Số lần đọc/download: 3323 / 46
Cập nhật: 2015-10-05 14:35:46 +0700
Chương 3
A
nh chớm bước sang tuổi hai mươi thì tóc đã bắt đầu ngả muối tiêu, điều này khiến bạn bè sinh ra hay trêu chọc. Đó không phải là một quá trình thay đổi chậm, không phải lác đác vài sợi chuyển dần sang bạc. Đúng hơn là, tháng Một năm này đầu anh hãy còn đen nhánh, thế mà tháng Một năm sau đó đã không còn sót lấy một sợi đen. Hai anh trai anh lại không bị như thế, tuy vài năm lại đây tóc mai của họ cũng đã điểm bạc. Cả bố và mẹ anh đều không thể lý giải được chuyện này; tất cả những gì họ hiểu là Alex Wheatley không giống bên nội mà cũng chẳng giống bên ngoại.
Lạ một điều, chuyện đó chẳng khiến anh phiền lòng. Trong quân đội, thỉnh thoảng anh còn cho rằng đó là lợi thế của mình. Anh tham gia Đội Điều tra Hình sự, viết tắt là CID, đóng ở Đức và Georgia, điều tra tội phạm quân đội trong suốt mười năm: tất cả các tội từ đào ngũ tới trộm cắp, bạo hành gia đình, cưỡng bức, hay thậm chí giết người. Anh được lên mai đều đặn, cuối cùng nghỉ hưu ở tuổi ba hai khi đang mang hàm thiếu tá.
Sau khi quyết định thay đổi cuộc sống và giải ngũ, anh chuyển tới Southpo, quê vợ. Thời điểm ấy anh vừa kết hôn và đã có con đầu lòng, và dù ý nghĩ ngay lúc bấy giờ của anh là xin vào Sở Tư pháp, bố vợ lại đề nghị nhượng công việc kinh doanh của gia đình lại cho anh.
Đó là một cửa hàng kiểu cũ ở nông thôn, với vách ván sơn trắng, cửa chớp xanh da trời, mái hiên dốc và một băng ghế dài trước sân, kiểu cửa hàng trước đây khá lâu rất thịnh hành nhưng giờ hầu như không còn nữa. Khu sinh hoạt của gia đình ở tầng hai. Một cây mộc lan cổ thụ tỏa bóng bên hiên nhà, và mặt tiền là một cây sồi. Chỉ nửa bãi đỗ xe được rải nhựa đường - nửa còn lại rải sỏi - nhưng bãi hiếm khi trống. Bố vợ anh khởi nghiệp kinh doanh từ khi Carly còn chưa chào đời, khi xung quanh ông hầu như chẳng có gì ngoài đồng ruộng. Nhưng ông tự hào mình rất hiểu người, và muốn dự trữ bất kể thứ gì mà người ta rồi sẽ cần đến, những thứ ấy chất đầy trong cửa hàng này. Alex cũng cảm thấy như thế và anh giữ cửa hàng phần lớn như cũ. Năm sáu lối đi giữa các sạp bày hàng tạp hóa và đồ dùng trong nhà tắm, khu đồ lạnh ở sau cùng đầy ứ mọi thứ từ soda, nước tới bia rượu, và như trong mọi cửa hàng tiện nghi gia dụng khác, cửa hàng này cũng có những túi khoai tây chiên, kẹo và những đồ ăn vặt mà mọi người có thể thuận tay với lấy khi đứng gần quầy thanh toán. Nhưng sự tương đồng chỉ có vậy thôi. Ở đây còn có đủ loại cần câu cá trên các giá, mồi tươi, và khu đồ nướng được cung cấp bởi ông Roger Thompson, người từng làm ở Phố Wall nhưng giờ đã chuyển về Southport để tìm kiếm cuộc sống thanh bình hơn. Khu đồ nướng có bánh hamburger, sandwich, xúc xích, và còn có cả một chỗ để ngồi. Có đĩa DVD cho thuê, rất nhiều loại quân trang quân dụng, áo mưa và ô, một góc nhỏ bày những cuốn tiểu thuyết kinh điển và bán chạy. Cửa hàng bán cả bugi, đai truyền động quạt, bình ga, và Alex có thể đánh chìa khóa bằng một cái máy để ở phòng trong. Anh có ba máy bơm xăng, và một máy nữa ở bến neo thuyền dành cho thuyền bè cần tiếp đầy nhiên liệu, nơi duy nhất làm được việc này ngoại trừ bến tàu. Từng hàng hộp dưa chuột muối, thì là, lạc luộc và giỏ rau tươi đặt cạnh quầy thanh toán.
Đáng ngạc nhiên là việc kiểm kê hàng hóa lại không khó. Một số mặt hàng bán chạy đều đặn, số khác thì không. Giống bố vợ, Alex có trực giác tốt về khách hàng, anh biết họ cần gì ngay khi họ bước vào cửa hàng. Anh luôn để ý và ghi nhớ những thứ mà người khác không cần, phẩm chất này đã hỗ trợ đắc lực cho anh trong những năm tháng làm việc cho CID. Giờ đây anh không ngừng thay đổi hàng hóa dự trữ để nỗ lực bắt kịp với sự thay đổi thị hiếu của khách hàng.
Trong đời, anh chưa bao giờ tưởng tượng mình sẽ làm việc gì như thế này, nhưng đó là một quyết định đúng đắn, ít nhất là ở chỗ công việc đó giúp thời gian coi sóc bọn trẻ. Josh đã tới trường, nhưng Kristen thì phải tới mùa thu mới đi học, nên con bé ở cả ngày với anh trong cửa hàng. Anh làm một chỗ để chơi sau quầy tính tiền, ở chỗ đó cô con gái lanh lợi và mau mồm của anh dường như được hạnh phúc nhất. Dù mới lên năm, con bé đã biết cách sử dụng máy quét hàng và tính tiền, đứng trên ghế đẩu sắt để với các nút trên máy. Alex luôn thích thú trước vẻ mặt của khách hàng khi con bé bắt đầu quét hàng họ chọn.
