Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Chương 4
M
ồng Một tháng Năm 1939. Những đám mây ùn lên trên thế giới theo một tốc độ nhanh đến mức không còn phải là chuyện một từ ngữ bóng bẩy mà các nhà báo tất cả mọi nước đôi lúc vẫn thường dùng nữa. Thế giới đi tới chiến tranh như một con tàu lao vào đường hầm, không gì cản được.
Nói cho đúng ra, chiến tranh bắt đầu đã từ lâu rồi. Từ tám năm nay ở Mãn Châu, và từ ba năm nay, trên khoảng còn lại của lãnh thổ Trung Hoa, quân Nhật gây chiến trên một khoảng đất mênh mông, rộng gắp sáu lần tất cả nước Nhật. Chúng tiến nhanh vào nội địa Trung-quốc ở khắp mọi nơi mà chúng gặp lực lượng chiến đấu của quân Quốc dân Đảng. Nhưng chúng dẫm chân tại chỗ trong những tỉnh chúng phải đương đầu với Bát lộ quân.
Chín tháng trước ngay Một tháng Năm này, trên một giải đất hẹp cách Vơ-la-đi-vô-xtốc không xa mấy, do cái người ta gọi là «cuộc xô xát ở biên giới vùng hô Hat-xan» giữa quân Nhật và quân đội Liên-xô, cả hai bên đã có bốn nghìn người chết và bị thương.
Ở châu Âu, Đức và Ý, không tuyên bổ chiến tranh, đã dìm nước Cộng hòa Tây-ban-nha trong máu. Hàng trăm nghìn mộ chiến sĩ ngổn ngang trên đất Tây-ban-nha. Ở Ma-đơ-rít, ở Va-lăng-xơ, ở Bác-xơ-lon và trong nhiều tỉnh khác, tòa án quân sự đưa hàng loạt người cộng sản ra trước mũi súng. Trong rừng núi miền A-stuy-ri và miền Ang-đa-lu-đi du kích liên tục tấn công quân đội phát-xít và bọn cảnh sát.
Khoảng trung tuần tháng tư, chính phủ các nước Anh, Pháp đề nghị với Mạc-tư-khoa thiết lập một hệ thống an toàn tay ba để bảo đảm hòa binh ở châu Âu. Theo thâm ý của Anh, Pháp, trong hệ thống này chủ yếu là Liên-xô phải gánh lấy trách nhiệm bảo đảm hòa bình và người ta đùn cho Liên-xô phải đánh nhau với Đức trong bất cứ trường hợp nào. Trong khi mở những cuộc đàm phán, chính phủ Anh đứng đầu là Săm-béc-lanh, chính phủ Pháp đứng đầu là Đa-la-đi-ê, và chính phủ Mỹ nấp đằng sau, đều nhất trí thầm mong có thể hướng từ Tây sang Đông theo mũi tên chỉ thẳng tới Mạc-tư-khoa, con tàu bọc sắt của chủ nghĩa phát-xít Đức, không ngừng lại dọc đường.
Trong những điêu kiện ấy, việc hàng trăm hàng nghìn chiến sĩ chống phát-xít Tây-ban-nha, sau khi thất bại, sang lánh nạn trên lãnh thổ nước Cộng hỏa Pháp, bị ném vào các trại tập trung không khác bao nhiêu những trại mà Hít-le mở ra trên đất hắn cho những chiến sĩ chống phát-xít Đức, cũng chẳng có gì lạ.
Chùm trong chiếc áo khoác bằng da đã cũ, I-ăng Pê-tơ-ra-sếch nằm dài trên cát giá lạnh trong đêm. Một mô đất nhỏ che cho anh chống gió buốt; anh đắp mô đất đó ban ngày, trước cơn sốt rét.
Ở nơi anh nằm, đi một cây số là đến biển, hai mươi cây số là đến biên giới Tây-ban-nha và ba nghìn cây số là đến Mạc-tư-khoa. Nhưng cách hai trăm thước là hàng rào dây thép gai, đằng sau đó bọn lính Xê-nê-gan và cảnh sát Pháp đương tán chuyện, lửa thuốc lá chọc thủng màn đêm.
Pê-tơ-ra-sếch từ ba tháng nay ở trại Ác-giơ-lét, một trong những trại mà chính phủ Pháp tập trung những chiến sĩ của quân đội Cộng hòa Tây-ban-nha và những người dân lánh nạn miền Ca-ta-lô-nhơ.
Nói cho đúng hơn, thì Ác-giơ-lét cũng chưa hẳn là một trại, mà chỉ là một mẩu bãi biển ba phía rào dây thép gai còn một phía là biển và lại một lần dây thép gai nữa. Sau hàng dây thép gai, là những đống gỗ, nguyên tắc là dùng để xây dựng lán trại, nhưng thời gian khởi công xây dựng cứ lùi mãi, lùi mãi và người ta cho là bình thường việc mỗi tối có hàng mươi, mười lăm người chết vì rét, vì đói và vì tất cả mọi thứ bệnh tật.
Gió, sức gió và hướng gió là những sự kiện rất quan trọng. Hôm đó, biển động dữ và gió, lạnh và ẩm, thổi từ phía biền tung hàng nắm cát vào mắt.
Pơ-tơ-ra-sếch rát khô sau những cơn sốt rét; anh cảm thấy yếu đến độ như không còn đủ sức co ngón tay lại nữa. May là anh còn có chiếc áo khoác cũ bằng da này; đó là một vật quý ở Ác-giơ-lét, vì ở đây dốc tất cả cơ nghiệp mình còn mang trong người ra và thêm khẩu phần ăn cho ba ngày cũng chỉ đổi được một chiếc áo sợi, không dày lắm.
Ngót một tháng nay, Pơ-tơ-ra-sếch cho một anh bạn người Bác-xơ-lon có vợ ốm gần chết, mượn chiếc áo. Chị ta chết cách đây năm ngày, và anh bạn đưa lại áo trả cho Pê-tơ-ra- sếch. Lấy lại được chiếc áo khoác, anh cũng đỡ lạnh trong nhưng lúc lên cơn sốt và anh bắt đầu hy vọng rằng, khi cuối cùng đến lượt anh được lĩnh ký-nin (người ta phát sẵn từng tí ky-nin và ủy ban cứu tế của trại dành ưu tiên cho đàn bà và trẻ con) anh sẽ chiến thắng bệnh tật và bình phục.
Ngoài chiếc áo khoác da, Pê-tơ-ra-sếch còn có bộ quân phục của quân đội Tây-ban-nha, cũ đến độ sắp không dùng được nữa sau ba tháng nằm trên cát, đôi giày thủng, chiếc ca-lô, con dao, một phóng-sét, một cùi-dìa, một cà-mèn mà không phải ngày nào anh cũng dùng đến ở Ác-giơ-lét, và giấy hộ chiếu công dân nước Cộng hòa Tiệp-khắc, hoàn toàn vô ích đối với anh, vì nước Cộng hòa Tiệp-khắc không còn nữa đã thay thế bằng chính quyền bảo hộ vùng Bô-hem và Mo-ra-vi của Hít-le mất rồi.
