Số lần đọc/download: 4352 / 180
Cập nhật: 2016-06-18 07:55:12 +0700
Chương 3
K
ẻng báo thức đã gầm-gừ. Cả Nhà thức giấc. Đèn phòng được thổi tắt. Các quan-viên thuốc lào rít điếu cầy xòng-xọc. Sinh-hoạt ồn-ào trong cầu-tiêu. Màn thuốc lào, đái ỉa buổi sáng coi như chào mừng một ngày lao-động khốn-nạn. Bên ngoài còn nhá-nhem và sương mù dầy đặc. Tù-nhân thu dọn chỗ nằm thật ngăn-nắp. Thuốc lào đã sang tua rít thứ mấy. Khối anh phê, đáp dài trên phi-đạo sàn. Phải phê. Không phê sẽ một ngày vô-nghĩa. Những tù-nhân mới tập hút thuốc lào, chưa dám kéo hơi dài. Thành thử, rít đến khi khói vô đẫy phổi mới lăn kềnh, mắt lim-dim, tim đập mạnh, thân thể lạnh giá, tay chân quơ cào. Thuốc lào mau say mà cũng mau tỉnh. Tù lao-cải gắn bó với thuốc lào y hệt tù nhà-lao gắn bó với ghẻ. Phi thuốc lào bất thành cải-tạo. Thuốc lào là cái gì mà ghê thế? Ca dao có câu:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên
Từ câu này, Nguyễn Tuân mới đặt cho thuốc lào cái tên thật văn-chương: Tương-tư-thảo. Nhưng tương-tư-thảo có vẻ Tầu quá. Mà Tầu không hút thuốc lào.Vậy gọi thuốc lào là cỏ nhớ. Miền Bắc hút thuốc lào trước khi hút thuốc lá, hút ống vố. Câu nhại lời bài Giải-phóng Miền Nam quy-định rõ-rệt sự hút của dân ta:
Miền Bắc hút thuốc lào, miền Trung hút thuốc rê, miền Nam thì hút Capstan, Con Mèo ….
Thuốc lào thượng-hảo hạng miền Bắc là thuốc lào Vĩnh Bảo. Cách gói và bán thuốc lào ở miền Bắc rất… cổ-truyền. Người bán thuốc lào gánh đôi khạp gỗ đậy nắp kín đến các chợ phiên. Một bên là thuốc đã gói sẵn vào cái bao giấy mầu có in nhãn-hiệu bằng con dấu khắc thô-sơ. Một bên là thuốc nguyên bánh và thuốc rời. Gói có hai loại, to và nhỏ. Thuốc rời bán lạng. Cũng có ba hạng thuốc: thượng-hảo-hạng, ngon nhất và ngon vừa phải. Người bán thuốc bầy thuốc trên nắp khạp, châm đèn và kê điếu bát. Khách hút thử thuốc rồi mua. Ở thị-xã người ta cũng bán theo cung cách ấy. Thuốc lào đem giống vô Nam ngon nhất là thuốc Cái Sắn, hút phê lăn cù mèo. Trước 1975, có các nhãn hiệu thuốc lào Say, thuốc lào 888. Về sau thuốc 888 nổi tiếng, bèn đẻ thêm thuốc lào 555, thuốc lào 999. Sau 1975. thuốc lào 888 giả hiệu đầy thị-trường.
Ông đây đã bỏ thuốc lào,
Thấy ba số 8 lại đào điếu lên
Câu thơ ảnh-hưởng ca-dao nặng-nề này in trên bao gói thuốc lào 888. Theo đà văn-minh lãng nhách, thuốc lào gói bằng bao ni lông, mất hết 99 phần 100 tính chất cổ-truyền dân-tộc.
Thuốc lào rất khó trồng. Nó kén đất và phân bón. Trồng, tỉa, bắt sâu thuốc, phơi, thái, ủ thuốc là một nghệ-thuật. Thuốc ngon nhờ giống, nhờ đúng thời-gian và nhờ bí-quyết riêng của người sản-xuất. Xin miễn bàn-luận về chuyên-môn. Thuốc đi với điếu. Điếu kêu ròn-rã nhờ cái guốc. Điếu tráp của các nhà quyền-quý thì khảm xà-cừ, xe điếu bằng cành trúc dài, đầu bịt bạc. Điếu bát của giới trung-lưu thì đặt trong chiếc bát cổ, đồ thông uốn bằng giây đồng tỉ-mỉ, của bình-dân thì đặt trong bát gỗ đơn-sơ. Điếu cầy của nông-dân thì làm bằng ống tre mật. Điếu tốt cần đóm tốt. Đóm bị tắt ngang xương, điếu thuốc vô vị. Thường, người ta chẻ tre thật mỏng, ngâm nước rồi phơi khô đóm cháy bền. Những tay chơi đóm, chặt luôn cây đu-đủ đã sinh trái, liệng xuống ao. Thân cây đu-đủ chìm dưới bùn và bị “cháy ngầm”. Chừng nó nổi lềnh-bềnh, vớt lên phơi nắng cho khô. Rồi tước ra. Thế là có đóm tuyệt-diệu, bảo-đảm hút cú đúp, đóm vẫn cháy, chấp gió thổi mạnh. Điếu và đóm cộng lại thành một thành-ngữ ám chỉ bọn hầu-hạ. Nhà quyền-quý bẻ cong cái xe điếu trúc. Gã bưng điếu hiểu ý ngay. Bèn vo dúm cỏ nhớ đặt thật khéo trên miệng nó. Gã khác châm đóm. Ông chủ hít một hơi, chiêu ngụm trà tầu, nhả khói đê-mê. Sau này có điếu đóm chính-trị bỉ-ổi hơn điếu đóm thuốc lào.
Nước điếu của những tay chơi thuốc lào cũng công-phu lắm. Có ông dùng nước mưa kinh-niên. Có ông lại sắc nước cam-thảo. Nước đổ vào bình phải chạm đúng mức nào của guốc điếu. Ôi, lỉnh-kỉnh lắm. Thuở nhỏ, tôi sợ nhất cái xe điếu bằng song. Bị quất xe điếu vào mông là lươn nổi ba ngày. Điếu đóm ngoài đời nếu luận tới mức, phải viết hai chục trang sách.
Tôi nói về điếu đóm nhà tù. Cái thứ điếu “poọc-ta-típ” to bằng gói thuốc, chế-tạo bằng plastic, ống nhựa ngắn chút xíu, hút chỉ tổ phí thuốc. Tù-nhân đề lao Gia Định gửi mua khá nhiều. Đóm nhà tù là diêm Samasa… quốc-doanh, quẹt 3 cây cháy l; là giấy gói mì Con Cua, mì Ba Con Tôm. Những tù-nhân điệu-nghệ sáng-tạo điếu bát đặc biệt. Cái can nhựa chứa nửa lít tầu-vị-yểu là bình. Vỏ kem đánh răng Hynos gò làm guốc điếu. Ống nhựa bọc giây kẽm quai xô nhựa rút ra làm xe điếu. Nước nhiều thì khói dịu, vô tận phổi mới đã. Tiếng điếu kêu xòng-xọc nặng âm-điệu tù đầy. Tù-nhân cải-tạo không chơi điếu can nhựa tầm-thường. Điếu cầy là nguồn thác cách-mạng thứ tư sau ba nguồn thác cách-mạng văn-hóa, nông-nghiệp, khoa-học kỹ-thuật. Vậy tù-nhân lấy điếu cầy làm “sự-nghiệp vĩ -đại sống mãi” với thuốc lào cải-tạo.