Nhưng đó không phải là một tuổi thơ lý tưởng với con bé, dù rằng nó cũng không biết cuộc sống nào khác. Khi thật lòng với chính mình, anh phải thừa nhận là việc chăm lo cho các con và cửa hàng đã tiêu hao hết năng lượng của mình. Đôi khi, anh cảm thấy như mình chỉ còn có thể gắng gượng - làm bữa trưa cho Josh và đưa thằng bé tới trường, đặt hàng các nhà cung cấp, gặp những người bán lẻ, phục vụ khách hàng, trong lúc đó vẫn phải chơi với Kristen. Nhưng đó mới là món khai vị thôi. Với anh thì nhiều khi buổi chiều tối còn bận rộn hơn. Anh cố sắp xếp dành nhiều thời gian nhất ở bên bọn trẻ - tập xe đạp, thả diều và đi câu với Josh, nhưng Kristen lại thích chơi búp bê và làm thủ công - những thứ mà anh chưa bao giờ giỏi. Chưa kể anh còn phải chuẩn bị bữa tối và lau nhà, và phân nửa thời gian, đó là tất cả những gì anh có thể làm để giữ mình không gục ngã. Ngay cả khi cuối cùng cũng dỗ được bọn trẻ đi ngủ, anh vẫn thấy gần như không thể nghỉ ngơi bởi vì luôn còn những việc phải làm. Anh không chắc mình còn biết nghỉ ngơi là như thế nào nữa không.
Sau khi bọn trẻ lên giường, anh dành thời gian còn lại của buổi tối ở một mình. Dù biết hầu hết mọi người trong thị trấn, anh cũng chỉ có vài người bạn thực sự. Những cặp vợ chồng mà anh và Carly thi thoảng tới tổ chức liên hoan hay ăn tối dần dà rời xa anh. Một phần là do lỗi của chính anh - công việc ở cửa hàng và việc chăm sóc bọn trẻ chiếm phần lớn thời gian của anh - nhưng đôi khi anh cảm giác mình khiến họ thấy không thoải mái, như thể mình nhắc họ nhớ ra rằng cuộc đời này thật khó lường và đáng sợ và rằng mọi chuyện có thể trở nên tồi tệ chỉ trong chốc lát.
Đó là một lối sống mệt mỏi và đôi khi cô độc, nhưng anh vẫn còn Josh và Kristen để quan tâm. Dù đã giảm bớt so với trước đây, cả hai đứa vẫn thường gặp ác mộng với chuyện Carly mất. Khi các con thức dậy vào nửa đêm, cứ thổn thức không ngừng, anh sẽ ôm chúng trong tay và thì thầm những lời an ủi cho tới khi chúng ngủ được tiếp. Cách đây không lâu, bọn trẻ từng phải gặp bác sĩ tư vấn; chúng đã vẽ tranh và nói về cảm giác của mình. Việc đó không giúp được nhiều như anh hy vọng. Những cơn ác mộng cứ thế kéo dài suốt gần một năm. Thỉnh thoảng, khi anh đang tô màu tranh với Kristen hoặc đi câu với Josh, bọn trẻ t nhiên im bặt và anh biết các con đang nhớ mẹ. Kristen đôi khi nói nhiều như trẻ con, giọng run rẩy, nước mắt chảy tràn trên má. Khi điều đó xảy ra, anh như nghe thấy tiếng trái tim mình vỡ nát, bởi vì anh biết mình chẳng thể nói hay làm gì để mọi việc tốt đẹp hơn. Bác sĩ tư vấn đã đoan chắc với anh là bọn trẻ rất dũng cảm và rằng chừng nào chúng còn thấy mình vẫn được yêu thương thì cuối cùng những cơn ác mộng cũng sẽ qua đi và nước mắt sẽ vơi dần. Thời gian đã chứng tỏ lời vị bác sĩ tư vấn là đúng, nhưng giờ Alex lại phải đối mặt với một dạng mất mát khác, một nỗi niềm khiến anh đau đớn không kém. Anh biết bọn trẻ vui lên là bởi vì ký ức của chúng về mẹ đang phai nhạt đi dần dần nhưng rõ ràng. Khi mất mẹ, chúng còn quá nhỏ - đứa lên bốn, đứa lên ba - và điều đó có nghĩa rồi sẽ có ngày mẹ chúng chỉ còn là một ý niệm chứ không phải một người thực đối với chúng. Điều đó là không thể tránh được, tất nhiên, nhưng sao Alex lại thấy bất công đến thế khi nghĩ rằng chúng sẽ chẳng bao giờ nhớ đến tiếng cười của Carly, sự dịu dàng của nàng khi bế con thuở chúng mới sinh và cũng chẳng bao giờ biết nàng đã từng yêu chúng sâu sắc nhường nào.
Anh chưa bao giờ giỏi chụp ảnh. Carly luôn là người cầm máy, thành ra giờ đây có rất nhiều ảnh của anh với các con. Chỉ mấy bức có mặt Carly, và mặc dù rất muốn vừa lật từng trang album cho Josh và Kristen xem vừa kể cho chúng nghe về mẹ, nhưng anh ngờ rằng những câu chuyện rồi cũng chỉ là những câu chuyện mà thôi. Cảm xúc gắn với những câu chuyện ấy giống như những lâu đài cát khi triều lên, chầm chậm bị cuốn ra biển cả. Chuyện tương tự cũng xảy ra với bức chân dung Carly treo trong phòng ngủ của anh. Năm đầu sau khi lấy nhau, anh đã sắp xếp để nàng chụp bức ảnh này, dù nàng phản đối. Anh mừng vì mình đã làm vậy. Trong bức ảnh, nàng trông thật xinh đẹp và tự chủ, người phụ nữ kiên nghị đã chiếm trọn trái tim anh, và buổi đêm, khi các con đã ngủ, thỉnh thoảng anh lại ngắm nhìn ảnh vợ, cảm xúc vô cùng xáo động. Nhưng Josh và Kristen hầu như không bao giờ để ý đến bức chân dung này.