Đối với một người Tiệp từng chiến đấu trong những binh đoàn quốc tế, chính phủ bảo hộ đó chỉ có thể hiến cho họ một khả năng là nhà tù; không còn phải là chuyện tự nguyện trở về, mà là trao trả lại cho bọn cầm quyền Đức. Hít-le còn có thể đòi hỏi hơn thế nữa, mà không phải chính phủ Pháp sẽ phân đối những ý muốn của hắn. Từ ba năm nay, chính phủ Pháp đã thỏa mãn hết ý muốn này, đến ý muốn khác của bọn phát-xít. Pê-tơ-ra-sếch không lạ gì điều đó, sau hai năm rưỡi chiến đấu ở Tây-ban-nha và mấy tháng ở trại.
Trong số bảy vạn người bị cầm tù, màn trời chiếu đất ở Ác-giơ-lét, Pê-tơ-ra-sếch thật ra chỉ là một hạt cát, phải lâu lắm người ta mới có thể tìm được anh, nhưng để đề phòng cẩn thận, anh cũng cứ chôn hộ chiếu xuống cát - Anh không muốn hoàn toàn hủy bỏ nó. Dù sao anh cũng hy vọng một ngày kia những chiến sĩ trong các binh đoàn quốc tế mà Tổ quốc hiện nằm trong tay bọn phát-xít Đức, Ý, Áo, và thêm vào gần đây Tiệp-khắc và Ba-lan (chính quyền Rích-dơ Xmi-gli cũng đã tuyên bố đặt họ ra ngoài vòng pháp luật), sẽ tìm thấy một xó đất không phải là bãi biển Ác-giơ-lét này để sống.
Pê-tơ-ra-sếch nhớ một buổi sớm, không thú vị lắm, ngoài mặt trận, trên bờ con sông Xe-gơ-rơ, mùa thu năm ngoái, tiểu đoàn anh thời kỳ đó được bổ sung đầy đủ bằng những tân binh Tây-ban-nha và sát nhập vào một sư đoàn Tây-ban-nha. Chính trị viên Ri-sa Bô-ơ người Đức, báo cho họ biết quyết định của chính phủ Tây-ban-nha giải tán vĩnh viễn những đơn vị quốc tế hiếm hoi còn lại trong quân đội Cộng hòa và chuyển về hậu phương chiến sĩ và cán bộ của nhũng đơn vị đó. Chính phủ Tây-ban-nha cảm ơn họ về những công việc quang vinh họ đã cống hiến và hứa sẽ làm mọi điều cần thiết để giúp họ trở về Tổ quốc.
- Thế còn những người không có Tổ quốc thì sao? - Từ trong hàng, Vi-ét-dơ-man người Áo, thuộc đơn vị Pê-tơ- ra-sếch, la lên.
- Tất cả mọi người đều có một Tổ quốc, Bô-ơ ngắt lời. Đồng chí, đồng chí cũng có một Tổ quốc nhưng không may lại cùng với Síc-ken-gơ-ru-bơ (Ví-ết-dơ-man, quê ở Brao-nô, sinh quán của Hít-le).
- Đấy không phải là điều tôi muốn hỏi - Vi-ét-đơ-man trả lời bình tĩnh - tôi chỉ muốn biết người ta phải làm gì khi người ta không biết đi đâu cả.
- Tôi hy vọng rằng không một tên khốn kiếp nào trong ủy ban không can thiệp lại sẽ bắt được tôi dời khỏi đây đi Đa-sô - Bô-ơ nói - và tôi nghĩ rằng nước Cộng hòa Tây-ban-nha sẽ không từ chối tôi quyền được chết cho nó, ở đây cũng như ở chỗ khác. Tôi đã nói xong. Rốt phơ-ron-tơ!(1)
Anh đứng lại mấy giây, nắm tay giơ lên trời rồi từ những hòm đạn anh vừa trèo lên, bước xuống.
Cả ngày diễn ra trong không khí chuẩn bị rời mặt trận. Bô-ơ lập một danh sách những người không biết đi đâu và lên đề nghị ban tham mưu sư đoàn cho để họ ở lại mặt trận.
Từ tám tháng nay, tiểu đoàn không ngừng chiến đấu. Trong số những người phải đi, một số đã mỏi mệt và ý nghĩ rời bỏ tiền tuyển cũng không làm cho họ khó chịu; nhưng tình đồng đội ngoài mặt trận, khiến họ không muốn nói nhiều.
Một số khác nghĩ rằng điều vừa xảy ra là không thể tránh được và không muốn nhắc nhở đến quyết định của chính phủ Tây-ban-nha. Đó là một việc đã rồi, không ai có thể thay đổi được.
Một số khác nữa, phẫn nộ, định gặp ban tham mưu các binh đoàn quốc tế trình bày quan điểm của mình và yêu cầu được trở lại mặt trận.
________________________________________ (1) Chữ Đức Rot Front nghĩa là mặt trận đỏ. Những chú thích nào không có ghi N.D. đằng sau là chú thích của người dịch tiếng Việt.
Tối hôm đó, tiểu đoàn, được hai đại đội dự bị gồm tân binh thay thế, định ngủ đêm trong một khu rừng, không xa mặt trận lắm, và xe cộ cùng đã đợi sẵn để hôm sau chở họ đi Bác-xơ-lon. Bọn phát-xít hình như biết rõ tình hình, và có lẽ chúng biết rõ thật, liền mở một cuộc tiến công. Chúng tiến chớp nhoáng trên nhiều cây số.
Những người của các binh đoàn quốc tế, nghe kèn báo động gấp rút chia nhau súng trường và súng máy đã chuẩn bị để mang về Bác-xơ-lon, họ tiến đến điểm gần nhất nơi quân thù đã chọc thủng trận tuyến, phân tán nhau ra và tiến công bọn phát-xít kịch liệt đến mức bắt buộc chúng phải rút lui mười cây số, mất tất cả đất đai đã chiếm lĩnh, và ngoài ra còn mất thêm hai vị trí nữa.
Bô-ơ đến giữa lúc đang tấn công, mãi đến sáng mới tập họp được người của mình, trong khu rừng. Đoàn xe vẫn đợi đó. Trong số phải về, hai mươi bảy người hy sinh và chín trong số ở lại. Bô-ơ mang ở ban tham mưu sư đoàn về bản danh sách những người phải ở lại: 42 người. Chỉ còn 33, thuộc 5 dân tộc khác nhau: 13 người Đức, 6 Ý, 2 Áo, 3 Tiệp, 9 Ba-lan. Những người đi là dân của 8 nước: Anh, Pháp, Mỹ, Hòa-lan, Ru-ma-ni, Bỉ, Mếch-xích và Na-uy. Danh sách còn gồm một người Đan-mạch, Gốt-phơ-rít Giang-xen, nhưng anh bị hy sinh hồi đêm trong đợt tiến công.
Pê-tơ-ra-sếch ở trong số 33 người ở lại. Họ không được ở cùng với nhau nữa vì phải phân tán vào những trung và tiểu đoàn khác nhau của một sư đoàn Tây-ban-nha. Pê-tơ-ra-sếch được giao cho chỉ huy một trung đội công binh. Điều đó không có gì khiến anh không hài lòng; trong binh đoàn quốc tế anh luôn luôn thích dùng chất nổ và đã nhiều lần đi phá cầu ở hậu phương quân đội Phơ-răng-cô.
Chưa được một tuần người ta lại gọi anh lên để báo cho anh biết sắp chuyển sang công tác mới, nhưng cũng không nói rõ là công tác gì. Trước khi đi, anh đến từ biệt Bô-ơ đang chỉ huy một đại đội Tây-ban-nha.
