ, thì làm sao trình diện anh được.
- Thế nào? Anh! Mạnh khỏe, vui vẻ chứ?
- Dạ, vẫn vui nhưng khỏe thì... vẫn sốt rét đều.
Ba Vinh móc túi, chìa ra mời tôi một điếu thuốc thơm ARA:
- Mời anh! Tôi đang bận họp với Bộ Chỉ huy Tiền Phương của R. Nghe điện thoại anh Bọ báo cáo, có anh đến, tôi xin vắng mặt đi ra gặp anh đây!
Tôi dạ một tiếng cho phải phép. Nhưng tôi cũng hiểu rằng nếu anh ta đang họp thật sự thì đời nào anh ta có thể bỏ đi ra đây đón tôi được. Nịnh nhau chi! Quan trọng hoá tôi chi cho thêm ngỡ ngàng. Cái trò động viên tình cảm, động viên chính trị kiểu đó với tôi hết hiệu nghiệm rồi. Dù vậy, tôi cũng nói một câu:
- Dạ... Ai chứ anh thì bận suốt ngày. Làm sao rảnh rỗi cho được.
- Ừ... bận thiệt anh. Bận túi bụi, không kịp thở. Bây giờ, mình làm việc với nhau chớp nhoáng một tí nhé?
- Dạ! Xin anh tự nhiên. Tôi xin nghe.
Ba Vinh bật lửa châm thuốc cho tôi:
- Thế này nhá! Anh thực khoẻ chưa? Tôi nghe chú Bọ nói, anh vừa bị choáng... Giờ thực khoẻ chưa?
- Dạ... Khoẻ!
- Mà anh thực khoẻ chưa chứ? Có thể bắt tay vào việc nổi không?
Tôi ngập ngừng:
- Dạ, ngay bây giờ...
- Ừ, bấy giờ.
- Được, anh! Xin anh cứ cho biết.
- Tôi xin báo tin anh rõ. Kể từ hôm nay, anh không còn thuộc quân số của Khu A nữa mà thuộc về R. Theo quyết định mới của Bộ Chỉ huy anh sẽ về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương. Hiện tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương vừa ở chiến dịch Bình Giả về đây, đang chuẩn bị cho một chiến dịch mới. Công tác rất bận. Đang cần nhiều cán bộ, nếu anh thấy không cần nghỉ ngơi, tôi xin đưa anh đến trình diện Bộ Chỉ huy Tiền Phương ngay bây giờ. Đồng ý chứ?
- Dạ, đồng ý, anh Ba!
- Thế thì mình đi. Ủa! Làm nước lẹ lên chớ Bọ. Chú mày chậm quá.
Bọ mang bình trà và mấy cái cốc thuỷ tinh đến. Ba Vinh nóng nảy rót ra ngay, vừa thổi vừa uống:
- Uống anh! Uống rồi mình đi.
Uống xong cốc nước thứ hai. Ba Vinh đứng dậy. Tôi đứng dậy theo.
Khoác bồng lên vai bước theo Ba Vinh với một nỗi buồn xót xa, da diết. Tôi nhớ Hiền. Tôi thương Hiền. Tôi tưởng tượng đến nòng K.50 bốc khói, hai loạt đạn khốn nạn đã xuyên vào da thịt người tôi yêu, người đã san sẻ cho tôi một phần đời, mang đến cho tôi những ngày vui và đưa tôi vào một cuộc đời mới, trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa của con người.
Trong đêm tối, nàng loạng choạng, quằn quại ngã chúi về phía trước. Máu nàng nhuộm đỏ áo, nhỏ giọt trên đường 13. Với một người con gái chân yếu tay mềm, Hiền có thể làm được gì và sao người ta... lòng dạ nào, ngón tay nào đành đoạn siết hai lần cò khẩu K.50. Hiền ơi...
- Phải không anh? Ba Vinh đứng dừng lại hỏi tôi, nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.
Tôi bối rối:
- Dạ... anh hỏi chi anh Ba?
- Ủa? Nói vậy nãy giờ anh không nghe tôi nói gì hết sao?
- Dạ...
- Anh sao vậy? Làm gì như người mất hồn vậy?
Ba Vinh cười. Mắt Ba Vinh cũng long lanh cười, cái cười xoi mói, chế giễu.
- Hình như tư tưởng anh đang dao động? Anh không an tâm? Hay anh có vấn đề gì.. anh có thể tâm sự với tôi, xem tôi có thể giúp đỡ gì được anh không?
Tôi giật mình. Thì ra tôi đi theo Ba Vinh ra khỏi phòng Thường Trực như kẻ không hồn, Ba Vinh đi trước, tôi theo sau. Ba Vinh nói chuyện với tôi mà tôi không nghe gì hết. Ba Vinh nói gì nhỉ? Và bây giờ tôi phải trả lời sao cho xuôi? Phải giải quyết ngay bằng cách nào, chống chế như thế nào cho có lý để Ba Vinh không phải ngờ vực. Ngờ vực về sự liên hệ giữa tôi và Hiền.
