Nguyên tác: Walden
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
2.Tôi Sống Ở Đâu Và Sống Bằng Gì
V
ào một thời kì nhất định trong đời, chúng ta quen coi mọi nơi đều có thể là địa điểm [131] cho một ngôi nhà. Bởi vậy tôi đã khảo sát vùng thôn quê trong vòng chục dặm về mọi hướng quanh nơi tôi sống. Tôi đã mua trong tưởng tượng lần lượt tất cả những nông trại, vì tất cả đều có thể mua được và tôi biết giá. Tôi đi một vòng quanh cơ ngơi [132] của các chủ trại, nếm những quả táo dại, trò chuyện với ông ta về việc cai quản, nhận lấy trại theo giá của ông ta, theo giá nào cũng được, thế chấp nó cho ông ta trong đầu tôi, thậm chí trả giá cao hơn - nhận tất cả mọi thứ chỉ trừ giấy chuyển nhượng - coi lời nói của ông ta là việc làm [133] vì tôi rất thích nói chuyện về trồng trọt và, trong chừng mực nào đó, nghiên cứu ông ta [134]. Tôi tin, và sau khi đã thưởng thức đủ lâu, tôi rút lui để nó đó cho ông ta thực hiện. Trải nghiệm này khiến tôi được các bạn coi là một kiểu người môi giới bất động sản. Tôi ngồi đâu là ở đấy có thể sống được, và phong cảnh cứ từ tôi tỏa ra một cách tương ứng. Cái nhà là gì, nếu không phải một sedes [135], một chỗ ngồi? - tốt hơn nếu là một chỗ ngồi ở nông thôn. Tôi đã phát hiện ra một chỗ để làm nhà không có vẻ sớm được cải thiện, có thể một số người nghĩ nó quá xa làng, nhưng dưới mắt tôi làng quá xa nó. Ờ, tôi có thể sống ở đó, tôi nói, và tôi đã thật sự sống ở đó, trong một giờ, một cuộc sống mùa hè và mùa đông, để năm tháng trôi đi, đẩy mùa đông qua, và nhìn mùa xuân đến. Những cư dân tương lai của miền này, bất kì chỗ nào họ có thể đặt ngôi nhà của họ, có thể tin chắc rằng đã có người làm trước họ rồi. Chỉ một buổi chiều là đủ để biến mảnh đất đó thành vườn cây ăn quả hay bãi chăn thả gia súc, và quyết định những cây sồi hay cây thông đẹp nào nên để lại trước cửa nhà, và vì mỗi cây khô héo có lợi thế của nó [136], nên tôi bỏ mặc ở đó, vì mức độ giàu có của một người có thể đo bằng số của cải mà anh ta có thể sống mà không cần đến.
Trí tưởng tượng của tôi đưa tôi đi xa đến mức thậm chí tôi đã từ chối nhiều trang trại, - từ chối là tất cả những gì mà tôi muốn - nhưng tôi không bao giờ chạm đến sở hữu thực sự. Tôi đã suýt sở hữu thực sự khi tôi mua Hollowell Place, và bắt đầu chuẩn bị hạt giống để gieo, và thu thập vật liệu làm một chiếc xe cút kít để chở ra chở về, nhưng trước lúc ông chủ làm xong giấy chuyển nhượng thì vợ ông ta - mỗi người đàn ông đều có một bà vợ như thế - đổi ý và muốn giữ nó lại, và ông ta đưa tôi mười đô la để tôi giải thoát ông ta khỏi cam kết đó.
Bởi vậy, nói cho đúng ra, tất tần tật tôi chỉ có mười cent thôi, và trình độ số học của tôi không đủ để tôi nói tôi là người có mười cent, hay là người có một cái trại, có hay cả hai; hay trái lại, hào phóng hơn, tôi bán cho ông ấy cái trại lấy đúng số tiền mà tôi vừa mua nó, và, vì ông ta không giàu có gì, nên tôi cho ông món quà mười đô la, và vẫn còn lại mười cent của tôi, và hạt giống, và vật liệu làm cái xe cút kít. Như vậy tôi thấy rằng tôi đã là một người giàu có mà không mảy may phương hại đến sự nghèo nàn của tôi. Nhưng tôi giữ lại được phong cảnh, và từ đó hằng năm tôi chiếm lấy những gì nó mang lại mà không cần một chiếc xe cút kít. Về các phong cảnh:
"Ta là vua của tất cả những gì ta nhìn thấy
Quyền của ta là không thể bàn cãi" [137].
Tôi thường thấy một nhà thơ rút lui sau khi đã thụ hưởng những phần giá trị nhất của một nông trại, trong khi một người nông dân cục mịch cho rằng nhà thơ chỉ được một ít táo dại. Tại sao người chủ trại không biết điều này sau nhiều năm, khi nhà thơ đã đưa trại của anh ta vào vần điệu, loại hàng rào vô hình đáng nể phục nhất, đã hoàn toàn nhốt nó lại, đã vắt sữa nó, đã hớt váng bọt, và thu lấy tất cả kem, chỉ để lại cho người nông phu loại sữa đã hớt hết váng.