Giao thông hào nơi Bô-ơ lượn vòng một quả đồi lớn lởm chởm. Dưới thấp, một khe trũng ngăn cách quả đồi này với một, quả đồi khác, cũng hiểm trở như thế, nơi đóng quân của bọn phát-xít. Thỉnh thoảng, người ta lại nghe tiếng nổ một viên đại bác cỡ trung bình, rơi chưa tới hay vượt quá giao thông hào chỗ Bô-ơ ngồi.
Đó là một khẩu đội của pháo binh Đức. Nó bắn có quy cách: thoạt đầu một loạt bắn thử với đạn cỡ 75 rồi đến tất cả các cỡ pháo, sau đó mười lăm phút im lặng và rồi tất cả lại bắt đầu theo trật tự như trên.
- Bọn Quốc xã này, chúng muốn chớp cái linh hồn chống phát-xít của mình đây - Bô-ơ nói, cười gằn, vừa lấy thuốc lá đen Tây-ban-nha nhồi tẩu. Mặt anh cau có - mặt trận ở điểm đó còn giữ được nhưng ở tất cả mọi nơi khác, tình hình ngày càng bi.
- Những binh đoàn quốc tế không còn nữa cũng là một điều đáng tiếc - anh nói, sau một lát im lặng - Không, cậu cần phải hiểu mình muốn nói gì. Tiểu đoàn mình cừ lắm, mình rất hài lòng về những đội viên của mình, và, nói chung, người ta sẽ không đến đây chiến đấu nếu người Tây-ban-nha không phải là những con người trung hậu. Nhưng dù sao, không còn các Binh đoàn quốc tế nữa cũng là một điều đáng tiếc. Tiểu đoàn mình nói đến mười lăm thứ tiếng khác nhau, nhưng mặc, tất cả đều hiểu nhau bằng tiếng nói duy nhất: tiếng nói của tình đoàn kết vô sản. Mình nói đúng không? Cậu, mình chắc là cậu ở Mạc-tư-khoa nhiều hơn mình. Mình chỉ đến đấy có một lần với một đoàn đại biểu công nhân năm 1927, nhân dịp kỷ niệm mười năm cách mạng tháng Mười. «Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại». Những chữ đó rồi cuối cùng một ngày kia sẽ thắng chủ nghĩa phát-xít! Và cậu hãy tin ở mình! tình đoàn kết của chúng ta ở đây ngoài mặt trận, đã là một sự kiện lớn lao - Bô-ơ kết luận, nắm tay giận dữ đấm xuống những mảnh đá thành hào, trong tiếng ầm ã của đạn nổ lần này khá gần. Anh lấy chiếc đồng hồ bọc ở trong túi ra, nhìn giờ và nói với một nụ cười chua chát:
- Viên đạn cuối cùng. Bọn phát-xít chết tiệt ấy sẽ để cho chúng ta mười lăm phút ngừng bắn. Cậu đi đi, vì đôi khi cũng có khi là chúng ngắm trúng những đường giao thông hào.
Không đứng dậy, anh nắm chặt tay Pê-tơ-ra-sếch, và đó là kỷ niệm mà Pê-tơ-ra-sếch nhớ mãi về người chính trị viên tiểu đoàn anh ngày trước, người công nhân luyện kim Ri-sa Bô-ơ, vào ngày mà anh nhìn thấy anh ta lần cuối cùng trên quả đồi ven bờ sông Xe-gơ-rơ, ngồi trong hầm, mồm ngậm píp, đầu trần, gần như hói, với một thoáng u uất ánh lên trong cái nhìn nghiêm khắc của cặp mắt xám.
Đến ban tham mưu quân đoàn, Pê-tra-sếch được chuyển sang một đơn vị biệt động. Đơn vị này, liên lạc với du kích bên kia mặt trận gần như làm tất cả mọi thứ việc. Pơ-tra-sếch thường là làm công việc chuyên môn của anh: phá đường sắt và cầu trên các đường giao thông. Đã hai lần anh tham gia tiến công những xe chở sĩ quan phát-xít và một lần, thủ tiêu một tên phản bội đi vượt trận tuyến.
Anh đi ghé qua Bác-xơ-lon nhiều lần độ hai hay ba ngày, Bác-xơ-lon xưa tươi vui và nay buồn và im lặng, đêm không điện và ngày không bánh. Nạn đói đã hoành hành ở đấy từ lâu, người ta không tìm thấy gì ăn. Một cốc rượu vang, mấy quả ô liu và một nửa bát cháo cá là tất cả khẩu phần hàng ngày của Pê-tơ-ra-sếch.
Ở đây một lần, anh có gửi một bức thư đi Mạc-tư-khoa nhờ một phi công người Nga, anh làm quen hồi còn ở Ma-dơ-rít chuyển. Anh phi công muốn Pê-tơ-ra-sếch viết thư bằng tiếng Đức và địa chỉ thì không đề gì ngoài số nhà và số phòng ghi trên một góc phong bì. Anh đề nghị Pê-tơ-ra-sếch dịch thử cho anh nghe và khuyên Pê-tơ-ra-sech xóa đi mấy chữ vì anh phải đi qua nước Pháp.
- Như thế, ngay cả bọn cảnh sát cũng có thể đọc thư cậu được - cuối cùng anh phi công nói, vẻ hài lòng - Còn về phố mình nhớ rõ là phố Ut-xa-si-ốp-ca rồi.
Cái làm anh phi công thú nhất là đoạn Pê-tơ-ra-sếch đề nghị Ác-tê-mi-ép chào hộ mình một cô M… nào đó, người thân nhất, người yêu nhất, cô M... không thể quên được, M... là để nói Mạc-tư-khoa. Đoạn này, chắc là Ác-tê-mi-ép hiểu.
- Khá lắm. Đi tìm xem cái cô M... này là ai, anh phi công gật gù, có thể là Ma-đờ-len, Mác-gơ-rit, hay Ma-ri. Ma-ri tiếng Đức gọi thế nào nhỉ?
- Ma-ri-a - Pê-tơ-ra-sếch nói.
- Và tiếng Tiệp.
- Cũng thế.
- Càng tốt.
Pô-tơ-ra-sếch tình cờ gặp anh ở ga Bác-xơ-lon, một giờ trước khi tàu chạy về phía biên giới nước Pháp và anh tức khắc viết thư. Hai người ngồi bên một chiếc bàn nhỏ bằng đá hoa trên những ghế đệm rơm đã thủng, trong quán ăn ở nhà ga, không người và đã từ lâu không bán gì nữa. Nhưng họ cũng tìm được một chai rượu vang.
Anh phi công còn ở trong túi dết một mẩu xúc xích.
- Phần còn lại của một gói quà từ Mạc-tư-khoa - anh vừa nói vừa để miếng xúc-xích lên bàn - một gói quà anh em gửi cho mình nhân ngày mồng 7 tháng một.
Miếng xúc-xích khô, hong khói, ngon tuyệt. Hai người lấy dao nhíp cắt nó ra từng khoanh nhỏ. Pê-tơ-ra-sếch không muốn để lộ ra là mình đói, còn anh phi công thì cố để phần nhiều nhất có thể được cho Pê-tơ-ra-sếch.
Khi loa báo tin tàu chạy, anh phi công xé mảnh giấy ghi thực đơn gói tất cả chỗ xúc-xích còn thừa nhét vào túi Pô-tơ-ra-sếch.
- Đừng dớ dẩn nữa, còn lâu cậu mới có thể được nếm xúc-xích Mạc-tư-khoa.