Anh thường xuyên nghĩ về nàng, nhớ tình gắn kết mà họ chia sẻ và tình bạn đã làm nền tảng vững chắc cho cuộc hôn nhân của họ. Và khi thành thật với bản thân, anh biết mình muốn lại có những thứ đó. Anh cô đơn, dù anh cảm thấy phiền muộn khi thừa nhận điều đó. Trong nhiều tháng trời sau khi vợ mất, anh không tài nào tưởng tượng được việc bắt đầu một mối quan hệ khác, chứ đừng nói gì tới chuyện xem xét khả năng yêu ai đó một lần nữa. Thậm chí đến một năm sau, đó vẫn là kiểu suy nghĩ anh tống ra khỏi tâm trí mình. Nỗi đau còn vẹn nguyên, ký ức quá sống động. Nhưng mấy tháng sau, anh đưa bọn trẻ tới công viên thủy cung và khi chúng đứng trước bể cá mập, anh đã bắt chuyện với một phụ nữ duyên dáng đứng ngay cạnh. Giống anh, cô đưa các con đi chơi, và cũng như anh, cô không đeo nhẫn cư trên tay. Các con cô cũng sàn sàn tuổi Josh và Kristen, và trong khi bốn đứa trẻ chỉ trỏ con cá, cô bật cười khi anh nói điều gì đó, anh cảm thấy một tia lửa điện lôi cuốn xẹt qua, nó nhắc anh nhớ đến những gì mình từng có. Sau cùng cuộc nói chuyện kết thúc và họ mỗi người một ngả, nhưng khi ra khỏi thủy cung, anh lại trông thấy cô. Cô vẫy vẫy anh và trong một thoáng anh đã muốn chạy về phía xe cô, xin cô số điện thoại. Nhưng anh đã không làm vậy, và một lát sau, xe cô rời bãi đỗ. Anh không bao giờ gặp lại cô nữa.
Đêm ấy, anh chờ cảm giác hối tiếc và tự trách mình xuất hiện, nhưng lạ thay, nó không đến. Cũng không có cảm giác sai trái. Ngược lại, cảm giác thế là... hợp lý. Không quả quyết, không vui sướng, nhưng hợp lý, và chẳng hiểu sao anh biết điều đó có nghĩa cuối cùng vết thương lòng của mình đã bắt đầu lành lại. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa anh đã sẵn sàng lao đầu vào cuộc sống độc thân. Cái gì phải đến sẽ đến. Còn nếu nó không đến thì sao? Anh nghĩ nếu thế mình cũng sẽ chịu đựng được. Anh sẵn lòng chờ đợi cho tới khi gặp được người phù hợp, một người không chỉ mang niềm vui trở lại cuộc đời anh mà còn yêu các con anh nhiều như anh yêu chúng. Có điều, anh nhận ra rằng, trong thị trấn này, khả năng tìm được người đó là rất mong manh. Southport quá nhỏ bé. Hầu hết những người anh quen đều đã kết hôn hoặc đã nghỉ hưu hoặc vẫn còn đi học. Quanh đây không có nhiều phụ nữ độc thân, chứ chưa nói tới người phụ nữ muốn gặp một người đầy rắc rối lại còn đám con nhỏ. Và tất nhiên, đã có yếu tố đó thì mối quan hệ phải chấm dứt thôi. Có thể anh cảm thấy cô đơn, anh cần người bầu bạn, nhưng anh không định hy sinh các con mình để đạt được điều đó. Chúng đã phải chịu đựng đủ rồi và chúng sẽ luôn là ưu tiên số một của anh.
Nhưng… anh cho là vẫn còn một khả năng. Có một người phụ nữ khác đã thu hút anh, dù anh hầu như không biết gì về cô, trừ một điều là cô độc thân. Cô tới cửa hàng vài lần một tuần kể từ đầu tháng Ba. Lần đầu gặp, anh thấy cô xanh xao hốc hác, gầy thảm hại. Bình thường thì anh sẽ không liếc nhìn cô tới lần thứ hai. Những người vãng lai qua thị trấn này thường dừng ở cửa hàng anh mua soda, xăng hoặc đồ ăn vặt; anh hiếm khi thấy lại những người ấy lần nữa. Nhưng cô không mua những thứ như thế; thay vì vậy, cô đi thẳng tới gian đồ tạp hóa, như thể cố để không ai nhìn thấy, một bóng ma đội lốt người. Thật không may cho cô, làm thế chẳng ích gì. Cô quá quyến rũ để có thể bỏ qua. Anh đoán chừng cô ở cuối độ tuổi hai mươi, mái tóc nâu chớm vai cắt hơi lộn xộn. Cô không trang điểm, gò má cao và đôi mắt to tròn tạo cho cô vẻ ngoài thanh lịch dù hơi mong manh.
Ở quầy thanh toán, anh nhận ra nhìn gần cô còn xinh đẹp hơn. Mắt cô màu ục điểm vàng, nụ cười bối rối, thoáng qua của cô biến mất nhanh như khi nó xuất hiện. Ở quầy thanh toán, cô đặt xuống toàn những nhu yếu phẩm: cà phê, gạo, yến mạch, mì ống, bơ lạc và đồ phòng tắm. Anh cảm giác mình mà hỏi chuyện cô sẽ không thoải mái nên bèn lặng lẽ bắt đầu nhặt từng món hàng của cô lên quét. Đang làm thế thì anh nghe thấy giọng cô lần đầu tiên.
“Anh có đậu khô không?” cô hỏi.
“Xin lỗi cô,” anh đáp. “Tôi không hay trữ các loại đậu trong kho.”
Trả lời xong, anh cho các món hàng của cô vào túi, khi ấy anh mới để ý thấy cô đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, lơ đễnh cắn môi dưới. Không hiểu sao, anh có một cảm giác lạ lùng là cô sắp khóc.
Anh hắng giọng. “Nếu đó là thứ cô thường xuyên cần đến thì tôi rất vui khi dự trữ trong cửa hàng. Tôi chỉ cần biết cô muốn loại nào thôi.”
“Tôi không muốn làm phiền anh.” Giọng cô khi trả lời chỉ lớn hơn tiếng thì thầm một chút.