Sức hấp dẫn của trại Hollowell đối với tôi là, nó hoàn toàn hẻo lánh, cách làng chừng hai dặm, cách hàng xóm gần nhất nửa dặm, và được ngăn cách với đường cái bằng một cánh đồng rộng; nó bị giới hạn bởi một con sông mà chủ trại nói nhờ sương mù cửa nó bảo vệ khỏi đông giá về mùa xuân, mặc dù nó không là gì đối với tôi; màu xám và tình trạng đổ nát của ngôi nhà và khu chuồng trại, với những hàng rào xiêu vẹo, nó đặt một gián cách như thế giữa tôi và người cuối cùng ở đó, những cây táo rỗng và phủ đầy địa y, bị thỏ gặm, cho thấy tôi sẽ phải chịu loại hàng xóm như thế nào; nhưng trên hết, kí ức mà tôi có về nó là từ những chuyến du hành sớm nhất của tôi ngược sông, những ngôi nhà ẩn sau lùm cây gỗ thích đỏ rậm rạp, qua đó tôi nghe tiếng chó nhà sủa. Tôi vội vã mua nó, trước khi người chủ đánh một số khối đá đi, đốn hạ những cây táo rỗng ruột, và bứng đi mấy cây phong non mới mọc trên bãi cỏ, hay nói ngắn gọn, làm thêm một số việc cải thiện. Để hưởng những thuận lợi ấy tôi sẵn sàng thực hiện nó, giống như Atlas, vác Trái Đất lên vai, - tôi không hề nghe thấy ông nhận khoản bồi thường [138] nào cho việc đó - và làm tất cả những việc ấy không vì một động cơ hay một lí do nào khác, nhưng tôi có thể trả tiền để người ta để nguyên nó đó cho tôi, vì tôi biết rằng nó sẽ đem lại thu hoạch thừa thãi nhất mà tôi cần [139] nếu tôi có thể để nó yên. Nhưng sự thể đã diễn ra như tôi đã nói.
Vì thế, tất cả những gì tôi có thể nói về việc trồng trọt trên quy mô lớn (tôi luôn luôn trồng một mảnh vườn) là tôi đã có hạt giống. Nhiều người nói hạt giống để càng lâu càng tốt. Tôi không nghi ngờ gì rằng thời gian sẽ giúp tôi phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, và cuối cùng khi tôi trồng tôi sẽ ít bị thất vọng hơn. Nhưng tôi muốn nói với các bạn của tôi, một lần cho dứt khoát, hãy sống tự do đến mức có thể, đừng để vướng mắc. Giữa việc bạn mắc vào một nông trại với việc mắc vào nhà tù chỉ khác nhau chút xíu thôi.
Ông già Cato [140], De Re Rustica [141] của ông là Người trồng trọt [142] của tôi, và bản dịch duy nhất mà tôi thấy chỉ là vớ vẩn so với câu "Khi anh nghĩ đến việc có một nông trại, thì hãy nghĩ trong óc anh thôi, chớ mua nó một cách thèm khát, cũng đừng tiếc công ngắm nhìn nó, và đừng nghĩ chỉ đi quanh nó một vòng là đủ. Anh càng đến đó thường xuyên thì nó càng làm anh hài lòng, nếu nó tốt. Tôi nghĩ tôi sẽ không mua nó một cách thèm khát, nhưng sẽ đi quanh nó hoài chừng nào tôi còn sống, và sẽ được chôn trong nó trước hết, rốt cuộc nó có thể làm tôi hài lòng hơn.
Hiện tại là thí nghiệm tiếp theo của tôi thuộc loại này, mà tôi định sẽ mô tả chi tiết hơn, để cho tiện, tôi sẽ gộp kinh nghiệm của hai năm thành một. Như đã nói, tôi không định viết một bài tụng ca nỗi chán đời, mà chỉ gáy vang như một anh gà trống huênh hoang đứng trong sân nhà mình mà đánh thức những hàng xóm của tôi.”
Khi lần đầu tiên tôi lấy rừng làm nơi ở, tức là, bắt đầu tiêu cả ngày lẫn đêm ở đó, tình cờ lại là ngày Độc lập, ngày 4 tháng 7 năm 1845, nhà tôi không hoàn thành để tránh mùa đông, mà chỉ để bảo vệ chống lại mưa, không được tô trát và không có lò sưởi, các bức tường làm bằng ván thô đã bị mưa nắng làm cong vào buổi sáng, vênh, với những kẽ hở rộng, để mát về ban đêm. Những cột trắng dựng đứng và các khung cửa, cửa sổ mới bào, tạo cảm giác sạch sẽ và thông thoáng, đặc biệt vào buổi sáng, khi gỗ đẫm sương, khiến tôi tưởng tượng rằng đến trưa chúng sẽ ứa ra một ít chất nhựa ngọt. Theo tưởng tượng của tôi suốt cả ngày nó sẽ ít nhiều giữ được đặc tính của buổi rạng đông, nhắc tôi nhớ về một ngôi nhà nào đó trên một ngọn núi mà tôi đã đến thăm năm trước. Đó là một căn nhà nhỏ thoáng đãng và không tô trát, thích hợp để tiêu khiển cho một vị thần lãng du, và là nơi mà một nữ thần có thể thướt tha trong bộ trang phục của nàng. Những ngọn gió sẽ qua nơi trú ngụ của tôi như quét qua những ngọn núi, mang theo những giai điệu chập chờn, hay chỉ những phần siêu phàm của âm nhạc trần thế. Ngọn gió ban sáng thổi đến vĩnh cửu, bài thơ sáng tạo là không ngừng nghỉ, nhưng ít người có lỗ tai nghe nó. Đâu đâu cũng thế, đỉnh Olimpus [143] chỉ ở bên ngoài trái đất.
Ngoài một chiếc thuyền, ngôi nhà duy nhất mà tôi sở hữu trước đây là một căn lều, mà tôi thỉnh thoảng có dịp dùng khi du ngoạn vào mùa hè, và nó bây giờ vẫn còn cuộn lại trên tầng áp mái của tôi; nhưng cái thuyền sau khi chuyền hết tay này sang tay khác, đã trôi xuôi theo dòng thời gian. Với chỗ trú ngụ chắc chắn hơn này bên tôi, tôi đã khá tiến bộ trong việc định cư trên thế giới. Căn lều nhẹ nhõm này, giống như một sự kết tinh xung quanh tôi, và tác động trở lại người xây dựng. Nó gợi lên những nét giống như một bức tranh trong phác thảo. Tôi không cần ra ngoài trời để thở không khí trong lành, vì không khí bên trong không hề mất vẻ tươi mát của nó. Ngồi sau cánh cửa nơi tôi vẫn ngồi không có vẻ gì là quá kín mít, ngay cả trong lúc trời mưa. Harivansa [144] nói: "Một ngôi nhà không có tiếng chim khác nào thịt không gia vị". Một ngôi nhà như thế không phải nhà của tôi, vì tôi thấy mình bỗng nhiên thành láng giềng của loài chim; không phải vì tôi bắt một con nhốt lồng, mà tôi tự nhốt tôi vào lồng ở gần chúng. Tôi không chỉ gần hơn với một số chim thường tới các vườn cây trái, mà gần hơn với những chú chim hoang dã hơn và tiếng hót ngọt nào quyến rũ hơn của rừng xanh, những con chim không bao giờ, hoặc hiếm khi tấu dạ khúc cho một dân làng nghe, những con chim hét rừng (wood- thust) veery [145], những con tanager [146] màu đỏ tươi, những con chim sẻ đồng, những chim đớp muỗi [147] và nhiều loài khác.