Vẫn đứng, hai người rót rượu một lần cuối cùng và chạm cốc.
- M, anh phi công nói, Ma-đơ-len, Mác-ga-rít, Ma-ri! Anh cười, và bỗng trở nên trang nghiêm anh nói thêm khe khẽ: «Chúc mừng Mạc-tư-khoa» và uống một hơi cạn cốc.
Pê-tơ-ra-sếch khó khăn lắm mới cầm được nước mắt. Nghĩ cho cùng, anh phỉ công này, anh hầu như là không quen biết, anh gặp anh ta năm hay sáu lần gì đó ở mặt trận Ma-đơ-rít và một lần ở đây, Bác-xơ-lon, nhưng anh ta từ Liên-xô đến và trở về Liên-xô. Chỉ một điểm đó; đối với Pê-tơ-ra-sếch, cũng đủ có thể coi anh thân hơn ruột thịt rồi.
- Thôi đến giờ rồi, anh phi công nói, vừa gài lại cúc áo khoác ngoài.
Anh không lộ vẻ gì xúc động, và Pê-tơ-ra-sếch, nước mắt đã sắp trào ra, tán thành thái độ ấy.
- Đừng ra sân ga nữa - anh phi công nói, khi thấy Pê-tơ-ra-sếch định theo tiễn chân - Thật ra chúng mình mặc thường phục cả, nhưng bọn vô lại trong Đạo quân thứ năm(1) chỗ nào cũng nhan nhản. Thôi chào bạn nhé! - Anh phi công đội lên đầu, trán đã hơi hói, một chiếc mũ đen lịch sự, mấy ngón tay cử động rất mau lẹ thử lại xem chiếc mũ đã thật đúng chỗ chưa, như đây vẫn còn là chiếc mũ kê-pi quân sự, quay đằng sau và bỏ đi. Vóc người cao lớn và gầy trong chiếc áo khoác đẹp, một túi du lịch mới nguyên cầm tay, người ta ngỡ anh là một tài tử đúng mốt một nhà vô địch thể thao vừa ở một cuộc đấu trở về.
Pê-tơ-ra-sếch biết rằng con người ấy đã từng hạ hơn chục máy bay Đức, Ý, nhưng trong bóng người đang đi ấy không có gì để lộ nghề nghiệp thật của anh.
Một tuần sau những người cuối cùng trong Binh đoàn quốc tế hiện đang nằm trong những đơn vị Tây-ban-nha bị gọi về hẳn. Từ tất cả mặt trận Ca-ta-lô-nhơ, sau những cuộc chiến đấu ác liệt đánh dấu bằng việc Ta-ra-gôn thất thủ, tập họp lại chưa được một nghìn người, số đông là người Đức, Ý và Ba-lan. Tất cả được thu xếp ở trong những căn nhà ngoại ô Bác-xơ-lon, vừa mới được cấp tốc sửa sang để đón họ. Họ hiểu rằng, chỉ còn một nhúm người, họ không thể đóng một vai trò quyết định trong những sự kiện bi đát đang tiếp diễn trên mặt trận Ca-ta-lô-nhơ, nhưng họ cũng không tự cắt nghĩa được tại sao người ta lại gọi họ ở một trận về đúng vào lúc này, lúc mà mọi việc mỗi ngày một bi đát thêm.
Thời kỳ đó, cả Pê-tơ-ra-sếch cũng không tìm được câu trả lời. Sau này, lúc đã ở trại, anh vẫn còn do dự giữa hai lối giải thích: chính phủ cộng hòa - anh tự nói - lúc đó thi hành một cố gắng tuyệt vọng cuối cùng để bắt buộc Ủy ban không can thiệp quốc tế phải đòi đối phương cho gọi hàng vạn lính Đức và Ý chiến đấu trong quân đội Phơ-răng-cô về và về phía mình, chính phủ cộng hòa cũng cho gọi về mấy trăm người trong những binh đoàn quốc tế còn lại trên mặt trận cộng hòa. Lối giải thích thứ hai là có lẽ chính phủ muốn cứu vãn những người cuối cùng trong các binh đoàn quốc tế còn lại trên lãnh thổ Tây-ban-nha khỏi bị tàn sát hay bị xử bắn, một hình phạt không thể tránh được nếu họ bị bắt làm tù binh.
Trong gian biệt thự nhỏ, sau một khu vườn rợp bóng mát, nơi ban tham mưu các Binh đoàn quốc tế sống những ngày cuối cùng, Pê-tơ-ra-sếch và những đồng chí của anh không tìm được câu trả lời chính xác: không ai biết tại sao người ta lại gọi các anh về và liệu các anh còn có thể trở lại mặt trận nữa hay không.
Ban tham mưu cũng không còn ra ban tham mưu nữa. Ở đây chỉ còn dăm ba người mệt mỏi, chuyên dùng những tháng cuối cùng để làm một nhiệm vụ duy nhất, là đưa người ra khỏi Tây-ban-nha, lo hộ chiếu, thương lượng, tuyệt vọng tìm bất cứ khả năng nào, hợp pháp hay bán hợp pháp để bảo đảm tính mệnh cho những chiến sĩ chống phát-xít sẽ bị treo cổ nếu họ trở về nước hay phải trao trả cho cảnh sát nước họ.
- Cậu muốn tôi nói gì với cậu bây giờ? - Một người, giọng trách móc hơn là sốt ruột, trả lời câu Pê-tơ-ra-sếch hỏi với dáng điệu chán nản, người mà một năm trước anh thấy vui vẻ, đầy sinh lực, trong giờ phút kịch liệt của một trận đánh dưới lửa đại bác - Không còn ai cả, tất cả các đồng chí lãnh đạo đều đi vắng trong dăm ngày, có lẽ là để lo cho các cậu đấy. Tôi chỉ có thể nói với cậu một điều: phải chờ đợi.
- Và nếu trở lại mặt trận? - Pê-tơ-ra-sếch hỏi.
- Không được.
Trên đường về doanh trại, Pê-tơ-ra-sếch đổi một hộp đồ hộp lấy một chai cô-nhắc và nốc cạn trước khi ngủ để chắc chắn là có thể ngủ được không phải nhớ gì đến câu chuyện vừa trao đổi.
Năm ngày chờ đợi nữa và đến cái mà người ta gọi là thảm họa của mặt trận Ca-ta-lô-nhơ - thảm họa này, từ lâu đã không thể tránh được. Trên mặt trận Ca-ta-lô-nhơ, cô lập với những vùng khác còn nằm trong tay chính phủ cộng hòa, chưa đến 100.000 người chiến đấu từ ngày 23 tháng chạp chống với những đợt tấn công liên tiếp của 200.000 lính Phơ- răng-cô. Về phía quân đội cộng hòa một người lính phải chống với hai, một xe tăng chống với bốn, một đại bác chống với năm và một máy bay chống với hai mươi - Nếu người ta thêm vào đó nỗi thiếu thốn về đạn dược và lương thực, thì điều kỳ lạ không phải là chính cái thảm họa ấy mà là tại sao nó đã không xảy ra từ đã lâu rồi.
Hơn một phần ba Ca-ta-lô-nhơ đã nằm trong tay Phơ-răng-cô. Mặt trận bị cắt làm đôi. Sau khi đã mất một nửa số người trong các trận đánh, các đơn vị cộng hòa rút lui, cố tránh khỏi bị bao vây. Pháo binh không còn đạn, bộ binh thiểu súng. Các quân đoàn Phơ-răng-cô cả các sư đoàn Ý tiến gần đến Bác-xơ-lôn.
