Số lần đọc/download: 1116 / 6
Cập nhật: 2017-06-11 10:57:08 +0700
Cuốn Sách Pháp Thuật
X
ưa thật là xưa có một cặp vợ chồng già tên là Peder và Kirsten. Họ chỉ có một cậu con trai độc nhất tên là Hans. Từ lúc cậu còn bé người ta đã tiên đoán rằng vào lúc 16 tuổi cậu sẽ phải xa nhà tìm kế mưu sinh. Vì thế mà vào một sớm mùa hè tươi đẹp, cậu lên đường tìm kiếm vận may chỉ với một tay nải đựng quần áo đeo trên vai.
Suốt mấy giờ liền cậu vui vẻ đi trên đường, thỉnh thoảng lại dừng lại uống nước từ một dòng suối trong lành hoặc ăn trái cây chín mọng trên cành. Những con thú hoang bé nhỏ liếc nhìn cậu từ dưới các lùm cây, cậu mỉm cười và gật đầu chào lại: “Chào buổi sáng!” Sau khi đi được một đoạn đường dài, cậu gặp một ông già râu tóc bạc phơ đang đi trên con đường mòn nhỏ. Cậu bé không tránh sang một bên mà ông già cũng không nhường bước, thế là họ đâm sầm vào nhau. “Ta nghĩ” ông già nói, “một đứa bé phải nhường đường cho người già chứ.”
“Con đường dành cho tôi cũng như dành cho ông,” cậu bé đáp một cách ngỗ ngược bởi vì cậu chưa học được phép lịch sự.
“Ồ, điều đó nghe cũng có lí,” ông già nhẹ nhàng đáp. “Dám hỏi công tử đi đâu vậy?”
“Tôi đi tìm việc làm.”
“Nếu vậy cậu có thể đến làm việc cho tôi.”
"Ồ, Hans sẵn lòng lắm, nhưng còn công xá thì sao?"
“Hai bảng một năm, và cậu chẳng phải làm gì ngoài việc giữ cho mấy căn phòng được sạch sẽ.”
Có vẻ như việc đó cũng không khó khăn gì đối với Hans thế là cậu đồng ý đến làm việc cho ông già và họ cùng quay về nhà ông lão. Trên đường đi họ qua một thung lũng sâu rồi đi đến một ngọn núi cao. Ở đấy, ông già mở một cánh cửa sập sát mặt đất rồi bảo Hans đi theo mình và cả hai cùng đi xuống một cái cầu thang rất dài. Khi hai người đặt chân xuống đất, Hans nhìn thấy hàng dãy phòng san sát, sáng trưng bởi vô số ngọn nến và phòng nào cũng chứa đầy những món đồ đẹp đẽ. Trong khi cậu tò mò nhìn quanh, ông già nói: “Bây giờ cậu biết mình phải làm cái gì rồi đó. Cậu phải giữ cho những căn phòng này lúc nào cũng được sạch sẽ và ngày nào cũng phải rải cát lên sàn nhà. Ở đây có một cái bàn, bao giờ cũng đầy ắp đồ ăn và thức uống, còn kia là giường dành cho cậu. Có nhiều bộ quần áo treo trên tường, cậu có thể mặc bất cứ bộ quần áo nào cậu thích nhưng nên nhớ không bao giờ được mở cánh cửa khóa kia. Nếu cậu cố tình mở ra, tai họa sẽ giáng xuống đầu cậu. Thôi, bây giờ thì tạm biệt vì tôi phải đi ngay và không thể nói trước bao giờ tôi mới trở về.”
Sau khi ông già biến mất, Hans đã ngồi vào bàn đánh một bữa thật ngon miệng, rồi lên giường ngủ một giấc cho đến lúc trời sáng bạch. Khi mới thức giấc, cậu không thể nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra nhưng rồi cậu nhảy xuống giường đi vào hầu hết các phòng xem xét, sờ mó.