Tôi sống bên bờ một cái đầm, cách làng Concord một dặm rưỡi về phía nam và hơi cao hơn nó một chút, trong một khoảnh rừng rộng nằm giữa thành phố này và Lincoln, và cách cánh đồng duy nhất có cái tên nổi tiếng của chúng tôi "Bãi Chiến trường Concord" khoảng hai dặm về phía nam; nhưng tôi ở thấp trong rừng đến nỗi bờ bên kia, cách nửa dặm, được bao bọc bởi rừng như những phần khác, đối với tôi là chân trời xa nhất. Trong tuần đầu tiên, mỗi khi nhìn ra đầm tôi có cảm tưởng nó là một cái hồ nhỏ cao trên sườn một quả núi, đáy của nó ở bên trên mặt của những hồ khác, và, khi mặt trời mọc, tôi thấy nó trút bỏ màn sương - bộ y phục ban đêm của nó, và đó đây, tuỳ mức độ, những gợn sóng lăn tăn êm đềm hay mặt gương phẳng lặng lộ ra, trong khi những đám sương mù, như những bóng ma, lén lút rút lui theo mọi hướng vào rừng như tản ra từ một cuộc họp đêm bí mật. Chính giọt sương, còn treo muộn hơn thường ngày trên những cái cây như trên những sườn núi.
Cái hồ nhỏ này có giá trị nhất như một người hàng xóm trong khoảng giữa những cơn mưa dông tháng Tám, khi cả nước và không khí đều yên lặng nhưng bầu trời phủ mây, giữa buổi chiều có cái tình lặng của buổi tối, và con chim hét rừng hót đó đây, nghe như vọng từ bờ này sang bờ kia. Một cái hồ như thế chưa bao giờ êm ả hơn vào thời gian đó; và bầu không khí trong sáng bên trên nó bị những đám mây nuốt và làm tối tăm đi, mặt nước, đầy ánh sáng và ánh phản chiếu, bản thân nó trở thành một bầu trời thấp quan trọng hơn nhiều. Từ một đỉnh đồi gần bên, nơi rừng mới bị chặt gần đây, có một khung cảnh thú vị khi nhìn qua đầm về hướng nam, qua một hõm trống rộng trong những quả đồi tạo thành bờ bên kia, nơi những mặt đối nhau của chúng dốc thoải hướng về nhau gợi nghĩ đến một dòng suối chảy ra theo hướng đó qua một thung lũng mọc đầy cây, nhưng thật ra không có dòng suối nào cả. Theo hướng đó tôi nhìn giữa và trên những quả đồi xanh ở gần đến một quả đồi xa và cao hơn ở phía chân trời, nhuốm sắc xanh da trời. Thật ra nếu đứng kiễng chân tôi có thể nhìn thấy thấp thoáng những đỉnh nhọn của những rặng núi còn xanh hơn và xa hơn theo hướng tây bắc, những đồng xu thật xanh từ xưởng đúc tiền của thiên đình, cũng như một phần của làng. Nhưng theo các hướng khác, cho dù ngay từ điểm này, tôi cũng không thể nhìn quá những khu rừng đang bao quanh mình. Lấy nước từ hàng xóm về để đem lại sinh khí cho đất và tưới ngập nó là tốt. Một cái giếng dù nhỏ nhất cũng có giá trị là khi ta nhìn vào nó, ta thấy đất không phải là lục địa mà là đảo. Nó cũng quan trọng như giữ mát cho bơ vậy. Khi từ điểm cao này nhìn qua đầm tới những cánh đồng cỏ Sudbury về mùa lụt tôi nhận thấy chúng nhô lên rõ rệt có lẽ do ảo ảnh trong thung lũng sủi bọt của chúng, giống như một đồng xu trong cái chậu, cả mảnh đất bên kia đầm hiện lên như một miếng vỏ bánh mì mỏng bị cách li và nổi lên thậm chí bởi một mảng nước nhỏ xen giữa, và tôi nhớ ra rằng mảnh đất mà tôi đang sống trên đó chỉ là một mảnh đất khô.
Tuy rằng quang cảnh nhìn từ cửa nhà tôi đã bị thu hẹp lại nhiều, tôi vẫn không cảm thấy chật chội hay thậm chí là gò bó. Còn có bãi cỏ cho tôi tha hồ tưởng tượng. Cái cao nguyên thấp mà sồi mọc thành từng bụi của bờ bên kia, trải ra đến những đồng cỏ miền Tây và những thảo nguyên Tartary, đủ chỗ thênh thang cho những gia đình du cư đông đúc. "Chỉ có những người biết hưởng thụ một cách tự do những chân trời rộng mở mới là người hạnh phúc trên thế giới này" – Damodara [148] nói, khi đàn gia súc của ông cần những đồng cỏ mới và rộng lớn hơn.