________________________________________ (1) Tổ chức do thám của phát-xít.
Ngày hôm đó, Pê-tơ-ra-sếch cũng không tìm cách hỏi chi tiết về tình hình mặt trận. Là một cựu binh, anh hình dung được đại khái sự thể xảy ra như thể nào và chỉ tiếc trước đây hai tuần, anh bị tước mất của cải duy nhất có nghĩa lý đối với anh: vũ khí - Dù tình hình mặt trận thế nào đi nữa, nếu anh có vũ khí, anh sẽ chiến đấu và chiến đấu dũng cảm. Ngay ý nghĩ có thể bị chết trong những trường hợp như thế hình như đối với anh cũng không phải là chuyện quan trọng nhất. Ngồi ở dây không vũ khí để chờ đợi, chẳng ai biết là chờ đợi cái gì, trong thành phố Bác-xơ-lon này cửa sổ ban ngày im ỉm, buổi tối nhung nhúc những bóng người đáng nghi ngờ, chui lên mặt đất và đêm khuya, những tiếng súng đì đoành từ những căn gác, đối với anh còn thấy khó chịu hơn.
Nhiều viên chức của chính quyền cộng hòa đột nhiên biến mất, họ ẩn núp ở các nhà họ hàng. Người ta không thể mua gì ở thành phố này, dù trả giá đắt bao nhiêu cũng vậy. Bọn phản động trắng trợn ngóc đầu dậy.
Tối ngày hai mươi bốn tháng giêng, bảy mươi hai người thuộc các binh đoàn quốc tế ở cùng một doanh trại với Pê-tơ-ra-sếch tập hợp trong căn phòng rộng nhất của ngôi nhà, nơi tất cả đều có thể ngồi họp trên giường. Phụ trách doanh trại, người Ý tên là Lông-bác-đô, từng chỉ huy một đại đội trong tiểu đoàn Ga-ri-ban-đi, nói với họ mấy lời mà ý nghĩa có thể tóm tắt trong bốn điểm:
Anh không muốn chạm trán với sư đoàn Ý Lít-tô-ri-ô đang tiến về phía Bác-xơ-lon, với một khẩu súng lục chỉ có thể dùng để bắn vỡ sọ mình, trong tay.
Anh nghĩ rằng tất cả đều đồng ý với anh.
Anh đề nghị sớm hôm sau yêu cầu ban chỉ huy cho súng trường và súng máy, dù chỉ là để tự vệ.
Anh hỏi những ai tán thành thì giơ tay.
Bảy mươi hai bàn tay giơ lên trả lời anh. Mấy giờ sau, ngay đêm hai mươi bốn đến rạng ngày hai mươi nhăm tháng giêng, một chiếc xe vận tải đỗ trước nhà. Một người mặc quân phục từ buồng lái bước xuống. Anh bị một người lính gác cầm súng lục giữ lại. Từ một tuần nay, Lông-bác-đô ra lệnh phải canh gác ban đêm. Người mặc quân phục là một đại úy trong ban tham mưu của đội quân đóng ở Bác-xơ-lon. Anh đề nghị tất cả mọi người xuống tập hợp ở dưới nhà trong phòng ngoài, để truyền đạt một tin khẩn cấp.
Nửa phút sau tất cả đều có mặt. Không có đèn, những người có đèn túi bấm lên. Khi đại úy báo tin là anh cần nói chuyện với họ, tất cả mọi người đều chú ý nhìn. Một tay anh buộc băng màu như vàng đi dưới ánh sáng những ngọn đèn túi, và trên nét mặt phủ một lớp râu xám nhiều ngày không cạo cặp mắt u uất ánh lên như sốt. Anh không kể lể dài dòng.
- Các đồng chí - anh nói, và bị một cơn ho lạ lùng, anh ngã khuỵu xuống một chiếc ghế dài.
Nhận xét theo số lượng những mẩu băng đỏ đeo trước ngực(1), chứng thực những thương tích, anh là một người can đảm. Nhưng không chống nổi sự tuyệt vọng, anh ngồi rũ trên ghế đầu cúi xuống. Với người Tây-ban-nha, nước mắt là một điều sỉ nhục trên mặt người đàn ông, và anh muốn nuốt nó vào trong anh trước khi bắt đầu nói.
Sau một phút, nghĩ rằng thời gian còn quý hơn lòng tự ái, anh đứng vụt dậy và nói mắt đầy lệ.
- Các đồng chí! Nước Cộng hòa lâm nguy.
Anh chẳng cần phải nói điều đó với họ.
- Các đồng chí! Chính phủ Cộng hòa đề nghị các đồng chí giúp cho một việc cuối cùng. Chính phủ đã phát khí giới cho tất cả mọi người có thể huy động được, nhưng chưa đủ. Đêm và ngày, những người lánh nạn ùn ùn trên đường, để bảo vệ họ. chính phủ cần tất cả mọi ai biết cầm vũ khí. Chính phủ nước Cộng hòa yêu cầu các đồng chí lại cầm vũ khí. Chính phủ chỉ yêu cầu những ai tự nguyện. Đại úy đưa mắt nhìn những người đứng vòng quanh mình; im lặng.
- Chính phủ cũng gửi lời đề nghị đó đến tất cả các anh em trong các binh đoàn quốc tế.
________________________________________ (1) Ở Tây-ban-nha, trong chiến tranh, những quân nhân bị thương trong chiến đấu đeo những mẩu băng mầu đỏ trên quân phục (N.D.) Không một người nào trả lời, và sự im lặng đó cuối cùng làm đại úy lúng túng. Anh nói:
- Ai đồng ý thì giơ tay lên.
- Thôi, không cần - Lông-bác-đô ngắt lời - chúng tôi đã quyết định rồi. Tất cả đều đồng ý, vũ khí để ở đâu?
- Trong xe - đại úy nói - Ở trong xe có 6 tiểu liên. Pê-tơ-ra-sếch được một khẩu, và súng trường, nhiều đạn nhưng ít lựu đạn và báng tiểu liên.
Sau khi thảo luận một chút về vũ khí, cuối cùng họ thân ái phân phối cho nhau - và sếp hàng bốn, họ bắt đầu hành quân trong một phố tối, không một ánh lửa, dưới mưa buốt mùa đông.
Hai giờ hau họ đã chiến đấu, và cuộc chiến đấu kéo dài mười ba ngày, gần như không gián đoạn, từ mờ sáng ngày 25 tháng giêng, ở ngoại ô phía Tây Bác-xơ-lon, ngăn không cho bọn phát-xít chiếm một chiếc cầu trên đường giao thông đi bảo vệ lối rút cho những người lánh nạn, đến buổi sáng cuối cùng, ngày 7 tháng hai, ngày chính bản thân họ vượt qua biên giới Pháp gần Péc-tuýt, qua một chiếc cầu nhó. Mười ba ngày đó lưu lại trong trí nhớ của Pê-tơ-ra-sếch như một ngày duy nhất, giống nhau, một ngày mệt mỏi, đầy tiếng động ầm ì, tiếng kêu rên và tiếng chửi rủa, tiếng ùng ục của đại liên, tiếng rít của bánh xe và tiếng khóc của trẻ nhỏ. Cái ngày dài đằng đẵng đó, họa hoằn lắm, mới bị gián đoạn bởi một giấc ngủ ngắn, trong lúc đại liên vẫn không ngừng ùng ục nổ, bánh xe rít và trẻ con khóc, khóc mãi.
