Nguyên tác: Les Faux-Monnayeurs
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2020-11-20 22:15:04 +0700
Phần Thứ Hai
BERNARD GỬI OLIVIER
Thứ hai.
Cậu,
Phải nói ngay cho cậu biết mình rớt rồi. Không thấy mình, chắc cậu đã hiểu. Mình sẽ thi lại vào tháng mười. Một dịp may độc nhất đã đến với mình để chu du. Mình vồ lấy ngay, và không ân hận. Phải quyết định tức tốc, không kịp suy nghĩ, không kịp từ giã cậu nữa đấy. Về việc này, mình được giao phó bày tỏ cho cậu hay rằng người đi với mình rất lấy làm ân hận ra đi không gặp cậu. Vì cậu biết ai đem mình đi chứ? Cậu đã đoán ngay..., Édouard đấy, người cậu lẫy lừng của cậu đấy. Mình đã gặp ông ngay buổi chiều ngày ông đến Paris, trong những hoàn cảnh khá hi hữu và giật gân mà mình sẽ tường thuật sau. Nhưng cái gì cũng hi hữu trong câu chuyện này, và, hễ nghĩ tới, đầu óc mình quay cuồng. Hôm nay mình vẫn còn ngần ngại tin là chuyện thật, rằng chính mình viết thư này cho cậu, mình, ở đây, ở Thụy Sĩ cùng với Édouard và... Thôi, phải nói hết cho cậu mới được, nhưng cần nhất là hãy hủy thư đi và giữ lấy cho riêng cậu những lời này.
Cậu thử tưởng tượng người đàn bà khốn nạn bị anh Vincent của cậu bỏ rơi, người mà cậu đã nghe nức nở một đêm nào, gần cánh cửa của cậu (mà cậu đã quá dại dột không mở, cậu cho phép mình nói thế), lại là bạn thân của Édouard, con đẻ của Vedel, chị của Armand bạn cậu. Không nên kể lể những điều này với cậu mới phải, vì phương hại đến danh dự một người đàn bà, nhưng không kể với ai thì mình chết mất... Một lần nữa: hãy giữ riêng cho cậu. Cậu đã biết nàng mới lấy chồng, chắc cậu biết ít lâu sau đó nàng ngã bệnh và đi trị bệnh ở miền Nam. Chính ở đây nàng làm quen với Vincent, tại Pau. Chắc cậu cũng biết việc này. Nhưng điều mà cậu không biết là cuộc gặp gỡ đó lôi kéo theo nhiều việc về sau. Đúng thế, cậu ạ! Ông anh vụng về trời đánh của cậu để lại cho nàng một hòn máu. Nàng mang bầu trở về Paris, nơi đây nàng không dám gặp cha mẹ, lại càng không dám quay đầu về với chồng. Trong khi đó anh cậu chèn ép nàng vào những điều kiện mà cậu đã rõ. Miễn cho cậu những lời bình, nhưng có thể cho cậu hay rằng Laura Douviers không một lời trách móc oán than gì về anh cậu. Trái lại, nàng bịa ra đủ điều khả dĩ dung thứ cung cách của anh. Tóm lại, một người đàn bà kì tuyệt, một bản sắc toàn hảo. Và một người khác chắc chắn cũng kì tuyệt, là Édouard. Vì nàng không còn biết làm gì, đi đâu, ông cậu đề nghị với nàng đưa nàng đi Thụy Sĩ và lúc đề nghị mình đi theo, vì đi một mình với nàng, ông không tự nhiên, vẫn biết đối với nàng ông chỉ có tình bạn. Thế là cả ba chúng mình ra đi. Sự việc quyết định trong năm giây đồng hồ, vừa vặn kịp làm va li sắm sửa áo quần cho mình (vì cậu biết mình bỏ nhà ra đi không đem theo gì). Trong trường hợp này, Édouard sao mà dễ mến thế, phương chi ông cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng chính mình đã giúp ông. Đúng đấy cậu, ông là một người chơi đẹp.
Cuộc đi khá khó nhọc vì Laura quá mệt và vì tình trạng của nàng (cái thai bước sang tháng thứ ba) đòi hỏi nhiều sự nương dưỡng, và vì địa điểm định đi tới (vì những lí do nói ra quá dài dòng) là địa điểm có đường đi khá khó khăn. Mà Laura thì thường khi nhiễu sự vì không chịu phòng xa, phải ép buộc nàng mới xong; nàng nhắc nhở hoài hủy rằng diễm phúc cho nàng hơn cả là có một tai nạn gì xảy ra.
Cậu nghĩ chúng mình săn sóc chi li cho nàng. A! Người đàn bà đáng phục thay, cậu ạ! Mình cảm thấy mình là con người khác với con người trước khi quen biết nàng và có những ý tưởng mà mình không dám tỏ bày ra nữa, những mối động tâm mà mình kiềm hãm, ở bên nàng, như thể buộc mình phải tư tưởng thanh cao. Điều này vẫn không ngăn cản cuộc chuyện trò giữa ba chúng mình có tính cách thật phóng khoáng, Laura chẳng phải người đàn bà quá khép kín - và chúng mình nói đủ chuyện; nhưng mình quả quyết với cậu rằng, đứng trước mặt nàng, có nhiều điều mình hết muốn bông đùa và bây giờ lộ ra vô cùng nghiêm trọng.
Cậu lại đâm ra tin mình yêu nàng. Ấy! Nếu thế thì, cậu ạ, có lẽ cậu cũng không nhầm. Điên thật, nhỉ? Cậu có hình dung ra mình, yêu một người đàn bà có thai, mà dĩ nhiên mình quý trọng và không dám chạm đầu ngón tay? Cậu thấy mình đâu có đổ đốn...
Khi đến Saas-Fée, sau vô số khó khăn (chúng mình thuê cáng cho Laura, vì xe cộ không đi tới đây), khách sạn chỉ có thể ứng cho chúng mình hai phòng, một phòng lớn hai giường và một phòng nhỏ, trước mặt người chủ khách sạn, có giao ước rằng mình sẽ chiếm phòng nhỏ - bởi, để che giấu lí lịch, Laura nhận là vợ của Édouard; nhưng hàng đêm chính nàng chiếm phòng nhỏ và mình sang với Édouard ở phòng kia. Mỗi buổi sáng là cả sự lỉnh kỉnh để che mắt bọn giúp việc. May hai phòng thông nhau, cũng đỡ.
Thế mà chúng mình ở đây đã được sáu hôm, mình không viết cho cậu sớm hơn là vì lúc đầu mình quá bỡ ngỡ và mình phải thỏa hiệp với chính mình đã. Nay mình mới bắt đầu nhận ra mình.
Édouard cùng với mình tổ chức một vài chuyến dạo núi, thật lí thú, nhưng thật tình xứ này mình không thích lắm. Édouard cũng thế. Ông cho rằng phong cảnh có tính cách “lớn lối”. Hoàn toàn đúng.
Cái tốt nhất ở đây, là không khí mình thở, cái không khí tinh tấn lọc sạch buồng phổi cho mình. Có điều chúng mình không muốn để Laura ở nhà một mình quá lâu, vì cố nhiên nàng không thể đi theo chúng mình. Xã hội người trong khách sạn khá vui. Đủ quốc tịch. Trên hết, chúng mình giao du với một bà bác sĩ người Ba Lan đi nghỉ hè ở đây với đứa con gái và thêm một thằng bé được người ta gửi nhờ. Có thể nói chính là để tìm gặp thằng bé này mà bọn mình lặn lội tới đây. Nó mắc phải một thứ bệnh thần kinh mà bác sĩ săn sóc theo một phương pháp hoàn toàn mới mẻ. Nhưng điều lợi hơn cả cho thằng bé, thằng bé dễ thương thật tình, là nó si mê đứa con gái bà bác sĩ, lớn hơn nó mấy tuổi và quả tình là đứa con gái đẹp nhất mà mình được thấy. Từ sáng tới tối chúng không rời nhau. Cả hai thật khả ái với nhau khiến không ai nghĩ đến chuyện ghẹo chúng.
Mình chẳng học gì nhiều cả, và không mở một cuốn sách nào kể từ buổi ra đi, nhưng mình nghĩ ngợi nhiều. Nói chuyện với Édouard thật hữu ích phi thường. Ông không nói trực tiếp với mình nhiều, dù ông vờ coi mình như thư kí; nhưng mình nghe ngóng ông chuyện trò với người khác, nhất là với Laura là người được ông thích kể lể dự định của ông. Cậu không lường nổi điều đó hữu ích cho mình đến đâu. Có nhiều hôm mình tự nhủ phải ghi chép lại, nhưng mình tin mình nhớ hết. Có nhiều hôm mình mong cậu gớm, nhưng không thể nào ân hận cho những gì đã xảy ra đến với mình, cũng không mong thay vào đó được điều gì. Dù thế nào, cậu hãy thầm nhủ rằng mình không quên là nhờ cậu mình mới quen Édouard, và mình được hạnh phúc là nhờ cậu. Gặp lại mình, mình tin rằng cậu sẽ thấy mình thay đổi, nhưng vẫn là bạn của cậu, không suy suyển và sâu xa hơn bao giờ hết.
Thứ tư.
T.B. Thứ tư, - Chúng mình vừa từ một chuyến đi vĩ đại trở về liền đây. Lên ngọn Halladin - mấy người hướng dẫn buộc dây vào chúng mình, nào băng hà, vực, tuyết đổ nhào, v.v.. Nằm một chỗ khuất, giữa tuyết và tuyết, chất chồng với bọn du khách khác, chúng mình, khỏi nói, suốt đêm không chợp mắt. Sáng lại ra đi trước bình minh... Thôi nhé cậu, mình không nói xấu Thụy Sĩ nữa đâu: lên đến trên cao, khi đã hết nhìn thấy những khu trồng trọt, cây cối, tất cả những gì nhắc nhở sự biển lận, mê muội của loài người, ta muốn hát, muốn cười, muốn khóc, muốn bay, muốn đâm đầu vào không trung hay muốn quỳ gối xuống. Thương cậu.
BERNARD
Bernard là người quá bộc tuệch, quá tự nhiên, quá trong sạch, hắn hiểu sai về Olivier quá nhiều, nên không e dè gì về cái sống tình cảm dị hình mà lá thư của hắn sẽ khơi dậy trong người Olivier; một thứ như thủy triều làm bằng giận dỗi, thất vọng, điên tiết lẫn lộn. Olivier cảm thấy mình bị bứng ra khỏi lòng của Bernard và Édouard. Tình bạn của hai người đã loại tình bạn của hắn. Nhất là một câu trong thư Bernard hành hạ hắn; giá như linh cảm tất cả những gì Olivier nhận ra qua lá thư, Bernard đã không viết câu: “Ở trong phòng”, Olivier lẩm nhẩm - và lòng đố kị như con rắn ghê tởm trườn mình quằn quại trong lòng hắn. “Hai người ngủ trong một phòng!”... Còn có cái gì mà hắn khỏi tưởng tượng ra ngay? Trí óc hắn đầy ắp những hình ảnh không trong sạch mà hắn cũng không tìm cách đuổi đi. Hắn không đố kị riêng người nào, Édouard hay Bernard, mà cả hai. Hắn hình dung bọn họ, lần lượt hay luôn cả hai người, và thèm được như họ. Hắn nhận được thư vào giữa trưa. “Thế thì thôi!...”, hắn nhắc đi nhắc lại đến hết ngày. Đêm nay, quỷ địa ngục nhập vào người hắn. Sáng mai hắn tung mình đến Robert. Bá tước chờ đợi hắn.
* * *
II
NHẬT KÍ Édouard
Tôi tìm ra bé Boris không khó khăn. Hôm sau buổi đến nơi, nó hiện ra ở sân thượng khách sạn và bắt đầu nhìn ngắm núi non qua cái viễn kính đóng trên một cái giá, để cho khách sử dụng. Tôi nhận ra nó ngay. Một đứa con gái lớn hơn nó một ít đến theo liền sau đó. Tôi ngồi gần kề, trong phòng khách có cửa sổ lớn mở ra, và không để mất một lời nào trong câu chuyện của chúng. Tôi rất muốn ngỏ lời với nó, nhưng tôi nghĩ nên thận trọng hơn bằng cách liên lạc trước với mẹ của đứa con gái, là một bà bác sĩ người Ba Lan được người ta gửi gắm Boris và bà coi ngó nó sát nút. Bé Bronja là đứa con gái thật tuyệt diệu, chắc cũng được mười lăm tuổi. Tóc nó vàng hoe thắt bím chảy dài xuống người, tia mắt và thanh âm có vẻ thần thánh hơn là người. Tôi viết ra những lời nói của hai đứa bé:
- Boris à, mẹ muốn chúng mình đừng có sờ vào kính. Boris không muốn lại đây cùng dạo chơi sao?
- Ừ muốn lắm chứ. Không, không muốn.
Hai câu tương phản được nói ra một hơi. Bronja chỉ ghi nhận câu sau và nói lại:
- Sao thế?
- Trời nóng quá, trời lạnh quá. (Nó đã rời viễn kính.)
- Nào, Boris, nói biết nghe nào. Boris biết mẹ thích bọn mình đi chơi với nhau. Nón để đâu rồi?
- Vibroskomenopatof. Blaf blaf.
- Là nghĩa thế nào?
- Không có nghĩa.
- Thế thì nói làm gì?
- Để Bronja khỏi hiểu.
- Nếu không có nghĩa gì thì Bronja không hiểu cũng chẳng sao.
- Nhưng nếu có nghĩa đi nữa, tronja cũng chẳng hiểu đâu.
- Nói là để cho người khác hiểu chứ.
- Bronja muốn mình chơi trò đặt chữ để hai đứa riêng hiểu.
- Boris hãy gắng nói câu kéo cho thông đã.
- Mẹ Boris nói tiếng Pháp, Anh, Lỗ, Nga, Thổ, Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lục Quả, Xi Xi Tu.
Những tiếng này được nói ra rất lẹ, như trong một cơn cuồng hứng.
Bronja bật cười:
- Boris khi nào cũng kể toàn chuyện không có thật là tại làm sao?
- Bronja không bao giờ tin chuyện Boris kể là tại làm sao?
- Khi nào có thật thì Bronja tin.
- Làm sao biết khi nào thì thật? Hôm nọ Boris tin Bronja lắm đấy chứ, khi Bronja kể chuyện thiên thần đấy. Này, Bronja: nếu Boris cầu nguyện ghê lắm, thì bronja có chắc là Boris cũng trông thấy được thiên thần không?
- Có thể thấy được, nếu Boris bỏ cái thói nói dối và nếu Chúa muốn cho Boris thấy; nhưng Chúa sẽ không cho Boris thấy nếu Boris chỉ cầu nguyện xin thấy mà thôi. Có nhiều cái thật đẹp, nếu mình bớt quấy, mình sẽ thấy hết.
- Bronja à, Bronja không quấy nên mới thấy được thiên thần. Còn Boris lúc nào cũng là thằng quấy.
- Tại sao Boris không tìm cách làm cho hết quấy? Boris bằng lòng hai đứa mình đi miết cho tới chỗ (đến đây là sự chỉ định một địa điểm mà tôi không biết) và đến đó cả hai đứa mình sẽ cầu nguyện Chúa và Mẹ Đồng Trinh cứu giúp cho Boris hết quấy.
- Phải. Không, thế này chứ: mình lấy một cái cây, Bronja nắm một đầu còn Boris đầu kia. Boris nhắm mắt lại và Boris hứa đến nơi mới mở mắt ra.
Hai đứa rời xa một đỗi; và trong khi chúng đi xuống bực cấp của sân thượng, tôi còn nghe Boris:
- Đấy, khoan, không phải đầu này. Chờ Boris chùi sạch đã.
- Sao thế?
- Tại Boris có đụng vào đấy.