Nông-dân miền Bắc không cầu-kỳ lắm về hình-thức cái điếu cầy. Chỉ cần cái nõ điếu cho kêu thôi. Điếu cầy của nông-dân vạt nhọn phía dưới. Để tiện cắm xuống bờ ruộng. Nhà quê Bắc-kỳ nghèo, chẳng có diêm, bật lửa. Vậy phải bện bùi-nhùi rơm mang theo với đóm. Nông-dân hút ra sao? Vê thuốc nhét kín miệng nõ, thổi bùi-nhùi, châm lửa. Bập bập ba cái, đưa ngón tay nhấn chặt thuốc rồi kéo một hơi dài đến trôi tuốt cả tàn vào nước. Rồi thổi phụt cho nước điếu bắn ra một vòi ngắn. Rồi kéo tiếp để nghe tiếng điếu ròn-rã. Rồi mới nhả khói. Cao-thủ điếu cầy phải hút như thế. Sáng sớm tinh mơ chưa ăn gì, hút một điếu Vĩnh Bảo thượng-hảo-hạng kiểu cao-thủ điếu cầy, chỉ có té bật ngửa “mắt lim dim, tim đập mạnh, lạnh tứ-chi, sùi bọt mép”… Tù-nhân cải-tạo khối người đạt chỉ-tiêu hút cao-thủ điếu cày. Hút điếu cầy phải hút ngoài bãi mới tự-do phụt nước điếu. Điếu cầy đẹp nhất, công-phu nhất là điếu cầy của sĩ-quan cải-tạo ở Sơn La đem về. Ống tre dài, nõ điếu bằng đá mài, khoét tài tình. Nhưng chiếc điếu cầy cải-tạo đi vào lịch-sử điếu cầy dân-tộc là điếu cầy của tù-nhân Lê văn Minh tự Minh-suyễn.
Minh-suyễn, con trai ông chủ hàng bánh ngọt nổi tiếng đường Nguyễn Thiệp, Sài gòn 1, đi làm phản-động trong tổ-chức Binh-đoàn Lê văn Duyệt. Tổ chức này do Mai Chí Thọ nặn ra cùng 51 tổ chức khác. Mục đích của Thọ là giăng lưới bắt hết những người yêu nước chống cộng. Minh-suyễn sa bẫy luật-sư nằm vùng Đỗ Hữu Cảnh, bí-danh Ba Sơn 1. Minh-suyễn bị suyễn nặng, thường xuyên có 4 cái bình xịt tối tân Huê kỳ, xịt hết thuốc là vất đi mà khoái hút thuốc lào… phê. Anh ta thửa cái điều cầy trị giá 10 gói mì Con Cua, thuê một tù-nhân lâm sản tìm ống tre dài, bóng. Minh-suyễn nhờ Đằng Giao vẽ thiếu-nữ khỏa thân, tóc xõa, chân và tay bị trói chặt quanh ống điếu. Hai trái đào tiên căng nổi. Cái hoa quý của thiếu nữ, đúng cái ái ân huyệt đó, Minh-suyễn dùi lỗ để…cắm nõ. Anh ta tô mực xanh lên những nét khắc của Đằng Giao. Điếu cầy của Minh-suyễn nổi tiếng, ai cũng xin hút một điếu. Cuối cùng, điếu cầy của Minh-suyễn bị tịch thu, Minh-suyễn bị làm tự kiểm nhận tội tuyên-truyền văn-hóa đồi-trụy. Điếu cầy ấy về sau, cán-bộ giáo-dục giữ làm của riêng.
Tiếng điếu cầy rít liên tục làm sinh-động buổi sáng ở Nhà 1 của tôi. Tôi đã hiểu sự cần-thiết của thuốc lào. Có lẽ tôi sẽ tập hút thuốc lào. Trật tự Hoa-nẫu đã mở cửa. Chúng tôi ùa ra hít khí trời giây lát rồi ngồi xếp hàng như chiều qua. Đội trưởng Đội 3 rau xanh đã cho tôi biết trước đội của anh ta có 2 người bệnh nặng không thể ra điểm danh. Tôi cần nói thêm: Mỗi thư-ký đội được cấp dầu thắp đèn cá-nhân cho mỗi sáng đội-viên của mình khai bệnh và mỗi tối thứ sáu họp đội. Bệnh nhân được nghỉ lao-động hay phải đi lao-động là do quyết định của Y-tế. Y tế của Sa Ác B do một y tá 2 tù-nhân đảm-trách dưới quyền chỉ-huy của một cán-bộ y-tế mà trình-độ là biết phát thuốc…Xuyên Tâm Liên! Sa Ác B chưa có bệnh-xá, chưa có cả phòng y-tế. Y-tá làm việc ngoài sân, trước giờ tập họp lao-động. Y-tá can tội hình sự rất dễ-dãi nhưng e-dè. Anh ta không dám cho tù-nhân nằm nhà nhiều. Bởi vậy, có xổ số bệnh nặng! Tù-nhân bệnh nặng thật sự có khi, đi ra ngoài lồng cầu. Tù-nhân cảm xoàng lại trúng số độc-đắc. Tôi đã trải qua ba nhà tù. Cả ba nơi, tù-nhân đều không được chích thuốc ngừa các thứ dịch hạch, dịch tả, thương-hàn, phong đòn gánh, đau màng óc… Ở trại tập- trung cũng vậy. Tôi nghĩ, Bộ chính-trị trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam quan-niệm rằng, chỉ có một thứ vi-trùng chế ngự tất cả vi-trùng là vi-trùng cải-tạo. Đã được tiêm “vác-xanh” cải-tạo, kể như miễn dịch.
Cán-bộ trực trại đã tới.
-Anh em chú ý… Im lặng! Báo-cáo cán-bộ. Nhà 1 tổng-số 150, 2 bệnh nặng nằm trong nhà, hiện diện l48 đủ, chờ lệnh cán-bộ.
Trật-tự-viên Hoa-nẫu chạy vô nhà, la lối:
- Ai nằm trong lên tiếng?
Hai bệnh-nhân lên tiếng. Hoa-nẫu chạy ra báo-cáo:
- Thưa cán-bộ, hai đau nặng.
Trực trại đã đếm xong tù-nhân, hất đầu:
- Cho tập thể-dục.
Tôi đáp:
- Rõ.