Trong tất cả những ngày những đêm đó, làn sóng buồn thảm của những người lánh nạn không ngừng chảy trên những con đường từ Ca-ta-lô-nhơ về phía biên giới Pháp.
Bất chấp sự khủng khiếp của mọi cái xẩy ra chung quanh mình, Pê-tơ-ra-sếch hiểu rằng cuộc di cư này của nửa triệu con người, đi từ một vùng duy nhất, vùng Ca-ta-lô-nhơ, và theo quân đội rút lui, đến một sự đầy ải mà không ai tưởng trước được là sẽ kéo dài bao nhiêu lâu, sự ra đi của những con người gồm một nửa là nông dân bị mất theo mái nhà và mảnh đất tất cả những gì họ có trên đời, không phải chỉ là một thảm họa, mà là một thách thức của cả một dân tộc đối với chủ nghĩa phát-xít.
Anh nhìn thấy rất rõ điều đó ở những người nông dân đang đẩy trước họ, qua hết cây số này đến cây số khác về phía Bắc, những chiếc xe cút kít chở các thứ đồ đạc tạp nham nhất, ở người đàn bà sau khi vùi xác con chết trong một trận ném bom, lại lên đường về phía Bắc tựa trên cánh tay chồng. Anh nhìn thấy ở những khẩu hiệu trên tường những ngôi nhà nông dân bỏ lại. «Chúng tôi không muốn sống với bọn phát-xít», ở vô số đám lửa trại, mà người dân lánh nạn đốt ban đêm trên tất cả các quả đồi lân cận. Những đám lửa đó chứng minh rằng làn sóng người cuồn cuộn chảy trên con đường rút lui rộng lớn con đường từ Bác-xơ-lon đến Phi-gơ-rát, chỉ là một phần của cơn lũ người mênh mông đổ về biên giới nước Pháp.
Cánh tượng trên con đường Phi-gơ-rát thật kinh khủng.
Một cơn mưa lạnh buốt tầm tã ngày đêm trút lên đầu những người dân lánh nạn, thỉnh thoảng lắm mới ngớt chút ít. Núi đồi lân cận đều phủ tuyết, và trong số những người từ núi đồi xuống nhiều người chân tay bị tê cóng.
Đàn ông, đàn bà nhịn đói từ nhiều ngày đổ gục trên những đống đất và chết. Nằm trên những ổ rơm sũng nước mưa, những người bị thương tải bằng xe bò rên rỉ.
Máy bay Ý và Đức suốt ngày bay trên đường. Chúng ném bom và bắn vào những người dân lánh nạn. Mỗi lần một máy bay đã trút hết bom và đạn đại liên, lại bay ầm ầm trở về vị trí trên đầu những người chết và những người sống. Ở lối vào thành phố cổ kính và xinh đẹp Giê-rô-na có một chiếc cầu hẹp bắc qua một con sông nhỏ, xe cộ bị nghẽn lối phải ngừng lại - Bọn phát-xít ném bom đám đông ùn lại ở đấy mười giờ dòng dã, mãi đến tối mịt.
Ở Phi-gơ-rát, cách biên giới nước Pháp hai mươi nhăm cây số, hàng nghìn người trú đêm gần đường cái trên quảng trường cũ hình vuông ở trung tâm thành phố - Mưa như trút, nhưng những căn nhà vòng quanh quảng trường dù sao cũng che được gió buốt cho họ.
Sớm tinh mơ, những chiếc gioong-ke xuất hiện. Pê-tơ-ra-sếch qua Phi-gơ-rát buổi chiều hôm đó. anh quấy rối bọn phát-xít để bảo vệ cho những toán người lánh nạn cuối cùng rút lui. Anh không có thời giờ nhìn chung quanh mình, nhưng quang cảnh anh nhìn thấy buổi chiều hôm đó trên quảng trường mười giờ sau khi ném bom đến suốt đời anh cũng không quên được.
Bản thân anh làm gì những ngày cuối cùng này? Anh bảo vệ cho những người dân lánh nạn đến tận biên giới.
Sớm nào cũng vậy, sau thời gian yên tĩnh ban đầu, pháo binh phát-xít lại bắt đầu nổ súng. Nó thường là bắn hú họa hay bắn vào những địa điểm công cộng của làng xóm. Sau đó, bộ binh Phơ-răng-cô xung phong lao lên.
Chiếm lĩnh vị trí từ ban đêm trên một quả đồi rìa đường, trong những chiếc hầm đào vội, sau những căn nhà đổ của một xóm hay giữa những nấm mộ của một nghĩa trang, Pê-tơ-ra-sếch và những người bên tả, bên hữu anh, của nhưng đơn vị Tây-ban-nha hay của những Bình đoàn quốc tế nổ súng vào đầu bọn lính Phơ-răng-cô. Đơn vị bảo vệ cuối cùng này nói chung gồm toàn cựu binh, bắn rất chính xác; sau khi mất một vài người, bị chết hoặc bị thương, bọn phát-xít nằm rạp xuống đất.
Quả đồi mọc ria đường, khu nghĩa trang hay căn nhà đổ trong một hay hai tiếng đồng hồ bị pháo binh Phơ-răng-cô nã bắn, sau đó bọn lính lại nhỏm dậy và tiến lên. Giữa thời gian đó, đoàn người lánh nạn đi qua, những đơn vị cộng hòa lùi dăm cây số về phía Bắc, và đến lượt bọn phát-xít tiến theo.
Mặc dù chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng, chúng cũng không dám tính đến chuyện quá mạo hiểm. Rõ ràng là chung nhận được lệnh «bao vây», «chia cắt», «tiêu diệt», nhưng đó chỉ là một mệnh lệnh, và không tên nào trong bọn chúng muốn nhận một viên đạn vào đầu trước ngày chiến thắng, ở cách biên giới nước Pháp bốn mươi hay hai mươi cây số.
Ngày 7 tháng hai, hàng vạn dân lánh nạn đã vượt biên giới Pháp ở những địa điểm khác nhau.
Buổi sáng sớm hôm đó, khi Pê-tơ-ra-sếch nhìn thấy chiếc khe sâu chạy theo đường vạch của biên giới và chiếc cầu vắt qua, đơn vị anh bẩy mươi hai người, chỉ còn lại có mười bảy.
Không bao giờ anh có thể quên cái buổi sớm tháng hai 1939 sương mù dày đặc đó ở biên giới nước Pháp. Người ta nhìn rõ, cách một trăm thước, những căn nhà của thành phố nhỏ nước Pháp, thành phố Péc-tuýt. Tối hôm trước, tất cả những người của các binh đoàn quốc tế còn sống rút lui trong những đơn vị bảo vệ cuối cùng, nhận được lệnh tập trung ở địa điểm biên giới này.
Sớm hôm đó, lần đầu tiên, họ ở cách bọn phát-xít vài cây số - Thật vậy, những chiến sĩ Tây-ban-nha của quân đoàn Mô-đét-stô lúc đêm đã chiếm lĩnh khu vực này của mặt trận. Như thế, những chiến sĩ Tây-ban-nha sẽ là những người cuối cùng rời bỏ đất đai của xứ sở họ.