Bà Sophroniska tiến lại phía tôi, khi tôi đang ngồi một mình, bữa ăn trưa xong xuôi, và chính tôi cũng đang tìm cách làm quen với bà. Tôi kinh ngạc thấy bà cầm trên tay tác phẩm mới nhất của tôi: bà hỏi tôi, nhoẻn miệng cười rất thanh nhã, rằng có phải là hiện đang được hân hạnh ngỏ lời với tác giả chăng: kế đó tức thì bà thao thao phê phẩm cuốn sách của tôi. Lời phê của bà, khen và chê, đối với tôi có vẻ thông minh hơn những người mà tôi thường nghe, dù quan điểm của bà chỉ là quan điểm văn chương. Bà bảo tôi bà hầu như chỉ quan tâm tới những vấn đề tâm lí và tới những gì có thể chiếu rọi tâm hồn con người bằng ánh sáng mới mẻ. Nhưng hiếm hoi thay, bà nói thêm, là bọn nhà thơ, kịch hay văn, biết chối nhận một thứ tâm lí dọn sẵn (thứ tâm lí duy nhất khả dĩ vừa lòng độc giả, tôi nói với bà thế).
Bé Boris được mẹ nó ủy thác trong dịp hè. Tôi dằn lòng không để lộ những lí do khiến tôi quan tâm đến nó.
- Khó chắt chiu nó lắm. - Bà Sophroniska bảo tôi. - Vòng giao thiệp của mẹ nó không được gì cho nó hết. Mẹ nó có bảo đi Saas-Fée cùng với tôi và Boris, nhưng tôi lại chỉ bằng lòng trông nom đứa bé nếu bà hoàn toàn giao phó nó cho tôi săn sóc thôi, bằng không, có chữa được cho nó không, tôi đâu chịu trách nhiệm. Ông nghĩ coi, - bà tiếp lời, - mẹ nó cứ đặt đứa bé vào một tình trạng kích động liên miên, làm cho những sự xáo trộn thần kinh dễ bề nảy nở trong người nó. Từ khi người cha chết, bà mẹ phải làm ăn. Bà chỉ dạy dương cầm và tôi phải nói là người đánh đàn vô song; nhưng lối chơi đàn quá tinh vi của bà không làm vừa lòng đại quần chúng được. Bà mới quyết định hát trong những buổi hòa nhạc, trong các hộp đêm, bước lên sân khấu. Bà đem Boris theo vào lô riêng của bà; tôi nghĩ rằng không khí giả tạo của rạp hát chỉ tổ làm cho đứa bé mất quân bình. Mẹ nó yêu nó lắm, nhưng nói cho ngay, thà nó đừng sống với mẹ nữa.
- Thật ra thì nó mắc phải gì? - Tôi hỏi.
Bà cười:
- Ông muốn biết tên chứng bệnh của nó chứ gì? Ấy! Nói ra một cái tên bác học hay ho, ông chẳng biết thêm được gì.
- Bà cho tôi biết nó đau gì thôi.
- Một mớ xáo trộn vặt vặt, những tật, những chứng, có thể nói: nó bệnh thần kinh, và thói thường ta săn sóc bằng vệ sinh và cho nghỉ ngơi ở nơi thoáng. Dĩ nhiên một cơ thể tráng kiện sẽ không để cho những xáo trộn đó tự tiện sinh sôi. Nhưng nếu vì suy nhược mà xáo trộn dễ bề sinh sôi đi nữa thì đó cũng chẳng phải là nguyên nhân chính. Tôi tin rằng mình luôn luôn có thể tìm ra căn do sự rúng động đầu tiên của đương sự phát sinh từ một biến cố nào đó cần nên khám phá cho ra. Con bệnh, kể từ khi trở nên ý thức được nguyên nhân, đã lành bệnh hết nửa. Nhưng thường khi nguyên nhân đó vuột ra khỏi kí ức của con bệnh: có thể nói rằng nó lẫn vào bóng tối bệnh trạng; chính tôi đang lục lạo nó ở đàng sau chỗ ẩn núp đó để đưa nó ra ánh sáng, tôi muốn nói, đưa nó vào trong vòng nhãn quan. Thiết tưởng một cái nhìn sáng suốt gột sạch lương tâm giống như lằn ánh sáng lọc nước nhiễm trùng.
Tôi thuật lại cho bà Sophroniska cuộc đàm thoại mà tôi nghe lỏm hôm qua và theo đó tôi có cảm tưởng Boris đã bình phục từ lâu.
- Cũng còn lâu tôi mới biết hết những gì cần biết về dĩ vãng của Boris. Tôi bắt tay vào việc điều trị cũng chưa lâu lắc gì.
- Thưa, chữa trị thế nào?
- Có gì đâu! Chỉ để cho nó nói. Mỗi ngày tôi sống một hai giờ bên nó. Tôi đặt câu hỏi, nhưng ít lắm. Điều quan trọng là thu phục được lòng tin tưởng của nó. Tôi đã biết nhiều chuyện. Tôi linh cảm nhiều chuyện khác. Nhưng thằng bé còn thủ thế, nó ngượng; nếu tôi nằng nặc thúc bách quá hay mạnh tay quá, tôi sẽ đi ngược lại điều tôi mong mỏi có được, là một sự thả lỏng hoàn toàn. Nó sẽ chống đối. Chừng nào tôi hãy còn chưa xóa bỏ sự thủ ý, e ấp của nó...
Công cuộc sát hạch mà bà nói với tôi đây có vẻ xâm phạm đến độ tôi khó lòng kiềm chế một động tác phản đối; may sao tính hiếu kì của tôi mạnh hơn.
- Thế có nghĩa là bà trông chờ thằng bé tiết lộ một vài điều trắng trợn chứ gì?
Đến lượt bà phản đối:
- Trắng trợn? Muốn được chẩn bệnh thì không còn gì gọi là trắng trợn. Tôi cần biết tất cả và đặc biệt là những cái người ta lo giấu giếm hơn cả. Tôi phải điều động Boris cho đến khi nó thú nhận hoàn toàn, chưa được thì không thể trị cho nó lành bệnh nổi.
- Hẳn nhiên bà ngờ nó nhiều điều thú nhận với bà? Xin lỗi, bà chắc không mớm cho nó nhiều điều mà chính bà mong muốn nó thú nhận chứ?
- Đã hẳn mối bận tâm đó không rời bỏ tôi và chính nó mách bảo cho tôi khí chậm. Tôi đã mục kích nhiều ông dự thẩm vụng về vô tình mớm cho một đứa bé lời khẩu cung được bày vẽ sẵn và đứa bé, dưới áp lực thẩm vấn, đã nói dối một cách thiện tín hoàn toàn, tin tưởng vào những điều tai hại giả tưởng. Vai trò của tôi là để cho mọi sự đưa đẩy và nhất là tuyệt không mớm ý. Muốn thế, cần kiên nhẫn phi thường.
- Tôi nghĩ rằng ở đây phương pháp cũng giá trị ngang bằng với người điều động.
- Tôi không dám nói thế. Tôi đoan chắc với ông rằng, sau một thời gian thực hành, mình sẽ đi đến một sự thuần thục phi thường, một thứ thần diệu, một thứ linh tính, nếu ông muốn. Tuy nhiên đôi khi ta có thể lao mình vào những lối đi lầm lạc, điều quan trọng là đừng nằm lì trong đó. Này, ông có biết chúng tôi khởi đầu nói chuyện như thế nào không? Boris bắt đầu bằng cách thuật lại cho tôi giấc mơ của nó hồi đêm.
- Ai bảo bà nó không bịa?
- Nó bịa đã sao?... Chuyện bịa đặt nào của óc tưởng tượng bệnh hoạn cũng tiết lộ.
Bà im lặng một lát, kế đó:
- Bịa đặt, tưởng tượng bệnh hoạn... Không! Không phải thế. Chữ nghĩa đánh lạc chúng ta. Boris, trước mặt tôi, nói mơ sang sảng. Hàng sáng, suốt một giờ đồng hồ, nó chịu sống trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó với những hình ảnh hình thành vượt sự kiểm soát của lí trí. Hình ảnh thu góp lại, liên kết với nhau không theo sự hợp lí thông thường nhưng theo những cảm ứng bất ngờ; nhất là chúng đáp đúng một sự đòi hỏi nội tâm huyền bí, chính sự đòi hỏi đó là cái cần khám phá; và những lời bông lông của một đứa bé hữu dụng cho tôi còn hơn là sự giải thích thông minh nhất có thể thực hiện được với con bệnh đầy ý thức hơn cả. Nhiều cái ra ngoài vòng luận lí, và kẻ nào muốn hiểu đời mà chỉ áp dụng có lí trí thì khác nào kẻ tự phụ lấy kẹp mà gắp lửa. Trước mặt y chỉ còn miếng gỗ than, thoắt một cái đã hết ngọn.
Bà lại ngừng nói và bắt đầu lật cuốn truyện của tôi.
- Đấy, sao các ông chẳng đi thật sâu vào lòng người, - bà nói lớn, rồi bỗng cười tiếp. - Ấy! Tôi không nói riêng gì ông: khi tôi nói các ông có nghĩa là những người viết tiểu thuyết. Phần lớn nhân vật của các ông như thể được xây dựng bay trên mặt đất, không nền móng, không có lớp hạ tầng. Tôi thật tình tin rằng, ở các thi sĩ, người ta tìm thấy nhiều điều thật hơn; mọi cái sáng tạo thuần lí trí đều sai lạc. Nhưng thôi, ở đây tôi bàn tới chuyện chẳng dính dự gì đến tôi... Ông có biết cái gì nơi con người của Boris đánh lạc hướng tôi? Đó là điều tôi tin rằng nó rất trong sạch.
- Sao bà bảo điều đó lại đánh lạc hướng bà?
- Vì nếu thế thì tôi không còn biết tìm đâu ra nguyên ủy của bệnh. Mười lúc thì hết chín, người ta tìm ra nguyên ủy loại xáo trộn như thế là một điều thầm kín to lớn xấu hổ.
Tôi nói:
- Trong mỗi chúng ta thì có lẽ người ta tìm ra, nhưng may chúng ta không vì thế mà bị bệnh tất cả.
Đến đây, bà Sophroniska đứng lên, bà vừa thấy Bronja đi qua cửa sổ. Bà chỉ đứa bé gái nói:
- Đấy, thầy thuốc thật sự của Boris đấy. Nó kiếm tôi, tôi phải cáo từ ông, nhưng sẽ gặp lại, ông nhỉ?
Những điều mà bà Sophroniska trách cuốn truyện không trình bày ra cho bà, những điều ấy tôi vẫn hiểu; nhưng ở đây một số lí do nghệ thuật, một số lí do cao hơn vượt ra ngoài tầm của bà, chính chúng bắt tôi nghĩ rằng một nhà văn hảo hạng theo trường phái tự nhiên không thể thành một nhà viết tiểu thuyết hảo hạng được.
Tôi giới thiệu Laura với bà Sophroniska. Hai người có vẻ tâm đầu ý hiệp và tôi lấy làm mừng. Tôi ít phải áy náy tách mình đi lẻ khi biết hai người đang trò chuyện với nhau. Tiếc rằng Bernard ở đây không tìm ra bạn cùng lứa; nhưng dù sao kì thi phải chuẩn bị cũng cầm chân nó một số giờ trong ngày. Tôi đã có thể trở lại bắt tay vào cuốn truyện của tôi.
* * *
III
Mặc cho cái vẻ bề ngoài thoạt tiên như thế, và dù mỗi người, nói theo chữ của người đời, đóng góp “mỗi người một ít”, mọi việc chỉ êm đẹp có một nửa giữa ông cậu Édouard và Bernard. Laura cũng không cảm thấy vừa lòng. Vừa lòng sao được? Hoàn cảnh buộc nàng thủ một vai trò bất đắc dĩ, tính hiền lương của nàng khiến nàng lúng túng ở trong đó. Cũng như những người con gái sẵn lòng yêu và dễ dạy hóa thành những người vợ chí thú, thì đây Laura, vốn muốn nương tựa, cần phải thích ứng, và cảm thấy mình kiệt lực từ buổi mình như tấm hình mất khung. Vị thế của nàng đối diện với Édouard ngày càng có vẻ sai trật. Điều mà nàng lấy làm khổ sở hơn cả, chỉ cần ngưng đọng tư tưởng một chút, điều trở nên khó chấp nhận, là sống bám vào con người bảo trợ này, hay nói khác hơn: là không đền đáp được gì, hay đúng hơn nữa: là Édouard không đòi hỏi nàng đền đáp gì, trong khi nàng cảm thấy mình sẵn sàng thuận cho chàng mọi điều. “Ân huệ,” lời của Tacite(10) do Montaigne thuật lại, “chỉ dễ chịu chừng nào ta có thể mang trả”; và có lẽ điều này chỉ đúng với những tâm hồn cao thượng, mà đương nhiên Laura thuộc loại này. Trong khi nàng những mong cho, thì chính nàng không ngớt nhận, và điều này khiến nàng hận Édouard. Hơn thế nữa, hễ hồi tưởng, nàng thấy như thể Édouard gạt gẫm nàng khi đánh thức dậy trong lòng nàng một mối tình mà nàng cảm thấy còn sống nóng, kế đó lại lẩn trốn tình và để nó vô hiệu. Há chẳng phải là lí do thầm kín lôi kéo những lí do lầm lạc của nàng, lôi kéo sự thành thân của nàng với Douviers, một sự thành thân mà nàng cam chịu, mà Édouard đưa nàng đến; kế đó, liền sau đó là lí do của sự buông xuôi của nàng theo lời mời gọi của mùa xuân? Bởi, nàng vẫn tưởng tới Édouard. Và, vì không thể tự giải thích cho mình sự lạnh nhạt của tình nhân, nàng quy lỗi về mình, tự nhủ mình có thể thắng được tình nhân nếu mình đẹp hơn hay bạo hơn; và, không ghét chàng nổi, nàng buộc tội mình, hạ giá mình, phủ nhận giá trị mình, từ khước lí do hiện diện của mình và hết nhìn nhận ưu điểm của mình.
Hãy nói thêm rằng cái lối sống nhổ trại này, vì cách sắp xếp của các phòng buộc phải thế, có thể đối với những người bạn kia là vui thú, thì lại làm tổn thương mọi nét tính e lệ trong nàng. Và nàng không thấy thoáng hiện một lối thoát nào cho tình trạng này, dù sao vẫn khó lòng kéo dài thêm.
Laura chỉ đào ra được chút ít an ủi và vui tươi khi bày biện ra trước mặt Bernard những nghĩa vụ mới mẻ làm mẹ đỡ đầu hay làm chị cả. Nàng cũng dễ cảm xúc đối với sự ngưỡng mộ của tên thiếu niên đầy vẻ khả ái; sự mến mộ đặc hưởng cầm giữ nàng lại trên triền dốc khinh bỉ bản thân, chán ngán, dễ đưa những kẻ bất định nhất đến những quyết định quá trớn. Mỗi buổi sáng, Bernard, khi nào không bị lôi kéo đi ngao du vào núi trước bình minh (vì hắn thích dậy sớm), để ra trọn hai giờ đọc Anh văn ở bên nàng. Kì thi hắn phải dự vào tháng mười là cái cớ dễ dàng cho hắn.