Cả thời gian và nơi chốn đều đã thay đổi, và tôi đã ở gần hơn với những phần của vũ trụ và những thời đại trong lịch sử hấp dẫn nhất đối với tôi. Nơi tôi sống cũng xa xăm như nhiều miền mà các nhà thiên văn học đêm đêm quan sát. Chúng ta quen tưởng tượng những nơi hiếm hoi và thú vị, ở những góc xa xôi cách biệt và đầy tính thiên giới của hệ thống, đằng sau chòm sao Tiên Hậu (Cassiopeia's Chair) xa biệt mọi ồn ào và phiền toái. Tôi phát hiện ra rằng ngôi nhà của tôi thật sự là một nơi ẩn dật như thế, nhưng mãi mãi là phần mới và không bị xem thường của vũ trụ. Nếu những nơi gần Pleiades hoặc Hyades [149], hay gần Aldebaran hoặc Altair [150] là nơi đáng ở, thì tôi thật sự đã ở đó, hay ở xa tương đương như thế với cuộc sống mà tôi đã để lại phía sau, thu mình lại thành một tia nhấp nháy đối với người hàng xóm gần nhất của tôi, và chỉ để anh ta thấy được vào những đêm không trăng. Tôi đã ngồi ở chính cái phần đó của sáng thế:
Có một chàng chăn cừu đã sống
Và những ý nghĩ của chàng cao như
những ngọn núi trên đó đàn cừu của chàng
thường xuyên cho chàng ăn [151]?
Chúng ta nên nghĩ như thế nào về đời sống của một chàng chăn cừu nếu đàn cừu của chàng luôn lang thang lên những bãi cỏ cao hơn những ý nghĩ của chàng?
Mỗi buổi sáng là một lời mời gọi vui vẻ hãy làm cho cuộc sống của tôi đơn giản đi, hay tôi có thể nói, ngây thơ vô tội như bản thân Thiên nhiên.
Tôi vốn là một người thờ thần Rạng đông (Aurora) [152] thành kính như người Hi Lạp. Tôi dậy sớm và tắm trong đầm, đó là một nghi thức tôn giáo, và là một trong những điều tốt nhất mà tôi đã làm. Người ta nói những chữ này được khắc lên bồn tắm của vua Thành Thang: "Hãy đổi mới mỗi ngày, ngày nào cũng mới, luôn luôn mới" [153]. Tôi có thể hiểu điều đó. Buổi sáng đem trở lại những thời đại anh hùng xưa. Tôi hết sức cảm động với tiếng kêu vo ve yếu ớt của một con muỗi bay một vòng vô hình và kì quái qua căn hộ của tôi vào buổi tinh mơ, khi tôi ngồi, cửa lớn và cửa sổ đều mở, cảm động như nghe tiếng kèn trompet ngợi ca [154]. Đó là một bản cầu hồn của Homer; bản thân nó là một Iliad và Odyssey [155], trong không khí, ca lên nỗi căm giận và những ý nghĩ lan man của chính nó [156]. Trong nó có một cái gì phóng khoáng, một quảng cáo được chấp nhận (trước khi bị cấm), về sự cường tráng và phồn thực vĩnh cửu của thế giới. Buổi sáng, đó là khoảng thời gian đáng ghi nhớ nhất của một ngày, là giờ tỉnh thức. Đó là lúc chúng ta ít buồn ngủ nhất; và ít nhất trong vòng một giờ, cả đến những bộ phận của chúng ta vẫn lơ mơ ngủ suốt ngày đêm cũng thức dậy. Ít có gì để mong chờ trong cái ngày - nếu có thể gọi đó là một ngày - trong đó chúng ta không được đánh thức bằng chính Thiên tư của chúng ta, mà lại bằng mấy cái đập nhẹ đầy máy móc của người nhà [157], không được đánh thức bằng cái sức mạnh mới tìm thấy và những khát khao từ bên trong chúng ta, được đệm bằng những sóng nhạc thiên thần, mà lại bằng những tiếng còi nhà máy, và một mùi hương tràn ngập không gian - đưa chúng ta vào một cuộc sống cao hơn cái cuộc sống làm chúng ta buồn ngủ; và như vậy bóng tối mang những hoa trái của nó, và chứng tỏ bản thân nó là tốt, không kém gì ánh sáng. Người nào không tin rằng mỗi ngày chứa một giờ rạng đông sớm hơn, thiêng liêng hơn [giờ] anh ta đã coi thường, thì anh ta đã thất vọng về cuộc sống và đang đi theo một con đường tối tăm và đi xuống. Sau sự chấm dứt một phần cuộc sống nhục cảm của mình, linh hồn của con người, hay đúng hơn các cơ quan của nó, được khôi phục từng ngày, và Thiên tư của anh ta lại cố gắng tái tạo cuộc sống cao quý mà nó có thể tạo ra. Tôi có thể nói, tất cả những sự kiện đáng nhớ đều lộ ra trong thời gian buổi sáng và trong bầu không khí buổi sáng. Kinh Vệ đà [158] nói, “Tất cả trí thông minh thức dậy vào buổi sáng". Thơ ca và nghệ thuật, và những hành động đẹp đẽ nhất và đáng nhớ nhất của con người, xuất hiện từ một thời khắc như thế. Tất cả những nhà thơ và những anh hùng, như Memnon[159], đều là con cái của thần Rạng đông, và phát ra tiếng nhạc của họ vào lúc mặt trời lên. Với những ai mà dòng suy nghĩ dẻo dai và mãnh liệt sánh bước được với mặt trời, thì ngày là một buổi sáng kéo dài mãi mãi. Các đồng hồ nói gì, hay thái độ và lao động của con người thế nào không quan trọng. Buổi sáng là khi tôi thức dậy và trong tôi có rạng đông. Cải cách đạo đức là cố gắng vứt bỏ tình trạng mê ngủ. Tại sao con người làm bản kết toán ngày của họ tệ thế nếu họ chưa được ngủ ngon lành? Họ không phải là những kẻ tính toán tồi đến thế. Nếu họ chưa bị tình trạng lơ mơ gà gật chế ngự, chắc họ đã làm được một cái gì. Một triệu người đủ tỉnh táo để làm công việc chân tay, nhưng chỉ có một trong một triệu người đủ tỉnh táo cho những nỗ lực trí tuệ có hiệu quả, chỉ một trong một trăm triệu người đủ tình táo cho một đời sống nên thơ hay thánh thiện. Tỉnh thức tức là đang sống. Tôi chưa bao giờ gặp một người hoàn toàn tình thức. Làm sao tôi có thể nhìn thẳng vào mặt anh ta?
