Đôi khi cố gắng hết sức cũng chưa đủ, mà còn phải làm những gì cần làm.

Sir Winston Churchill

 
 
 
 
 
Tác giả: Hugh Laurie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Gun Seller
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 27
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1495 / 11
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Hai
uốt một thời gian dài tôi thường đi ngủ sớm.
MARCEL PROUST
Trở về căn hộ, tôi lập tức kiểm tra hộp thư thoại như thường lệ. Hai tiếng bíp bíp vô nghĩa, một số gọi nhầm máy, một là của người bạn, bị đứt đoạn ngay ở câu đầu, tiếp theo là ba người mà tôi không muốn nghe, nhưng giờ buộc phải gọi lại.
Trời ơi, tôi ghét cái máy đó quá.
Tôi ngồi xuống bàn xem các thư tới trong ngày. Tôi ném mấy cái hóa đơn vào thùng rác rồi chợt nhớ ra là đã chuyển cái thùng rác vào trong bếp rồi - bởi vậy tôi đâm ra bực dọc, nhồi hết đống thư còn lại vào một ngăn kéo, và từ bỏ ý nghĩ rằng làm những việc vặt thì đầu óc sẽ tỉnh táo hơn.
Bấy giờ đã quá muộn không thể mở nhạc to, nên món giải trí duy nhất tôi có thể tìm thấy trong nhà là whisky, thế là tôi lượm một cái cốc và một chai Gà Gô trắng Trứ danh, rót vài lóng tay rượu, rồi đi vào trong bếp. Tôi cho thêm nước để nó vừa đủ thành một cốc Gà Gô trắng Bình dân rồi ngồi vào bàn với một cái máy ghi âm bỏ túi, bởi có ai đó đã từng bảo tôi rằng cứ nói thật to lên là có thể làm sáng tỏ mọi thứ. Tôi hỏi nó có hiệu nghiệm với những lời nịnh hót không. Họ nói không, nhưng lại hiệu nghiệm với bất cứ thứ gì phiền nhiễu tinh thần anh.
Tôi cho băng vào máy rồi gạt nút thu. “Các diễn viên chính,”tôi nói. “Alexander Woolf, cha của Sarah Woolf, chủ nhân của ngôi nhà kiểu Georgia xinh xắn ở đường Lyall, Belgravia, ông chủ của những tay thiết kế nội thất mù quáng và đầy oán thù, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Gaine Parker. Đàn ông da trắng bí ẩn, người Mỹ hoặc Canada, khoảng năm mươi. Rayner. Người to lớn, hung dữ, đã được đưa vào viện. Thomas Lang, ba mươi sáu, ở căn hộ D, số 42 Westbourne Close, cựu nhân viên Lực lượng Cảnh vệ Scotland, xuất ngũ với hàm đại tá. Sự thật, cho tới lúc này được biết, là như thế.”
Tôi không biết tại sao cái máy ghi âm lại khiến tôi nói ra như thế, nhưng đúng là vậy.
“Gã đàn ông lạ mặt đã cố thuê T.Lang giết A.Woolf một cách bất hợp pháp. Lang đã từ chối công việc với tư chất một người tử tế. Có kỷ luật. Nhã nhặn. Một quý ông.”
Tôi làm một ngụm whisky đầy, đoạn nhìn cái máy thu, tự hỏi liệu có lúc nào tôi mở đoạn độc thoại này cho ai nghe không. Một gã kế toán bảo tôi rằng mua cái máy là một hành động khôn ngoan, bởi vì tôi có thể lấy lại tiền hoàn thuế. Nhưng vì đã không đóng chút thuế nào, lại chẳng có nhu cầu sử dụng máy ghi âm, và cũng chẳng lấy gì làm tin tưởng tay kế toán, tôi đã cho cái máy này là một trong những thứ tôi ít muốn mua hơn cả.
Ây dà!
“Lang tới nhà Woolf, với ý định cảnh báo ông ta về khả năng bị ám sát. Woolf đi vắng. Lang đã quyết định triển khai một cuộc điều tra.”