Thật tình ta không thể nói rằng nhiệm vụ thư kí đã chiếm nhiều thì giờ của hắn. Nhiệm vụ không được minh định, Bernard, hễ thi hành nhiệm vụ là đã hình dung mình ngồi trước bàn viết, viết theo lời đọc của Édouard, chép lại sạch sẽ những bản thảo, Édouard nào có đọc gì đâu; bản thảo, giá như có, vẫn được khóa kín trong hòm; giờ nào trong ngày Bernard cũng tự do, nhưng vì hoàn toàn tùy Édouard muốn sử dụng nhiều hơn một tấm lòng hăng hái chỉ đòi hỏi được sử dụng, nên chỉ Bernard không thắc mắc gì cho lắm về rảnh rỗi của mình và không thắc mắc về việc không đáng hưởng cái nếp sống khá rộng rãi này mà hắn hiện sống nhờ lòng khoan dung của Édouard. Hắn đã quyết không để mình lúng túng theo những lo âu. Hắn tin tưởng, tôi không dám bảo là ở trời, nhưng ít ra là ở ngôi sao chiếu mạng, và hắn tin rằng hắn được quyền hưởng một hạnh phúc nào đó giống như buồng phổi được hưởng không khí hít thở. Édouard là kẻ phân phối, giống như, theo Bossuet, nhà hùng biện thiên sứ là kẻ phân phối túi khôn của nhà trời. Huống chi, nếp sống hiện tại, Bernard cho là tạm bợ, đinh ninh có thể trang trải một ngày nào đó, và trang trải ngay khi hắn sẽ biến thành tiền bạc những của cải mà hắn dè chừng là vô lượng trong lòng hắn. Điều đúng ra làm hắn bực tức, là Édouard không lí tới vài cái năng khiếu mà hắn cảm nhận nơi mình vốn không tìm thấy ở Édouard. “Ông chẳng biết dùng mình.” Bernard nghĩ, dằn tự ái xuống rồi khôn ngoan nghĩ tiếp ngay. “Mặc”.
Nhưng thế thì, giữa Édouard và Bernard, sự khó xử do đâu mà có? Bernard thì có vẻ thuộc loại người tìm thấy lòng vững tin của mình trong sự chống đối. Hắn không chịu để cho Édouard trịch thượng và trước khi bị ảnh hưởng, hắn kình chống Édouard vốn không hề nghĩ đến việc uốn nắn hắn, khi thì giận dỗi, khi thì buồn lòng cảm thấy hắn bướng bỉnh, chực tự vệ hay ít ra là chực thủ thế. Rốt cục chàng hoài nghi không hiểu mình đã lỡ một bước chăng khi đem theo hai người mà hình như chàng ráp đôi là chỉ để cho cả hai liền tay chống lại chàng. Vô phương đi sâu vào tình cảm thầm kín của Laura, chàng coi sự lẩn tránh và thủ ý của nàng như là sự lạnh nhạt. Nếu hiểu rõ khúc nôi, chàng sẽ bối rối, Laura hiểu như thế; chung quy mối tình bẽ bàng chỉ còn dụng sức vào việc trốn tránh và nín tiếng mà thôi.
Giờ uống trà thường ngày quây tụ cả ba người vào trong gian phòng lớn; nhiều khi bà Sophroniska, được mời cũng góp mặt với họ, nhất là những ngày Boris và Bronja bỏ đi chơi. Với tuổi tác của chúng, bà vẫn để cho thật tự do; bà hoàn toàn tin tưởng ở Bronja, biết Bronja rất thận trọng, đặc biệt đối với Boris, còn Boris tỏ ra đặc biệt dễ nghe lời đối với Bronja. Vùng này thì an toàn, vì đối với chúng nó dĩ nhiên làm gì có chuyện mạo hiểm vào núi, đến như leo trèo các tảng đá kề cạnh khách sạn cũng không. Hôm ấy hai đứa trẻ được phép đi tới tận dưới chân ngọn băng hà, miễn đừng ra khỏi đường đi là được; bà Sophroniska, được mời uống trà, bạo miệng đến nỗi dám yêu cầu Édouard nói cho mọi người nghe về cuốn truyện tương lai của chàng, nếu chàng không lấy thế làm điều.
- Làm điều gì đâu, nhưng tôi không kể được.
Thế mà chàng như muốn nổi giận khi Laura hỏi chàng xem (đúng là câu hỏi vụng về) “cuốn truyện nó có giống cái thứ gì không”.
- Không giống cái thứ gì hết, - chàng lớn giọng, và như thể chàng chỉ chờ chực có lời khiêu khích đó. - Tại sao phải làm lại những cái mà người khác đã làm, hay chính tôi đã làm, hay nhiều người khác có thể làm?
Édouard vừa thốt nên những lời vừa rồi đã cảm thấy ngay không ổn và quá trớn và vô lí; ít ra, đối với chàng là có vẻ không ổn và vô lí; hoặc ít ra chàng sợ Bernard xét thấy như thế.
Édouard rất dễ bị nhột nhạt. Hễ ai đề cập với chàng về công việc của chàng, và nhất là hễ ai khiến chàng nói việc mình ra, tưởng chừng chàng mất bình tĩnh.
Chàng hoàn toàn khinh miệt sự khoác lác thường có của tác giả, chàng cũng hết lòng triệt hạ sự khoác lác của chính mình, nhưng chàng thích tìm thấy trong sự kiêng dè của người khác một sự vỗ về cho tính nhún nhường của mình; sự kiêng dè ấy thiếu mất ư, là lập tức nhún nhường tan hoang. Chàng rất quan tâm đến lòng quý mến của Bernard. Phải chăng để chinh phục lòng quý mến đó mà Édouard chưa chi đứng trước mặt hắn đã để cho cơn trào lòng nổi giận? Đó là cách dễ đánh mất lòng quý mến đó hơn cả, Édouard cảm thấy rõ như thế lắm chứ, chàng đã nhủ lòng, đã thầm nhắc nhở; thế mà, quyết định bao nhiêu đi nữa, hễ đứng trước mặt Bernard là chàng hành động khác hẳn ý muốn của mình ngay, và phát ngôn theo một lối mà chàng xét thấy là vô lí ngay (mà vô lí thật). Do đó người ta có thể nghĩ rằng chàng thích hành động như thế. Nhưng không, tôi không tin thế. Muốn bị chúng ta nhếch mép, mà muốn được chúng ta yêu thích cũng thế, một chút ít tự phụ đã đủ.
- Phải chăng, trong các loại văn nghệ, - Édouard diễn giảng, - vì tiểu thuyết vẫn là loại tự do hơn cả, vô luật lệ hơn cả... Có lẽ vì thế chăng, vì sợ ngay cái tự do đó (vì bọn văn nghệ sĩ nào thèm khát tự do hơn cả thường khi là bọn hốt hoảng hơn cả một khi đã được tự do) vì thế mà tiểu thuyết luôn luôn sợ phải bám víu vào thực tại chăng? Và tôi không nói riêng gì tiểu thuyết Pháp. Luôn cả tiểu thuyết Anh, tiểu thuyết Nga đã thoát được gò bó như thế đấy, vẫn làm nô lệ cho sự giống nhau trùng hợp. Tiến bộ duy nhất mà tiểu thuyết dự liệu, là tiến gần tới sự tự nhiên hơn nữa. Nó không hề được làm quen với sự “mòn góc cạnh một cách khủng khiếp” như Nietzsche(11) nói, và không hề làm quen với sự tách lìa cuộc sống một cách chủ ý, là hai đặc tính đã tô bồi cho bút pháp những kịch phẩm Hy Lạp chẳng hạn, hay những bi kịch thế kỉ XVII của Pháp. Có cái gì hoàn hảo hơn và nhân bản thâm sâu hơn những tác phẩm ấy? Nhưng quả nhiên là nhân bản một cách thâm sâu mà thôi, không tự hào là nhân bản một cách lồ lộ, hay ít ra không tự hào là thực tế một cách lồ lộ. Như thế vẫn là một tác phẩm nghệ thuật.
Édouard đứng lên, và, vì sợ lộ rõ vẻ giảng bài nên vừa nói chàng vừa rót nước, rồi đi đi lại lại, rồi vắt miếng chanh vào tách, nhưng vẫn nói tiếp:
- Nhân vì Balzac là một thiên tài, và vì mọi thiên tài dường như ghép vào nghệ thuật mình một lối giải quyết quyết định và độc nhất, người ta đã bày ra điều lệ rằng đặc tính của tiểu thuyết là cạnh tranh với “tình trạng dân giả” Balzac đã xây dựng tác phẩm của mình, nhưng không hề có ý đặt luật tắc cho tiểu thuyết; bài của ông viết về nhà văn Pháp Stendhal nêu rõ điều đó. Cạnh tranh với “tình trạng dân giả”! Làm như thể chưa có đủ bọn người ngợm cục súc ở đời này! Tình trạng dân giả mà làm gì chứ! Tình trạng là tôi, nghệ sĩ! Còn dân giả hay không, tác phẩm của tôi không có ý cạnh tranh cái gì hết.
Édouard bừng bừng, có lẽ giả tạo phần nào, bây giờ ngồi xuống lại. Chàng vờ không nhìn Bernard; nhưng chàng nói là để cho hắn. Nếu ngồi một mình với Bernard, chàng đã không biết nói gì, chàng biết ơn hai người đàn bà đã thúc đẩy chàng.
- Có khi tôi thấy hình như trong văn chương, thí dụ như trong kịch của Racine, tôi không phục gì cho bằng cuộc bàn cãi giữa Mithridate và con cái, dù ta biết rõ rằng cha con đời nào có thể nói năng với nhau như thế chứ, dù sao (đúng ra tôi phải nói là: chính vì thế) các người cha và hạng con cái dễ nhận diện mình qua đó. Khi định vị và đưa ra cái cá biệt là ta giới hạn. Chân lí về tâm lí có chăng là khi nó riêng biệt, quả như vậy, nhưng nghệ thuật thì chỉ có nghệ thuật tổng quát. Tất cả vấn đề là ở đấy, chính thế, diễn cái tổng quát bằng cái riêng biệt, nhờ cái riêng biệt mà diễn cái tổng quát. Tôi châm ống điếu được chứ?
- Xin tự nhiên, tự nhiên, - Sophroniska nói.
- Đấy! Tôi muốn tiểu thuyết làm sao vừa thật như thực tế, vừa xa rời thực tế, vừa riêng biệt vừa tổng quát đồng thời vừa có nhân tính mà vừa ảo tưởng, như Athalie, như Tartuffe hay Cinna.
- Thế... đề tài tiểu thuyết đó?
- Không có đề tài, - Édouard vụt đáp, - và có thể đó là cái đáng lạ lùng hơn cả. Cuốn tiểu thuyết của tôi không có đề tài. Phải, tôi biết lắm, tôi nói đây có vẻ lớ ngớ. Nếu bà muốn, ta hẵng cho rằng nó không có một đề tài mà thôi vậy... “Một đoạn đời”, chữ của trường phái tự nhiên. Khuyết điểm lớn của trường phái này là bao giờ cũng cắt cái đoạn đời theo mỗi một chiều, chiều dài theo thời gian. Tại sao không là chiều rộng? Hay chiều sâu? Còn tôi, tôi không muốn cắt gì hết. Hiểu giùm tôi: tôi muốn đưa mọi thứ vào, vào trong tiểu thuyết đó. Khỏi có cắt xén chỗ này hay chỗ kia để ngăn chặn cái chất của nó lại. Từ hơn một năm nay viết nó, chẳng hề có biến sự nào mà tôi lại không đổ tháo ra, lại không có ý muốn cho vào tác phẩm: thấy được gì, biết được gì, tất cả những gì mà đời sống tôi, đời sống người mách bảo cho tôi...
- Rồi kết tinh các cái lại chứ?
Sophroniska hỏi, ra vẻ chăm chú hết mực, nhưng e có một phần mai mỉa. Laura không ngăn nổi nụ cười nhẹ. Édouard khẽ nhún vai rồi nói tiếp:
- Thế cũng chưa phải là điều tôi muốn thực hiện. Điều tôi muốn, một đàng là trình bày thực tại, đàng khác là trình bày chính cái nỗ lực kết tinh thực tại mà tôi vừa nói.
- Trời đất, anh bắt độc giả chán chết được, - Laura bảo, nàng không còn che giấu nổi nụ cười lâu hơn, phát ra cười thẳng thắn.
- Không đâu. Muốn được thế, xin theo dõi ý tôi, tôi bày ra một nhân vật tiểu thuyết gia đặt làm khuôn mặt trung ương, còn như đề tài cuốn truyện, nếu muốn, thì chính là sự vật lộn giữa những gì mà thực tại cung ứng cho người viết tiểu thuyết và những gì y định làm.
- Phải, phải, tôi hình dung ra, - Sophroniska lễ phép nói, sắp sửa bị nụ cười của Laura lây sang. - Cũng khá lạ đấy chứ. Có điều, anh cũng biết, trong tiểu thuyết trình bày bọn trí thức là luôn luôn nguy hiểm. Bọn họ bắt công chúng nhừ nhẫn, rồi cũng chỉ khiến cho bọn họ thốt toàn những lời láo lếu, và hễ bọn họ chạm vào cái gì là truyền một vẻ trừu tượng thế nào vào đó.
Laura lớn tiếng:
- Vả lại tôi thấy rõ điều này sẽ phải xảy ra: trong vai trò tiểu thuyết gia đó, anh sẽ không làm gì khác hơn là tự họa lấy mình.
Từ nãy giờ, nói chuyện với Édouard, Laura đã lấy giọng chế giễu, là điều chính nàng không ngờ, Édouard cũng mất hết điểm tựa, nhất là khi chàng bắt gặp một thấp thoáng trong ánh mắt tinh quái của Bernard. Édouard cãi:
- Không có đâu, tôi cần tạo ra nhân vật đó thật khó chịu.
Laura sẵn trớn:
- Đấy: mọi người sẽ nhận ra được anh qua nhân vật đó, - nàng vừa nói vừa cười giòn giã thẳng thắn khiến ba người kia cười theo.
Sophroniska cố làm nghiêm trở lại, hỏi:
- Thế cốt truyện xong chưa ạ?
- Thưa dĩ nhiên là chưa.
- Nói lạ! Sao lại dĩ nhiên chưa?
- Bà nên hiểu, cốt truyện cho loại truyện đó, ngay từ trong tinh thể của nó, là một điều không thể chấp nhận. Nếu định trước bất cứ gì là sẽ lệch lạc mất. Tôi chờ thực tại mách bảo cho tôi.
- Thế mà tôi vẫn tưởng ông muốn xa rời thực tại chứ.
- Nhân vật tiểu thuyết gia của tôi muốn xa rời, nhưng tôi không ngớt đưa hắn trở về lại thực tại. Thật sự, đề tài là đó: sự vật lộn giữa những sự kiện được thực tại đề ra và thực tại ý niệm.
Tính cách phi luận lí trong lời lẽ chàng có vẻ hiển nhiên, lộ liễu một cách nặng nhọc. Rõ ràng đầu óc chàng đang ấp ủ hai yêu sách bất tương hợp, và chàng thì nằng nặc muốn hòa hợp cả hai.
Sophroniska lịch sự hỏi:
- Thế ông viết được nhiều rồi?
- Cái đó còn tùy theo cách bà quan niệm. Nói cho ngay, chính cuốn truyện, tôi chưa viết dòng nào. Nhưng lao tâm thì đã lắm. Tôi tưởng tới nó hằng ngày, không ngừng. Lối làm việc của tôi kì lắm, ôi xin thưa cùng mọi người: tôi ghi hằng ngày vào sổ tay cái tình trạng cuốn truyện thành hình trong óc tôi; vâng, tôi đang thủ một loại nhật kí, như viết nhật kí về một đứa con... Nghĩa là thế này, mỗi sự khúc mắc tuần tự đề ra, thay vì bằng lòng giải quyết (mà mọi nghệ phẩm cũng chỉ là tổng số hay tích số những giải đáp cho một số lượng những khúc mắc nhỏ nhặt liên tiếp), tôi lại dàn bày ra, tôi nghiên cứu, mỗi một khúc mắc đó. Đấy, cuốn sổ tay chứa đựng sự bình phẩm liên tục về cuốn tiểu thuyết hay còn hơn thế nữa; về tiểu thuyết nói chung. Hãy nghĩ tới sự lợi ích cho chúng ta nếu Dickens hay Balzac thủ một cuốn sổ tay như thế; phải chi chúng ta có được nhật kí về cuốn Luyện Tình cảm, hay cuốn Anh em Karamazov! Sự tích của tác phẩm, sự tích sự hoài thai của tác phẩm! Đáng mê biết bao nhiêu... hữu ích còn hơn chính tác phẩm...