Chúng ta phải học cách tỉnh lại và giữ cho chúng ta tỉnh thức, không phải nhờ những sự trợ giúp máy móc, mà bằng lòng mong chờ vô hạn rạng đông, nó không bỏ rơi chúng ta trong những giấc ngủ ngon lành nhất. Tôi không biết có gì khích lệ hơn cái khả năng chắc chắn của con ngươi nâng cao cuộc sông của bản thân bằng một cố gắng có ý thức. Có khả năng vẽ một bức tranh đặc biệt, hoặc tạc một bức tượng, và như vậy làm cho một số vật thể trở nên đẹp, đã là điều hay; nhưng tạc hay vẽ chính ngay không khí và môi trường mà qua đó chúng ta nhìn, mà chúng ta có thể làm đẹp lên về phương diện đạo đức, thì còn tuyệt diệu hơn nhiều. Tác động được đến phẩm chất của ngày, đó là nghệ thuật cao nhất trong các nghệ thuật. Mọi người có nhiệm vụ làm ra cuộc sống của chính mình, thậm chí trong từng chi tiết, sao cho xứng đáng với suy tư trầm lắng trong cái thời khắc cao quý nhất và quyết định nhất của mình. Nếu chúng ta từ chối, hay đúng hơn tận dụng thông tin tầm thường như thế mà chúng ta có được, thì Kinh Thánh sẽ thông báo cho chúng ta một cách rõ ràng có thể làm việc đó như thế nào.
Tôi đi vào rừng bởi vì tôi muốn sống thong dong, chỉ đối diện với những sự kiện tinh tuý nhất của cuộc sống, và xem thử tôi có thể học được những gì nó phải dạy tôi hay không, và không để đến khi tôi gần chết mới khám phá ra rằng mình chưa hề sống. Tôi không muốn sống cái thứ không phải cuộc sống, sống là phải thật thiết tha nồng nhiệt; tôi cũng không muốn sống cam chịu, trừ phi vô cùng cần thiết. Tôi muốn sống sâu và hút lấy chất tủy của cuộc sống, tôi muốn sống thật cường tráng và giản đơn như người Sparta, gạt bỏ khỏi cuộc sống tất cả những gì không phải sống đích thực, dồn cuộc sống vào một góc, giảm nó đến tối thiểu, và nếu nó tỏ ra tầm thường đê tiện, thì nhận cho rõ toàn bộ cái tầm thường đê tiện ấy rồi công bố cho thế giới biết, hay nếu nó cao thượng, thì nhờ kinh nghiệm mà biết nó, và có thể làm một mô tả chân thực về nó, trong cuộc du ngoạn sau của tôi. Tôi thấy hình như đối với phần đông người có một sự lơ mơ lạ lùng về nó, không biết nó là quỷ hay là thần, và đã kết luận một cách vội vàng rằng mục đích chủ yếu của con người trên đời này là "làm sáng danh Chúa và có Chúa đời đời".
Chúng ta vẫn đang sống tầm thường hèn mọn như những con kiến [160]; mặc dù ngụ ngôn nói rằng từ lâu chúng ta đã thành người, giống như những người pigmy chúng ta chiến đấu với những con sếu [161]; đó là sai lầm chồng lên sai lầm, cú đấm đè lên cú đấm, và đức tính tốt đẹp nhất của chúng ta lấy những khốn khổ dư thừa và hoàn toàn có thể tránh được làm lí do cho nó. Cuộc sống của chúng ta bị phung phí bởi tiểu tiết. Một người lương thiện chẳng cần đếm nhiều hơn mười ngón tay của mình, hay trong trường hợp quá đáng có thể thêm mười ngón chân vào nữa, còn lại dẹp tất cả vào một đống. Đơn giản, đơn giản, đơn giản! Tôi bảo, hãy để mọi chuyện của bạn là hai hoặc ba, chứ đừng là một trăm hay một nghìn, thay vì một triệu hãy đếm đến năm, và giữ con số đếm được trên móng ngón tay cái của bạn. Giữa biển cả sóng gió này của đời sống văn minh, những mây mù bão tố và những bãi cát lún nguy hiểm như thế này và một nghìn lẻ một thứ được phép, mà con người phải sống, nếu anh ta không bị chìm xuống đáy, và không tìm thấy bến nào bằng cách dùng la bàn tìm phương hướng, thì anh ta phải là người tính toán cực giỏi mới thành công. Đơn giản hóa, hãy làm cho đơn giản. Thay vì ba bữa một ngày, nếu cần chỉ ăn một; thay vì một trăm đĩa, năm; và giảm những thứ khác một cách tương ứng. Cuộc sống của chúng ta giống như một Liên minh Đức quốc, hình thành từ những bang nhỏ, với đường biên giới liên tục thay đổi, đến nỗi ngay một người Đức cũng không biết ở thời điểm nào đó đường biên giới nằm ở đâu. Bản thân nước này, với những cái gọi là cải thiện nội bộ của nó, vốn chỉ có tính chất bên ngoài và bề mặt, chỉ là một tổ chức cồng kềnh và thừa thãi, với đồ đạc bề bộn, và bị vướng vào chính những