Cô thanh toán hóa đơn rồi cầm túi hàng lên, rời khỏi cửa hàng. Trước sự ngạc nhiên của anh, cô đi thẳng ra khỏi bãi đỗ xe, phải tới khi ấy anh mới nhận ra là cô không đi xe, điều đó chỉ khiến anh thêm ngạc nhiên.
Tuần sau đó, có đậu khô trong cửa hàng. Anh lấy về ba loại: đậu rằng, đậu tây, đậu lima, dù mỗi thứ chỉ một túi, và lần tiếp theo cô tới, anh lưu ý cô là có đậu khô ở giá cuối cùng trong góc, gần chỗ để gạo. Mang cả ba túi đậu ra quầy thanh toán, cô hỏi liệu anh có hành khô không. Anh chỉ vào một túi nhỏ để trong cái giỏ nan gần cửa ra vào, nhưng cô lắc đầu. “Tôi chỉ cần một củ thôi,” cô nói nhỏ, nụ cười ngần ngại vẻ có lỗi. Tay cô run run khi cô đếm tiền, và một lần nữa, cô đi bộ về.
Từ hôm đó, đậu khô luôn có trong cửa hàng, có sẵn cả hành khô để lẻ, và sau hai lần tới cửa hàng, trong những tuần tiếp theo, cô như đã trở thành khách quen. Dù vẫn lặng lẽ nhưng qua thời gian, cô dường như bớt mong manh, bớt căng thẳng hơn. Những quầng thâm quanh mắt dần dần biến mất và nước da cô tươi tắn lên do thời tiết gần đây rất đẹp. Cô lên cân - không nhiều, nhưng đủ để làm mềm những đường nét thanh tú của cô. Giọng cô cũng khỏe hơn, và dù đây không phải dấu hiệu thể hiện sự để ý đến anh, nhưng thực sự cô đã nhìn anh lâu hơn một chút trước khi rời cửa hàng. Họ không tiến thêm được gì nhiều hơn kiểu hội thoại Cô tìm được những thứ cần thiết rồi chứ? rồi Vâng, tôi tìm được rồi. Cảm ơn anh, nhưng thay vì hối hả rời cửa hàng như một con hươu bị săn, đôi khi cô lang thang một chút giữa các dãy kệ, và thậm chí còn bắt đầu nói chuyện với Kristen khi chỉ có hai cô cháu với nhau. Đó là lần đầu tiên anh thấy những lớp phòng vệ quanh người phụ nữ này biến mất. Thái độ hòa nhã và vẻ cởi mở ấy cho thấy cô rất yêu trẻ con, và ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu anh là anh vừa thoáng thấy con người cô trước đây, và con người ấy có thể sẽ trở lại lần nữa, chỉ cần hoàn cảnh phù hợp. Kristen dường như cũng để ý thấy cái gì đó khác biệt ở người phụ nữ ấy, bởi vì sau khi cô ra về, Kristen bảo với anh là con bé đã có bạn mói, tên cô ấy là Cô Katie.
Nhưng điều đó không có nghĩa là Katie thấy thoải mái với anh. Tuần vừa rồi, sau khi cô trò chuyện vui vẻ với Kristen, anh thấy cô đọc bìa sau của những cuốn tiểu thuyết anh bày trong cửa hàng. Cô không mua cuốn nào, và khi đang thanh toán, anh tự nhiên hỏi cô có đặc biệt yêu thích tác giả nào không thì lại thấy nét căng thẳng trước đây ở cô. Anh giật mình khi nhận ra rằng đáng lẽ không nên để lộ bí mật là mình đã quan sát cô. “Đừng bận tâm,” anh vội nói thêm. “Không có gì quan trọng đâu.” Tuy nhiên trên đường ra cửa, cô dừng lại một thoáng, túi hàng vẫn lủng lẳng trên khuỷu tay. Cô hơi quay lại hướng anh và nói khẽ, Tôi thích Dickens. Nói xong, cô liền mở cửa bước ra, đi bộ xuống đường.
Từ đó cô hiện lên trong tâm trí anh thường xuyên hơn, nhưng đó là những suy nghĩ rất mơ hồ, nó được viền quanh bởi sự bí ẩn và mang màu nhận thức rằng anh muốn biết rõ hơn về cô. Dù vậy anh vẫn không biết phải làm thế nào. Ngoài những năm đi tán tỉnh Carly, anh chưa bao giờ giỏi chuyện hẹn hò. Ở trường đại học, vừa phải đi học vừa tập luyện bơi lội nên anh ít có thời gian đi chơi. Trong quân đội, anh tận lực vì công việc, làm việc hàng giờ đồng hồ, chuyển từ sở này sang sở khác qua những lần lên lon. Khi anh đi chơi với mấy cô gái, họ rất thiếu lãng mạn, thành ra phần lớn các cuộc hẹn hò chỉ bắt đầu và kết thúc trong phòng ngủ. Đôi khi, nhìn lại cuộc đời mình, anh khó có thể nhận ra con người mình trước đây, và anh biết Carly chính là người phải chịu trách nhiệm cho sự thay đổi này. Đúng thế, đôi khi cuộc đời thật khắc nghiệt, và phải, anh thấy cô đơn. Anh nhớ vợ, và dù chưa từng nói với ai, nhưng có những phút giây anh dám thề rằng anh cảm nhận được sự hiện diện của vợ mình bên cạnh, nàng đang nhìn ngắm anh, cố trấn an anh rằng rồi anh sẽ sống tốt thôi
Thời tiết đẹp tuyệt, cho nên Chủ nhật này cửa hàng đông khách hơn thường lệ. Khi Alex mở cửa vào lúc bảy giờ thì đã có ba chiếc thuyền neo ở bến chờ cây xăng hoạt động. Như thường lệ, trong lúc trả tiền xăng, những người chủ thuyền nhặt những túi khoai tây chiên, đồ uống, bịch đá lạnh chất lên thuyền. Roger - người quản lý gian nướng, như thường lệ - không hề nghỉ ngơi kể từ lúc khoác tạp dề lên, các bàn thì đông nghẹt khách tới ăn bánh quy kẹp thịt và hamburger kẹp pho mát, hoặc tới xin lời khuyên về lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Như thường lệ, Alex đứng quầy thanh toán tới tận trưa rồi mới bàn giao lại cho Joyce, cũng giống Roger, bà gần như là một nhân viên của cửa hàng, là người làm cho cửa hàng hoạt động trơn tru hơn rất nhiều. Joyce, người đã làm việc ở tòa án tới tận ngày nghỉ hưu, đã “tới đây để làm việc”, có thể nói vậy. Bố vợ anh đã thuê bà từ mười năm trước và giờ đây, ở cái tuổi thất thập, bà vẫn chưa hề tỏ ra xuống sức. Chồng qua đời từ nhiều năm trước, con cái đều đã thoát ly cả, bà xem khách hàng như gia đình thực sự của mình. Joyce yêu quý cửa hàng này cũng nhiều như yêu quý từng món hàng trên các kệ vậy.