Édouard mơ hồ ước mong được yêu cầu đọc những lời ghi chép đó. Nhưng cả ba người, không ai lộ chút hiếu kì nào. Trái lại là khác:
- Khổ cho anh, - Laura nói đượm buồn. - Cuốn truyện đó, em thấy rõ là chẳng bao giờ anh viết ra.
Édouard bồng bột vọt miệng:
- Ấy! Tôi xin nói một điều là: nếu thế, tôi cũng không cần. Phải, nếu viết không thành, thì nghĩa là sự tích cuốn truyện đối với tôi đáng quan tâm hơn chính cuốn truyện, nó đã chiếm chỗ cuốn truyện, và như thế càng hay.
- Ông không sợ, khi rời thực tại, mình lạc vào những vùng trừu tượng thê thảm, và tạo thành một tiểu thuyết không phải bằng người sống động mà bằng tư tưởng sao? - Sophroniska ngại ngùng lên tiếng.
- Vẫn được chứ sao! - Édouard mạnh tiếng hơn. - Lẽ nào vì bọn vụng về lỡ sểnh chân vào đó mà ta phải kết án tiểu thuyết tư tưởng sao? Về loại tiểu thuyết luận đề, cho tới nay người ta chỉ dọn cho chúng ta toàn tiểu thuyết luận đề mạt hạng. Nhưng đâu có chuyện như thế, các người nghĩ coi. Tư tưởng... tư tưởng, thú thật, làm tôi quan tâm còn hơn là con người. Tư tưởng sống, tranh đấu, ngắc ngoải như người ta vậy. Dĩ nhiên có thể bảo rằng mình biết tư tưởng cũng chỉ là do người, cũng như biết có gió là nhờ những lau sậy uốn mình; nhưng mà gió quan trọng hơn lau sậy chứ.
- Gió vẫn có thể không can hệ gì đến lau sậy, - Bernard ướm lời.
Sự xen lời của Bernard làm Édouard đánh thót, chàng chờ đợi hắn nãy giờ.
- Phải, tôi biết: tư tưởng chỉ có là nhờ người ta, nhưng điều bi thảm là: tư tưởng sống bám vào người.
Bernard nghe ngóng câu chuyện chăm chú vừa phải, hắn lấy làm ngờ lắm, và thiếu chút nữa hắn cho Édouard là phường mơ hão; nhưng trong những giây phút về sau, sự hùng biện của chàng làm hắn cảm, hắn cảm thấy tư tưởng mình rạp đầu dưới ngọn gió hùng biện kia; nhưng, Bernard thầm nhủ, như ngọn lau sau khi gió đã qua mất, tư tưởng mình ngỏng đầu dậy tức thì. Hắn hồi tưởng nhiều điều học trong lớp: đam mê dẫn dắt con người chứ không phải tư tưởng. Cùng lúc, Édouard nói tiếp:
- Hiểu giùm tôi: điều tôi muốn làm là một cái gì như thể là nghệ thuật tấu khúc. Và tại sao trong âm nhạc thì làm được mà trong văn chương lại không được chứ...
Sophroniska cãi lại rằng âm nhạc là một nghệ thuật có tính cách toán học, và, hơn thế nữa, bây giờ chỉ nên đặc biệt kể đến con số mà thôi, loại bỏ cái vẻ bi ai và nhân tính ra ngoài, Bach đã thành tựu đại tác phẩm trừu tượng về nỗi chán chường, một thứ điện đài thiên văn mà chỉ có một số hiếm hoi kẻ nhập môn vào tới được. Lập tức Édouard phản công lại rằng chàng cảm thấy điện đài ấy đáng quý, chàng cho đó là điểm cuối cùng và chóp đỉnh của sự nghiệp Bach.
Laura bồi thêm:
- Sau đó thiên hạ thoát khỏi cái nạn tấu khúc trong một thời gian dài. Hết tìm ra chỗ nương tựa, xúc cảm của con người đi tìm nơi khác vậy.
Cuộc đấu khẩu rối rắm theo những lối xảo ngôn. Nãy giờ ngồi im và bắt đầu sốt ruột, Bernard hết chịu nổi; bằng một vẻ vô cùng nhã nhặn, quá đáng nữa là khác, lần nào hắn ngỏ lời với Édouard cũng thế, nhưng bằng một vẻ khoái hoạt nào đó hình như làm cho vẻ nhã nhặn thành một lối nói chơi, Bernard góp lời:
- Tôi xin lỗi, vì có biết nhan đề cuốn sách của ông, vì tò mò đấy thôi nhưng thiết tưởng ông đã vui lòng làm ngơ. Hình như nhan đề đó báo trước một câu chuyện thì mới phải chứ?...
- Thế à! Nói nhan đề ra cho mọi người nghe với, - Laura lên tiếng.
- Nếu Laura muốn... Nhưng tôi báo trước tôi có thể sửa đổi. Tôi sợ cái tít đó phần nào phỉnh phờ... Bernard nói đi.
Bernard nói:
- Ông cho phép?... Bọn làm bạc giả. Nhưng bây giờ, đến lượt ông, ông cho chúng tôi hay: bọn làm bạc giả... là những ai thế?
- Tôi đâu có biết, - Édouard đáp.
Bernard và Laura hết nhìn nhau lại nhìn Sophroniska, người ta nghe có tiếng thở ra thườn thượt, do Laura thì phải.
Thật tình khi nghĩ đến bọn làm bạc giả, Édouard thoạt tiên nghĩ đến một vài đồng nghiệp và nổi hơn hết là nghĩ tới bá tước Passavant. Nhưng liền đó, sự gán ghép được nới rộng vô cùng, và theo ngọn gió tâm tưởng từ La Mã hay từ nơi khác thổi về, những nhân vật chính của chàng tùy theo đó mà trở thành bọn mục sư hay bọn đảng viên mật đảng. Trí óc chàng, nếu được buông thả, sẽ chao nhanh vào cõi trừu tượng cho chàng trầm đắm tha hồ trong đó. Những ý nghĩ về mậu dịch, giảm giá, lạm phát sẽ dần dà chiếm chỗ trong sách của chàng, cũng như những lí thuyết về y phục chiếm chỗ trong cuốn Sartor Resartus của Carlyle - trong cuốn này những lí thuyết đó tiếm vị của nhân vật. Édouard đâu có thể nói ra những điều ấy, chàng im lặng một cách vụng về nhất, và sự im lặng của chàng có vẻ như một thú nhận bí lối, nó bắt đầu làm cho ba người kia khó nghĩ vô cùng. Cuối cùng chàng mới hỏi:
- Có ai đã có dịp cầm bạc giả trong tay chưa?
- Thưa có, - Bernard đáp; nhưng tiếng “Chưa” của hai người đàn bà lấp mất tiếng của Bernard.
- Được rồi! Hãy tưởng tượng một đồng tiền vàng mười franc giả. Thật ra nó chỉ đáng giá hai xu thôi. Chừng nào không nhận biết là giả thì nó vẫn đáng giá mười quan. Thế thì, giả như tôi khởi đi từ ý tưởng là...
Bernard sốt ruột ngắt lời:
- Nhưng tại sao lại khởi đi từ một ý tưởng? Nếu ông khởi đi từ một sự kiện được dàn bày rõ ràng thì ý tưởng sẽ tự nó đến ăn nhập vào đó. Giả như tôi viết Bọn làm bạc giả, tôi sẽ bắt đầu bằng cách trình bày mẩu bạc giả, cái đồng tiền nhỏ ông vừa đề cập đấy... tôi có đây.
Vừa nói, hắn rút trong túi áo gi lê một đồng tiền mười franc nhỏ, vứt xuống bàn.
- Đấy, cũng kêu lanh lảnh gần như đồng tiền khác. Dễ thường người ta đoán chắc là bằng vàng. Tôi đã bị nhầm sáng hôm nay, cũng như ông bán tạp hóa thối tiền cho tôi cũng bị nhầm, chính ông bảo tôi như thế. Chắc nó không nặng bằng nhau, nhưng vẫn lấp lánh và tiếng ngân cũng gần giống như đồng tiền thật; lớp mạ thì bằng vàng, cho nên dù sao giá trị cũng hơn bốn xu một tí, kì thật thì bằng thủy tinh. Dùng nhiều, nó sẽ trong trẻo ra. Đừng, ông đừng xát, hỏng mất của tôi, Chưa chi trông nó đã gần trong suốt từ bên này sang bên kia rồi đó.
Édouard cầm đồng tiền lên và nhìn ngắm tò mò chăm chú lắm.
- Nhưng còn ông bán tạp hóa lấy đồng tiền này của ai?
- Ông ta không biết. Ông đoán là ông giữ cất nó đã nhiều ngày trong ngăn kéo. Ông thối cho tôi, đùa bỡn thế thôi, xem thử tôi bị mắc lỡm không. Thú thật tôi đã chực lấy, nhưng vì ông lương thiện, ông giải ngộ cho tôi, rồi để lại cho tôi với giá năm franc. Ông muốn cất giữ để đưa ra cho bọn mà ông gọi là bọn ‘tay chơi”. Tôi đã nghĩ rằng là khó có tay chơi nào trội hơn tác giả của Bọn làm bạc giả; tôi lấy là để đưa ra cho ông đấy. Nhưng bây giờ ông đã xem xét rồi thì trả lại tôi vậy! Tôi thấy thực tại không khiến ông lưu tâm, thì thôi!
Édouard bảo:
- Tôi lưu tâm chứ, nhưng nó làm tôi xốn xang.
- Đáng tiếc, - Bernard nói.
NHẬT KÍ Édouard
Cùng đêm ấy - Sophroniska, Bernard, và Laura chất vấn tôi về cuốn truyện. Tại sao tôi chịu nói? Chỉ vì nói ra toàn những điều lảm nhảm. May ngắt ngang được vì hai đứa bé trở về; chúng đỏ phừng cả người, hổn hển ra vẻ đã chạy nhiều. Về tới là Bronja chồm ngay tới mẹ, tôi tưởng chừng nó chực khóc. Bronja nói lớn:
- Mẹ ơi, mẹ rầy Boris một tí đi mẹ. Nó đòi nằm truồng giữa tuyết đấy.
Sophroniska nhìn Boris đang đứng ở bực cửa, gằm gằm và nhìn chằm chằm có vẻ gần như ghét hận; bà làm ra vẻ không nhận thấy sự biểu lộ tình cảm khác thường của thằng bé, nhưng bà cũng đã lên tiếng, trầm tĩnh lạ lùng:
- Này cháu, Boris, buổi chiều không nên làm thế. Nếu cháu thích, sáng mai mình sẽ đến nơi đó, nhưng cháu sẽ thử đi chân không trước đã...
Bà dịu dàng vuốt ve trán con gái, nhưng con bé đột ngột ngã ra đất và lăn lộn. Chúng tôi cũng khá ngại, Sophroniska xốc lấy nó và đem đặt lên ghế sô pha. Boris, không nhúc nhích, gương mặt ngớ ngẩn nhìn cảnh tượng.
Tôi tin những phương pháp giáo dục của bà Sophroniska tuyệt hảo trên mặt lí thuyết, nhưng có thể bà lạm dụng sức bền bỉ của con cái.
- Bà làm như thể cái tốt bao giờ cũng phải thắng cái xấu, - tôi bảo bà như thế sau đó một tí, khi chỉ có mình tôi với bà. (Sau bữa ăn, tôi đi hỏi thăm tình hình của Bronja đã bỏ bữa ăn).
Bà bảo:
- Thật vậy. Tôi vững tin rằng cái tốt phải thắng. Tôi có lòng tin.
- Nhưng quá tin tưởng thì bà có thể nhầm lẫn...
- Hễ khi nào tôi nhầm, tức là lòng tin của tôi không đủ mạnh. Hôm nay, khi để cho bọn nhỏ đi chơi, tôi yếu lòng để lộ một tí lo âu, chúng nó cảm nhận ra mà sinh ra cớ sự.
Bà cầm lấy tay tôi:
- Ông có vẻ không tin uy lực những điều xác tín... tôi muốn nói: tin cái tác dụng của những điều xác tín.
Tôi cười bảo:
- Tình thật tôi không phải là kẻ tin chuyện thần bí.
Bà vụt nói tràn đầy hùng khí:
- Còn tôi! Tôi hết lòng tin tưởng rằng, nếu không có thần bí, ở đời này không có gì lớn, không có gì đẹp hết.
Khám phá thấy trên danh sách du khách có tên Victor Strouvilhou. Theo lời chỉ dẫn của ông chủ khách sạn, chắc hẳn nó rời Saas-Fée hai hôm trước khi chúng tôi đến, sau khi ở lại đây gần một tháng. Tôi cũng tò mò muốn gặp lại nó. Có thể bà Sophroniska có lui tới thấy nó. Phải hỏi bà mới được.
* * *
(10) Tacite (~56 - ~117) là một nhà sử học La Mã nổi tiếng.
(11) Friedrich Nietzsche (1844-1900) là nhà triết học, phê bình văn hóa, nhà thơ, nhà soạn nhạc, hoạc giả tiếng La-tinh và tiếng Hy Lạp, người Đức.
IV
Bernard nói:
- Cô Laura, tôi muốn hỏi cô: cô có nghĩ rằng trên trái đất này chẳng có gì là không đáng nghi?... Đến độ tôi không biết mình có thể lấy ngay sự nghi ngờ làm điểm tựa được chăng; bởi vì, rốt cục, thiết tưởng, ít ra có bao giờ ta thoát khởi nghi ngờ. Tôi có thể nghi ngờ sự hiện hữu của mọi thứ, nhưng không thể nghi ngờ sự hiện hữu của nghi ngờ. Tôi muốn... Xin lỗi nếu tôi diễn đạt một cách hợm hĩnh; bản chất tôi không phải thế, nhưng tôi học lớp triết, và cô không thể tin được rằng bài luận văn thường làm đã in thành nếp vào trí óc, xin bảo đảm với cô là tôi sẽ sửa mình.
- Thêm thắt điều đó làm gì thế? Anh muốn...?
- Tôi muốn viết câu chuyện về một người trước hết là lắng nghe, rồi, theo cách của Panurge(12), thăm dò từng người trước khi quyết định bất cứ việc gì, sau khi đã cảm thấy ý kiến của người này người kia mâu thuẫn trên từng điểm một, nó quyết định chỉ còn nghe bản thân mà thôi rồi liền đó trở nên một người rất uy lực.
- Dự định của ông cụ non đấy. - Laura nói.
- Tôi già dặn hơn cô tưởng. Từ mấy hôm nay, tôi viết sổ tay, cũng như Édouard! Trang bên phải tôi viết ra một ý kiến, trong khi ở trang bên trái, để đối chiếu, tôi có thể ghi ý kiến ngược lại. Đấy, chẳng hạn như hôm nọ bà Sophroniska bảo bà để cho Boris với Bronja ngủ mở cửa sổ. Những lời bà nói để bênh vực cho cách sống đó đối với chúng ta tỏ ra hoàn toàn hữu lí và dễ minh chứng. Nhưng mới hôm qua đây, trong phòng hút thuốc khách sạn, tôi có nghe ông bác sĩ người Đức mới đến, ông ta lại bênh vực một luận thuyết tương phản mà thú thật tôi thấy còn hữu lí và có căn cứ hơn. Ông ta bảo, điều quan trọng trong khi ngủ là hạn hẹp tối đa, những mất mát và cái vận hành trao đổi đúng như sự sống đòi hỏi, ông gọi đó là hiện tượng gia thêm chất vào chất khác, chính nhờ thế này giấc ngủ mới trở nên bồi bổ thật sự. Ông lấy ví dụ loài chim rúc đầu vào cánh, tất cả những con thú thu mình lại để ngủ đến độ như ngạt thở; ông bảo, thì cũng thế, những hạng người gần thiên nhiên hơn hết, bọn nông dân ít học nhất cứ ru rú trong phòng ngủ; bọn Ả-rập, buộc phải ngủ ngoài trời, thì lại kéo nắp áo choàng chụp xuống mặt cho được. Nhưng, trở lại trường hợp bà Sophroniska với hai đứa bé do bà giáo huấn, tôi lại nghĩ rằng bà vẫn không sai lầm, và điều tốt đẹp đối với bọn khác có thể có hại đối với chúng nó, vì theo tôi hiểu, chúng có mang mầm mống lao phổi trong người. Nói tóm lại, tôi tự nhủ... Nhưng thôi, tôi làm cô chán ngắt.