“Thật là ngớ ngẩn khi bắt mình rải cát lên sàn trong khi chẳng có ai ngoài mình! Chà, mình sẽ không làm chuyện đó đâu”. Thế là cậu nhanh nhẹn đóng tất cả các cánh cửa lại và chỉ quét dọn căn phòng của chính mình. Nhưng chỉ vài ngày sau cậu nhận thấy cả việc này cũng không cần thiết bởi vì chẳng có ma nào ló mặt đến xem các căn phòng ở đây có sạch sẽ hay không? Cuối cùng cậu chẳng làm gì hết mà chỉ ngồi bần thần, tự hỏi không biết có cái gì trong căn phòng cấm kia cho đến lúc cậu quyết định tự mình sẽ mở ra xem xét.
Chìa khóa nhẹ nhàng xoay trong ổ và cánh cửa mở ra. Hans bước vào, không khỏi có phần lo sợ với việc mình đang làm và vật đầu tiên đập vào mắt cậu là một đống xương người. Trong phòng chẳng có gì đáng xem, cậu đang định bước ra thì đôi mắt cậu dừng lại ở một giá sách. Đây cũng là một cách tốt để giết thời gian, cậu nghĩ, bởi vì cậu rất mê sách vở và cậu rút ra một cuốn. Đó là một cuốn sách dạy pháp thuật, chỉ dẫn cho bạn cách thức biến mình thành bất cứ cái gì mà mình thích trên đời này. Còn gì thú vị và có ích lợi hơn không? Thế là cậu cho quyển sách pháp thuật vào túi và vội vã chạy khỏi nơi nguy hiểm theo một cánh cửa nhỏ để ngỏ.
Khi cậu về đến nhà, cha mẹ gặng hỏi cậu đã làm những gì và làm sao mà có được những bộ quần áo đẹp đến thế.
“Ồ, con tự kiếm được đấy chứ.”
“Mày không thể kiếm đâu ra trong một khoảng thời gian ngắn như vậy,” người cha giận dữ nói. “Cút ngay, tao không chứa mày nữa. Tao sẽ không cho quân trộm cắp bước vào nhà này.”
“Nhưng con chỉ quay về để giúp cha thôi mà,” cậu bé phụng phịu đáp. “Bây giờ con sẽ bỏ đi như cha muốn, nhưng sáng mai khi thức dậy cha sẽ thấy một con chó to đứng ngoài cửa. Đừng đuổi nó đi, cha hãy dắt nó đến tòa lâu đài mà bán cho ngài công tước, người ta sẽ trả 10 bảng, chỉ có điều cha hãy mang sợi dây cổ chó về nhà.”
Quả nhiên sáng hôm sau người cha thấy một con chó lớn đứng đợi ngoài cửa. Ông rất sợ, không muốn dính líu vào những chuyện rắc rối, nhưng bà vợ giục giã ông mang con chó đi bán như cậu con trai đã nói. Thế là ông dắt chó đến lâu đài của ngài quý tộc bán được 10 bảng. Ông không quên chuyện sợi dây cổ chó và mang nó về nhà. Về đến nơi ông đã thấy bà vợ già Kirsten đứng đợi ngoài cửa.
“Thế nào rồi Peder, ông đã bán con chó rồi chứ?”
“Rồi và tôi mang về 10 bảng như thằng Hans đã nói.”
“Thế thì tốt quá!” Bà vợ thốt lên. “Bây giờ thì ông thấy rõ cái mà người ta có thể có được bằng cách làm theo lời khuyên của vợ như thế nào. Nếu không có tôi thì ông đã đuổi con chó đi và chúng ta sẽ mất toi món tiền trên. Sau nữa, chẳng phải tôi bao giờ cũng biết cái gì là tốt nhất sao?”