cái bẫy của nó, suy sụp vì xa hoa và những món chi tiêu hoang toàng, thiếu sự tính toán và một mục đích xác đáng, cũng như hàng triệu gia đình trên đất này; và phương thuốc chữa trị duy nhất cho đất nước này và những gia đình của nó là một nền kinh tế vững vàng, một tính đơn giản cứng rắn còn hơn người Sparta [162] trong cuộc sống, và sự cao quý của mục đích. Nó sống quá nhanh. Người ta nghĩ rằng điều thiết yếu là Đất nước có thương mại, và xuất khẩu kim cương, và nói chuyện qua điện tín [163], và chạy xe ba mươi dặm một giờ [164], những cái ấy không có gì phải nghi ngờ; nhưng liệu chúng ta nên sống như những con khỉ đột hay như những con người, điều ấy còn mơ hồ lắm. Nếu chúng ta không làm tà vẹt và rèn những thanh ray, và dành nhiều ngày nhiều đêm cho công việc ấy, mà đi hàn gắn những cuộc sống của chúng ta để cải thiện chúng, thì ai sẽ xây những đường tàu? Và nếu những đường tàu không được xây, thì làm sao chúng ta lên tới thiên đường đúng mùa? Nhưng nếu chúng ta ở nhà và lo cho công việc của mình, thì ai cần những đường tàu? Chúng ta không chạy trên đường ray, mà đường ray chạy trên chúng ta. Bạn có bao giờ nghĩ những tà vẹt ấy là những người nằm ngủ [165] dưới những đường tàu? Mỗi tà vẹt là một người đàn ông, một người Ai Len, hay một người Bắc Mĩ. Những thanh ray được đặt trên họ, và họ bị cát phủ lên, và những toa tàu chạy lướt êm trên người họ. Họ là những người ngủ ngon, tôi bảo đảm với bạn. Và sau ít năm, một đoạn mới được đặt xuống và bị chạy đè lên, do đó, nếu có ai vui thích được đi trên tàu, thì những người khác có cái bất hạnh bị chạy đè lên. Và khi họ chạy đè lên một người đang chìm trong giấc ngủ, một người dư thừa nằm ngủ ở một nơi sai vị trí, và đánh thức hắn dậy, họ đột ngột dừng xe, và kêu la, như thể đấy là một ngoại lệ. Tôi vui mừng thấy rằng cứ mỗi năm dặm cần một tốp người để giữ những "người ngủ" này nằm yên và bằng phẳng ở chỗ của họ, vì đấy là một dấu hiệu rằng đôi khi họ lại thức giấc.
Tại sao chúng ta phải sống một cuộc sống hối hả và vô dụng như vậy? Chúng ta quyết định chết đói trước khi chúng ta bị đói. Người ta nói rằng một miếng khi đói bằng một gói khi no, và thế là ngày hôm nay người ta lấy một nghìn miếng để thay cho một gói ngày mai. Còn công việc thì, những công việc thật sự quan trọng chúng ta không thực hiện. Chúng ta có điệu nhảy Saint Vitus [166] và không sao giữ cho cái đầu chúng ta yên. Nếu tôi chỉ kéo dây chuông của giáo xứ vài cái, như thể báo cháy, tức là không rung chuông [167], thì hiếm có người đàn ông nào đang ở trong trại của anh ta trong vùng ngoại ô Concord, cho dù trong buổi sáng nay anh ta bao lần viện cớ bận rộn công việc, cũng không có một cậu trai nào, một người phụ nữ nào, tôi có thể nói thế, bỏ hết mọi thứ để chạy theo tiếng chuông, chủ yếu không phải để cứu tài sản ra khỏi những ngọn lửa, mà, nếu chúng ta thú nhận sự thật, để xem chúng cháy thì đúng hơn, vì ngọn lửa đã cháy lên, mà chúng ta, như mọi người biết, đã không đốt nó, - hoặc để nhìn nó tắt, và góp một tay vào dập lửa, nếu việc đó được coi như một nghĩa cử cao đẹp; vâng, ngay cả nếu nó là nhà thờ của giáo xứ. Một người vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn nửa giờ sau bữa ăn, liền ngẩng đầu lên và hỏi: "có gì mới không?" như thể phần còn lại của nhân loại đã đứng canh cho anh ta ngủ. Một số người ra chỉ thị đánh thức họ dậy nửa giờ một lần, chắc chắn không vì lí do nào khác; và sau đó, để trả công, họ kể đã mơ thấy những gì. Sau giấc ngủ đêm, tin tức không thể thiếu được như bữa sáng vậy. "Yêu cầu cho tôi biết có gì mới xảy ra cho một người bất kì đâu trên thế giới này" - và anh ta đọc tin trên cốc cà phê và ổ bánh mì, rằng một người đàn ông đã bị người ta móc mắt sáng nay trên bờ sông Wachito [168]; trong suốt thời gian đó anh ta không bao giờ mơ rằng mình sống trong hang voi mamút tối đen của thế giới này, và bản thân anh ta chỉ có khái niệm sơ đẳng về một con mắt.