Thế là tôi, Nhà trưởng kiêm thêm chức-vụ huấn-luyện-viên thể-dục, điều-khiển cả Nhà vừa chạy tại chỗ vừa hét “một hai ba bốn” và vài động-tác vớ-vẩn. Những ông già được miễn thể-dục. Màn thể-dục… tù chấm dứt, Tổ trực của đội lo cơm sáng và nước sôi. Anh em khác đánh răng, rửa mặt. Cơm sáng đúng nghĩa là cơm lót dạ, một chén bo-bo nhỏ. Bo-bo nhập-cảng từ Ấn độ. Có người bảo bo-bo là lúa miến. Con gái tôi viết thư cho tôi: “Bố ạ, nhờ giải-phóng con biết nhiều địa-danh mà những bài học địa-lý đã không dạy. Thí dụ: Kàtum, Trảng Lớn, Vườn Đào, Bà Tô, Bù Nho, Sa Ác, Gia Trung… Con cũng biết thêm nhiều thực-phẩm như gạo Đại Mễ 3, bo-bo, sắn lát là những thức ăn ngon lạ hơn gạo nàng Thơm chợ Đào”…
Bo-bo, tôi đã thưởng-thức ở Chí Hòa. Sau những ngày ăn bột mì luộc là những tháng, những năm bo-bo. Bo-bo từ nhà tù ra trại cải-tạo. Bo-bo mầu như mầu gạo lức rất dẻo và dai. Muốn thực hiện cách-ngôn “Ăn có nhai, nói có nghĩ” thì nên ăn bo-bo. Các nhà tư-tưởng cần ăn bo-bo vì phải nhai thật lâu mới nuốt nổi. Các nhà lãnh-tụ kháng-chiến Hamburger cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những trò lạc-quyên bịp-bợm. Các nhà văn, nhà báo di-tản trước 1975 cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những bài viết chụp mũ a-dua bôi bẩn thiên-hạ và đố-kỵ hèn-mọn. Bo-bo có thể ăn 6 bữa 1 ngày. Vì ăn đầy ca vừa uống nước xỉa răng xong là đã tiêu hóa 3 phần 4 ca bo-bo. Bo-bo hỗ trợ chính sách cải-tạo của nhà nước cộng-sản. Phải rửa ruột trước khi rửa óc. Bo-bo có mày rất sắc cạnh và rất “kiên trì”. Nó mà dính kẽ răng thì “bám chốt”, thì “nằm vùng” kỹ lắm. Tăm tre mới trục xuất nổi mày bo-bo. Tăm gỗ ba Tầu bất lực. Mày bo-bo cơ hồ ám-khí phóng ngập hàm, lợi. Thò hai ngón tay nhổ nó ra, máu ra theo. Mỗi cái mày bo-bo là một giọt máu. Mỗi bữa bo-bo thường bị vài cái máy cắm sâu vô lợi. Máu đó nhắc nhở miếng ăn tù đầy nhục-nhằn. Máu đó làm khôn lớn những ai biết suy-tư trong thống-khổ. Những kẻ học đòi cạp Hamburger, Macdonald từ 29-4-1975 chưa được ăn bo-bo, không bị ăn bo-bo – chẳng dám ăn bo-bo, nên không thấy thảm-cảnh mày bo-bo đòi máu tù-nhân. Và họ thản-nhiên. Rất bình thường. Những những kẻ tự nhận là nhà văn, là kỹ-sư của linh hồn, hơn cả thản-nhiên trước một rung-động làm nên văn-chương, tư-tưởng đã vận-dụng ngòi bút cắm sâu những cái mày bo-bo vào lợi của tù-nhân đồng-nghiệp của họ. Bằng bình-phẩm và bằng vu-khống đê-tiện những gì mình không nhìn thấy. Đôi khi, cũng có “nhà văn” có cơ-hội ăn bo-bo. Tiếc rằng, thay vì ăn bo-bo để khôn lớn, để sáng-suốt, để biết thù-hận đúng chỗ, ông ta lại chỉ “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cháy, ăn tranh phần cơm heo” nên ông ta đã tự đồng hóa với đồ ăn cắp, tự xếp hàng với súc vật. Vì ông ta còn là “nhà vẽ” nên ông ta đã vẽ một bức tranh đầy mầu vàng của phân. Mầu vàng này đã trùm lên sự thật. Và đó là lập-thể. Rốt cuộc sự-nghiệp vẽ của ông ta là những bức chân-dung Hồ Chí Minh “vĩ-đại”, và sự-nghiệp văn-học nghệ-thuật của ông ta – ông này thích văn-học nghệ thuật lắm – rực rỡ nhất ở bài nhận vơ làm “biệt-kích văn-nghệ”. Chưa thấy nhà văn nào viết bài báo tồi đến thế. Tư-tưởng thì rặt “phân tiểu”, hành văn thì câu bất thành cú, chấm than thì bỏ bừa bải, lập-luận thì dựa…tin đồn. Đó là tại ham “ăn vụng thịt, ăn cắp cháy cơm” mà chê ăn bo-bo. Người như vậy, tôi nghĩ, nên thắt cổ tự tử, vì sống vô-tích-sự. Sống bám welfare nhà nước Mỹ đã nhục, bám welfare mà chẳng sáng-tạo nổi một truyện ngắn sạch nước cản nào, càng nhục. Rõ là ký-sinh-trùng, là sán sơ-mít trong ruột Mỹ! Thánh-kinh, theo Matthew, Chúa Jésus dạy: “Cây tốt sinh trái tốt. Cây xấu sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu. Cây xấu cũng không thể sinh được trái tốt”. Một nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp, ăn vụng, ăn tranh phần khoai và cơmcháy của heo” không thể làm nổi những việc gì tốt đẹp. Chúa là chân-lý. Ngài đã phán xét đúng.
Nhưng làm sao hạng người có huyết thống “ăn vụng thịt, ăn cắp cơm cháy” dám ăn bo-bo? Bo-bo nó vào dạ-dầy nó cũng phóng mày bám chặt lấy dạ-dầy. Do đó, tù-nhân cải-tạo đa số đau răng và đau bao-tử. Dạ-dầy là cái máy nghiền nát các loại thức ăn. Vậy mà không nghiền nát được mày bo-bo. Bo-bo tiêu hóa, chất bã đem theo mày bo-bo ra ngoài. Đội 17 rau xanh của tôi, sau này, phải làm một cái cầu-tiêu “dã-chiến” để Đội phát quang có chỗ đại-tiện. Chúng tôi cần phân bón rau. Tôi đã quan-sát cái cầu-tiêu chưa kịp “tiếp thu” phân sau ba ngày “hành quân” ngang qua của Đội phát quang. Toàn bộ phân bị đế quốc Bọ Hung thôn-tính hết. Một đống mày bo-bo còn nguyên. Bọ hung cũng không dám ngốn mày bo-bo. Vậy mà tù-nhân cải-tạo đã nuốt mày bo-bo vào dạ-dầy! Tôi không hiểu các “sử gia” nghiên-cứu lịch-sử hiện-đại Việt Nam có chịu nghiên-cứu mày bo-bo để viết những trang lầm-than của dân-tộc. Xin lưu ý các “tiến-sĩ, sử gia” bỏ chạy trước 30-4-1975: Cả nước Việt Nam đã bị ăn bo-bo suốt hai năm 1979 và 1980. Riêng tù-nhân, ăn bo-bo từ 1979 đến…hôm nay. (khi tôi viết trang này là 1987).
Bình, cóng đựng nước và ca, bát đựng bo-bo bầy hai chỗ. Đội nào chia cơm nước đội ấy. Nhà bếp cấp-phát nước mỗi ngày ba lần, sáng và trưa, trước giờ đi lao-động, và chiều. Ngoài bãi lao-động, đội có người đặc-trách nấu nước sôi cấp riêng để uống lúc giải-lao. Lưng ca bo-bo, tù-nhân ăn lót dạ và lao-động 4 tiếng, giải-lao 15 phút. Không có cà-phê, dù cà-phê cá-nhân. Ở Sa Ác B, người ta bắt chúng tôi “quân-sự-hóa” mọi việc.
Quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương
Vượt nắng, thắng mưa, đạt chỉ-tiêu lao-động sản-xuất
Hai khẩu hiệu này chưa đủ thấm-thía kiếp người lao-cải. Bạn đọc thêm hai khẩu hiệu nữa.
Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm
Vượt cờ xanh, giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng, thắng cờ vàng
Cái gọi là học-tập lao-động cải-tạo tư-tưởng của chúng tôi nằm trong bốn khẩu hiệu oan nghiệt đó. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Nghe mà ngậm-ngùi, mà phẫn-nộ. Tôi chợt hiểu vì sao Nhân-văn giai-phẩm đã tư-tưởng dấy động, đã chủ-nghĩa xung-kích. Thời của văn-chương viễn mơ, của văn-chương chẻ sợi tóc làm tám, của tùy-bút miêu-tả cách ăn, lối mặc, kiểu uống đã đóng băng.Ở bài Những tín-hiệu sáng-tạo giới-thiệu thi-phẩm Đời bỗng dư thừa của Hà Huyền Chi, tôi đã viết như sau:
“Quê hương câm nín đang réo gọi những lên tiếng cần-thiết của văn-chương, của thi-ca, của âm-nhạc, của tư-tưởng lưu đầy. Nỗi réo gọi bi thương ấy, cơ hồ, đã chìm vào cái hoang-vu ngậm-ngùi của chữ nghĩa. Đó đây, chỉ còn là tiếng thở dài áo-não của hồi-tưởng, chỉ còn là những lượm nhặt bụi nắng hoàng-hôn của dĩ-vãng. Không-khí và thời-tiết xứ người, xem chừng, hết thích-hợp với người cầm bút đã có hào-quang hai mươi năm phồn-vinh văn-học miền Nam. Chúng ta đầy đủ tự-do để viết. Nhưng chúng ta chóng quên niềm bất-hạnh, lười biếng truy-nã thân-phận mình, thân-phận dân-tộc mình. Nên sáng-tạo hiu-hắt. Thỉnh thoảng, cũng vài lên tiếng ném vào sự ồn-ào chạy đua leo dốc vật-chất. Thì lại là tiếng nói chết hay tiếng nói bêu riếu chữ nghĩa. Của những kẻ tự nhận mình đứng hàng đầu, thống-lĩnh ngọn núi này, chặn lấp cửa biển kia. Rốt cuộc, mươi năm mất nước, văn-nghệ sáng giá và văn nghệ dẫn lối đã biến thành những ngọn hải-đăng mù. Và thành-tích ô-nhục của nó là “áo thụng vái nhau” và “áo thụng tự vái”. Mọi vinh-quang sáng-tạo dành hết cho những người cầm bút trẻ dẫu chưa điêu-luyện và dẫu bị nhấn chìm tội nghiệp. Hà Huyền Chi thoát bung ra cái nghĩa-địa văn-nghệ biệt xứ. Anh không thích đào mộ chôn mình hoặc để người khác đào mộ chôn mình. Hà Huyền Chi làm thơ, làm thơ và làm thơ… Thơ của anh không bị đồng hóa với
thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
thơ văn cột rỗng
lớp son mầu-mè tỉa-tót công-phu
thứ thơ văn tửu hậu trà dư
thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
thơ văn nằm khi bạo-lực diễn-hành
thơ văn tô móng tay khi dân-tộc đói nhăn răng
thơ văn nhẫy-nhụa môi son vênh-vang trưng diện.
Thơ Độc Ngữ
Hà Huyền Chi ngậm thống-khổ của dân-tộc anh, của chiến-hữu anh, của bằng-hữu anh, của bản-thân anh. Anh đã biết khôn lớn từ kinh-qua thống-khổ, từ phù-ảo sau cơn lốc nghiệt-ngã 30-4-1975. Thống-khổ tạo ra lửa. Lửa rực thơ anh. Lửa bập bùng. Lửa thắp sáng những bùi-ngùi những xao-xuyến, những rung động nguyên khối. Lửa thiêng Hà Huyền Chi khác hẳn lửa thiêng Huy Cận. Lửa thiêng Hà Huyền Chi soi tỏ một nhận đường trong mù khơi tuyệt-vọng. Lửa ấy rạng-rỡ một bóng tối dầy đặc u-mê. Nó gợi ý một thành-khẩn trả lời cho bất cứ ai tha-phương cầu-thực ở thời-đại khốn khó hôm nay: Tôi là ai, đang ở đâu, làm gì? Khi người ta trả lời câu hỏi này với cả tâm-hồn người ta, mọi dấu tích ô-nhục ở mọi lãnh-vực sẽ được xóa sạch và sẽ chẳng bao giờ còn dấu tích ô-nhục mới. Người Việt Nam sẽ thương yêu nhau bằng tình-nghĩa Việt Nam. Không còn ai bần-tiện nữa.
Đừng tranh-chấp nghệ-thuật-vị nghệ-thuật hay nghệ-thuật-vị-nhân-sinh. Văn-học, văn-hóa và văn-hiến Việt Nam vĩnh cửu. Chớ dối gạt nhau sợ hãi nó mất mà bảo-tồn theo cung-cách ăn cắp hay chọc mắt mù để khỏi nhìn thời-đại mình mà luận về miếng ăn, miếng uống, manh áo, manh quần, cách ăn, lối mặc. Tất cả sẽ chỉ chứa-chan ý-nghĩa nếu chúng ta giải-thoát được dân-tộc để còn có tổ-quốc và quê hương”.
Theo tôi, những tác-phẩm trước 1975 của Sài gòn, những tác-phẩm gọi là tiền-chiến cũ mèm hết hơi thở, những văn-học-sử quá sớm, những ký-sự khuôn mặt văn-nghệ mọi người đều biết, những tùy-bút thu góp tái-bản bừa bãi, xuất-bản lai rai, chỉ là hồi trống thu không báo hiệu một hoàng-hôn tím lạnh. Nó chẳng có tác-động gì ở thời-đại mê sảng, thời-đại của bọn phu đào huyệt. Nó không thể bắt câm họng những con chó điên tru-tréo bạo-lực và hình-phạt thù-hận. Chẳng còn gì trơ-trẽn hơn phải đọc một tùy-bút uống trà tầu khi mình biết chính-xác hàng trăm ngàn tù-nhân cải-tạo uống nước chùm-bao, nước hà-thủ-ô. Và, ở những trại tị-nạn, đồng-bào mình uống trà cám bằng lon coca cola mài nhẵn nắp. Nhà văn có thể rửng-rưng với chập-chùng thống-khổ của thời-đại mình, của dân-tộc mình đến thế ư?
Người ta đã chê tôi viết những tiểu-thuyết thoát-ly rung cảm cũ. Người ta muốn tôi như Hoa thiên-lý, như Cầu mơ… Người ta cứ chê và tôi nhất-định không trở lại kỷ-niệm cũ. Bởi vì, tôi đã ăn bo-bo. Bo-bo là cảm-hứng mới của tôi. Bo-bo là biểu-tượng nhục-nhằn của dân-tộc tôi. Đó là trái cô-đơn tôi tình-nguyện ngậm suốt quãng đời văn-chương còn lại. Có lẽ, nên dạy ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” một bài học về trái cô-đơn khi ông ta hỏi: “trái cô-đơn hay là trái cật?” một cách ngu-xuẩn. Tôi nghĩ chả nên dạy ông ta. Một nhà văn “ăn vụng thịt”, ngậm miếng thịt đầy họng thì sẽ chỉ tưởng-tượng trái cô-đơn là miếng thịt “ăn vụng”. Và, vì ở trại cải-tạo, những ngày lễ lớn tù-nhân được ăn thịt lợn nhưng không được ăn lòng lợn nên ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” cứ mơ-ước “ăn cắp” một trái cật mà ngậm! Trái cô-đơn, dễ gì ai cũng hái được để ngậm. Ít ra, người ta phải kinh-qua 40 ngày đêm tự khai rã rượi linh-hồn, phờ-phạc thể-xác; người ta phải nghe báo-cáo chết-chóc ở Chí Hoà; người ta phải khiêng bom chưa kịp nổ, lấp hố bom đã nổ; người ta phải nhìn rõ cái sinh-động quán rượu văn-học nghệ-thuật Hamburger viết bằng mõm, đôi khi, viết theo cung-cách gầm-gừ của bầy chó câm. Và nữa, người ta nghe rõ tiếng sủa thô-bỉ của các lãnh-tụ Mặt-trận chửi bới lẫn nhau vì tiền lạc-quyên “giải-phóng dân-tộc” chia-chác không đồng đều. Còn nhiều lắm…
Chia bo-bo, nước sôi xong, các đội cũ khẩn-trương nhai, khẩn-trương nuốt và khẩn-trương tập-họp chuẩn-bị lao-động. Hai đội mới ở lại. Khoảng nửa giờ sau, hai ông thầy quản-giáo đến nhận học-trò mới. Thầy của Đội 17 rau xanh là Để, thầy của Đội 21 nông-nghiệp là Bản. Thầy Để mang quân-hàm thượng-sĩ, thầy Bản hạ-sĩ. Thầy Để phát cho mỗi tù-nhân một tờ giấy, bảo khai lý-lịch. Lại lý-lịch! Thầy muốn nắm thật vững đội. Thầy giao nhiệm-vu cho tôi gom hết lý-lịch của đội, kiểm-soát lại rồi góp “bài” cho thầy, khi thầy hỏi. Nhờ vậy, tôi cũng “nắm” đội. Đội của tôi có 50 người thì 44 người sinh-quán và hộ-khẩu thường-trú ở Bình Chánh, đa-số là nông-dân, vài người đã đi lính, đã làm cảnh-sát, thợ nhà in. Tất cả đều trẻ, từ ông Quản già, đều can tội phản-động chung một vụ.