Tôi ngừng lại một lát, và một lát đó hóa ra lại thành một lúc lâu, bởi thế tôi nhấp thêm chút whisky rồi nằm xuống cạnh cái máy ghi âm, ngẫm ngợi.
Điều duy nhất tôi đã điều tra được là từ “gì đấy” - cụm từ mà tôi cố lắm mới kịp lôi ra khỏi miệng trước khi bị Rayner cầm ghế phang. Ngoài cái đó ra, tất cả những gì tôi đã làm là đánh gần chết một người sau đó bỏ đi, rồi thì cầu mong, khá nhiệt thành, rằng mình đã giết hắn chết hẳn. Và anh sẽ không thực lòng muốn những thứ kiểu như thế được lưu lại đâu đó trênbăng từ trừ phi anh biết anh đang làm gì. Ngạc nhiên thay, lúc đó tôi lại không biết mình đang làm gì.
Tuy vậy, tôi đã đủ tỉnh táo để nhận ra Rayner, thậm chí cả trước khi tôi biết tên hắn. Không dám chắc là hắn đã theo dõi tôi, nhưng tôi lại rất giỏi ghi nhớ các khuôn mặt - bù lại cho khả năng nhớ tên người khác thì vô cùng tệ hại - và khuôn mặt Rayner lại không dễ quên chút nào. Phi trường Heathrow, quán bar ở khu nhà Devonshire Arms đường King, và lối vào đường hầm quảng trường Leicester là đã đủ thành một đoạn quảng cáo, thậm chí cả cho một thằng đần như tôi.
Tôi có cảm giác rằng cuối cùng thể nào chúng tôi cũng chạm mặt nhau, thế nên tôi đã chuẩn bị trước bằng một chuyến viếng thăm cửa hàng điện tử Blitz ở đường Tottenham Court, ở đó tôi chi hai bảng tám mươi xu mua một đoạn ba mươi phân cáp điện có đường kính lớn. Dẻo, nặng tay, đoạn cáp này dùng để quật bọn trộm cướp tốt hơn bất cứ loại dùi cui chuyên dụng nào. Lúc duy nhất nó không có tác dụng làm vũ khí là khi anh để nó trong ngăn kéo xó bếp, còn nguyên giấy gói chưa bóc. Đúng là lúc đó thì nó chẳng có tác dụng gì mấy thật.
Về lão da trắng bí ẩn đã ngỏ lời thuê tôi làm sát thủ, hừm, tôi không nuôi nhiều hy vọng lần được dấu vết lão. Hai tuần trước đây, tôi ở Amsterdam, hộ tống một tay chơi cá ngựa chuyên nghiệp người Manchester luôn khổ sở tin rằng ông ta có những kẻ thù tàn bạo. Ông ta thuê tôi để được yên tâm chơi bời. Bởi thế tôi giữ cửa xe cho ông ta, kiểm tra các tòa nhà tìm mấy tay bắn tỉa mà tôi thừa biết là chẳng có mống nào ở đấy, và rồi đốt hết bốn mươi tám tiếng mệt nhoài ngồi với ông ta trong câu lạc bộ đêm, nhìn ông ta ném tiền ra mọi nẻo, trừ chỗ mình. Khi cuối cùng ông ta đã kiệt sức, tôi vác xác lên phòng khách sạn xem phim sex trên ti vi. Chuông điện thoại rung - đương giữa một cao trào đặc biệt, theo tôi nhớ - và một giọng đàn ông mời tôi xuống quầy bar uống rượu.
Tôi kiểm tra để đảm bảo tay cá ngựa chuyên nghiệp đã được ấp kín an toàn trên giường nhờ một ả điếm xinh đẹp ấm áp, rồi lẳng lặng xuống lầu với hy vọng không tốn bốn chục bảng nốc vài cốc rượu với gã bạn cũ nào đấy hồi còn quân ngũ.