- Đừng ngại. Anh tự nhủ gì...?
- Tôi không biết nữa.
- Nào! Lại làm bộ. Đừng ngượng ngùng vì ý nghĩ của anh.
- Tôi tự nhủ không có gì là tốt cho tất cả mọi người, chỉ tốt đối với một số người thôi, không có gì là thật đối với tất cả, mà chỉ đối với kẻ nào cho là thật; tôi tự nhủ không có phương pháp hay lí thuyết nào mà khỏi áp dụng riêng rẽ cho từng cá nhân, còn như nếu muốn chọn lựa để hành động thì ít ra ta phải được tự do chọn lựa, nếu không được tự do chọn lựa, thì sự thể lại giản tiện hơn, nhưng điều này đối với tôi mới là điều thật (có lẽ không thật một cách tuyệt đối, nhưng đối với tôi là thật) và cho phép tôi tận dụng sức lực, và sở trường của mình. Bởi cùng một lúc tôi không thể vừa tha hồ ngờ vực vừa sợ cho thái độ lưỡng lự. “Cái gối vừa êm vừa dịu” của Montaigne không phải để cho tôi gối đầu, vì tôi chưa buồn ngủ, tôi cũng không muốn nghỉ ngơi. Con đường còn dài, đi từ con người dự tưởng của tôi đến con người có lẽ là thật sự của tôi. Đôi khi tôi sợ mình tỉnh ngủ quá sớm.
- Anh sợ?
- Không, tôi có sợ cái gì đâu. Nhưng cô có biết chăng tôi đã thay đổi nhiều, hay ít ra cảnh tượng nội tâm của tôi không còn như ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi đã gặp cô từ bữa đó. Lập tức tôi chấm dứt cuộc tìm kiếm tự do được đặt lên hàng đầu. Có lẽ cô không hiểu rõ rằng tôi đang phục vụ cô.
- Tôi phải hiểu làm sao đây?
- Ô! Cô rõ lắm mà. Sao cô muốn bắt tôi nói ra? Cô chờ tôi thổ lộ chăng?... Không, không, tôi xin cô, đừng khỏa lấp nụ cười của cô, bằng không tôi rét mất.
- Nào, chàng trai thân mến, anh không cho rằng anh bắt đầu yêu tôi đấy chứ?
- Không! Tôi không bắt đầu, - Bernard đáp. - Chính cô bắt đầu cảm thấy điều đó thì có lẽ, nhưng cô không được ngăn cản tôi.
- Trước đây, tôi không e dè đối với anh, điều thú vị biết bao. Giờ đây, đến gần anh mà phải đề phòng, như đề phòng một chất dễ bén lửa, thì... Anh hãy tưởng tới cái con người lệch dạng và cứng sựng nay mai của tôi. Cái vẻ bề ngoài của tôi không mà thôi sẽ có thể làm cho anh lành bệnh.
- Phải, với điều kiện tôi chỉ yêu có vẻ bề ngoài của cô thôi. Đàng khác, trước hết, tôi đâu phải con bệnh; hoặc nếu yêu cô mà phải bệnh thì thà đừng lành bệnh.
Bernard nói bấy nhiêu lời một cách nghiêm trang, buồn bã là đàng khác; hắn nhìn nàng thắm thiết như Édouard và Douviers chưa từng thắm thiết hơn, nhưng cung cách thật lễ độ khiến nàng không thể nghi ngại. Nàng đang cầm cuốn sách tiếng Anh để trên gối mà nàng ngừng đọc vì đối đáp, nay nàng lơ đãng lật từng trang tưởng chừng nàng chẳng nghe thấy gì, thế nên Bernard tiếp tục nói không phải ngượng ngùng quá lắm:
- Tôi vẫn tưởng tượng tình yêu là một cái gì như núi lửa. ít nhất tình yêu mà tôi sinh ra để thử sức là như thế. Phải đúng thế, tôi vẫn tưởng chỉ có thể yêu một cách rừng rú, phá phách như Byron(13). Tôi đã nhầm lẫn mình quá! Chính cô đã làm cho tôi hiểu tôi, Laura ạ, một thằng tôi khác xa với thằng tôi mà tôi tưởng! Tôi đóng một vai trò dị hợm, tôi cố sức cho giống nó. Hễ nghĩ tới lá thư viết cho người mạo nhận là cha tôi trước khi tôi bỏ đi, tôi cực kì hổ thẹn, tôi dám chắc điều đó. Tôi cứ cho tôi là một thằng nổi loạn, một thằng ngoài vòng pháp luật giẫm lên tất cả những cái gì gây chướng ngại cho ý thích của mình, thế mà nay, ở bên cô, ngay những ý thích, tôi cũng không có. Tôi ngưỡng vọng tự do như một của cải tối cao, thế mà chưa kịp tự do tôi đã thần phục cô rồi... A! Ước gì cô biết được nỗi cuồng điên khi có trong đầu một mớ câu của bọn tác giả lớn cứ khăng khăng chực ở đầu môi khi mình muốn diễn đạt một tình ý chân thật. Tình ý này đối với tôi mới mẻ quá đến độ nó chưa biết bày ra ngôn ngữ riêng. Cho rằng đó không phải là tình yêu đi, bởi tiếng này cô không thích, thì đó là sự sùng mộ vậy. Sự tự do kia, tự do mà từ trước đến giờ tôi cho là vô cùng tận, thì có thể nói rằng nó đã bị giới hạn vì những luật tắc của cô. Có thể nói bao nhiêu thứ ồn ào chưa rõ hình thù, trước đây náo động trong người tôi, bây giờ nhịp nhàng nối tay nhau khiêu vũ chung quanh cô. Thảng hoặc một tư tưởng nào của tôi lệch ra khỏi hình ảnh cô, là tôi bỏ rơi nó... Cô Laura ạ, tôi không yêu cầu cô yêu tôi, tôi chưa là gì hết ngoài một tên học sinh, tôi không đáng cho cô lưu ý, nhưng bây giờ tôi có muốn làm gì đi nữa là để cầu một chút... (chữ này xấu xí thế!)... mến thương của cô.
Bernard quỳ gối xuống trước mặt nàng, và mặc dù nàng đã nhích chiếc ghế lùi lại một chút từ trước, hắn chạm trán vào áo nàng, hai cánh tay hắn đưa ngược ra sau như để tỏ dấu sùng kính, nhưng khi cảm thấy bàn tay nàng đặt lên trán mình, hắn cầm lấy hôn lên đó.
- Lạ đời cho anh, Bernard ạ! Tôi cũng không được tự do đâu, - nàng vừa nói vừa rút tay về. - Đây, anh đọc cái này xem.
Nàng lấy từ trong chẽn áo ra một mẩu giấy nhàu nhò đưa cho Bernard.
Bernard nom thấy trước tiên cái chữ kí. Đúng như hắn e ngại, đó là tên Félix Douviers. Hắn giữ lá thư một lát trong tay không đọc, ngước nhìn Laura. Nàng khóc, Bernard cảm thấy, lúc bấy giờ, thêm một mối ràng buộc lại đứt đoạn, một trong những mối dây thầm kín, buộc mỗi người chúng ta với chính bản thân, với cái bản thân vị kỉ trong quá vãng. Sau đó, hắn đọc:
Laura yêu quý,
Nhân danh đứa bé sắp sinh nở, đứa bé mà anh thề sẽ yêu như thể anh là cha nó, anh van em hãy trở về. Đừng nghĩ rằng có thể có một lời trách móc nào đó đón đợi sự trở về của em ở chốn này. Em đừng tự buộc tội quá đáng, vì chính đó là điều anh khổ hơn hết. Đừng chậm trễ. Anh đợi em bằng tất cả tấm lòng yêu mến em và quỳ gối trước mặt em.
Bernard đang ngồi bệt xuống đất, trước mặt Laura, nhưng không nhìn nàng, hắn hỏi:
- Cô nhận thư này hồi nào?
- Sáng nay.
- Thế mà tôi vẫn tưởng chồng cô chưa biết gì. Cô trả lời thư chưa?
- Rồi, tôi thú thật tất cả.
- Édouard hay tin chưa?
- Édouard không biết.
Bernard lặng thinh một hồi, đầu cúi gằm, kế đó lại quay sang nàng:
- Thế... cô định làm gì bây giờ?
- Anh hỏi thật đấy ư?... Trở về lại với chồng. Chỗ của tôi là ở đó. Tôi có bổn phận sống với chồng. Anh biết mà.
- Phải, - Bernard đáp.
Im lặng rất lâu, Bernard lại tiếp:
- Cô tin người ta có thể yêu đứa con của một kẻ khác bằng đứa con của chính mình ư, thật như thế không?
- Không biết tôi có tin như thế không, nhưng tôi hi vọng như thế.
- Còn tôi, tôi tin như thế. Và, trái lại, tôi không tin cái mà người ta gọi tên một cách rất ngu xuẩn là “tiếng nói của huyết thống”. Thật đấy, tôi tin rằng cái tiếng nói ghê gớm đó chỉ là một huyền thoại. Tôi có đọc thấy, tại một vài dân tộc trên các đảo thuộc Úc châu, tục lệ của họ là nuôi con kẻ khác, và bọn con nuôi lắm khi được yêu hơn bọn kia. Cuốn sách bảo, tôi còn nhớ rõ, là “được nuông chiều” hơn. Cô có biết tôi hiện đang nghĩ gì không?... Tôi nghĩ rằng người đã giữ vai trò người cha đối với tôi không hề nói hay làm gì để lộ cho tôi nghi ngờ rằng tôi không phải là con chính thống của ông, tôi nghĩ rằng khi viết thư cho ông, như tôi đã làm, bảo rằng tôi vẫn luôn luôn cảm thấy sự khác biệt, là tôi đã dối lòng. Trái lại, đối với tôi ông đã chứng tỏ một thứ ưu ái mà tôi cảm nhận được, nên chỉ sự bạc bẽo của tôi đối với ông càng ghê tởm, tôi đã đối xử không phải đạo đối với ông. Cô Laura ạ, tôi muốn hỏi cô... Cô cho rằng tôi nên xin lỗi ông và nên trở về với ông chăng?
- Đừng, - Laura đáp.
- Sao thế? Trong khi cô, cô trở về với ông Douviers...
- Anh có nói hồi nãy đấy, cái đúng với kẻ này không đúng với kẻ kia. Tôi cảm thấy mình yếu đuối, anh thì vững tâm. Ông Profitendieu có thể yêu anh, nhưng theo những điều anh nói cho tôi về ông, thì ông và anh không phải sinh ra để hòa hợp với nhau... Hay ít ra, anh hãy đợi cái đã. Đừng trở về tơi tả. Anh muốn tôi nói sạch ý? Đúng ra anh tự đề ra điều đó là để cho tôi chứ không phải để cho ông Profitendieu, nhằm được tôi mến thương như lời của anh đấy. Anh chỉ được lòng tôi nếu tôi cảm thấy anh không tìm kiếm sự được lòng ấy, Bernard ạ. Anh tự nhiên thì tôi mới có thể yêu. Day dứt, không phải sinh ra cho anh, hãy để dành nỗi day dứt cho tôi, Bernard nhé.
- Tôi gần đi tới chỗ yêu cái tên của tôi, khi nghe nó từ môi cô. Cô có biết tôi kinh sợ cái gì nhất ở gia đình tôi không? Cái xa xỉ. Bao nhiêu tiện nghi, bao nhiêu sự dễ thở... Tôi đã cảm thấy mình trở thành tên nổi loạn. Nay, trái lại, tôi tưởng mình chuyển hướng thành tên bảo thủ. Tôi bỗng hiểu ra điều đó, ngày hôm nọ nhân mối bất bình nổi dậy trong tôi khi nghe người du khách ở biên giới nói tới sự thích thú trốn lậu thuế của y. Y bảo “Ăn cắp của quốc gia là không ăn cắp ai hết”. Vì chống đối, tôi chợt hiểu quốc gia là cái gì. Và tôi đâm ra yêu quốc gia, cũng chỉ vì người ta qua mặt quốc gia. Trước đó tôi không hề suy nghiệm về vấn đề đó. “Quốc gia là một ước lệ mà thôi”, y nói thêm. Ước lệ mà dựa lên trên lòng tín thiện của mỗi người thì đẹp đẽ đấy chứ... miễn sao chỉ có toàn hạng người chính trực. Đấy, giá bây giờ có ai hỏi tôi đức tính nào có vẻ sáng đẹp nhất đối với tôi, tôi sẽ trả lời không do dự: sự chính trực. Laura cô ạ! Tôi muốn sao, suốt đời tôi gặp một sự gập ghềnh nào, cũng gióng lên được một âm thanh tinh truyền, chính trực, đích thật. Hầu hết những người tôi quen biết đều phát ra những âm thanh giả hiệu. Xứng giá với con người thị hiện của mình, đừng tìm cách thị hiện vượt trội giá trị của mình... Thiên hạ muốn lừa phỉnh, rồi lo lắng thị hiện đến mức độ cuối cùng không còn biết mình là ai... Xin lỗi đã nói với cô những lời này. Tôi muốn phân phô cùng cô những điểm nghĩ ngợi đêm qua.
- Anh nghĩ tới cái đồng bạc anh cho chúng tôi xem hôm qua đấy nhỉ. Khi nào tôi ra đi...
Nàng không đủ sức nói hết câu nói, nước mắt dâng dậy, và, trong nỗ lực kiềm chế, Bernard nom thấy môi nàng run rẩy. Hắn vớt lời, buồn bã:
- Khi nào cô ra đi... Tôi sợ, khi tôi không còn cảm thấy cô ở gần tôi, tôi sợ mình không còn đáng giá gì nữa, hay không đáng giá bao nhiêu... Nhưng, hãy khoan cho tôi hỏi... Cô đi được sao, cô viết ra những lời thú nhận kia được sao, nếu như Édouard... tôi không biết nói năng sao đây... (và trong lúc Laura đỏ mặt) nếu như Édouard xứng đáng hơn? Không! Cô đừng cãi. Tôi biết rõ cô nghĩ gì về ông Édouard.
- Anh nói thế là vì hôm qua anh bắt chợt nụ cười mỉm của tôi giữa khi Édouard đang nói, thế là anh cho rằng anh với tôi phán đoán Édouard trùng hợp với nhau. Không phải đâu, anh đừng nhầm. Nói cho ngay, tôi không biết mình nghĩ gì về Édouard. Anh ấy không giữ lâu một bản sắc. Không quyến luyến với cái gì hết, nhưng không có gì đáng cho ta quyến luyến bằng sự thoát đi của anh. Anh mới quen biết Édouard, không phán đoán được đâu. Con người của Édouard tan rồi hợp không ngừng. Cứ tưởng nắm bắt được... chàng Protée(14) ấy. Cái gì thích thì đội lốt cái đó. Và chính Édouard, muốn hiểu anh, phải yêu anh.
- Cô yêu Édouard. Khổ! Không phải Douviers bắt tôi ganh, cũng không phải Vincent, mà chính là Édouard.
- Tại sao ganh? Tôi yêu Douviers, tôi yêu Édouard nhưng khác nhau. Nếu phải yêu anh, lại khác nữa.