Ban giám-thị chọn lựa dân làm rẫy vào đội rau xanh là sáng-suốt. 44 tù-nhân phản-động Bình Chánh có cha con ông Quản (người con tên Học), ba anh em ruột thằng Lợi, hai anh em ruột thằng Huỳnh được kể như “đoàn-tụ gia-đình” trong một đội. Sáu người không thuộc thành-phần nông-dân còn lại là:
1- Phạm Kim Sơn. Anh này ở BC Chí Hoà khoe rằng anh là hải-quân Trung-úy, trốn trình-diện học-tập, đi làm phản-động và bị bắt trong một trận đánh. Lý-lịch anh ta khai với quản-giáo Để thì anh là Trung-sĩ, can tội vượt biên.
2- Trần Quang Thạch. Anh này lớn tuổi, khai là y-sĩ thiếu-tá bị đuổi khỏi quân-đội VNCH, can tội lý-lịch mơ-hồ, nhà ở đường Công Lý gần trường Marie Curie.
3- Đặng Hoàng Hà. Can tội phản-động hiện-hành.
4- Nguyễn Trường Thanh, giáo viên. Can tội phản-động hiện-hành, tính nết bất-thường.
5- Lê Văn Hoán, lớn tuổi, can tội phản-động hiện-hành, bố vợ của Thanh.
Và… tôi.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao nhiều “hào-kiệt” hơn. Trung sĩ Phạm Kim Sơn thích tỏ ra …trí-thức và ưa lý-luận. Anh ta còn trẻ lại ham nói những điều mình chưa hề biết. Trần Quang Thạnh nghệ-sĩ lắm, đàn nguyệt tà-tình, từng là tình-nhân của Út Bạch Lan, vui tính và cởi mở. Đặng Hoàng Hà, em ruột Đặng Hải Sơn, giao-du với Phạm Kim Sơn là một cặp.
44 người Bình Chánh hiền-lành. Chỉ có 2 làm phản-động thật sự, còn bị tình-nghi. Đảng CSVN thực thi châm-ngôn:”Giết oan hơn tha lầm”. Và họ đã nâng tỷ-lệ tù chính-trị lên mức kỷ-lục.
Chúng tôi làm quen nhau, trao đổi chuyện gia-đình….
° ° °
Hôm sau, chúng tôi vào lao-động. Tập họp ở sân trại với các đội cũ, tôi mở to mắt nhìn khẩu-hiệu Lao-động là vinh-quang treo cao trên cổng trại. Đằng sau cái bảng gỗ, phía bên ngoài, bạn đã biết rồi, danh-ngôn Hồ chủ-tịch Không có gì quý hơn độc-lập, tự-do. Khi bước vào Sa Ác, bạn được nhắc-nhở lời Bác “Không có gì quý hơn độc-lập, tự-do”. Định-nghĩa của danh-ngôn Hồ chủ-tịch là căn nhà, cái cầu-tiêu, hai ngọn đèn và những câu báo-cáo đi đái, đi ỉa. Và cửa nhà tù khép lại, chặn then và khoá kỹ. Sự mỉa mai không dành cho chúng ta. Nếu biết suy-luận, danh-ngôn Hồ chủ-tịch ngoài cổng nhà tù là ý-chí chiến đấu của ta. Phải, không có gì quý hơn độc-lập, tự-do; không có gì quý hơn tự-do khi ta vào tù, khi dân-tộc ta mất nó. Không biết suy-luận thì bạn sẽ cặm-cụi vẽ chân-dung Hồ Chí Minh, sẽ “ăn cắp cháy, ăn vụng thịt” như ông nhà… văn-học nghệ-thuật Tạ Tỵ. Lao-động là vinh-quang. Để xem, vinh-quang của chúng tôi nó ra sao.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao xuất trại đầu tiên. Tổng-thư-ký nhật-báo Sống, cha đẻ của hai nhân-vật hí-hoạ Hách-xì-xăng và thằng Ngọng, biểu-diễn báo-cáo.
- Chú ý. Đứng dậy. Nón mũ dở ra cầm tay phải lật ngửa. Ca-cóng cầm tay trái. Hai hàng dọc nhìn đằng trước …thẳng. Thôi.
Đằng Giao xoay người, ngẩng mặt ngó về phía điếm gác:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng-số 50, lao-động 50, hiện diện đủ, chờ lệnh cán-bộ.
- Cho đi.
- Rõ.
Quân-sự-hoá mà. Ra khỏi cổng mới được đội nón mũ. Văn-hào Nguyễn Mạnh Côn le te theo sau, bị gỡ luôn kính cận khi qua điếm gác. Tác-giả Hoà-bình, nghĩ gì làm gì? đã được trả lời câu hỏi dầy ngót 500 trang sách.
Đến lượt đội của tôi xuất trại. Đội-trưởng đi sau cùng. Tôi thấy trực-trại Hưng đếm tù và kiểm-soát ca-cóng tù mang theo. Trực-trại có…trực-giác công-an. Hắn mà bắt đội nào dừng lại, y rằng phát-giác được tù-nhân bỏ gạo vào cóng hay nhét áo không đóng dấu trong xô. Tù-nhân này sẽ bị hạch hỏi gạo và áo không đóng đấu âm-mưu gì? Thường là âm-mưu trốn trại. Trốn trại có nhiều cách. Hoặc đêm khuya khoét tường vượt ngục. Hoặc đợi một đêm mưa tầm-tã dỡ mái tôn đào-tẩu. Hoặc ra đi ngay ở bãi lao-động. Cách đi này, muốn chắc ăn, phải chuẩn-bị kỹ-lưỡng. Nghĩa là tìm chỗ dấu quần áo, thực-phẩm ngoài bãi. Mỗi ngày đem theo một chút. Trại nào cũng đóng dấu lên hết quần áo của tù-nhân, bất kể quần áo lao-động hay quần áo… để diện khi về, quần áo trại phát hay quần áo gia-đình gửi. Dấu của Sa Ác mang bí-số hòm thư TH6, chiều ngang 8 phân, chiều dài 20 phân. Dấu đóng ở lưng áo hai cái, ngực áo hai cái; ở quần bốn cái, bằng thứ mực xà-phòng giặt không phai. Tù-nhân nào bỏ sót quần áo không chịu đóng đấu, trực trại khám hành-lý, sẽ bị làm kiểm-điểm và bị “đánh dấu” có âm-mưu trốn trại. Muốn vượt ngục thành-công, cần có bộ quần áo không bị đóng dấu và thực-phẩm đề-phòng lạc trong rừng vài hôm. TH6 B chưa hề có tù-nhân nào trốn trại.
Quản-giáp Để đợi chúng tôi ngoài cổng trại. Ông thầy dẫn chúng tôi tới hiện-trường lao-động. Hai vệ-binh canh gác chúng tôi. Ở trại lao-cải, thằng công-an nào cũng có thể “giáo-dục” tù-nhân. Vậy chúng nó là thầy hết trọi. Hiện-trường lao-động của chúng tôi sát khít cơ-quan và cách bờ sông Ray 30 thước. Đó là khoảng đất có nhiều cây cháy vì bom lửa và năm bẩy hố bom lớn, sâu trũng. Cỏ gai và cỏ nhỏ chằng-chịt. Chúng tôi sẽ trồng rau ở đây. Thầy Để gom 50 tờ khai lý-lịch, thầy gọi riêng từng tù-nhân “làm việc” rất khẩn-trương rồi thầy chọn 10 người đi lấy dao, cuốc, xẻng, búa chim, xe. Xe là miếng tôn rỉ sét, hai mép dọc bọc lấy hai khúc cây dài, đóng đinh cho khỏi tuột, dùng để khiêng đất. Còn là tre đan khổ miếng tôn, luồn qua hai khúc cây. Và cộng-sản gọi rằng “cái xe”! Chúng tôi phải phát quang và làm phẳng phiu khu đất này rồi mới vỡ đất, lên luống trồng rrau.