Nhưng hóa ra giọng nói trên điện thoại lại thuộc về một tấm thân béo lùn vận đồ vest đắt tiền mà chắc chắn tôi không hề quen biết. Và cũng không hề muốn biết, cho tới khi lão đút tay vào trong túi áo khoác, lôi ra một xấp ngân phiếu dày bằng cả người tôi.
Ngân phiếu nhà băng Mỹ. Có thể dùng mua hàng hóa và dịch vụ trên hàng nghìn cửa hàng bán lẻ toàn thế giới. Lão đẩy tờ giấy bạc một trăm đô la qua bàn sang chỗ tôi, bởi vậy trong năm giây tôi đã khá thích anh bạn nhỏ bé này, nhưng rồi, gần như ngay lập tức, tình yêu đó chết rụi.
Lão nói với tôi vài tin “cơ bản” về một người đàn ông tên Woolf - nơi ông ta sống, việc ông ta làm, tại sao ông ta làm việc đó, làm việc đó ông ta được bao tiền - rồi lão nói với tôi rằng tờ bạc trên bàn có một nghìn người bạn bé nhỏ, và chúng sẽ tìm đường vào ví tôi nếu mạng sống của Woolf được kết liễu một cách bí mật.
Tôi phải chờ cho tới khi khu quầy rượu chúng tôi ngồi vắng người hơn, mà tôi biết là sẽ không lâu lắm. Với giá bán rượu ở đây, có lẽ chỉ có đôi chục người trên thế giới có thể nán lại uống cốc thứ hai.
Khi quầy đã vắng tanh, tôi rướn người về phía lão béo ục ịch và tuôn cho lão một bài. Đó là một bài diễn thuyết tẻ nhạt, dẫu thế lão vẫn lắng nghe rất chi chăm chú, bởi vì tôi đã thò tay xuống dưới gầm bàn nắm lấy bìu dái lão. Tôi nói cho lão biết tôi là loại người như thế nào, sai lầm mà lão đã phạm phải là gì, và tiền của lão có thể dùng để chùi cái gì. Thế rồi chúng tôi ai đi đường nấy.
Chỉ có thế. Đó là tất cả những gì tôi biết, và tay tôi đang đau. Tôi lên giường đi ngủ.
Tôi đã mơ rất nhiều thứ nhưng không kể ra đây kẻo làm anh ngượng mất, và cuối cùng tôi hình dung mình đang phải hút bụi tấm thảm trải sàn. Tôi cứ hút mãi, hút mãi, nhưng dù có làm gì đi nữa cái vết trên tấm thảm vẫn không tài nào biến mất.
Rồi tôi nhận ra rằng mình đã thức giấc, và cái vết bẩn trên tấm thảm là ánh nắng mặt trời vì có ai đó vừa kéo rèm ra. Trong chớp mắt tôi cuộn mình lại, căng cứng, đúng tư thế sẵn sàng nhào tới ăn thua đủ, tay bóp đoạn cáp điện, tim đầy máu cuồng sát.
Nhưng rồi tôi nhận ra rằng đó cũng chỉ là mơ, và thực ra việc tôi đang làm là nằm trên giường, nhìn vào một cánh tay to đùng lông lá ở sát mặt mình. Cánh tay biến mất để lại một chiếc cốc bốc hơi nghi ngút, và mùi một thứ trà phổ biến được bán với nhãn hiệu PG Tips. Có lẽ trong khoảnh khắc chớp mắt đó tôi đã xác định được rằng những kẻ đột nhập nhà ta để cắt cổ ta sẽ không đun nước sôi và không mở rèm cửa sổ. “Mấy giờ rồi?”
“Tám giờ ba lăm. Tới giờ ăn sáng rồi, ngài Bond.”
Tôi ngồi dậy, nhìn qua phía Solomon. Anh ta vẫn lùn và vui vẻ như mọi khi, vẫn với cái áo mưa màu nâu nhợt nhạt anh ta mua từ mặt sau của tờ Tin tức Chủ nhật.