Hơn thế nữa, bà hiểu rằng Alex cần có thời gian rời cửa hàng này để ở bên các con, mà bà thì cũng chẳng câu nệ khi phải làm việc vào Chủ nhật. Vừa đến cửa hàng là bà bước ngay ra sau quầy thanh toán và bảo Alex là anh có thể đi, bằng giọng đúng hơn là của bà chủ chứ không phải là nhân viên. Joyce cũng là bảo mẫu cho các con anh, bà là người duy nhất anh tin tưởng giao con nhờ trông khi có việc phải rời thị trấn. Chuyện này không thường xảy ra - chỉ có hai lần trong hai năm vừa qua, khi anh gặp lại một đồng đội cũ ở Raleigh - nhưng anh dần cảm thấy Joyce là một trong những thứ tốt đẹp nhất trong cuộc đời mình. Khi anh cần bà nhất, bà luôn có mặt vì anh.
Trong lúc chờ Joyce tới, Alex đi một vòng quanh cửa hàng, kiểm tra các giá. Hệ thống máy tính hoạt động xuất sắc trong việc kiểm kê hàng, nhưng anh biết những dãy số không phải lúc nào cũng nói lên mọi điều. Đôi khi, anh cảm thấy mình sẽ có được cảm nhận tốt hơn khi tự lướt một vòng qua các giá để xem ngày hôm trước bán được những gì. Việc bán hàng thành công hay không đòi hỏi phải xem xét hàng tồn thường xuyên hết mức, và điều đó có nghĩa là đôi khi anh đưa ra những mặt hàng mà không bách hóa nào khác có. Anh mang về nhiều loại mứt và thạch nhà làm; bột nghiền theo “những công thức đặc biệt” để tẩm thịt lợn thịt bò; cùng rất nhiều loại trái cây và rau củ đóng hộp từ các vùng. Ngay cả những khách hàng lâu năm của các bách hóa lớn như Food Lion hay Piggly Wiggly cũng thường n đường về nhà ghé qua cửa hàng của Alex để mua những món đặc sản địa phương mà anh cất công lấy về.
Quan trọng hơn cả mức tiêu thụ của một mặt hàng, anh muốn biết nó được bán khi nào, một điều không xuất hiện trong các dãy số. Ví dụ, anh biết được rằng bánh kẹp xúc xích bán chạy đặc biệt vào cuối tuần nhưng những ngày trong tuần thì bán chẳng được bao nhiêu; còn bánh mì thường thì hoàn toàn ngược lại. Lưu ý đến điều đó, anh nhận thêm những mặt hàng đó vào những ngày chúng bán chạy, thế là doanh số tăng lên. Lợi nhuận không là bao nhưng năng nhặt chặt bị, vả chăng nhờ thế mà Alex có thể giữ cơ sở kinh doanh nhỏ của mình đông khách khi mà những chuỗi bách hóa lớn đã khiến phần lớn cửa hàng địa phương phải đóng cửa.
Khi xem xét kỹ các kệ hàng, anh vẩn vơ suy nghĩ xem chiều nay nên làm gì với các con và quyết định đưa chúng đi tập xe đạp. Carly không thích gì hơn được cho con vào xe đẩy rồi đẩy chúng đi khắp thị trấn. Nhưng đi xe đạp thì làm sao hết cả buổi chiều được. Có lẽ họ có thể đạp xe tới công viên... chắc bọn trẻ sẽ thích vậy hơn.
Nhìn vội về phía cửa trước để chắc chắn không có ai đang tới, anh bước vội qua gian kho phía sau rồi ló đầu ra ngoài. Josh đang ngồi câu trên bến neo thuyền, đó luôn là trò yêu thích nhất của thằng bé. Alex không thích chuyện Josh ở ngoài đó một mình - anh biết chắc rằng một số người nghĩ anh là ông bố tồi khi cho phép thằng bé làm thế - nhưng Josh luôn ở trong tầm ngắm của camera theo dõi gắn với hệ thống máy tính đặt sau quầy thanh toán. Đó là quy định, và Josh luôn tôn trọng nó. Kristen, như thường lệ, đang ngồi ở cái bàn trong góc phía sau quầy thanh toán. Con bé sắp trang phục cho cô búp bê Con Gái Mỹ thành những chồng khác nhau, có vẻ như con bé định thay hết bộ này sang bộ khác cho búp bê. Mỗi lần thay xong một bộ, con bé lại ngước lên nhìn bố với vẻ mặt tươi sáng ngây thơ và hỏi giờ bố thấy búp bê trông thế nào, làm như có khi nào đó anh bảo không thích nó vậy.
Những cô con gái bé bỏng. Chúng có thể làm tan chảy những trái tim cằn cỗi nhất.
Alex đang xếp lại mấy hộp gia vị cho ngay ngắn thì nghe thấy chuông cửa trước kêu reng reng. Anh ngẩng đầu lên khỏi lối đi thì thấy Katie bước vào cửa hàng.
“Chào cô Katie,” Kristen gọi to, bất ngờ xuất hiện từ sau quầy thanh toán. “Cô thấy em búp bê của cháu trông thế nào?