Về phần tôi, tôi có thể sống dễ dàng mà không cần đến bưu điện. Tôi nghĩ rằng có rất ít thông điệp được chuyển qua nó. Nói cho ngay, trong đời tôi, tôi nhận không hơn một hoặc hai bức thư - tôi đã viết điều này mấy năm trước - đáng tiền bưu phí. Một penny bưu phí, nói chung, là một thủ tục qua đó bạn nghiêm chỉnh biếu một người nào đó một penny vì những ý nghĩ của người ấy, những ý nghĩ chắc chắn rất thường được đưa ra làm trò đùa. Và tôi bảo đảm với bạn rằng không bao giờ tôi đọc bất kì một tin tức đáng nhớ nào trong một tờ báo. Nếu chúng ta đọc về một người cướp của, giết người, hay bị giết trong một tai nạn, hay một ngôi nhà bị cháy, hoặc một cái thuyền bị chìm, hoặc một tàu thủy chạy bằng hơi nước, hoặc một con bò bị cán chết trên đường sắt miền Tây, hoặc một con chó dại bị giết, hoặc một đám châu chấu vô cùng lớn trong mùa đông - thì chúng ta sẽ không cần đọc gì khác nữa. Một tin là đủ rồi. Nếu bạn đã quen với nguyên tắc, thì bạn cần gì quan tâm đến hàng tỉ trường hợp riêng biệt? Đối với một nhà triết học tất cả tin tức, như nó được gọi, là chuyện tầm phào, và những người biên tập và đọc nó là những bà già buôn chuyện. Tuy nhiên không ít người khao khát những chuyện tầm phào này. Tôi nghe kể có lần tại một cơ quan nọ người ta đổ xô nghe những tin nước ngoài vào giờ cuối, đến nỗi làm vỡ nhiều ô kính vuông lớn của tòa nhà đó, những tin tức mà tôi thật sự nghĩ một tay láu cá có thể viết ra mười hai tháng hay mười hai năm trước đó với đủ độ chính xác. Về Tây Ban Nha chẳng hạn, chỉ cần lâu lâu nhớ lại Carlos và Infanta, và Don Pedro và Seville và Granada [169], theo mức độ quan trọng của từng người (có thể họ đã thay đổi tên một chút từ khi tôi xem những tờ báo đó), và chỉ cần đến xem một trận đấu bò khi thiếu những món giải trí khác, thì chúng ta sẽ biết một cách chính xác về tình hình trật tự hay lộn xộn ở Tây Ban Nha không kém những phóng sự sáng sủa và súc tích dưới đầu đề này trong các báo: còn về Anh, hầu như những mẩu tin có ý nghĩa cuối cùng từ nơi này là cuộc cách mạng 1649, và nếu bạn đã biết về tình hình mùa màng của nó trong một năm thu hoạch trung bình, bạn sẽ không bao giờ cần quan tâm đến chuyện đó nữa, trừ phi những suy tư của bạn chỉ quẩn quanh chuyện tiền bạc. Những ai hiếm khi ngó vào một tờ báo có thể thấy rằng chẳng có gì mới xảy ra trong những mục nước ngoài, một cuộc cách mạng Pháp cũng không phải là ngoại lệ.
Có tin gì mới không! Điều quan trọng cần biết hơn nhiều là những gì không bao giờ cũ. Cừ Bá Ngọc (quan đại phu nước Vệ) phái sứ giả đến gặp Khổng Tử [170]. Khổng Tử mời sứ giả ngồi, và hỏi "Thầy ngươi đang làm gì?". Sứ giả cung kính đáp "Thầy tôi muốn bớt điều lỗi, nhưng chưa được hoàn toàn". Sứ giả đi rồi, hiền giả khen: "Sứ giả giỏi thật! Sứ giả giỏi thật!". Nhà truyền giáo, thay vì làm bực bội lỗ tai người nông phu mụ mị vào ngày nghỉ cuối tuần của anh ta - vì Chủ nhật là kết thúc thích họp một tuần lễ nhọc nhằn, chứ không phải là sự bắt đầu tươi mát và tốt đẹp của một tuần lễ mới - với cái đuôi dài lê thê của một bài thuyết giáo nhàm chán, hãy hô vang lên như sấm, "Dừng lại! Nghỉ thôi! Sao bên ngoài có vẻ nhanh, mà lại chậm khủng khiếp thế này?".
Những sự giả vờ và lừa bịp được coi như những chân lí vững vàng, trong khi hiện thực là hoang đường. Nếu con người chỉ quan sát hiện thực, và không cho phép mình nhẹ dạ, thì cuộc sống, so với những gì chúng ta biết, sẽ giống như trong truyện kể Arập Nghìn Lẻ Một Đêm. Nếu chúng ta chỉ tôn trọng những gì nhất thiết phải xảy ra và có quyền tồn tại, thì nhạc và thơ sẽ vang lừng trên khắp phố phường. Khi chúng ta không vội vã và sáng suốt, chúng ta sẽ nhận thấy chỉ những gì tuyệt vời và xứng đáng mới tồn tại vĩnh viễn và tuyệt đối, - rằng những nỗi lo sợ vặt vãnh và những thú vui vặt vãnh chỉ là cái bóng của thực tại mà thôi. Điều này luôn làm ta vui vẻ và cao thượng. Bằng cách nhắm mắt lại và mơ màng ngủ, và hài lòng với việc bị lừa bởi những cái bề ngoài, người ta thiết lập và khẳng định cuộc sống đời thường với những lề thói và tập tục của mình ở khắp mọi nơi, vẫn được xây trên một cái nền thuần túy viển vông. Trẻ con, những người coi cuộc sống như trò chơi, nhận biết cái quy luật đúng đắn này và những mối quan hệ của cuộc sống rõ ràng hơn người lớn, những người đã không biết sống cho thỏa đáng, nhưng nghĩ rằng họ khôn ngoan hơn nhờ kinh nghiệm, tức là, nhờ thất bại. Tôi đã đọc trong một cuốn sách cổ Hindu, rằng "có một cậu bé con vua bị đưa ra khỏi thành phố quê hương khi còn bé tí, được một người sống trong rừng đem về nuôi, và lớn lên trong tình trạng đó, cứ tưởng cậu thuộc về chủng tộc dã man nơi cậu sống. Một trong những viên quan của cha cậu phát hiện ra cậu, nói cho cậu biết cậu là ai, sự hiểu lầm về thân phận được gỡ bỏ, cậu biết mình là một hoàng tử." Như vậy nhà triết học tiếp tục, "linh hồn từ những hoàn cảnh nơi nó được đặt vào, nhầm lẫn thân phận của nó, cho đến khi sự thật được tỏ lộ cho nó biết bởi một người thầy thiêng liêng, và sau đó nó biết nó chính là thần Brahma" [171]. Tôi nhận ra rằng chúng ta - những người dân New England sống cuộc đời tầm thường này vì cái nhìn của chúng ta không xuyên qua bề mặt của mọi vật. Chúng ta nghĩ rằng cái gì hiện ra thế nào thì nó là thế ấy. Nếu một người đi qua thành phố này và chỉ thấy thực tế, bạn thử nghĩ xem, anh ta sẽ nói "Mill-dam" [172] là cái gì? Nếu anh ta cho chúng ta một bản mô tả về những thực tế mà anh ta nhìn thấy, chúng ta sẽ không nhận ra nơi này trong mô tả của anh ta. Hãy nhìn một nhà hội họp, một toà án, một nhà tù, một cửa hàng hay một nhà ở, và nói những thứ ấy thật sự là gì trước một cái nhìn thật chăm chú, và tất cả chúng sẽ tan thành nhiều mảnh trong mô tả của bạn. Người ta trọng sự thật ở xa, ở vành ngoài của hệ thống, đằng sau những ngôi sao xa nhất, trước Adam và sau người đàn ông cuối cùng. Trong cái vĩnh cửu chắc chắn có cái gì đó thật và cao cả. Nhưng tất cả những không gian này thời gian này và những cơ hội này là ở đây và bây giờ. Bản thân Thượng Đế lên đến tột cùng trong thời điểm hiện tại, và khi mọi thời đại suy tàn thì người cũng vẫn tột đỉnh thiêng liêng. Và chúng ta có thể hiểu được tất cả những gì là kì vĩ và cao quý chỉ bằng cách không ngừng thấm nhuần và thấm đẫm thực tế xung quanh chúng ta. Vũ trụ liên tục ngoan ngoãn trả lời những ý niệm của chúng ta; dù chúng ta đi nhanh hay đi chậm, thì đường đi được mở cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy dùng đời mình vào việc suy ngẫm sáng tạo. Nhà thơ hay nghệ sĩ chưa bao giờ có một phác thảo đẹp đẽ và cao quý như thế, nhưng lớp cháu con ít nhất có thể thực hiện nó.