“Vớ vẩn!” Ông chồng nói, “đàn bà bao giờ chẳng tưởng rằng họ cái gì cũng biết. Tôi đã bán con chó như bà muốn. Bây giờ thì cất tiền vào chỗ an toàn và đừng có bép xép gì về chuyện này.”
Ngày hôm sau Hans quay về nhưng mặc dù mọi việc đã diễn ra như cậu dự đoán, cậu thấy cha mình vẫn không có vẻ hài lòng.
“Thôi biến đi đâu thì biến, mày chỉ làm cho cha mẹ gặp rắc rối thôi.”
“Con còn chưa giúp được gì nhiều cho cha mẹ mà,” cậu con trai đáp. “Ngày mai sẽ có một con bò sữa béo mập to như cả ngôi nhà này. Cha hãy đưa nó đến cung điện và cha sẽ kiếm được đến 1000 bảng. Chỉ có điều cha hãy mang sợi dây thừng xỏ mũi nó về nhà và cha đừng đi đường cái quan mà hãy đi theo con đường mòn trong rừng.”
Sáng hôm sau khi cặp vợ chồng già thức dậy họ thấy có một cái đầu thật lớn nhòm vào cửa sổ phòng ngủ. Úi cha, đó là một con bò cái to gần bằng túp lều của họ. Bà lão Kirsten sung sướng phát điên lên, nghĩ ngay đến số tiền bán con bò.
“Nhưng làm sao ông có thể xỏ dây thừng vào mũi nó được.”
“Cứ đợi đấy rồi sẽ thấy, mẹ nó ạ,” ông chồng đáp.
Đoạn ông bê cái thang vẫn dùng để trèo lên gác xép đựng rơm, dựng thang vào cổ bò. Ông trèo lên thang, xỏ dây vào mũi bò. Khi cảm thấy dây buộc đã chắc chắn ông bèn cưỡi bò đến cung điện, vừa may gặp nhà vua đang đi tản bộ trong vườn.
“Bầy tôi hay tin công chúa sắp cử hành hôn lễ,” Peder lễ phép thưa với đức vua, “vì thế mà bầy tôi mang đến cho bệ hạ một con bò lớn hơn bất cứ con bò nào trên đời này. Chẳng hay bệ hạ có ý định mua con bò này không?”
Quả thật cả đức vua cũng chưa nhìn thấy một con bò nào to đến thế và ngài vui lòng trả 1000 bảng như bác nông dân ra giá và bác ta không quên mang sợi dây thừng về.
Sau khi bác ra về, vua cho gọi một gã đồ tể đến, lệnh cho gã giết thịt con vật để làm tiệc cưới cho công chúa. Đồ tể vác một cái rìu lớn đến nhưng đúng lúc gã vung cây rìu lên thì con bò cái biến thành một con chim bồ câu và vỗ cánh bay đi. Đồ tể đứng ngây người nhìn theo như thể chính ông ta cũng hóa đá. Tuy vậy khi không thể tìm thấy con bồ câu, gã buộc phải bẩm lại với đức vua chuyện gì đã xảy ra, nhà vua lập tức phái người đi bắt ông già giải về cung. Nhưng Peder đã an toàn trong rừng và không ai tìm thấy ông. Cuối cùng khi cảm thấy mọi chuyện đã yên lành, ông mới về nhà. Bà vợ gần như ngất đi vì vui sướng với số tiền mà ông chồng mang về nhà.
“Bây giờ khi chúng ta đã là người giàu có rồi, chúng ta sẽ xây một ngôi nhà to hơn,” bà reo lên và tỏ ra giận dữ khi thấy Peder chỉ lắc đầu, nói: “Không, nếu thế dân làng sẽ xì xào và bảo chúng ta làm giàu bằng cái trò lừa đảo.”
Vài hôm sau vào một buổi sáng Hans lại về nhà. “Cút đi trước khi mày lôi chúng tao vào những chuyện rắc rối,” người cha quát. “Đến bây giờ đồng tiền cũng rủng rỉnh nhưng tao chẳng dám tin có điều gì tốt đẹp.”