Tôi quên chưa kể chi-tiết này: Ra tới hiện-trường lao-động, đội phải tập-họp “hai hàng dọc, nhìn đằng trước thẳng, nghiêm” để Đội-trưởng báo-cáo với vệ-binh.
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh tập-họp đủ 50, chờ lệnh cán-bộ.
Vệ-binh sẽ phán:
- Cho phép lao-động.
Bấy giờ tù-nhân mới cất ca-cóng, cởi quần áo, mình trần xà-lỏn “đóng góp cho sự phồn-vinh của tổ-quốc”. Sau mỗi buổi tan lao, Đội-trưởng tập-họp đội, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho phép đi tắm. Tắm xong, Đội-trưởng tập-họp đội, đếm đủ người, báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho về trại. Vệ-binh đứng canh cho đến khi đội nhập trại. Đội-trưởng miễn lao-động chân tay nhưng lao-động… mắt. Cứ khoảng 20 phút lại đếm tù và đứng cách vệ-binh 3 thước báo-cáo quân-số đang lao-động. Tù-nhân trốn trại, Đội-trưởng lãnh búa tạ. Đi cải-tạo, bị chỉ-định làm Đội-trưởng là ôm tai-hoạ chưa hiểu ngày nào nó giáng xuống số-phận mình. Vệ-binh không thể đứng 8 tiếng đồng-hồ, lại không thích ngồi dưới gốc cây, trên gò mối nên mỗi đội đều có hai cái ghế đẩu thấp dành cho vệ-binh. Nhiệm-vụ của Đội-trưởng là bưng ghế cho vệ-binh ngồi và cất ghế lúc tan lao.
Khi bưng ghế cho vệ-binh ngồi, tôi lại nhớ người bạn đạo-diễn Hoàng Vĩnh Lộc. Tôi quên mất năm nào của thập-niên 70, hãng phim Giao Chỉ tiếp-tân ở Majestic giới-thiệu truyện phim Người tình không chân-dung mà hãng sắp thực-hiện. Buổi tiếp-tân có Tổng-trưởng Ngô Khắc Tỉnh. Ông ta được mời phát-biểu về truyện phim mà ông có vinh-hạnh đọc trước. Vì cái bục cao mà Ngô Khắc Tỉnh lùn nên ông khó lòng đọc bài phát-biểu viết sẵn đặt mặt bục. Hoàng Vĩnh Lộc nhanh chân kiếm cái két nước ngọt đem tới cho Ngô Khắc Tỉnh bước lên. Tôi vỗ vai Hoàng:
- Phim của mày có quanh cảnh …bưng két này không?
Hoàng chửi tôi:
- Đ.m…, mày chơi ông đau quá!
Rốt cuộc thì tôi cũng lại bưng ghế. Kẻ dám lên Đài truyền-hình Huế năm 1972 cùng Phạm Duy, Tô Thùy Yên nhắn giùm lời hạ-sĩ Sứt, thủy-quân lục-chiến điều-khiển hoả-tiễn Tow, thách-thức Võ Nguyên Giáp hãy cho tăng Liên-xô vào, ai ngờ có ngày lãnh cái tát của cai ngục Phách và bưng ghế cho vệ-binh chăn trâu cắt cỏ. Có lẽ, người ta đánh giá tôi khiếp-nhược và đầu hàng cộng-sản qua cái bi-hài-cảnh này. Tôi chưa biết, nếu Tố Hữu bắt tôi bưng ghế, thái-độ của tôi sẽ ra sao. Chữ nếu không bao giờ có. Người cộng-sản kiêu-ngạo lắm. Họ đã chỉ để bọn chăn trâu cắt cỏ, bọn nhãi ranh trên dưới 20 tuổi giáo-dục chúng ta. Tôi sẽ chẳng có phản-ứng gì với đối-tượng chăn trâu cắt cỏ. Đối-tượng chiến-đấu của tôi là chủ-nghĩa cộng-sản và lãnh-tụ cấp ủy-viên Bộ Chính-trị trung-ương Đảng. Rõ rệt nhất, tôi không thèm rên-rỉ, bất-bình những hình-phạt của thù-hận giáng xuống thân-phận tôi. Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người chấp-pháp miền Nam ở Sở Công An: “Có nhiều vị anh-hùng không chết ở chiến-trường mà bị chết nhục ở cái lỗ chân trâu. Anh chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu.” Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người cai ngục khác thường tên Vũ, Trưởng-khu A4 Chí Hoà: “Các anh không ở đây lâu. Tôi cũng không ở đây lâu. Tôi không thích công-tác quản-giáo tù-nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều: Đừng chống đối cán-bộ quản-giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha các anh, nhưng có quyền hành-hạ các anh, đầy-đọa các anh vào chỗ chết thảm”.
Sự nổi tiếng của tôi là một bất-lợi lớn, một bẽ-bàng cho tôi khi tôi vào tù. Tôi đã tạo ra những nhân-vật thần-tượng, những mẫu người hùng lý-tưởng trong tiểu-thuyết của tôi. Độc-giả say mê nhân-vật thần-tượng rồi gán-ghép cho tôi ngôi vị thần-tượng của họ. Trước 1975, đã nhiều lần tôi khước-từ ngôi vị thần-tượng phù-ảo mà độc-giả của tôi phong tặng cho tôi. Người nghệ-sĩ sáng-tạo khác người nghệ-sĩ trình-diễn. Nhà văn không có thần-tượng và không thích làm thần-tượng. Thần-tượng của nhà văn là nỗi cô-đơn. Bởi vì, cô-đơn soi sáng sáng-tạo cho nhà văn. Ở bài Một chút tâm sự của người làm thơ trong tù, tôi viết: “Tôi làm thơ để quên mệt mỏi, để chống ngủ sầu. Nhưng đúng nhất, tôi làm thơ để tồn-tại. Sự tồn-tại khác với sự sống. Một số ít, trong chúng ta, quan-niệm sự sống và sự tồn-tại giống hết. Do đó, nẩy sinh ra nhiều mâu-thuẩn, ngộ-nhận chua xót. Tôi cho rằng con người tồn-tại. Và tôi không thù-hận con người. Thời-đại tôi, nhất là trong cảnh-ngộ tôi, tín-đồ bắt buộc thần-tượng của họ phải thực-hiện ý muốn của họ. Họ độc-tài, quá-khích, muốn thần-tượng của họ thù-hận những kẻ đầy đọa họ như họ thù-hận. Thần-tượng trái ý. Họ đạp đổ thần-tượng, bài-bác và bôi bẩn. Họ thù thần-tượng cũ hơn cả kẻ thù của họ nữa”.
Người ta trông đợi ở tôi một sự chống đối quyết-liệt bọn công-an coi tù, tôi lại … cam đành vác ghế! Tôi không thể chống đối bọn cộng-sản giẻ rách này. Thứ nhất, họ không phải đối-tượng của tôi. Thứ hai, tôi không thích chết dại ở lỗ chân trâu. Thứ ba, tôi thương họ hơn là thù-hận họ.