Nhất là sự ngờ vực tôi bất mãn, ngờ vực tôi đang dự tính một điều gì và trong việc thuyên chuyển đưa tôi về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương là nguyên cớ của sự đột biến tư tưởng. Tôi phải trả lời ngay. Phải đánh tan cái dấu hỏi to tướng trong đầu Ba Vinh. Nếu không... Không được...
Ừ, phải rồi, lúc nãy tôi đã «khai bệnh» với Bọ bị «choáng» vì mệt. Bọ đã nói cho Ba Vinh nghe rồi. Chỉ còn mỗi lối thoát đó là hợp lý, an toàn.
Với dáng điều mệt nhọc, đứng xiêu không vững, tôi gắng gượng nói:
- Tôi mệt quá, anh Ba. Tai tôi nãy giờ lùng bùng... ù lên. Chắc tại tôi mới hết sốt rét, lại đi xa.
Mắt Ba Vinh chớp lên:
- Trời đất ơi! Vậy mà hồi nãy tôi hỏi anh khỏe chưa, anh bảo là bình thường, khỏi rồi. Anh nói khoẻ, tôi mới dẫn anh đi. Ai dè... Cái điệu này anh hại tôi rồi. Dọc đường anh ngã lăn đùng ra, làm sao tôi cõng anh cho nổi. May chưa lội qua suối, nếu qua suối anh ngã xuống nước nó cuốn anh đi còn khổ cho tôi nữa.
Đến phiên Ba Vinh bối rối thật sự. Anh ta chỏi gậy, xán đến bên tôi, dìu tôi ngồi xuống đống lá khô bên đường:
- Thôi, ông! Ông ngồi xuống đây nghỉ một chút đi ông. Chờ tôi một chút.
Nói xong, Ba Vinh vội vã cà nhắc quay trở lại Phòng Thường Trực. Tôi thở phào một cái nhẹ nhõm. Nhưng trót đã leo lên lưng cọp, «đã diễn kịch» rồi phải đóng cho trọn vai trò. Không dừng lại được nữa. Tôi cỡi bồng ra, gối đầu lên, nằm nhắm mắt, chờ đợi...
Chừng năm phút, Ba Vinh trở lại với Bọ và một chị phụ nữ.
Ba Vinh hỏi ngay:
- Anh Hùng, bây giờ trong người anh ra sao?
Tôi vẫn nhắm mắt:
- Chóng mặt và mệt thôi...anh.
Chị phụ nữ lên tiếng:
- Đó là triệu chứng trung thành của bệnh sốt rét đó anh Ba! Anh Hùng! Anh có nhức đầu không? Có buồn nôn không? Có nghe sốt không?
- Dạ... không chị. Chỉ chóng mặt với mệt. Tôi vừa hết sốt hai hôm nay.
- Ờ! Như vậy là thiếu máu rồi. Sức khoẻ chưa phục hồi. Không đáng lo lắm anh Ba! Tại anh ấy đi đường xa, mệt nó làm choáng.
Ba Vinh nói:
- Chị là cứu thương, chị có học chuyên môn chị biết, chớ tôi «bù trất» cái chuyện này.
Chị phụ nữ ngồi xuống nắm lấy cổ tay tôi nghe mạch. Tôi nghĩ thầm trong bụng, y tá còn chưa đến đâu huống hồ chỉ là cứu thương thì có đến Tết Congo cũng chưa đoán được tình trạng cơ thể tôi như thế nào.
Bắt mạch một lúc chị ta buông ra:
- Mạch 80. Tám chục không hề gì, khoẻ? Để tôi chích cho một ống Sô ly căm là hết chóng mặt liền.
Ba Vinh cười:
- Vậy, khỏi phải khiêng ảnh đi hén?
- Dạ khỏi anh Ba!
Chị ta loay hoay, leng keng một lúc, đoạn lật đít tôi ra đâm một phát đau điếng, giữa đường, giữa lộ. Tưởng chơi hoá thiệt, khi khổng khi không bị chích một mũi vào đít đau quá là đau. Cũng may nó chỉ là một ống Solucamphre vô thưởng vô phạt. Lãng nhách!
Rút kim ra, chị ta nói:
- So-lu-căm hay lắm. Năm ba phút là hết mệt, hết chóng mặt liền.
Chừng vài phút sau, tôi mở mắt với vẻ uể oải, ngồi dậy. Chị ta reo lên:
- Đó tôi nói đúng như ghi mà! Bây giờ đỡ mệt, đỡ chóng mặt rồi chớ, anh Hùng?
- Dạ đỡ nhiều rồi chị!
Ba Vinh nhướng mắt với tôi:
- Ông hại tôi quá. Thôi ngồi nghỉ thêm một chút rồi chú Bọ hộ tống ông đi với tôi cho chắc.
Chị cứu thương nhắc thêm:
- Anh nhớ nghe! Nhớ tới nhà rồi đừng có tắm nghe! Anh mà tắm nó nhiễm lạnh dám chết lắm đó.
Bóng Tối Đi Qua Tập 2 Bóng Tối Đi Qua Tập 2 - Kim Nhật Bóng Tối Đi Qua Tập 2