“Đừng lo lắng cha ạ. Ngày mai cha sẽ thấy một con ngựa đứng ngoài cổng. Cha hãy cưỡi nó đi ra chợ bán với giá 1000 bảng. Chỉ có điều cha đừng quên mang bộ yên cương về nhà sau khi bán ngựa.”
Và sáng hôm sau quả nhiên có một con ngựa ngoài cổng. Kirsten chưa hề thấy con ngựa nào đẹp đến thế. “Cẩn thận không nó làm ông bị thương đó Peder.” “Vớ vẩn, đàn bà thì biết gì,” ông già nổi cáu. “Khi còn trẻ tôi chẳng sống với lũ ngựa là gì, tôi chẳng đã cưỡi ngựa đi hơn 20 dặm hay sao?” Nhưng điều này không đúng đâu bởi vì ông chưa bao giờ ngồi trên lưng một con ngựa nào trong đời.
Tuy vậy, con ngựa rất thuần nên Peder có thể cưỡi nó ra chợ mà không có chuyện gì xảy ra. Ở đấy ông gặp một người trả giá đến 999 bảng nhưng Peder quyết không bán kém đi một chinh. Cuối cùng có một ông già râu bạc trắng đến gần ngắm nghía con vật và đồng ý mua với cái giá 1000 bảng. Nhưng ông già vừa đặt tay lên mình ngựa nó đã lồng lên, đá hậu. “Tôi phải lấy bộ yên cương lại. Tôi chỉ bán ngựa, không bán yên cương.”
“Tôi sẽ trả ông 100 bảng” ông già nói, móc hầu bao.
“Không, tôi không bán đâu.” Cha của Hans đáp.
“500 bảng thì sao?”
“Không.”
“Vậy 1000 bảng.”
Với cái giá này thì cả sự cứng rắn của Peder cũng phải chịu thua, chỉ có kẻ ngốc mới để mất đi một món tiền lớn như thế. Peder chấp nhận, nhưng ông khó mà cầm cương con ngựa, nó lồng lên dữ tợn. Thế là ông để mặc con ngựa cho người mua giải quyết mà về nhà với 2000 bảng.
Tất nhiên người vui sướng nhất là bà Kirsten và bà khăng khăng nói rằng cần phải tậu ngay một ngôi nhà mới cùng với đất đai. Lần này ông chồng bằng lòng và chẳng bao lâu họ đã có cả một nông trại khang trang.
Lại nói về ông già với con ngựa vừa mua. Ông ta đến một lò rèn yêu cầu người thợ rèn đóng móng cho con ngựa. Người thợ rèn gợi ý rằng trước hết họ nên uống với nhau một chầu đã và con ngựa được cột lại bên dòng suối trong lúc hai người vào trong nhà chén chú chén anh. Trời hôm ấy rất nóng, cả hai đều rất khát, ngoài ra họ có nhiều chuyện để trao đổi với nhau và nhiều giờ trôi qua mà họ vẫn còn sôi nổi trò chuyện. Một người hầu gái đi ra suối múc nước và vì là một cô gái tốt bụng, cô múc một xô nước cho con ngựa uống. Cô thật ngạc nhiên khi thấy con vật cất tiếng nói:
“Lấy bộ yên cương ra đi, như thế cô sẽ cứu sống tôi.”
“Ta không dám làm thế đâu, chủ ngươi sẽ nổi giận mất.”
“Ông ta không thể làm hại cô mà cô thì là ân nhân cứu mạng của tôi.”