- Cô Laura, cô không yêu Douviers. Cô có cảm tình, thương hại, mến thương, nhưng đâu phải yêu... thiết tưởng cái bí ẩn của nỗi buồn của cô (bởi cô có buồn, cô Laura ạ) là do đời sống đã san sẻ con người cô, tình yêu buộc cô là con người thiếu hụt, cô phân phối cho nhiều người những cái mà cô chỉ muốn ban cho độc nhất một người. Còn tôi, tôi cảm thấy mình không phân xẻ được, tôi chỉ có thể hiến dâng trọn mình.
- Anh còn quá trẻ, đừng nói thế. Anh chưa thể biết rồi ra đời sống có “phân xẻ” con người anh không, như lời anh. Tôi chỉ có thể chấp nhận ở anh sự... mến mộ mà anh tặng cho tôi đó thôi. Kì dư đều có những yêu sách riêng, sẽ được thỏa mãn vào những nơi khác.
- Đúng như thế chăng? Cô sắp khiến cho tôi chưa chi đã chán cho mình, chán cho đời.
- Anh không biết gì về đời đâu. Anh có thể trông đợi đủ thứ ở đời. Anh biết lỗi của tôi là gì không? Là không còn trông đợi gì nữa hết ở đời. Chính từ lúc nghĩ rằng không có gì để trông đợi thì ôi thôi! Tôi buông thả. Tôi sống mùa xuân ấy ở Pau như thể không còn được mùa xuân nào khác, như thể không còn có gì đáng kể nữa. Bernard ạ, tôi có thể nói cho Bernard hay, bởi giờ đây tôi đã chịu hình phạt: đừng bao giờ tuyệt vọng vì đời.
Nói như thế này với một kẻ tràn đầy lửa sống để làm gì? Mà những điều Laura nói cũng không nhằm gửi cho Bernard. Bởi mối tình cảm dành cho Bernard thúc đẩy, nàng bất ứng mà nói lớn điều mình nghĩ, trước mặt hắn. Nàng vụng về trong việc vờ vĩnh, vụng về kiềm chế. Bởi trước đó nàng đã thả lỏng theo cái đà đưa đẩy khi tưởng tới Édouard và lộ tình mình, nên chi nàng phó mặc cho một nhu cầu thuyết giáo nào đó mà hiển nhiên nàng thừa tiếp từ cha nàng. Nhưng Bernard sợ những lời căn dặn, khuyên bảo, dù là của Laura đi nữa; nụ cười mỉm miệng của Bernard đã cảnh giác cùng Laura, nàng dịu giọng xuống, nói tiếp:
- Khi nào về lại Paris, anh có nghĩ là vẫn làm thư kí cho Édouard không?
- Vẫn làm, nếu ông chịu dùng tôi, nhưng ông không cho việc gì hết để tôi làm. Cô có biết tôi khoái cái gì không nào? Khoái viết chung một cuốn truyện với ông Édouard, cuốn truyện mà ông một mình sẽ không bao giờ viết ra, chính cô có nói điều này hôm qua với ông. Tôi thấy phương pháp làm việc mà ông Édouard trình bày ra đó nó phi lí. Cuốn tiểu thuyết có giá trị được viết hồn nhiên hơn thế kia. Với lại, trước hết, mình phải tin tưởng điều mình kể ra chứ, cô không nghĩ thế sao? Và kể lại thật giản dị. Thoạt tiên tôi vẫn tưởng có thể giúp ông. Giá như ông cần một tay thám tử, có lẽ tôi sẽ đáp ứng những đòi hỏi của phần việc đó. Ông sẽ tiện dụng những sự kiện do tôi thám sát ra, Đàng này, đối với một người vị ý tưởng, vô ích. Gần ông, tôi cảm thấy mình mang tâm hồn kí giả. Nếu ông khư khư giữ sai lầm, tôi sẽ làm công việc của riêng tôi. Tôi phải kiếm sống. Tôi sẽ thí sức cho một nhật báo. Đồng thời làm thơ.
- Bởi lẽ gần bọn kí giả, chắc hẳn anh cảm thấy mình mang tâm hồn thi sĩ.
- Ấy! Cô đừng giễu tôi. Tôi biết tôi lố lăng, cô đừng bắt tôi cảm thấy điều đó quá lộ liễu.
- Anh hãy ở lại với Édouard đi; anh sẽ giúp cho Édouard, và hãy để cho Édouard giúp anh. Édouard là người tốt.
Chuông ăn trưa nghe vang. Bernard đứng lên. Laura nắm lấy bàn tay hắn:
- Còn điều này nữa: đồng bạc anh đưa cho cả mấy người xem hôm qua... để tưởng nhớ đến anh, khi nào tôi ra đi, - nàng cứng rắn lại và lần này đủ sức nói hết câu - anh vui lòng cho tôi đồng bạc đó!
- Đây, đồng bạc, cô cầm lấy, - Bernard nói.
* * *
(12) Panurge là một trong những nhân vật chính của bộ tiểu thuyết năm tập Gargantua và Pantagruel do nhà văn Pháp François Rubelais sáng tác.
(13) Byron (1788-1824) là nhà thơ lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 19.
(14) Protée là thần Titan cai trị biển cả trước Poséidon.
V
Đó là điều xảy ra từ hầu hết các bệnh của trí óc con người mà con người tự hào là đã chữa lành. Con người làm cho bệnh phản hồi lại mà thôi, nói theo ngôn ngữ của y học, và thay vào đó những bệnh khác.
SAINTE-BEUVE
(Những ngày thứ hai, I, trang 19)
NHẬT KÍ Édouard
Tôi bắt đầu thấy loáng thoáng cái mà tôi gọi là “đề tài sâu xa” của cuốn sách tôi. Có lẽ đó là, đó sẽ là sự tranh chấp giữa ngoại giới thực tại và cái biểu tượng của ngoại giới đó do ta. Cái cách thế mà ngoại giới của sắc tướng chế ngự chúng ta, cùng cái cách thế đó mà chúng ta rắp tâm đem cái lối thoát giới, nó làm thành thảm kịch của đời sống. Sự si gan của những điều có thực mời mọc chúng ta chuyển cái kiến trúc lí tưởng của ta vào giấc mơ, vào hi vọng, vào đời sống vị lai, tin tưởng vào cái kiến trúc đó là rước thêm bao nhiêu bất hạnh trong vị lai. Những người thực tế đi từ sự kiện, điều chỉnh tư tưởng theo sự kiện. Bernard là một kẻ thực tế. Tôi sợ, tôi không thể hợp với nó.
Làm sao tôi có thể đồng ý khi Sophroniska nói rằng tôi chẳng có tí gì là thần bí hết? Tôi sẵn sàng nhìn nhận với bà rằng, không có thần bí, con người không thể thành tựu được gì cao cả. Thế không phải chính là cái thần bí của tôi mà Laura biếm nhẽ đó ư, khi tôi nói đến cuốn sách của tôi với nàng?... Bỏ rơi cuộc tranh luận này cho họ vậy.
Sophroniska lại đề cập đến Boris với tôi, bà tin rằng bà đã thuyết phục nó hoàn toàn được rồi. Tội nghiệp cho thằng bé không còn lại trong người nó một bụi bờ, một nhúm cỏ nhỏ nào để trốn núp những cái dòm ngó của bà bác sĩ. Nó hoàn toàn thân trụi, Sophroniska bày la liệt ra giữa thanh thiên bạch nhật, rời rã hẳn ra, những món máy móc sâu kín nhất của cơ quan tinh thần của đứa bé, như người thợ đồng hồ tháo rời từng bộ phận của đồng hồ để lau chùi. Nếu sau đó, thằng bé không đúng điệu thì quả nó chẳng hiểu gì. Sophroniska thuật lại với tôi như sau:
Boris, hồi khoảng chín tuổi, được đưa vào trường trung học Varsovie. Nó kết bạn với một tên Baptistin Kraft nào đó, cùng lớp, lớn hơn nó một hai tuổi, mớm cho nó tập tành lén lút nhiều thứ mà bọn nhỏ thán phục một cách ngu ngơ, tưởng đó là “ảo thuật”. Đó là danh từ mà bọn chúng gán cho thói hư tật xấu của chúng, vì chúng đã nghe nói hay đã đọc thấy rằng “ảo thuật” cho phép thủ đắc một cách bí nhiệm những điều ao ước, rằng “ảo thuật” là vạn năng, v.v. Chúng có thật lòng tin tưởng đã khám phá một bí thuật lấy sự hiện diện hư hão bù đắp sự khiếm khuyết thực sự, và tha hồ vọng tưởng và mê say một khoảng hư vô mà trí óc tưởng tượng làm việc quá sức của chúng đầy rẫy toàn những kì thú, có thêm sự cụp lạc giúp sức hùng hậu nữa. Dĩ nhiên bà Sophroniska không dùng đến những từ ngữ ấy; tôi vẫn mong bà thuật lại đúng những từ ngữ của Boris, nhưng bà cho rằng phải phanh phui một mớ những vờ vĩnh, ngụ ý, tối nghĩa mới lần mò ra sự vụ, vẫn biết bà đã chứng thực cùng tôi những điều ấy là đúng thật.
Bà nói thêm:
Tôi tìm ra trong những lời đó sự giải thích mà tôi tìm kiếm lâu này, từ một mẩu giấy da mà Boris luôn luôn mang trong mình, gói trong cái bao lủng lẳng trên ngực cạnh mấy tấm tượng hộ thân mà mẹ nó ép nó đeo - và trên mẩu giấy da đó có sáu chữ, viết hoa, nét chữ trẻ con mà nắn nót, sáu chữ mà tôi hỏi nó bao nhiêu cũng không hiểu ra ý nghĩa:
KHÍ. ĐIỆN THOẠI. TRĂM NGÀN RÚP.
- “Không có nghĩa. Ảo thuật đấy.” Khi nào hỏi ép là nó trả lời thế đấy. Chỉ có thế. Bây giờ tôi vỡ lẽ rằng mấy chữ bí hiểm ấy là chữ viết của thằng bé Baptistin, sư phụ và giáo sư “ảo thuật”, và sáu chữ kia đối với chúng nó như một công thức gạn lọc, kiểu “Vừng ơi, hãy mở ra” đưa vào thiên đàng xấu xa vùi chúng nó vào cụp lạc. Boris gọi mẩu giấy da ấy là bùa của nó. Trước đó tôi đã khổ công lắm mới làm cho nó quyết định trưng cho tôi xem, bắt nó bỏ đi thì còn khổ công hơn nữa (việc này xảy ra vào những ngày đầu chúng tôi ở đây); bởi tôi muốn nó cởi bỏ, cũng như bây giờ tôi mới biết trước đây nó đã hóa giải được nhiều tật xấu. Tôi hi vọng rằng với cái bùa đó bao nhiêu tật chứng hành hạ nó sẽ tiêu tan mất. Thế mà nó vẫn đeo chứng tật và bệnh cũng bám vào đó như bám vào nơi nương tựa cuối cùng.
- Bà bảo nó đã hóa giải nhiều tật xấu rồi kia mà...
- Bệnh về thần kinh chớm khởi phát liền sau đó. Có lẽ phát minh từ nỗ lực tự chủ của Boris để giải thoát. Nó cho tôi biết có một hôm mẹ nó bắt gặp nó đang làm “ảo thuật” như lời nó nói. Tại sao bà chẳng bao giờ cho tôi hay?... Vì giữ ý?...
- Có lẽ vì bà biết nó điều trị khỏi.
- Phi lí... chính vì thế mà tôi lần mò quá lâu lắc. Tôi đã nói với ông rằng tôi tin tưởng Boris hoàn toàn trong sạch.
- Bà còn bảo chính đó là điều gây khó nghĩ cho bà.
- Ông xem tôi có lí không nào!... Đáng lẽ bà mẹ phải thông báo cho tôi chứ. Tôi mà thấy rõ được ngay thì Boris đã khỏi bệnh rồi còn đâu.
- Bà có nói là những sự trở mình mới khởi phát liền sau đó...
- Tôi nói những cái đó phát sinh vì nó chống đối. Tưởng mẹ nó la rầy, năn nỉ, thuyết giáo nó. Xảy cha nó chết. Boris in trí rằng những hành sự bí mật mà người ta mô tả với nó như là lắm tội, những cái đó phải bị trừng phạt; nó tự kiểm thảo coi như nó chịu trách nhiệm cái chết của cha, tướng mình mang tội sát hại, bị đọa đày. Nó sợ, và chính lúc bấy giờ, như con thú cùng đường, cơ thể suy nhược của nó bày đặt ra một số mẹo vặt tẩy xóa cái hình phạt nội tâm của nó, bao nhiêu mẹo là bấy nhiêu sự thú nhận.
- Nếu tôi hiểu rõ lòng bà thì bà ước chừng nếu Boris tiếp tục an nhiên mải miết thực tập “ảo thuật” thì có lẽ ít tai hại cho nó hơn?
- Tôi thiết tưởng muốn điều trị nó chẳng cần phải làm cho nó hãi sợ. Sự đổi dời của cuộc sống tiếp theo cái chết của người cha có lẽ đã đủ khiến cho nó xa lánh rồi, và sự bỏ Varsovie ra đi cũng đủ khai trừ ảnh hưởng của thằng bạn nó. Uy hiếp chẳng được gì tốt. Khi biết sự thể, nói lại cho đầy đủ, tôi đã làm cho nó hổ thẹn vì đã đang tâm thích chiếm hữu của cải giả tưởng hơn là của cải chính thực, những của cải này, tôi bảo với nó, mới là sự tưởng thưởng cho nỗ lực. Không tìm cách bôi nhọ cái xấu của nó, tôi chỉ trình bày cái xấu của nó ra như một trong những hình thái của sự lười biếng, tôi tin như thế, hình thái tinh tế nhất, âm hiểm nhất...
Nghe mấy tiếng vừa rồi, tôi sực nhớ mấy dòng của La Rochefoucauld(15), tôi muốn đưa cho bà coi, và dù có thể nhớ đọc ra được, tôi vẫn đi tìm Ngạn Ngữ, cuốn sách nhỏ không bao giờ rời tôi trong những chuyến đi. Tôi đọc cho bà:
“Trong mọi đam mê, cái đam mê xa lạ nhất đối với chúng ta là sự lười biếng, nó là đam mê nồng nhiệt nhất và tai quái nhất, dù rằng, sự dữ dội của nó không được nhận ra và những tác hại vô cùng ẩn kín... sự an nghỉ của lười biếng là một cái duyên ngầm của tâm hồn bỗng dưng đình chỉ những đeo đuổi hăng say nhất cùng những quyết định bướng bỉnh nhất. Sau hết, để diễn tả đích xác về đam mê này, ta phải nói rằng lười biếng chẳng qua như một giải thoát của tâm hồn nhằm thoa dịu những mất mát của tâm hồn và thay thế mọi của quý.”
Đến đây bà Sophroniska bảo tôi:
- Ông cho rằng khi viết những dòng này La Rochefoucauld ngụ ý như chúng mình vừa nói?
- Có thể thế, nhưng tôi không tin. Các tác giả cổ điển dồi dào về đủ thứ diễn giải có thể có được. Sự chính xác của họ sở dĩ đáng khen chính là vì nó không nhất quyết.
Tôi yêu cầu bà cho tôi xem cái bùa phi thường của Boris ấy. Bà bảo bà không giữ nó nữa, bà đã trao lại cho một người lưu tâm đến Boris, người này đã xin lá bùa ấy để làm kỉ vật:
- Một ông tên là Strouvilhou, tôi gặp ông này ở đây một thời gian trước khi ông đến.