Từ chỗ đang đứng, anh chỉ thấy cái đầu Kristen nhô lên khỏi bàn thanh toán, nhưng con bé đang giơ... Vanessa phải không nhỉ? Hay Rebecca? Hay con búp bê tên-gì-đó có mái tóc nâu lên cao vừa tầm mắt Katie để thu hút chú ý.
“Búp bê đẹp lắm, Kristen ạ,” Katie đáp. “Bộ đầm mới đấy à?”
“Không đâu ạ, cháu mặc bộ này được một lúc rồi. Nhưng dạo này em ấy không mặc nó.”
“Em búp bê tên gì vậy?”
“Vanessa ạ,” con bé đáp.
Vanessa à, Alex nghĩ. Chốc nữa anh sẽ khen Vanessa hết lời để thể hiện mình là một ông bố rất biết quan tâm.
“Cháu đặt tên cho em ấy à?”
“Không ạ, em ấy có sẵn tên rồi. Cô giúp cháu đi giày cho em ấy nhé? Cháu làm kiểu gì cũng không kéo đôi giày ống lên được.”
Alex quan sát Kristen đưa con búp bê cho Katie và cô bắt đầu kéo đôi giày ống nhựa dẻo lên. Theo kinh nghiệm của bản thân, Alex biết việc này nhìn thì dễ mà làm thì không đơn giản. Một cô bé con có ra sức kéo cũng không tài nào mà đi được đôi giày ấy cho búp bê. Anh cũng gặp khó khăn khi làm việc đó, nhưng chẳng hiểu sao dường như với Katie lại rất dễ dàng. Cô đưa con búp bê lại cho Kristen và hỏi, “Trông thế nào?”
“Quá tuyệt luôn,” Kristen nói. “Cô nghĩ cháu có nên mặc áo khoác cho em ấy không ạ?”
“Trời có lạnh đâu cháu.”
“Vâng. Nhưng nhiều lúc Vanessa vẫn bị lạnh mà. Cháu nghĩ em ấy cần mặc áo khoác.” Đầu Kristen biến mất sau bàn thu ngân rồi lại bất ngờ hiện ra. “Cô nghĩ cái nào đẹp hơn? Xanh hay tím
Katie đặt một ngón tay lên môi, vẻ mặt hết sức nghiêm túc. “Cô nghĩ cái tím mặc đẹp lắm đấy.”
Kristen gật gù. “Cháu cũng nghĩ thế. Cảm ơn cô nhé.” Katie mỉm cười rồi quay đi, Alex vội tập trung chú ý vào kệ hàng kẻo cô lại bắt quả tang anh đang quan sát. Anh chuyển mấy hộp mù tạt và gia vị ra phía trước giá. Từ khóe mắt, anh thấy Katie cầm một cái giỏ đựng hàng loại nhỏ lên rồi đi sang một lối khác.
Anh quay đầu về phía quầy thanh toán. Khi cô thấy anh, anh liền vẫy tay chào thân thiện. “Chào cô,” anh cất tiếng.
“Chào anh.” Cô cố gài một lọn tóc ra sau tai nhưng nó quá ngắn nên không tới. “Tôi chỉ lấy vài thứ thôi.”
“Nếu cô không tìm được thứ gì thì cứ bảo tôi nhé. Nhiều lúc hàng hóa bị chuyển đi lung tung ấy mà.”
Cô gật đầu rồi bước tiếp xuống lối đi. Khi Alex bước ra sau quầy thanh toán, anh liền liếc vào màn hình máy tính. Josh đang ngồi câu tại chỗ cũ, cạnh đó một con thuyền châm chậm cập bến.
“Bố ơi bố nghĩ sao?” Kristen giật giật ống quần anh và giơ con búp bê lên.
“Ôi chà! Búp bê đẹp quá.” Alex ngồi xổm xuống bên cạnh con gái. “Mà bố thích cái áo khoác này đấy. Thỉnh thoảng Vanessa bị lạnh con nhỉ?”
“Vâng ạ,” Kristen nói. “Nhưng em ấy bảo với con là em muốn chơi xích đu, nên chắc em ấy sẽ thay bộ khác thôi.”
“Ý này nghe cũng có vẻ hay đấy,” Alex nói. “Hay lát nữa tất cả chúng ta đi công viên nhỉ? Ấy là nếu con cũng muốn ngồi xích đu.”
“Con có muốn ngồi xích đu đâu ạ. Em Vanessa cơ. Nhưng mà đấy chỉ là làm nũng thôi bố ơi.”
“Ô,” anh nói, “được rồi.” Anh đứng lên. Lo bỏ ý định đi công viên, anh nghĩ.
Chìm trong thế giới của riêng mình, Kristen lại bắt đầu cởi váy của con búp bê. Alex đang kiểm tra Josh qua máy tính thì một cậu choai choai bước vào cửa hàng, trên người chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi đi biển. Cậu ta đưa cho anh một nắm tiền.
“Để bơm xăng ở chỗ bến neo thuyền đấy,” cậu ta nói rồi lại quày quả đi ra.
Alex ấn nút ở máy bơm xăng, vừa lúc ấy Katie đi tới quầy thanh toán, vẫn những thứ cũ, có thêm một tuýp kem chống nắng. Khi cô mang giỏ lại chỗ Kristen ở bàn thu ngân, Alex để ý thấy màu mắt cô rất dễ thay đổi.
“Cô tìm được đủ thứ mình cần rồi chứ?”
“Vâng, cảm ơn anh.”
Anh bắt đầu bỏ hàng trong giỏ của cô ra. “Cuốn tiểu thuyết của Dickens mà tôi thích nhất là Great expectations,” anh nói. Anh cố nói một cách thân thiện nhất trong lúc bỏ hàng của cô vào túi. “Cô thích cuốn nào nhất?”
Thay vì trả lời ngay, dường như cô giật mình khi thấy anh vẫn nhớ cô đã nói với anh là cô thích Dickens.
“A tale of two citiesn,” cô đáp, giọng dịu dàng.
“Tôi cũng thích cuốn đó lắm. Nhưng nó buồn.”
“Vâng,” cô nói. “Vì thế tôi mới thích.”