Chưa bao giờ tôi thấy triết-lý Nguyễn Du tuyệt-diệu trong câu:”Chữ Tài liền với chữ Tai một vần”. Tôi muốn nhắc lại câu nói bất-hủ trước khi bay đầu của người đồng-bóng Tang Môn:”Tài-năng là cứu-cánh, đồng thời, cũng là tai-hoạ của con người.” Cứ lèng-mèng lại khá. “Ngu-si hưởng thái-bình” là vậy. Tài-năng của tôi còn dẫn tôi đến tai-họa khác. Và tôi nằm bẹp dí giữa sức ép của phỉ và ngụy. Một số thư-lại Long Thành, khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu, một số sĩ-quan văn-phòng, khuyển mã của Cao Văn Viên vấn nạn tôi và quy tội “làm mất nước” cho tôi. Vì tôi đã đối-lập Nguyễn Văn Thiệu bằng cách đi … ăn mày! Đối-lập, với nhà văn là phản-kháng, là nghĩa-vụ của người cầm bút, trừ những anh ký-giả nhà nước, những ông nhà văn giám-đốc, chánh sở…. Ở Nhà tù, tôi đã viết rõ sự cần-thiết phản-kháng để làm thăng-hoa đời sống. Tôi xin ghi lại những câu thơ Trần Dần mà tôi coi như kim-chỉ-nam của tất cả những người cầm bút:
Chẳng thể rúc kèn cũ rích
vác loa mồm kêu:
“Hiện tại rất thiên-đường!”
Không
Thiên-đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận triệu thiên-đường
Đi mãi
chẳng bao giờ thoả.
Đối-lập một chế-độ không bao giờ là đối-lập tổ-quốc. Chống đối, loại bỏ một chế-độ khốn-kiếp lại là yêu-cầu cần-thiết của dân-tộc. Còn đi ăn mày vào cái ngày báo-chí Sàigòn xuống đường đi ăn mày thì tôi đã, chẳng những không đi mà còn chống đối. Người cầm bút chiến-đấu bằng tư-tưởng, chống đối bằng tư-tưởng. Người cầm bút phẫn-nộ bằng chữ-nghĩa, không phẫn-nộ bằng bị gậy đi ăn mày, diễn trò hề rẻ tiền dưới mắt báo-chí thế-giới. Những kẻ không biết viết và viết chẳng ra gì mới đối-lập kiểu ăn mày bệ-rạc.
Ăn mày là ai?
Ăn mày là ta,
Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày.
Cũng thế, đói tư-tưởng, rách chữ-nghĩa thì hoá ra nhà văn, ký-giả ăn mày. Hình-tưởng tác-giả Cậu chó đi ăn mày phản-kháng đi! Tôi e rằng không có tác-dụng gì cả. Tuy nhiên, ký-giả ăn mày vẫn còn một điểm để đề-cao cái nền dân-chủ què-quặt của Nguyễn Văn Thiệu. Dẫu sao, người ta vẫn được quyền biểu-diễn trò chơi dân-chủ rất hạ-cấp ấy. Và tôi là nạn-nhân khi nằm tù. Người ta mỉa mai tôi “Bây giờ dám đối-lập, dám đi ăn mày không?”! Tôi im lặng. Cái bọn vấn nạn và kết tội tôi không có kiến-thức. Họ thua cộng-sản xa. Người cộng-sản mới hiểu nổi nhà văn chống đối họ.“Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng” 4. Cựu-ước-kinh viết: “Có một thời im lặng và một thời lên tiếng”. Thời lên tiếng không phải là thời nằm ở nhà tù, trại tập-trung. Lên tiếng chống đối ở nhà tù là dại, lên tiếng chống đối lũ cai tù chăn trâu cắt cỏ là ngu. Lên tiếng tranh-chấp với bạn tù hẹp-hòi, thiển-cận là xuẩn. Vậy “xếp tàn lại để dành hơi” cho một lên tiếng trong tương-lai.
Và bình-thản bưng ghế. Vì “trại-viên cải-tạo phải triệt-để tuân-hành mệnh-lệnh, chỉ-thị của cán-bộ”, Nội-quy ghi rõ. “Hùm thiêng khi đã sa-cơ cũng hèn”. Bưng ghế không nhục bằng “Để chúng dắt đi tựa trâu bò” như Hồ Chí Minh tự thú và không bỉ-ổi bằng “ăn cắp, ăn vụng”. Thoạt đầu, tôi rất khó chịu sự vinh-quang của “lao-động” bê ghế. Chúa ơi, Ngài dạy rằng:
“Đừng chống cự kẻ ác. Trái lại, hễ ai vả má hữu ngươi, hãy đưa má kia cho họ luôn. Hoặc ai muốn kiện ngươi để lấy áo trong, hãy để họ lấy luôn áo ngoài nữa. Hay là hễ ai muốn bắt ngươi đi một dặm, hãy đi hai với họ. Ai xin, ngươi hãy cho, ai muốn mượn của ngươi thì đừng làm ngơ. Các ngươi đã nghe phán rằng: “Hãy yêu người lân cận và ghét kẻ thù nghịch”. Nhưng ta nói cùng các ngươi, hãy yêu kẻ thù nghịch các người và cầu nguyện cho kẻ bắt-bớ các ngươi hầu cho các ngôi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời. Bởi vì Ngài khiến mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công-chính cùng kẻ bất-nghĩa. Nếu các ngươi yêu kẻ yêu mình thì có được phần thưởng gì đâu? Kẻ thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? Lại nếu các ngươi chỉ chào anh em mình mà thô, thì có lạ gì hơn ai?” 5
Con đã tuân lời Ngài, không “chống-cự kẻ ác”, con đã bê ghế cho “kẻ thù nghịch”, con chưa thấy mặt trời soi trên kẻ thiện, mưa xuống người công-chính. Mà chỉ nghe những lời nguyền-rủa nghiệt-ngã, mà chỉ chịu đựng những vu oan giáng họa tối tăm mặt mũi. Nhưng, Chúa ơi, hơi may cho con là những kẻ nguyền-rủa con không phải là “kẻ yêu mình”. Họ là khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu, Cao văn Viên, là đám quốc-gia bần tiện, nhơ bẩn, con có nên yêu họ, có nên đưa má hữu cho họ tát thêm sau khi họ đã tát má tả?
Quốc-gia bẩn kết tội tôi làm mất chế-độ khốn-kiếp của chúng nó, thù-hận tôi, chụp lên đầu tôi chục kiều mũ đê-tiện.
Cộng-sản ác kết tội tôi kéo dài chiến-tranh, đầy-tớ Mỹ ngụy, biệt-kích văn-nghệ, giam nhốt tôi, đầy-đọa tôi.
Tôi kẹt giữa hai sức ép ròng-rã tháng ngày lao-cải. Cai tù nhìn tôi như một tội-đồ nguy-hiểm. Tù-nhân bị cộng-sản tước-đoạt đặc quyền đặc-lợi chế-độ cũ nhìn tôi như một kẻ phá hoại. Tù-nhân độc-giả của tôi nhìn tôi như một tên khiếp-nhược. Họ trông đợi hành-động ngoạn-mục của tôi trong tù như hành-động ngoạn-mục của nhân-vật thần-tượng của tôi trong tiểu-thuyết. Cuộc đời có bao giờ là tiểu-thuyết? Tiểu thuyết đã được hiểu như cuộc đời! Họ chờ đợi tôi phẫn-nộ. Tại sao họ không chờ đợi văn-hào Nguyễn Mạnh Côn cùng trại với tôi, lỗi-lạc hơn tôi? Họ bảo ông Côn già rồi, lờ-mờ rồi, hết sáng-suốt vì đói thuốc phiện rồi. Họ muốn tôi làm vật tế thần, làm kẻ hy-sinh. Để họ hoan-hô và nếu tôi chết, họ tưởng-niệm. Còn họ, họ thụ-động.