Suốt tất cả những năm ba mươi sáu, ba mươi bảy và ba mươi tám - và ngay cả trong những ngày bi đát của tháng giêng năm 1939 - Pô-tơ-ra-sếch và những đồng chí của anh trong các Binh đoàn quốc tế - đã yêu mến đất nước Tây-ban-nha nơi thuở ban đầu họ chiến đấu chống bọn phát-xít - yêu mến những người Tây-ban-nha một dân tộc cao thượng và tự hào mà quyền tự do đáng được bảo vệ.
Nhưng cùng sẽ không đúng nếu cho rằng Pê-tơ-ra-sếch chỉ nhìn thấy phía tốt đẹp của nước Tây-ban-nha Cộng hòa. Anh cùng nhìn rõ những sai lầm. Bọn vô chính phủ liều lĩnh như lũ điên trong những ngày phản công và lo quýnh lên trước những thất bại đầu liên - Những nhà hùng biện hô hào chết cho Tổ quốc bằng một giọng bi kịch, nhưng lại không biết im lặng chết cho đất nước. Anh đã trông thấy, nhất là trong những ngày cuối cùng, những nhân vật của nước Cộng hòa, khi mọi việc có vẻ thuận buồm suôi gió, thì ôm lấy những địa vị cao nhất và khăng khăng không chịu chia quyền với những người cộng sản, nhưng, khi khó khăn đến, vắt chân lên cổ chạy vội sang phía bên kia biên giới và một khi yên ổn rồi đổ tất cả những lỗi lầm lên đầu những người cộng sản.
Khi tai họa đã trở thành hiện thực, anh lại có dịp gặp những người cố làm như không có sự khác biệt căn bản giữa chế độ dân chủ và chủ nghĩa phát-xít: để thoát chết, rốt cuộc, người ta có thể tán thành ngay đến cả Phơ-răng-cô. Nhưng Pê-tơ-ra-sếch cũng biết rõ rằng tất cả cái đó, mặc dù đáng xấu hổ một cách đau sót, không chút gì dính líu đên nhân dân Tây-ban-nha; rác bẩn dần dần nổi lên mặt; ròng rã hai năm, bọn phát-xít nhận được vũ khí và quân đội qua biên giới Bồ-đào-nha, lúc nào cũng mở sẵn trong lúc biên giới Pháp đóng chặt chỉ cho lọt sang phía cộng hòa những lời hứa hẹn giá dối về việc không can thiệp.
Chưa bao giờ anh yêu mến đất nước Tây-ban-nha như trong những ngày rút lui kinh khủng này, khi sát cánh với những chiến sĩ của Mô-đét-stô và Lit-stơ, trong những đơn vị bảo vệ, anh chiến đấu với lũ phát-xít càng ngày càng tiến sát. Anh đã nhìn gần nhiều lần, chính Mỏ-đét-stô, trong đơn vị cuối cùng.
Lòng dũng cảm của Mô-đét-stô không phải là của một kẻ muốn người ta thấy mình chết; Mô-đét-stô chỉ đơn giản là một người Tây-ban-nha ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống và là người cuối cùng rời bỏ mảnh đất xứ sở vì anh không thể làm khác được - Bộ đội của anh, bản thân họ cũng thế, họ không tự hỏi xem mình có vượt được biên giới Pháp không. Họ bảo vệ những người lánh nạn tản cư, và việc đó không thể tiến hành mà không phải chịu đựng những tổn thất nặng nề.
Một hôm, đã đi khỏi Phi-gơ-rát, cách biên giới độ mười lăm cây số, Pê-tơ-ra-sếch và sáu người nữa bào vệ một khẩu đội pháo loại nhẹ do ngựa kéo. Một trung úy Tây-ban-nha chỉ huy khẩu đội vẫn ngồi trên lưng con ngựa trống không chịu xuống mặc dù đạn địch bắn. Khẩu đội ngăn được bọn phát-xít trong ba tiếng đồng hồ - Khi bắn xong viên đạn cuối cùng, trung úy ra lệnh tháo quy-lát các khẩu đại bác cho bộ đội rút lui, xuống ngựa, giết ngựa rồi tự sát - Đúng ra thì anh ta không nên hành động như thế, nhưng Pê-tơ-ra- sếch, chắc chắn sẽ ngăn anh ta nếu kịp, không có can đảm chê trách anh ta.
Những người của các Binh đoàn quốc tế tập hợp gần cầu Péc-tuýt.
Khung cảnh họ vừa đi qua làm Pê-tơ-ra-sếch nhớ đến miền Bắc Tiệp-khắc, trên con đường đi từ Pa-ra-ha về phía Xuy-đét, anh quen thuộc từ thuở nhỏ: một con đường dốc khúc khuỷu, những quả đồi xanh um, những bụi rậm, những mảnh rừng tùng nhỏ mọc xen lẫn với sồi. Trước mặt họ, một khe sâu và một chiếc cầu, sau đó, bắt đầu nước Pháp.
Một trong những cán bộ lãnh đạo của ban tham mưu những Binh đoàn quốc tế, một người đã đứng tuổi, mặt nghiêm nghị và mệt mỏi, mặc thường phục đứng trên một điểm cao phía trước dốc đi xuống cầu. Bị thương trong những trận chiến đấu vừa rồi, một cánh tay anh gập trong một chiếc băng treo rộng màu đen. Dăm người đứng bên cạnh anh, mang quân kỳ của những đơn vị Binh đoàn quốc tế mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm, để ở Ban tham mưu sau khi những đơn vị đó giải tán.
Ba trăm người thuộc các binh đoàn quốc tế, hàng ngũ tề chỉnh, tiến về phía họ - Những người mang quân kỳ đi hàng đầu. Trong số người đứng đợi trên điểm cao, không phải ai cũng biết rằng những chiến sĩ cuối cùng của các Binh đoàn quốc tế, những người cuối cùng rời bỏ mảnh đất Tây-ban-nha, mặc dù tất cả những khó khăn của cuộc rút lui, vẫn còn giữ trong tay bốn lá cờ tiểu đoàn. Tiến đến nơi, những người mang quân kỳ rời khỏi hàng và trao cờ lại cho những đồng chí chỉ huy cũ của mình. Họ trở về hàng và đoàn quân tiếp tục đi đều bước, hàng bốn vừa đi vừa hô giọng nghiêm nghị và trang trọng.
- Vi-va la Rê-pu-bli-ca Ét-spa-nô-la!(1)
Rồi đến mười hai thước cầu, đến đầu cầu phải nộp khí giới cho cảnh sát Pháp.
Pê-tơ-ra-sếch nhiều lần chua chát nhớ lại lúc vượt biên giới Pháp, trên cát lạnh của trại Ác-giơ-lét, ở đó mọi người, đêm phải vùi mình xuống cát sợ chết cóng, khẩu phần hàng tuần - gồm cá thối và rau ôi - chỉ lóp lép đủ cho ba ngày. Những điều kiện sinh hoạt này hoàn toàn không phải do chính phủ Pháp không dự đoán trước hay bị bất ngờ: trại Ác-giơ-lét chính được họ quan niệm như một địa điểm để bước sang thế giới bên kia.