Từ khi biết cô đi bộ, anh bỏ hàng cô chọn vào hai túi ni lông. “Tôi nghĩ có lẽ tôi nên tự giới thiệu từ lúc cô gặp con gái tôi mới phải. Tôi là Alex,” anh nói. “Alex Wheatley.”
“Cô ấy tên là Cô Katie,” Kristen líu lo sau lưng anh. “Nhưng con nói với bố rồi mà nhỉ, bố nhớ không?” Alex liếc qua vai nhìn cô con gái. Khi anh quay lại, Katie đang mỉm cười gửi tiền
“Chỉ cần gọi là Katie thôi,” cô nói.
“Rất vui được quen cô, Katie.” Anh xoay khóa, ngăn kéo của quầy thanh toán kêu reng reng rồi mở ra. “Cô sống quanh đây thì phải?”
Cô không thể mở miệng trả lời. Thay vì thế, khi anh ngước mắt lên, anh thấy đôi mắt cô lạc đi vì sợ hãi. Xoay người qua một bên, anh thấy cái cô đã thấy trên màn hình máy tính: Josh rơi xuống nước, vẫn mặc nguyên quần áo, hai tay chới với, hoảng hốt. Alex thấy cổ họng mình đột ngột thít lại và theo bản năng anh vội vã chạy ra khỏi quầy, băng qua gian hàng vào phòng kho. Chạy ào qua cửa, anh thúc đổ một thùng giấy vệ sinh, làm nó lăn lốc, nhưng anh không chậm bước lại.
Anh đẩy tung cửa sau, adrenalin trào lên trong cơ thể khi anh đâm bổ qua một vạt những bụi cây, chạy tắt ra bến neo thuyền. Anh chạy hết tốc lực trên những tấm ván gỗ. Khi lao ngưòi xuống nước từ bến thuyền, anh thấy Josh đang chới với, hai cánh tay quẫy liên hồi.
Tim đập thình thịch vào mạn sườn, Alex lao ra vội vã, rẽ nước tới cách Josh chỉ chừng nửa mét. Nước không sâu, chỉ khoảng hai mét, và khi chạm vào lớp bùn mềm dưới đáy, anh đứng trên gót chân. Anh vùng ngoi lên mặt nước, thấy cánh tay căng ra khi với tới Josh.
“Bố ôm được con rồi!” anh hét. “Bố ôm được con rồi!”
Nhưng Josh vẫn đang vùng vẫy và ho sặc sụa, thở không ra hơi, và Alex cố bình tĩnh khi anh kéo con ra chỗ nước nông hơn. Rồi bằng một nỗ lực hết mình, anh kéo Josh lên bờ sông ngập cỏ, đầu anh diễn ra những lựa chọn: hô hấp nhân tạo, rửa ruột, trợ thở. Anh cố đặt Josh xuống, nhưng thằng bé chống cự. Josh đang vùng vẫy và ho gấp, dù chính Alex còn cảm thấy toàn thân hoảng hốt, nhưng anh vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng điều đó có nghĩa Josh gần như sẽ không sao.
Anh không biết đã mất bao lâu - có lẽ chỉ mấy giây thôi, nhưng cảm giác như rất lâu - cuối cùng Josh ho sặc mạnh một cái, phun nước ra, và thở lại được lần đầu tiên. Thằng bé hít vào thật mạnh và ho, rồi lại hít vào và ho, lúc này trông giống như thể thằng bé làm thế để thông họng vậy. Thằng bé hít một hơi dài, trông vẫn đầy sợ hãi, và dường như đến lúc này nó mới nhận thứ được là chuyện gì vừa xảy ra.
Thằng bé níu lấy bố nó, Alex liền bọc chặt con trong vòng tay mình. Josh bắt đầu khóc, vai nó run lên, và Alex thấy lòng quặn thắt khi nghĩ tới điều có thể đã xảy ra. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh không để ý thấy Katie đang nhìn chằm chằm màn hình máy tính? Nếu trễ mất một phút thì sao? Câu trả lời cho những câu hỏi ấy khiến anh run rẩy không kém gì Josh.
Đúng lúc ấy, tiếng thổn thức của Josh chậm lại và thằng bé thốt ra những từ đầu tiên kể từ lúc Alex kéo nó lên khỏi mặt nước.
“Con xin lỗi bố,” nó nói nghèn nghẹt.
“Bố cũng xin lỗi,” Alex cũng thì thầm đáp lại, và anh vẫn ôm con, vẫn cảm thấy sợ hãi như thể nếu anh thả con ra thì thời gian sẽ bắt đầu quay trở lại, nhưng lần này, hậu quả sẽ khác.
Khi cuối cùng cũng có thể nới lỏng vòng tay ôm con, Alex thấy mình đang nhìn về phía đám đông trong cửa hàng. Roger đang ở đó, các thực khách cũng vậy. Hai người khách khác đang ngó cổ ra, chắc họ vừa đến. Và tất nhiên, Kristen cũng ở đó. Đột nhiên anh lại cảm thấy mình chẳng khác nào một ông bố tồi, bởi vì anh thấy cô con gái bé bỏng cũng đang khóc, sợ hãi và cần anh, dù con bé đang nép mình trong vòng tay Katie.
Phải tới khi cả hai bố con đã thay quần áo khô xong Alex mới hoàn hồn được trước những gì vừa xảy ra. Roger đã làm cho bọn nhỏ hamburger và khoai tây chiên, cả hai đứa đang ngồi tại một bàn ở khu đồ nướng, dù chẳng đứa nào có vẻ có tâm trạng để ăn uống.
“Lúc cái thuyền rời bến thì dây câu của con mắc vào đấy, mà con thì không muốn mất cái cần câu. Con cứ nghĩ cái dây sẽ đứt ngay nhưng không ngờ nó lại kéo con xuống làm con phải nuốt một ngụm nước. Xong rồi con không thở được, cảm giác như có cái gì ghì con xuống ấy.” Josh chần chừ. “Con nghĩ con làm rơi cần câu xuống sông mất rồi.” Kristen đang ngồi bên cạnh thằng bé, mắt vẫn sưng đỏ. Con bé đã xin Katie ở lại một lúc, và giờ cô vẫn đang ở bên cạnh, nắm lấy tay nó.