Đến đây thì cô gái xiêu lòng, cô tháo bộ yên cương ra và suýt nữa xỉu vì kinh ngạc khi thấy con ngựa hóa thành một con bồ câu, vụt bay mất vừa đúng lúc ông già ra khỏi quán. Nhìn thấy thế ông ta hóa phép biến thành một con diều hâu, đuổi theo con bồ câu. Bay qua nhiều khu rừng và những cánh đồng, cuối cùng hai con chim bay đến khu vườn thượng uyển xinh đẹp bao quanh cung điện của nhà vua. Một nàng công chúa đang dạo chơi với các thị tỳ trong vườn hồng thì chim bồ câu hóa thành một chiếc nhẫn vàng rơi xuống chân nàng.
“Lạ chưa, có một cái nhẫn ở đây!” Công chúa kêu lên, “nó từ đâu mà lại rơi xuống đây nhỉ?” Nàng cúi xuống nhặt chiếc nhẫn lên lồng vào ngón tay. Việc làm đó đã tước hết quyền lực của lão chủ đối với Hans, bởi chính lão là một phù thủy và tất nhiên bạn cũng biết rằng chính Hans đã hóa thành con chó, con bò, con ngựa và bồ câu.
“Lạ thật,” công chúa nói. “Nó vừa khít vào ngón tay mình cứ như thể được đánh ra cho mình vậy.”
Vừa lúc đó vua cha đi đến.
“Phụ vương nhìn xem con tìm được cái gì này.”
“Ồ đó là một chiếc nhẫn tầm thường, với lại trẫm nghĩ con cũng có đủ nhẫn đeo tay rồi.”
“Nhưng mà con thích chiếc này,” công chúa đáp.
Khi công chúa còn lại một mình trong phòng, nàng quá sức ngạc nhiên khi chiếc nhẫn rơi khỏi ngón tay nàng biến thành một chàng trai. Bạn có thể hình dung là nàng sợ hãi như thế nào cũng như bạn cũng sẽ sợ hết hồn nếu ở vào hoàn cảnh ấy. Nhưng chỉ trong giây lát, chàng lại hóa thành chiếc nhẫn, rồi lại biến thành một người đàn ông vài lần cho đến khi nàng quen với sự biến hóa ấy.
“Tôi rất tiếc đã làm công chúa hoảng sợ,” Hans nói khi cậu cảm thấy có thể nói chuyện với nàng mà không làm nàng kêu thét lên. “Tôi đến nương tựa chỗ công chúa chỉ vì trốn chạy ông già râu bạc chả là tôi đã phạm lỗi không nhỏ với ông ấy. Ông ta đang tìm cách giết tôi, chỉ có ở đây tôi mới được an toàn.”
“Vậy thì chàng cứ ở lại đây,” công chúa nói. Từ đó hai người trở thành một đôi bạn tốt mặc dù tất nhiên Hans chỉ hiện hình người khi không có ai khác.
Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ cho đến một ngày họ đang ngồi tâm sự với nhau thì vua cha bước vào và dù Hans đã nhanh chóng biến thành chiếc nhẫn thì mọi việc cũng đã quá trễ.
Vua nổi trận lôi đình.
“Đó có phải là lí do khiến con từ chối tất cả những ông vua và các hoàng tử đến cầu hôn?” Vua kêu lên. Và không đợi nàng phân bua, vua đùng đùng ra lệnh bắt nhốt công chúa và người yêu của nàng trong cung Mùa Hè và để hai người chết vì đói.
Tối hôm ấy nàng công chúa đáng thương, vẫn với chiếc nhẫn đeo trên ngón tay đã bị giải đến cung Mùa Hè với số thức ăn chỉ đủ cho ba ngày, và cánh cửa ở đây bị bịt kín lại. Khoảng một hoặc hai tuần sau nhà vua nghĩ đã đến lúc làm một đám ma linh đình cho con gái dù cho cách cư xử của cô có làm vua mất mặt thế nào chăng nữa. Người ta phá bỏ bức tường bao quanh Cung Mùa Hè. Vua không thể tin vào mắt mình khi tìm đâu cũng không thấy công chúa cùng tình nhân. Thực ra họ nằm ngay dưới chân nhà vua trong một cái hầm đủ lớn cho hai người đi qua.