Người ta sợ giết những kẻ bị giam trong trại Ác-giơ-lét vì có những đảng viên cộng sản ở nước Pháp và vì công nhân, nông dân và giai cấp tiểu tư sản sẽ không hiểu được sao người ta lại tàn sát trên đất của nước cộng hòa Pháp những con người đã trốn chạy chủ nghĩa phát-xít. Nhưng chính phủ Pháp, vừa ghét vừa sợ những đảng viên cộng sản, lại sợ Hít-le gấp bao nhiêu lần hơn là ghét hắn. Đại sứ Pháp ở Bá-linh từ lâu, trong những bản báo cáo, đã nói rằng Hít-le sẽ không bằng lòng nếu những người Cộng hòa Tây-ban-nha được những điều kiện sống dễ dàng trên đất Pháp. Chính vì thế mà người ta chiêu đãi họ bằng một chế độ dây thép gai - Hơn nữa, chế độ này cũng có lợi cho chính phủ Pháp.
Người ta không giết ai ở Ác-giơ-lét, nhưng người ta đánh đập cho đến chết tất cả những ai đến sát gần dây thép gai. Người ta không làm cho họ chết trong những phòng hơi độc, lúc đó còn chưa phát minh ra, nhưng người ta làm cho họ chết đói. Người ta không tiêm vi trùng dịch hạch, nhưng người ta không phát ký-nin.
________________________________________ (1) Nước Cộng hòa Tây-ban-nha muôn năm.
Những người cộng sản bị giam trong trại, không nghĩ rằng những người chết vì đau khổ đều được đưa thẳng đến thiên đường, họ đã làm tất cả những gì có thể làm được để việc đó xảy ra càng ít càng hay. Người ta tổ chức một Ủy ban cứu tế có thể cung cấp một chiếc áo khoác cho một người đàn bà gần chết rét, hay một nửa hộp sữa cho một đứa trẻ gần chết đói, nhưng nhất là đã tìm cách liên lạc được với những người cộng sản Pháp và đã đòi được chuyển đến trại từ phía bên kia hàng rào dây thép gai ít nhất là một phần của tất cả những gì nhân dân Pháp quyên góp cho những người Tây-ban-nha lánh nạn - Chính phủ Pháp sở dĩ phải đồng ý vì sợ nhưng lời chất vấn ở nghị viện không khỏi sẽ làm cho nhân dân phẫn nộ.
Một tháng sau, rõ ràng những con người ấy đã làm cho những sự tính toán của những kẻ lập nên khu tập trung ở bãi cát hoang vắng nay, thất bại, họ vẫn còn là người, ngay cả sau hàng rào dây thép gai: họ tương trợ và sát cánh đấu tranh với kẻ thù chung.
Nằm dài trên cát. Mồ hôi lạnh vã ra như tắm, trong tỉnh trạng bất lực sau những cơn sốt. nhưng Pê-tơ-ra-sếch biết rằng mờ sáng hôm sau người đồng chí ấy mà anh chỉ mới biết mặt sẽ đền gần anh thăm hỏi bệnh tình. Anh cũng biết rằng nếu bệnh trầm trọng thêm, người ta sẽ kiếm ký-nin cho anh. Đối với trại Ác-giơ-lét, đó cũng là một điều đáng kể.
Nhưng anh còn biết hơn nữa - Anh biết rằng, ngày hôm sau ở trại sẽ có một cuộc họp nhân dịp ngày Lễ quốc tế mồng Một tháng Năm - Những người cộng sản không đủ sức đem niềm vui chan hòa vào trong nơi đáng nguyền rủa này, nhưng rõ ràng là họ có khả năng đấu tranh chống với tuyệt vọng và nhắc nhở những người lánh nạn rằng ngoài những hạt cát nhỏ của bãi biển Ác-giơ-lét, trên đời còn có quảng trường Đỏ ở Mạc-tư-khoa mà Hồng quân sẽ diễu qua ngày mai.
Pê-tơ-ra-sếch tự hỏi không biết sớm ngày hôm sau anh có dậy được không. Anh những muốn làm được như thế với bất cứ giá nào và anh cảm thấy hằn thù đối với cơ thể sốt rét, nhớp nháp mồ hôi và yếu đuối của mình.
Anh đã đổi chiếc áo sơ-mi, dây lưng, bút máy, hộp đựng thuốc lá lấy đồ ăn, nhưng vẫn còn giữ lại chiếc đồng hồ. Kim chỉ bốn giờ sáng; lúc này là 6 giờ ở Mạc-tư-khoa.
Anh nghĩ đến Mạc-tư-khoa lúc này đã thức giấc chuẩn bị diễu hành và biểu tình. Hai mươi sáu năm của đời anh, anh sống mười ba năm ở Pa-ra-ha, mười năm ở Mạc-tư-khoa và hai năm rưỡi ở Tây-ban-nha. Anh nói tiếng Nga vẫn còn pha giọng, nhưng Mạc-tư-khoa đối với anh không phải chỉ là thành phố của tuổi thanh niên, mà là thành phố ở đó anh đã trở nên con người như hôm nay và không phải ai khác, Pa-ra-ba, mà kỷ niệm cháy lửa trong lòng anh thời kỳ anh lên đường đi Tây-ban-nha, có một ý nghĩa lớn lao đối với anh, nhưng đêm nay, đêm trước ngày mồng Một tháng Năm trong trại Ác-giơ-lét, anh nghĩ đến Mạc-tư-khoa.
Đã từ ba năm nay, anh tình nguyện đi theo con đường hiện nay chưa biết sẽ ra sao. Đến Tây-ban-nha như một công dân của Nhà nước Tiệp-khắc cũ, anh hiểu rằng, qua mười năm ở Mạc-tư-khoa, anh không có quyền nhờ cậy lãnh sự quán Liên-xô. Anh biết rằng anh sẽ không làm thế để thoát chết. Nhưng, nghĩ đến tương lai, anh nghĩ đến Quảng trường Đỏ, nơi đúng bốn giờ nữa, nhịp với tiếng đồng hồ trên tháp S-pát-scai-a, cuộc duyệt binh bắt đầu. Nếu đời sống của anh và của những người như anh có một tương lai, tương lai chỉ có thể đến được từ đó.
Tim Pê-tơ-ra-sếch trào lên cay đắng vì anh đã phải nộp khẩu tiểu liên không đạn cho một tên cảnh sát Pháp, vì anh phải ở trong trại này, vì những trận chiến đấu đầu tiên chống chủ nghĩa phát-xít chấm dứt dưới mắt anh bằng sự chiến thắng của chủ nghĩa phát-xít, và sự thất bại của nước Cộng hòa Tây-ban-nha.
Thật ra phải cố gắng lắm mới có thể tin vào tương lai sau thảm họa Ca-ta-lô-nhơ.
Anh nghĩ rằng với anh. lòng tin tưởng đó cũng còn dễ dàng hơn nhiều anh em khác trong số những người lánh nạn của trại. Mặc dù tất cả những thử thách, họ vẫn còn giữ lòng tin ở Liên-xô xa xôi ấy mà họ chưa từng thấy bao giờ. Anh, anh đã nhiều lần bước trên đường phố Quảng trường Đỏ, anh đã tự chính tay mình nắm chặt lấy cán cờ, và đã chính mắt mình nhìn thấy, không phải những chân dung Xta-lin, mà ngay chính Xta-lin đứng ở phía trên mộ Lê-nin. Hàng nghìn lần trong đời anh, anh đã xiết chặt tay những công dân Xô-viết, thường dân và quân đội, những người sắp sửa đương đầu với chủ nghĩa phát-xít và sẽ chiến thắng nó.
Đối với anh, hình như không ai cảm thấy rõ ràng hơn anh cái tương lai không thể tránh được đó, trên mặt cát ẩm của trại Ác-giơ-lét, cách biên giới Tây-ban-nha hai mươi cây số.