“Được rồi con. Chốc nữa bố tìm xem sao, và nếu không tìm được thì bố sẽ mua cho con cái mới. Nhưng nếu lần sau có chuyện như thế thì con phải kệ nó luôn đi, được không?”
Josh sụt sịt rồi gật đầu. “Con rất xin lỗi bố,” thằng bé nói.
“Đó chỉ là một tai nạn thôi,” Alex trấn an con. “Nhưng giờ bố sẽ không cho con đi câu nữa.”
Và liều lĩnh để mất con lần nữa ư? Alex nghĩ. Còn lâu. Nhưng thay vì nói thẳng, anh bảo, “Bố con mình nói chuyện này sau nhé?”
“Nếu con hứa lần sau sẽ kệ nó thì sao hả bố?”
“Bố nói rồi, chúng ta sẽ bàn chuyện này sau. Giờ thì sao con không ăn chút gì đi nhỉ?”
“Con không đói.”
“Bố biết. Nhưng đến bữa trưa rồi, con phải ăn thôi.” Josh lấy một miếng khoai tây chiên kiểu Pháp rồi cắn một mẩu, nhai trệu trạo. Kristen cũng làm vậy. Khi ngồi vào bàn ăn, con bé lúc nào cũng bắt chước anh trai. Điều đó luôn khiến Josh bực điên lên, nhưng lúc này nó không còn hơi sức đâu để phản đối nữa.
Alex quay sang Katie. Anh nuốt khan, bỗng nhiên cảm thấy căng thẳng. “Tôi có thể nói chuyện vói cô một phút được không?”
Cô đứng dậy khỏi bàn, anh liền dẫn cô đi khỏi chỗ bọn trẻ. Khi đã đi đủ xa mà anh nghĩ bọn trẻ không nghe thấy nữa, anh hắng giọng. “Tôi muốn cảm ơn cô về những gì đã làm.”
“Tôi đâu có làm được gì,” cô phản đối.
“Có đấy,” anh nói. “Cô đã giúp. Nếu lúc ấy cô không nhìn vào màn hình máy tính thì tôi cũng không biết có chuyện gì xảy ra. Có thể tôi sẽ không đưa được thằng bé lên kịp thời.” Anh ngừng lại. “Và nữa, cảm ơn cô vì đã chăm sóc Kristen. Nó là con bé đáng yêu nhất trên đời, nhưng cũng rất nhạy cảm. Tôi thật vui vì cô đã không để con bé lại một mình. Ngay cả khi chúng tôi phải lên nhà thay đồ.”
“Ai cũng sẽ làm như tôi thôi,” Katie khăng khăng. Trong bầu không khí im lặng sau đó, cô đột nhiên nhận ra họ đang đứng rất sát nhau nên vội lùi một bước. “Giờ thì có lẽ tôi phải đi thật rồi.”
“Đợi chút,” Alex nói. Anh đi về phía khu đông lạnh ở cuối cửa hàng. “Cô có thích rượu vang không?”
Cô lắc đầu. “Thỉnh thoảng thôi, nhưng...”
Cô chưa kịp dứt câu thì anh đã quay người, mở tủ. Anh với tay lên lôi ra một chai vang trắng.
“Xin cô đấy,” anh nói, “tôi muốn cô nhận nó. Đây đúng là một chai rất ngon. Tôi biết cô không nghĩ mình có thể tìm được một chai rượu ra hồn ở đây, nhưng khi còn tại ngũ, một người bạn đã vỡ lòng cho tôi cách chọn rượu. Anh ấy là một chuyên gia a ma tơ, và anh ấy chính là người đã chọn rượu cho cửa hàng này. Cô sẽ thích nó cho mà xem.”
“Anh không cần phải làm vậy đâu.”
“Ít nhất tôi cũng phải làm được thế này chứ.” Anh mỉm cười. “Xem như một cách để cảm ơn cô.”
Lần đầu tiên từ khi gặp nhau, cô nhìn thẳng vào đôi mắt anh. “Thôi được,” cuối cùng cô đáp.
Sau khi cho hàng mua vào túi, cô rời cửa hàng. Alex trở lại bàn hai đứa trẻ ngồi. Dỗ dành thêm chút nữa thì Josh và Kristen cũng ăn xong bữa trưa, trong khi ấy Alex đi tới bến neo thuyền để tìm lại cái cần câu. Khi anh quay trở lại, Joyce đã khoác xong tạp dề lên người, anh bèn đưa bọn trẻ đi tập xe đạp. Sau đó, anh lái xe chở các con tới Wilmington để xem phim và ăn pizza, những việc đã quen thuộc khi anh ở bên bọn trẻ. Khi mấy bố con về đến nhà thì mặt trời đã lặn và tất cả đều đã thấm mệt, họ bèn đi tắm và mặc pyjama. Anh nằm trên giường giữa hai con suốt một tiếng đồng hồ, đọc truyện cho chúng nghe, cuối cùng tắt hết đèn đi.
Trong phòng khách, anh bật ti vi và chuyển tìm các kênh suốt một lúc, nhưng không định xem. Thay vì thế, anh lại nghĩ về Josh, và dù biết cậu con trai đã an tàn trên gác, anh vẫn cảm thấy nỗi sợ cồn cào như lúc trước, vẫn là cái cảm giác thất bại. Anh đã làm hết sức mình và không ai có thể yêu các con nhiều hơn anh, nhưng anh không thể ngừng nghĩ rằng chẳng hiểu sao như thế vẫn là chưa đủ.
Sau đó, rất lâu sau khi Josh và Kristen đã ngủ say, anh vào bếp lấy một chai bia trong tủ lạnh ra. Anh ngồi xuống đi văng tu ừng ực. Những ký ức ban ngày chập chờn trong tâm trí anh, nhưng lần này, ý nghĩ của anh hướng về cô con gái và cách con bé bám lấy Katie, khuôn mặt trẻ thơ rúc vào cổ cô.
Anh nhớ rằng lần cuối cùng anh nhìn thấy thế là khi Carly còn sống.