Không, tôi không khoái làm liệt-sĩ hay dũng-sĩ. Tôi không thích chết sảng: không thích vào cachot vì bị xúi dục. Tôi hết là “thần-tượng” của những người cổ ý gán ghép tôi tước-vị thần tượng. Và bất hạnh xẩy đến cho tôi. Dài dài. Cái đám nhân-loại ích-kỷ trong nhà tù cộng-sản chỉ muốn tôi chết-. Mà tôi, tôi cần sống để viết và để tồn-tại. Vậy thì tôi bưng ghế như mọi tù-nhân bị cưỡng-bức sai vặt những công việc ngoài ý muốn.”Ở đời trăm sự đều cay đắng Cay đắng đâu bằng mất tự-do, Mỗi lời mỗi việc không tự chủ. Để chúng dắt đi tựa trâu bò” 6. Hồ Chí Minh chấp nhận bị “dắt đi tựa trâu bò” để trở thành chủ-tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp” cộng-sản. Những thằng cộng sản cắc ké khác đã “bất khuất”, đã chết ngu. Để chỉ là liệt-sĩ chẳng có cái gì đề lại và chẳng ăn cái giải gì. Tôi yêu câu thơ của Nguyễn Bá Trác: “Chí ta ta biết, lòng ta ta hay”. Cái chí của tôi, rồi người ta sẽ biết, là những gì tôi để lại sau khi tôi nhắm mắt.
Tâm sự của tôi, ở tù và ra tù, tôi gửi trong bài Gọi Tự Trường.
Tử Trường, Tử Trường, ơi Tử Trường
Xưa hay là sau đều thê-lương
Xưa chịu nhục-hình cho sử-ký
Sau làm sáng tỏ nghĩa yêu thương
Đã thiết-tha nhiều chuyện Lý Lăng
Tiếng than sĩ-khí buốt cung đàn
Ai dám vì ông mà chuộc tội
Cõi đời ngu-muội phán lăng-nhăng
Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn
Từ đó cung giương một mũi tên
Theo hồn tài-tử, tên bay vút
Ngạo-nghễ hành hình Tư Mã Thiên
Cái bọn chê ông chết hết rồi
Nhưng ông sống mãi như mây trôi
Hai nghìn năm ngỡ chừng gang tấc
Mảnh đất oan này lại có tôi
(Thơ Tù – Nam Á Paris, 1984)
Tôi đã đọc một điều tuyệt diệu trong Luận Báo Vương Tam Muội “Oan ức không cần biện bạch vì biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối tăng thêm”. Thế mà tôi đã phải biện-bạch. Bởi vì cả phỉ lẫn ngụy vây hãm tôi, cùng chơi tôi một đòn quyết-liệt: Bôi bẩn, nhục mạ tôi để vô-hiệu-hóa uy-tín và khả-năng chiến-đấu chống cộng-sản bằng tư-tưởng của tôi.
Tôi đã biết một phái-đoàn Amnesty International từ Luân Đôn sang Việt Nam, xin vào được Chí Hòa thăm Cao Dao và tôi, năm 1978. Tôi bị khước từ gặp AI 7. Trực-giác của tôi cho tôi biết tôi sẽ được cứu. Vì phải thả Cao Dao và tôi ra để “thể-hiện tình-nghĩa anh em quốc-tế” đánh đổi sự tự-do cho vài nhà văn, nhà báo cộng-sản Nam Dương bị chế-độ Suharto giam nhốt, cộng-sản mở chiến-dịch hạ gục Cao Dao và tôi, trước khi họ tha cho làm phúc. Cao Dao bị gán nhãn-hiệu thảm hơn, “ăng-ten trong trại cải-tạo”. Cộng sản nửa kín nửa hở phụt tin rỉ tai cho tù-nhân. Họ chọn những đối-tượng ghét chúng tôi. Họ bịa đủ mọi chuyện, tù-nhân thêu dệt thêm. Ông “nhà văn lão thành” Toan Ánh, ký Lã Vi, không hề bị bắt. Biết gì mà phao tin bẩn? Hồ sơ của công-an đâu phải thông-cáo dán tường mà ai cũng đọc, cũng biết. Đến như ông Tạ Tỵ đã học tập cải tạo, vẫn vô lý như vầy: “Nếu cách-mạng tha tôi, tôi tình-nguyện báo-cáo hết những tên làm văn-nghệ CIA ở Sàigòn”. Vẫn ông Tạ Tỵ: “Câu này do chính tên công-an nói lại cho tù nghe, xong nó mỉa-mai: Chúng tôi đâu có cần anh Duyên Anh chỉ-điểm. Chúng tôi đã “nắm vững”. Nghề của chúng tôi mà”! 8
Nói ông Tạ Tỵ vô-lý ác ý vì:
1. Các nhà văn quân-đội đi trình-diện từ tháng 6-1975. Tôi bị bắt tháng 4-1976.
2. Các nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến-dịch 2-4-1976 1976 vào tù cả làng, có cần ai chỉ-điểm.
3. Không có nhà văn-nghệ nào là CIA cả. Ông Tạ Tỵ bịa ra và đã làm giảm tư-cách của văn-ghệ Sàigòn. Chỉ có công-an đổ tội văn-nghệ Sàigòn làm việc cho CIA.
4. Ông Tạ Tỵ ngoan-ngoãn nghe và tin tên công-an cộng-sản tiết-lộ những điều nhằm bôi bẩn tôi. Ông ta ngu quá không biết lý-luận và cũng không tự hỏi công-an bôi bẩn tôi nhằm mục-đích gì.
5. Công-an coi tù không có ngôn-ngữ “Nghề của chúng tôi mà”. Coi tù là coi tù, nó mù tịt những gì tù-nhân khai với chấp-pháp.
Cái đắc chí của ông Tạ Tỵ là ông dẫn chứng “chính tên công an nói lại cho tù nghe” những lời bêu nhục tôi là bằng-chứng cụ-thể rằng cộng-sản đã mở chiến-dịch hạ gục uy-tín chống cộng tự nguyện của tôi trước khi tha tôi. Nó đánh tôi trong tù, ngoài đời; trong nước ngoài nước. Nó muốn tư-tưởng chống cộng của tôi tê-liệt, tôi về cũng như tôi chết. Bây giờ, chiến-dịch ấy trở thành lố-bịch. Công-cụ của nó rách bươm. Bây giờ, những con chó điên đã hết sủa bậy. Bây giờ là thời lên tiếng của người công-nghĩa. Bây giờ còn là thời của phu đào mồ phản tỉnh khơi sâu nấm huyệt tập-thể chôn vùi những tên điêu-ngoa, bịa đặt, gian dối, a-dua toa rập. Bây giờ, trên nước Mỹ tự-do, nước Mỹ không có nhà tù cho những người đối-lập tư-tưởng, nước Mỹ không có nhà tù của những thằng quốc-gia bẩn nhãn hiệu Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, nước Mỹ không có trại tập-trung của cộng-sản, người ta định-nghĩa anh-hùng và khiếp-nhược ra sao về thái độ của vài nhà văn Hamburger đối với lũ quyền-uy ảo-tưởng?
--------------------------------
1 Minh-suyễn được tha năm 1982. Năm 1985 Minh-suyễn chết. Gia-đình chôn cất hòm đắt tiền, phu nhà đòn quốc-doanh đào mả, lấy hòm, vất xác Minh-suyễn trên miệng huyệt. Minh-suyễn được chôn lần thứ hai (Theo tin của bạn tù mới qua Paris)
2 Ở tù cũng như ở trại cải-tạo, y-tá không cần-thiết phải là y-tá tốt-nghiệp ở một trường nào, chỉ cần đọc được tên vài thứ thuốc và cách trị bệnh thông-thường. Thí-dụ: y-tá Đoàn Văn Toại, Lý Sen…
3 Thứ gạo Trung-quốc viện-trợ để lâu mục nát, vo là tan thành bột.
4 Huỳnh Bá Thành. Vụ án hồ Con Rùa, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, 1982.
5 Tân-ước, theo Matthew, ấn bản của The Gideons International, trang 11.
6 Hồ Chí Minh, Ngục trung nhật-ký.
7 Năm 1984, nhân-viên của AI trung-ương ở Londres viết thư cho tôi có nhắc vụ không được gặp tôi ở Chí Hoà.
8 Tạ Tỵ, báo đã dẫn.