Tôi đáp lời Sophroniska rằng tôi có nom thấy cái tên ấy trong cuốn sổ sách của khách sạn, rằng trong dĩ vãng tôi có quen một ông Strouvilhou và tôi cũng hiếu kì muốn biết đúng là một người hay không. Theo lời bà mô tả thì không nhầm lẫn vào đâu được, nhưng bà chẳng nói được điều gì về ông đó khả dĩ thỏa mãn tính hiếu kì của tôi. Chỉ biết rằng ông rất khả ái, rất sốt sắng, có vẻ thông minh lắm, nhưng chính ngay ông cũng hơi lười biếng, “nếu tôi mạo muội dùng tiếng này thêm lần nữa”, bà vừa cười vừa vớt thêm. Đến lượt tôi, tôi thuật cho bà, những điều gì tôi biết về Strouvilhou, và thế là tôi đi đến chuyện nói về trường nội trú, nơi tôi gặp Strouvilhou, nói về cha mẹ của Laura (chính Laura có tâm sự với bà), cuối cùng về ông cụ La Pérouse, những liên hệ họ hàng giữa ông cụ với bé Boris, và lời hứa của tôi khi chia tay với ông cụ là sẽ đưa cháu về cho cụ. Vì trước đây Sophroniska có bảo với tôi rằng bà thiết tưởng không nên để cho Boris tiếp tục sống với mẹ, nên tôi mới hỏi: “Sao bà không bỏ nó vào trường nội trú Azaïs?” Khi đề nghị điều này, thứ nhất là tôi mường tượng nổi mừng vui vô biên của ông cụ khi biết có Boris kề cạnh mình, ở với bạn bè, ông đến thăm nom tùy thích, nhưng mà, về phía thằng bé, tôi không thể tin rằng, ở đó là điều tốt cho nó. Sophroniska bảo sẽ nghĩ lại; nói cho cùng, bà rất quan tâm đến những điều tôi vừa tiết lộ.
Sophroniska vẫn một điệu cho thằng bé Boris đã khỏi bệnh, rằng lối điều trị này tăng cường cho phương pháp của bà, nhưng tôi e bà nói hơi sớm. Dĩ nhiên tôi không muốn cãi, với lại tôi nhìn nhận rằng những chứng tật, những cử chỉ sám hối, những lời nói nửa chừng, tất cả gần như đã biến mất; tuy nhiên tôi vẫn thấy hình như bệnh trạng chỉ núp bóng ở một vùng thâm sâu hơn trong người mà thôi, như thể để trốn tránh con mắt xoi bói của thầy thuốc, và bây giờ chính tâm hồn mới nhuốm bệnh. Cũng giống như những nhịp thần kinh tiếp liền theo sau sự thủ dâm, thì giờ đây những nhịp thần kinh này cũng tiếp liền theo sau một sự giậm giật vô hình nào không hiểu. Mà thật, Sophroniska lo ngại thấy Boris, nối gót Bronja, bị xô đẩy vào một tinh thần huyền bí theo kiểu trẻ con; bà quá thông minh nên không khỏi hiểu rằng sự giải thoát của tâm hồn, mà chính giờ đây Boris truy tầm, sự giải thoát mới mẻ này chung quy không khác bao nhiêu với sự giải thoát mà trước đây thằng bé ngụy tạo ra, và muốn cho bớt tiêu hao, bớt tai hại đối với cơ thể, bà cũng vẫn đánh lạc thằng bé ra khỏi con đường nỗ lực thực hiện. Thế mà, hễ tôi đề cập, bà lại trả lời rằng tâm hồn như Boris với Bronja khó thể khai trừ cái thức ăn hư hão và nếu chúng nó bị cất đoạn mất thức ăn đó, chúng nó sẽ ngã, Bronja thì ngã vào thất vọng, còn Boris ngã vào duy vật hạ tiện; bà lại còn tính liệu rằng bà không có quyền phá hỏng sự tin tưởng của bầy trẻ, và dù xem lòng tin tưởng của chúng là khoác lác, bà muốn nhìn thấy trong lòng tin ấy sự thăng hoa của những bản năng thấp kém, sự khẩn nguyện ở bình diện cao, sự giục giã, sự thủ thế, gì gì không hiểu… Bản thân không tin tưởng gì ở giáo điều của giáo hội, bà lại tin tưởng ở hiệu quả của đức tin. Bà xúc động đề cập đến sự đạo hạnh của đôi trẻ cùng đọc chung sách Khải Huyền, và xuất thần rồi trò chuyện cùng thiên thần và khoác áo trắng cho tâm hồn chúng. Như mọi đàn bà, bà đầy mâu thuẫn. Nhưng bà có lí; hẳn nhiên tôi không phải là một kẻ tin ở điều thần bí... cũng chẳng phải là một tên lười biếng. Tôi tin cậy nhiều ở không khí của trường nội trú Azaïs và Paris để biến Boris làm kẻ ham việc, để cuối cùng chữa trị nó cho nó khỏi phải kiếm tìm những “của quý giả tưởng”. Đó mới là sự cứu rỗi cho nó. Sophroniska hình như ngả theo ý nghĩ ủy thác nó cho tôi, nhưng có thể bà sẽ đi theo nó đến Paris, bởi muốn đích thân chăm chút cho thằng bé an cư tại gia đình Azaïs, và như thế là để trấn an người mẹ, bà tin chắc sẽ được người mẹ tán đồng.
* * *
(15) Fracois de La Rochefoucauld (1613-1680) là nhà viết luận văn người Pháp.
VI
Có những khuyết điểm, nếu biết ứng dụng, còn rạng ngời hơn cả đức tính.
LA ROCHEFOUCAULD
OLIVIER GỬI BERNARD
Cậu,
Trước hết, hãy cho mình báo cậu hay rằng mình đã qua được tú tài một cách êm đẹp. Nhưng cái này chẳng quan hệ gì. Một cơ hội độc nhất ứng ra cho mình đi xa. Mình còn lưỡng lự; nhưng đọc thư cậu xong, mình vớ ngay. Thoạt tiên là một sự chống đối nhẹ nhàng của mẹ, nhưng Vincent đã thắng được ngay, anh đã tỏ ra dễ mến một cách ngoài mong ước của mình. Không thể tin được rằng, trong hoàn cảnh theo như cậu nói trong thư, anh lại xử sự như tên vũ phu như thế. Tuổi bọn mình, có cái khuynh hướng tai hại là suy xét người ta quá khắc nghiệt và lên án không để cho chống án. Nhiều hành vi đối với chúng ta có vẻ là đáng trách, bỉ ổi là đàng khác, chỉ vì chúng ta không thấy hiểu đầy đủ những động cơ thúc đẩy. Vincent không phải... Nhưng thôi điều này sẽ lôi kéo mình đi quá xa mà mình thì quá nhiều chuyện nói với cậu.
Cậu hãy biết cho rằng kẻ đang viết thư cho cậu đây chính là chủ nhiệm một tân tạp chí, Tiền Phong. Sau khi nghị quyết một phần nào, mình nhận lời gánh lãnh nhiệm vụ, mà bá tước Robert de Passavant xét là mình xứng đáng. Chính Robert xuất vốn cho tạp chí, và trên mặt bìa sẽ chỉ có tên mình hiện diện. Bọn mình bắt đầu ra mắt vào tháng mười, cậu hãy cố gửi cho mình một cái gì cho số đầu tiên, mình sẽ buồn lòng nếu tên cậu không sánh cạnh tên mình trong bản mục lục ra mắt. Robert muốn rằng, trong số đầu, sẽ xuất hiện một cái gì thật phóng túng và ý vị, bởi Robert cho rằng trách cứ chết người hơn cả mà một tạp chí mới ra đời có thể hứng chịu là e dè, mình cũng đồng ý phần nào. Bọn mình bàn bạc nhiều: Bá tước bảo mình viết đi và cung cấp cho mình đề tài truyện ngắn khá hiểm, điều này làm mình ê ẩm tí đỉnh vì mẹ mình, bởi lẽ có thể gây phiền muộn cho mẹ, nhưng đành vậy. Như lời của Robert: càng trẻ, thì xì căng đan càng bớt chiêu họa.
Viết cho cậu từ Vizzavone đây. Vizzavone là một địa điểm nhỏ bé ở lưng chừng một trong những ngọn núi cao của Corse, chìm hút vào một khu rừng dày. Khách sạn chúng mình ở thì khá xa làng và dùng cho bọn du khách làm điểm khởi hành du ngoạn. Mới ở có mấy ngày thôi. Thoạt tiên cả bọn đóng đô trong một lữ quán, không xa vịnh Porto tuyệt diệu, tuyệt đối vắng vẻ, chúng mình xuống tắm buổi sáng ở đó và có thể sống trần truồng suốt ngày. Tuyệt, nhưng nóng quá và lại phải quay về núi.
Robert là người bạn đồng hành đáng yêu, không hề mặc cảm danh tước, ông muốn mình gọi ông là Robert, rồi bày vẽ gọi mình bằng Olivier. Đáng yêu chưa? Ông làm đủ cách để bắt mình quên tuổi tác của ông và mình dám chắc với cậu là ông thành công. Mẹ mình hơi sợ thấy mình ra đi với ông, vì mẹ biết ông sơ sài. Mình do dự, sợ phiền bà. Trước khi nhận thư cậu, mình gần bỏ cuộc rồi đấy. Vincent thuyết phục mẹ và lá thư của cậu bất ngờ cho mình can đảm. Những ngày cuối cùng trước khi ra đi, bọn mình đổ ra để lục lạo các nhà hàng. Robert rộng rãi đến độ luôn luôn muốn tặng mình đủ thứ và mình không ngớt can ngăn. Nhưng ông thấy áo xống mình ghê mắt, những áo, cà vạt, vớ, không có cái gì của mình làm vừa lòng ông; ông nói đi nói lại rằng, nếu mình có phải sống một thời gian với ông thì ông sẽ quá khổ nếu không thấy mình ăn mặc đàng hoàng - có nghĩa là: ăn mặc cho vừa ý ông. Dĩ nhiên, người ta phải đưa tất cả các món hàng mua về nhà ông, vì sợ bắt mẹ lo ngại. Chính ngay ông là người thanh lịch sành điệu, nhưng thứ nhất là ông biết thưởng thức, và lắm điều trước kia mình chịu nổi thì bây giờ trở thành gớm ghiếc. Cậu không tưởng tượng nổi Robert ngộ đến thế nào tại các nhà hàng cung cấp vật dụng. Cơ trí đến thế thì thôi! Cho cậu một ý niệm nhé: bọn mình đang đứng trong tiệm Brentano, Robert vào đây đưa sửa cây bút máy. Sau lưng ông có một chàng người Anh to tướng muốn tới trước và vì Robert thình lình xô lấn sao đó nên chàng ta lầu bầu với Robert cái gì không hiểu; Robert quay lại và trầm tĩnh vô cùng:
- Vô ích. Tôi đâu hiểu tiếng Anh.
Chàng kia, hung hăng, trả lời lại bằng tiếng Pháp sành sỏi:
- Ông có bổn phận phải biết chứ.
Nghe thế, Robert mỉm cười, vô cùng lễ độ:
- Vô ích, ông thấy rõ ràng đó chứ.
Chàng người Anh sôi sục, nhưng hết biết nói gì. Thật buồn cười.
Một bữa khác, bọn mình đang ở nhà hát Olympia. Giữa lúc nghỉ chuyển hồi, bọn mình thả bộ trong đại sảnh, nơi đây lui tới đông đảo bọn gái điếm. Hai đứa trong bọn, dáng vẻ ươn hèn, lân la đến gần Robert:
- Bao một ly bia bốc đi, anh?
Bọn mình ngồi chung một bàn với hai ả.
- Bồi! Bia bốc cho các cô.
- Còn mấy ông?
- Chúng tôi? Thôi thì champagne vậy, - Robert đáp rất hờ hững. Và ông gọi một chai Moët, cả hai cùng uống vèo. Ước chi cậu mục kích vẻ mặt của mấy ả!... Mình chắc Robert tởm bọn điếm. Ông có tâm tình với mình là không hề bước vào một ổ nhện nào, và lộ cho mình hiểu rằng nếu như mình vào đó thì ông sẽ giận lắm. Cậu thấy chưa, một con người rất sạch, mặc dù điệu bộ câu kéo bỡn cợt - chẳng hạn trong chuyến du lịch, khi nào ông gọi “ngày buồn tẻ” tức là ngày ấy không gặp được trước giờ ăn trưa tối thiểu năm người gợi ý thích ngủ chung. Mở ra đây dấu ngoặc, mình phải cho cậu hay rằng mình không tái diễn cái trò... - hiểu chứ.
Robert có một lối giảng luân lí pha trò đặc biệt. Hôm nọ ông bảo mình:
- Cậu thấy không, điều quan trọng ở đời là đừng để mình bị lôi cuốn. Cái này dẫn dắt cái kia và rồi không còn biết đi tới đâu nữa. Đấy, tôi có quen một chàng trẻ tuổi đàng hoàng lắm, lẽ ra phải cưới đứa con gái bà bếp của tôi. Một đêm, hắn tình cờ vào một tiệm nữ trang cỡ nhỏ. Hắn giết tên chủ. Và sau đó, ăn trộm. Rồi sau, lánh mặt. Cậu thấy câu chuyện dẫn dắt tới đâu chưa. Lần cuối cùng gặp lại hắn, hắn đâm ra nói dối. Cậu hãy coi chừng.
Ông lúc nào cũng thế đấy. Để nói cho cậu rằng mình không chán. Ông với mình ra đi với ý định làm việc nhiều, nhưng mãi cho tới giờ chỉ có việc tắm, hong nắng và chuyện trò. Ông có những ý kiến và tư tưởng cực kì độc đáo về mọi mặt. Mình hết sức thúc giục ông viết một số luận thuyết mới mẻ mà ông đã phô diễn cho mình về loài vật dưới bể sâu và cái mà ông gọi là “ánh sáng tự chế” của chúng, ánh sáng này giúp giống vật không cần đến ánh sáng mặt trời, ông đồng hóa với ánh sáng “mặc khải”. Trình bày văn tốt như mình thì không nghĩa lí gì, nhưng cam đoan với cậu, khi ông thuyết thì thú như tiểu thuyết. Thường ngày người ta đâu có biết ông rất cừ khối về môn lịch sử tự nhiên, nhưng ông cũng dùng một cách làm dáng để che đậy kiến thức của mình. Đó là cái mà ông gọi là đồ trang sức kín đáo. Ông bảo chỉ có bọn ngoại quốc ngông nghênh mới khoái cái trò phơi bày ra trước mắt mọi người cái bộ vó của mình, và nhất là khi nào bộ vó ấy giả hiệu.
Đáng phục thay, ông biết dùng tư tưởng, hình ảnh, người, vật; có nghĩa là ông hưởng dụng được hết. Ông bảo rằng nghệ thuật lớn của đời sống, không hẳn là hưởng thụ mà là học cách biết dùng.
Mình có viết mấy câu thơ, nhưng không vừa lòng đúng mức để gửi cho cậu.
Hẹn gặp lại nhé, cậu. Vào tháng mười. Cậu sẽ thấy chính mình cũng thay đổi. Mỗi ngày mình mỗi thêm tự tin. Mình sung sướng biết cậu ở Thụy Sĩ, nhưng cậu thấy rõ mình chẳng ganh gì với cậu.
OLIVIER
Bernard đưa lá thư cho Édouard, chàng đọc thư mà không để lộ tình cảm gì do lá thư khuấy động. Bao nhiêu điều Olivier kể về Robert một cách quá hậu hĩnh làm chàng bất bình và bắt chàng ghét Robert một cách dứt khoát. Nhất là, chàng giận vì mình không được nhắc đến tên ở trong thư chứ đừng nói gì khác và Olivier như thể quên chàng. Chàng gượng gạo cố gắng để lần mò ba hàng chữ tái bút bị bôi xóa dày đặc sau đây:
Cậu hãy nói với cậu E. rằng mình hằng nhớ đến cậu, rằng mình không thể bỏ lỗi cho cậu đã bỏ rơi mình và mình còn giữ trong lòng vết thương để tiếng.
Những dòng chữ trên đây là những dòng thành thật độc nhất của lá thư giương đông kích tây, hoàn toàn ngôn ngữ của lòng giận dỗi. Olivier đã gạch bỏ.