Vậy chuyện gì đã xảy ra?
Khi công chúa và Hans đã mất hết hi vọng, họ cùng nhảy lầu để chết bên nhau thì rơi đúng vào căn hầm dưới đất và cuối cùng họ tìm thấy mình ở trong một tòa lâu đài làm toàn bằng vàng ròng ở đầu kia thế giới. Họ sống ở đó thật vui vẻ. Nhưng điều này dĩ nhiên là vua không biết.
Bấy giờ đứng nhìn xuống con đường hầm, Vua hỏi: “Có ai đi xuống tìm hiểu xem con đường này dẫn đến đâu không?” Vua quay nhìn quân lính và triều thần. “Trẫm sẽ trọng thưởng cho kẻ nào đủ can đảm để khám phá ra điều đó.”
Mất một lúc lâu không có ai lên tiếng. Địa đạo tối đen, sâu hun hút và nếu nó dẫn đến chỗ nào đó thì cũng không ai thấy được. Cuối cùng một người lính vốn là một kẻ liều mạng tiến lên xin nhà vua được thử sức một phen và anh thận trọng dò từng bước trong bóng tối. Nhưng chỉ một lúc sau anh ta cứ rơi, rơi mãi. “Mình rơi xuống đâu đây?” Anh tự hỏi. Nhưng may mắn làm sao cuối cùng anh cũng xuống tòa lâu đài vàng gặp công chúa và Hans. Hai người trông rất khỏe mạnh chẳng có vẻ gì đói khát. Người lính thưa với họ là vua lấy làm ân hận vì đã xử tệ với con gái và đêm ngày mong ước ngài có thể gặp mặt con gái.
Thế là cả ba người lên một con tàu, giong buồm trở về nhà. Khi đến đất nước của công chúa, Hans cải trang thành một quốc vương của một nước láng giềng, một mình đến xin triều kiến đức vua. Chàng được đức vua, một người rất tự hào về lòng hiếu khách của mình tiếp đãi rất long trọng và tổ chức một bữa đại tiệc chào đón khách quý. Tối hôm ấy, trong lúc ngồi uống rượu với nhau, Hans nói với vua:
“Tiểu vương đã được nghe nói nhiều về sự anh minh của bệ hạ vì thế mà đường xa lặn lội đến đây xin thỉnh giáo ngài một việc. Có một người cha đã chôn sống con gái mình chỉ vì nàng đem lòng yêu một chàng nông dân. Tiểu vương phải xử lí người cha bất nhân ấy như thế nào, bởi vì tiểu vương có trách nhiệm phán xử.”
Đức vua vốn vẫn âm thầm đau khổ về chuyện con gái mình, nhanh nhảu đáp:
“Hãy thiêu sống hắn và đem tro rải đi khắp vương quốc.”
Hans quan sát đức vua hồi lâu rồi bỏ bộ đồ cải trang ra.
“Bệ hạ chính là người đàn ông đó còn thần là người yêu công chúa, cũng là chiếc nhẫn vàng mà công chúa đeo trên tay. Hiện nàng rất khỏe mạnh và đang đợi ở ngoài thành nhưng bệ hạ hãy tuyên bố phán quyết của mình.”
Nghe đến đây vua hạ mình cầu xin tha thứ và bởi vì ở tất cả những mặt khác, vua là một người cha tốt, hai người đã tha thứ cho ngài. Đám cưới của Hans với công chúa hết sức linh đình, tiệc cưới kéo dài đúng một tháng. Cả ông già sống trong núi cũng đến dự nhưng trên đường đến cung điện một hòn đá đã rơi trúng đầu làm ông ta chết ngay tại chỗ. Thế là Hans và công chúa có cả một chuỗi ngày dài bình yên, hạnh phúc. Khi đức vua qua đời, hai người lên nối ngôi trị vì thiên hạ.