Chúng ta hãy bỏ ra một ngày thong thả như Thiên nhiên, và đừng để bị trật khỏi đường ray chỉ vì một chiếc vỏ hạt dẻ và cánh của con muỗi rơi xuống. Chúng ta hãy dậy sớm và nhanh, ăn sáng, dịu dàng và không lo lắng; chúng ta hãy để bạn bè đến và đi, hãy để chuông rung và trẻ em la hét, - nhất định làm ra một ngày theo cách đó. Tại sao chúng ta khuất phục và để bị cuốn theo dòng? Chúng ta đừng bị rối tung lên và ngập trong dòng thác khủng khiếp và những xoáy nước [173] được gọi là một bữa ăn, được đặt vào những chỗ nông cạn nhất buổi trưa. Thời tiết nguy hiểm thế đấy nhưng bạn an toàn, vì phần đường còn lại là thoai thoải đi xuống. Với thần kinh căng thẳng, với cái phấn chân của buổi sáng căng buồm lên và nhìn hướng khác, trói mình vào cột buồm như Ulysses [174]. Nếu đầu máy kéo còi, hãy để cho nó huýt đên khi khản cả giọng để trả công cho nó. Nếu chuông reo, tại sao chúng ta lại chạy? Chúng ta sẽ xem chúng thuộc loại nhạc nào. Chúng ta hãy bình tâm lại, hãy làm việc, và dấn bàn chân xuống qua bùn loãng của ý kiến, của thành kiến, và truyền thống, và ảo tưởng, và bề ngoài, cái lớp đất bồi bao phủ quả đất ấy, qua Paris và London, qua New York và Boston và Concord, qua nhà thờ và nhà nước, qua thơ ca và triết học và tôn giáo, cho đến khi chúng ta chạm đáy cứng và những mỏm đá tại chỗ, mà chúng ta có thể gọi là hiện thực, và nói, Nó Đây, và không sai; và rồi bắt đầu, có một point d'appui (điểm tựa), bên dưới dòng nước, và băng giá, và lửa, một nơi bạn có thể xây một bức tường hay một nhà nước, hoặc đặt một cột đèn an toàn, hay có lẽ, một thiết bị đo, không phải là đo mực nước sông Nil, mà là đo mức Thực, để những thời đại mai sau có thể biết dòng nước của sự giả dối, của những cái bề ngoài lâu lâu dồn lại sâu đến chừng nào. Nếu bạn đương đầu và mặt đối mặt với một sự thật, bạn sẽ thay mặt trời loé lên trên cả hai mặt của nó, như thể nó là một thanh kiếm cong, và cảm thấy cái lưỡi sắc ngọt của nó chẻ bạn ra qua trái tim và tủy sống, và như vậy bạn sẽ kết thúc sự nghiệp của đời bạn một cách hạnh phúc. Dù sống hay chết, chúng ta chỉ khao khát cái thật. Nếu chúng ta đang thật sự chết, chúng ta hãy nghe tiếng nấc hấp hối trong cổ họng, và cảm thấy lạnh ở tứ chi; nếu chúng ta đang sống, chúng ta hãy đi làm công việc của mình.
Thời gian chỉ là dòng suối mà tôi đến câu cá. Tôi uống nước ở đó, và trong khi uống tôi thấy đáy cát và nhận ra nó nông ra sao. Dòng của nó trôi đi, nhưng cái vĩnh cửu ở lại. Tôi uống sâu hơn, cá trên trời, cái đáy của nó đầy cuội là những vì sao. Tôi không đếm được một. Tôi không biết chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái. Tôi đã luôn nuối tiếc rằng tôi không khôn ngoan như khi mới sinh ra. Trí tuệ là một con dao phay, nó lách và chẻ theo cách của nó vào bí mật của các sự vật. Tôi không muốn bận tay bận chân hơn mức cần thiết. Đầu tôi là tay và chân. Tôi cảm thấy những khả năng tốt nhất của tôi tập trung ở đó. Bản năng của tôi mách bảo tôi rằng đầu tôi là một cơ quan để đào bới, như một số loài vật sử dụng mõm và chân trước có móng của chúng, và nhờ nó tôi đã đào hang theo cách của mình xuyên qua những quả đồi này.
Tôi nghĩ rằng mạch nguồn cảm hứng đang quanh quất đâu đây, bởi vậy tôi dùng một chiếc que dò mạch [175] và dựa vào luồng hơi mảnh bay lên để phán đoán; rồi tôi bắt đầu đào [176].