Édouard trao trả lá thư độc địa lại cho Bernard, không nói năng; không nói năng, Bernard đỡ lấy. Tôi có nói rằng hai người không nói với nhau nhiều; một thứ gì như một sự gò bó lạ lùng, khó giải thích đè nặng ngay những khi nào chỉ có hai người đối diện với nhau. (Tôi không thích tiếng “khó giải thích”, có viết ra ở đây chỉ là vì tạm thời túng chữ.) Nhưng đêm nay, rút về phòng, và trong khi dọn mình cho đêm tới, Bernard, cổ họng hơi thắt lại và cố gắng lắm mới buông lời hỏi:
- Laura có đưa cho ông coi lá thư của Douviers?
Édouard lên giường, đáp:
- Douviers nói gì làm thế, không nghi ngờ vào đâu được. Một người rất hẳn hoi. Có thể là hơi yếu ớt, nhưng vẫn là người rất hẳn hoi. Anh ta sẽ yêu đứa nhỏ, chắc chắn như thế. Và đứa nhỏ chắc chắn sẽ bụ bẫm hơn là chính anh cố gắng đúc ra. Bởi anh có vẻ không vạm vỡ gì cho lắm.
Bernard yêu Laura vô cùng tận nên không khỏi bị chối tai vì giọng khinh bạc của Édouard, thế mà hắn vẫn không để lộ điều gì.
Édouard vừa tắt đèn vừa nói tiếp:
- Thôi! Tôi cũng vui mừng thấy câu chuyện kết thúc một cách không thể nào hơn, câu chuyện vốn có vẻ không có lối thoát nào khác hơn là sự vô vọng. Ai mà khỏi sẩy bước. Điều quan trọng là đừng lì lợm...
- Dĩ nhiên là thế, - Bernard nói để tránh thảo luận.
- Phải thú thật, Bernard ạ, tôi ngại rằng đối với anh, tôi cũng thế.
- Đã sẩy bước?
- Phải. Mặc dù bao nhiêu cảm tình đối với anh, từ mấy hôm nay tôi tin rằng anh với tôi sinh ra không phải để tâm đầu ý hợp và... (chàng ngần ngừ một lát, tìm chữ) nếu đi theo tôi lâu hơn, anh sẽ lệch bước.
Édouard có ngâm nga không nói gì Bernard cũng nghĩ thế, nhưng hẳn nhiên Édouard không thể nói điều gì chuẩn xác hơn nữa để lay tỉnh Bernard. Bản năng kháng biện lấn lướt, Bernard cãi chối:
- Ông không hiểu rõ tôi, và chính tôi không hiểu rõ tôi. Ông không thử thách tôi. Nếu ông không bất bình gì tôi, thì tôi xin ông chờ thêm nữa được chăng? Tôi chấp nhận ông với tôi rất ít giống nhau, nhưng thiết tưởng, chính vì thế, đối với ông và tôi, tốt hơn là đừng giống nhau quá. Tôi cho rằng, tôi có giúp ông được chăng, là bằng những sự khác biệt của tôi nhiều hơn hết và bằng những gì mới mẻ mà tôi có cơ đem lại. Nếu tôi quá lời, xin báo cho biết, vẫn còn kịp. Tôi không phải thứ người phàn nàn, thứ người không bao giờ cải chối. Nhưng mà thế này, xin đề nghị với ông. Có thể là ngốc xuẩn đây... Thằng bé Boris nếu tôi hiểu đúng, thì nó sẽ phải nhập trường nội trú Vedel - Azaïs. Bà Sophroniska há không biểu lộ sự e ngại thằng bé bị lạc lõng phần nào ở trường nội trú là gì? Nếu tôi vác xác đến đó kèm theo lời gửi gắm của Laura, có hi vọng gì kiếm được một chân giám thị, giám sát, gì đó không? Tôi cần mưu sinh. Về khoản công việc ở đó, tôi không đòi hỏi gì nhiều, cái ăn cái mặc là đủ... Bà Sophroniska chứng tỏ tin tôi, còn Boris thì ăn ý với tôi lắm. Tôi sẽ che chở nó, giúp nó, bày cho nó học, làm bạn với nó. Trong lúc đó vẫn tùy ông điều động, làm việc với ông đồng thời, hễ khẽ ra hiệu là tôi đáp lời. Đấy, ông nghĩ sao, về điều đó?
Và như muốn gắn nặng cân cho “điều đó”, hắn nói thêm:
- Tôi nghĩ ngợi từ hai hôm nay.
Điều này không thật. Nếu hắn không phải là vừa mới nảy sinh ra dự định mĩ miều ngay tức thì, thì hắn đã đem ra nói với Laura rồi. Nhưng có điều thật, mà hắn không nói ra, là từ buổi đọc lỏm nhật kí của Édouard và từ buổi gặp Laura, hắn thường tưởng tới trường nội trú Vedel; hắn mong mỏi quen biết Armand, bạn của Olivier, mà Olivier không hề nhắc nhở với hắn; hắn lại còn mong mỏi quen biết Sarah, cô em gái, hơn nữa, nhưng sự tìm hiểu của hắn vẫn âm thầm; vì nể nang Laura, hắn không tự mình thú nhận với mình.
Édouard không nói gì, tuy nhiên dự tính do Bernard đưa ra làm chàng vừa lòng, miễn bảo đảm một chỗ trú ngụ cho Bernard. Chàng ít bận tâm về việc phải nuôi Bernard ăn ở. Bernard thổi tắt đèn, rồi nói tiếp:
- Ông đừng cho rằng tôi không hiểu gì về những chuyện ông kể chung quanh cuốn truyện và sự xung đột mà ông tưởng tượng ra giữa cái thực tế sơ nguyên và cái...
Édouard ngắt ngang:
- Không tưởng tượng gì hết, nó có đấy.
- Nhưng chính vì thế tôi mới lật ngược một vài sự thể hướng về phía ông để cho ông cưỡng chống lại, như thế không tốt sao? Tôi sẽ quan sát thay cho ông.
Édouard không hiểu tên này có chơi leo phần nào chăng. Điều có thật, là chàng thấy mình bị nhụt vì Bernard. Hắn diễn đạt giỏi quá...
- Chúng mình sẽ nghĩ lại, - Édouard đáp.
Một hồi lâu trôi qua. Bernard thử ngủ mà không được. Lá thư của Olivier giày vò hắn. Cuối cùng, chịu hết nổi, và vì nghe Édouard trở mình trên giường, hắn nhỏ giọng:
- Nếu ông chưa ngủ, xin phép hỏi ông cái này nữa... Ông nghĩ gì về bá tước Passavant?
- Nêu ra đúng đấy. - Édouard đáp.
Rồi, sau một lát chàng hỏi:
- Thế còn anh?
- Tôi à, - giọng Bernard man dại. - Giết được thì giết.
* * *
VII
Du khách, khi đã lên đến đỉnh đồi, ngồi xuống và nhìn trước khi tiếp tục cất bước đi xuống; y tìm kiếm xem con đường quanh co đang đi này đây, tưởng như mất hút vào bóng râm và bóng đêm vì đêm xuống, cuối cùng sẽ dẫn dắt y đến đâu. Cũng thế, tác giả thiếu tiên liệu dừng bút một lát, lấy hơi, và âu lo tự hỏi câu chuyện kể sẽ dẫn dắt y đến đâu.
Tôi sợ rằng Édouard, khi ủy thác thằng bé Boris cho gia đình Azaïs, chàng phạm một điều bất cẩn. Làm sao ngăn? Mỗi cá thể hành động theo luật tắc của mình, và luật tắc của Édouard đưa đẩy chàng thí nghiệm không ngừng. Chàng có lòng tốt, hẳn nhiên, nhưng lắm khi, vì sự an ngơi của tha nhân. Thà rằng thấy chàng hành động vụ lợi còn hơn, bởi lẽ sự rộng lượng, vốn lôi cuốn chàng, lắm khi chỉ đi cặp kè với sự hiếu kì dễ trở thành độc hại. Chàng quen trường nội trú Azaïs, chàng biết không khí nhiễm độc hô hấp tại đó, ủ dưới lớp đạo lí và tôn giáo ngột ngạt. Chàng biết Boris, tính đằm thắm, thể chất mảnh mai của nó. Lẽ ra chàng phải tiên liệu mình phiêu lưu đưa nó hứng lấy những vùi dập nào mới phải chứ. Nhưng chàng chỉ muốn xét đến sự đùm bọc, sự tiếp sức và nương tựa mà sự trong trắng phôi thai của thằng bé có thể hơi hưởng trong nét tính khắc khổ của ông cụ Azaïs. Ngụy biện nào khiến chàng nghe theo? Hẳn nhiên là ngạ quỷ mớm ý, bằng không chàng đâu có nghe ý của ai.
Hơn một lần Édouard làm tôi cáu giận (khi chàng nói tới Douviers chẳng hạn), bất bình nữa là khác, hi vọng tôi không để lộ quá lắm, nhưng bây giờ thì có thể nói ra. Cách thức chàng đối xử với Laura, có khi rất bao dung, có khi có vẻ khiến tôi khó lòng nhịn nhục.
Điều tôi không thích nơi con người của Édouard là những lí lẽ mà chàng tự viện dẫn. Tại sao bây giờ chàng lại tự thuyết dụ mình mưu cầu điều lành cho Boris? Dối trá với kẻ khác, còn khả thứ, đàng này dối trá với chính mình! Dòng nước lũ nhận chìm thằng bé có rêu rao là đem nước uống cho thằng bé chăng?... Tôi không phủ nhận rằng, trên suốt cõi đời, vẫn có những hành vi cao cả, bao dung, và vô vị lợi nữa, tôi chỉ nói rằng đàng sau một động cơ tốt đẹp nhất, rất nhiều khi ẩn úp một ngạ quỷ tài tình biết diệu dụng những cái mà ta đinh ninh đã tranh đoạt được của hắn.
Hãy lợi dụng thời gian mùa hè này vốn đang phân tán những nhân vật của chúng ta để chúng ta tiện bề soi xét họ. Mà cũng nhân thể chúng ta đang ở vào trung điểm của câu chuyện, tại đây nhịp của chuyện chậm lại và như thể lấy đà mới để mau mau dồn dập chiều trôi chảy. Bernard hẳn nhiên còn quá trẻ tuổi không nắm lãnh được sự điều khiển trò quỷ lộng. Hắn cam kết bảo toàn Boris, hắn sẽ đủ sức quan sát Boris là nhiều nhất. Chúng ta đã mục kích Bernard đổi thay, những đam mê còn có thể biến dạng hắn hơn thế nữa. Tôi tìm lại trong một cuốn sổ tay vài câu ghi những điều tôi nghĩ về hắn trước đây:
“Đúng ra tôi phải nghi ngờ một cử chỉ thái quá như cử chỉ của Bernard hồi vào đầu câu chuyện. Bằng vào những hướng đi về sau của hắn, dễ thường hắn đã dốc cạn tiềm lực loạn động, những tiềm lực này có thể sẽ được dinh dưỡng nếu như hắn cứ tiếp tục oằn mình mà sống, một cách phải chăng, dưới áp bức của gia đình. Kể từ vụ đó, hắn sống trong vòng phản ứng và giống như trong vòng phản nghịch lại cử chỉ trên. Quen thói phản kháng và chống đối, điều này đưa đẩy hắn tới chỗ phản kháng lại chính sự phản kháng của mình. Có thể hắn không phải là một trong những nhân vật sẽ còn bắt tôi thất vọng thêm, bởi có lẽ hắn không phải là một trong những nhân vật khiến cho tôi hi vọng nhiều hơn nữa. Có lẽ hắn buông xuôi quá sớm”.
Nhưng những lời trên đây đối với tôi không còn có vẻ chính xác rất mực nữa. Thiết tưởng vẫn nên đặt lòng tin nơi hắn. Nhiều nét đại lượng còn sinh động con người hắn. Tôi cảm thấy ở nơi hắn tính khí nam nhi, sức lực, hắn có khả năng bất bình. Hắn nghe tiếng nói của mình hơi nhiều, nhưng nó nói cũng giỏi. Tôi ngờ vực những tình cảm tìm ra được lề lối diễn đạt một cách quá lẹ. Hắn học rất giỏi, nhưng những tình cảm mới mẻ không biểu đồng tình trôi chảy vào những mô thức đã được học hỏi. Sáng chế được mảy may gì là có thể buộc nó lắp bắp. Nó đã đọc nhiều rồi đấy, ghi nhớ quá nhiều và học hỏi nhờ sách nhiều hơn nhờ đời sống.
Tôi chưa thể nguôi ngoai về sự cao hứng của Bernard trong sự tranh giành vị trí cạnh Édouard với Olivier. Biến cố xếp đặt lỡ làng. Chính Olivier là kẻ mà Édouard yêu. Còn sự chăm chút nào mà chàng không dùng đến để thuộc cho Olivier thành trưởng thành? Còn sự tôn quý nào mà chàng không dùng đến để dẫn dắt, nâng đỡ, đưa Olivier lên ngang hàng mình? Passavant sẽ phá hỏng hắn, chắc chắn như thế. Đối với chàng không còn gì ma tà hơn cái lớp vỏ bất cần cẩn tắc đó. Về Olivier, tôi vẫn mong hắn biết cách phòng ngự hơn chứ, có điều hắn bản chất dễ cảm và dễ xúc động trước sự ve vuốt. Mọi thứ làm hắn choáng váng. Đàng khác, theo một vài điệu nói trong thư gửi cho Bernard, tôi tin mình hiểu rằng hắn hơi hợm hĩnh. Đa tình, dễ giận, hợm hĩnh, bao nhiêu thứ vướng mắc! Rồi đây Édouard gặp lại hắn, e rằng quá chậm. Tuy nhiên hắn còn trẻ và ta có quyền ước vọng.
Passavant... cầm bằng đừng nói tới, nhỉ? Không có gì vừa độc hại hơn mà vừa được hoan nghênh hơn những người thuộc giống loại với y, ngoại trừ những người đàn bà như Griffith. Lúc đầu, thú thật, nàng Griffith đủ sức uy hiếp tôi. Nhưng tôi đã nhanh chóng nhìn ra sự nhầm lẫn của mình. Nhân vật cỡ này được tạc từ một chất liệu thiếu bề dày. Nước Mỹ xuất cảng thứ này dồi dào, nhưng vẫn không phải là nước độc quyền sản xuất đâu. Của cải, thông minh, nhan sắc, hình như bọn họ có đủ, trừ tâm hồn. Thật vậy, Vincent sẽ phải thuyết minh mình cấp kì. Bọn người đó không cảm thấy đè nặng lên người mình một dĩ vãng, một bó buộc nào, bọn người vô luật, vô sự vô ưu; tự do và vụt chạc, chúng tạo nỗi thất vọng cho nhà tiểu thuyết, chúng chỉ cấp cho nhà tiểu thuyết những phản ứng không có giá trị. Tôi hi vọng từ đây cho đến mãi lâu về sau đừng gặp lại cô nàng Griffith. Tiếc rằng cô nàng đã phỗng mất Vincent, anh này khiến tôi quan tâm hơn, nhưng lại tầm phào lui tới với Griffith; bị thị gạt gẫm, anh ta đánh mất những góc cạnh của mình, một vài góc cạnh khá đẹp.
Nếu có dịp đặt ra một câu chuyện nào nữa, tôi sẽ để cho y thị ấp ủ toàn những nét tính đã được trui rèn mà đời sống, đã không làm cho mai một, còn biến thành sắc bén... Laura, Douviers, La Pérouse, Azaïs... làm gì đây với những nhân vật này? Tôi nào có tìm kiếm họ làm gì, chính vì theo dõi Bernard và Olivier mà tôi gặp họ trên đường đi. Thôi thì đành vậy, từ nay tôi có phận sự với những con người ấy.
* * *