“Tôi nghĩ là anh đến điều tra một vụ trộm cơ đấy?” Tôi hỏi và dụi mắt cho tới khi những đốm sáng màu trắng bắt đầu xuất hiện.
“Vụ trộm nào thế, thưa ngài?”
Solomon gọi tất cả mọi người là “ngài” trừ cấp trên của anh ta.
“Vụ trộm chuông cửa nhà tôi,” tôi nói.
“Nếu như ngài, với vẻ châm biếm kia, đang ám chỉ tới việc tôi lặng lẽ vào tư gia này, thì tôi xin được nhắc ngài rằng tôi là một người thực hành phép phù thủy. Và những người thực hành muốn đạt được yêu cầu thì phải luyện tập. Giờ hãy ngoan ngoãn ra đóng bộ đi nào. Chúng ta sẽ muộn mất đấy.”
Anh ta biến vào trong bếp, tôi nghe thấy tiếng lách cách và ro ro của cái lò nướng bánh mì từ thế kỷ mười bốn của tôi.
Tôi vùng dậy khỏi giường, nhăn mặt vì tay trái nghe như nằng nặng, quàng lên người chiếc áo sơ mi và quần dài, đoạn cầm dao cạo điện vào trong bếp.
Solomon đã dọn cho tôi một chỗ ở bàn bếp, để vài lát bánh mì vào một cái đĩa mà tôi thậm chí không biết rằng mình có. Trừ khi anh ta mang theo nó tới đây, nhưng chuyện đó thì khó xảy ra. “Thêm trà nhé, cha cố?”
“Muộn cái gì?” Tôi hỏi.
“Một cuộc hẹn, thưa ông chủ, một cuộc hẹn. Nào, ngài có cà vạt chứ?”
Đôi mắt lớn màu nâu của anh ta nhấp nháy nhìn tôi đầy vẻ hy vọng.
“Tôi có hai cái,” tôi nói. “Một là của câu lạc bộ Garrick, mà tôi không phải là thành viên, còn cái kia thì đang dùng để buộc cái bồn rửa mặt cố định vào tường.”
Tôi ngồi xuống bàn thì nhận ra anh ta còn kiếm đâu ra được một lọ mứt cam Dundee hiệu Keiller. Thực sự tôi chưa bao giờ biết anh ta làm thế nào, nhưng Solomon có thể lục lọi trong thùng rác và lôi ra một chiếc ô tô nếu anh ta phải làm việc ấy. Một kẻ đồng hành rất hữu ích để cùng đi vào sa mạc.
Có thể đó là nơi chúng tôi đang chuẩn bị tới.
“Thưa ông chủ, thế ngài lấy gì để trả các hóa đơn lúc này?” Anh ta ghé nửa mông lên bàn nhìn tôi ăn.
“Tôi hy vọng là anh sẽ trả.”
Món mứt rất ngon, và tôi muốn chén cho hết, nhưng có thể thấy rằng Solomon đang sốt ruột muốn đi. Anh ta nhìn đồng hồ rồi biến vào trong phòng ngủ, ngồi ở ngoài tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta sột soạt trong tủ quần áo, cố tìm cho ra một cái áo khoác.
“Ở dưới gầm giường ấy,” tôi nói vọng vào. Tôi nhặt cái máy thu âm ở trên bàn lên. Băng vẫn còn ở bên trong.
Tôi vừa uống vội cốc trà thì Solomon bước vào mang theo một chiếc áo hai hàng khuy, thiếu mất hai cúc. Anh ta chìa nó ra như một người hầu. Tôi vẫn ngồi im một chỗ.
“Ồ, ông chủ,” anh nói. “Đừng có khó tính, khi mùa gặt chưa xong và những con la vẫn quần quật ngoài đồng.”
“Nói cho tôi biết chúng ta sẽ đi đâu.”
“Xuống phố, trong một chiếc xe bự chảng bóng lộn. Ngài sẽ thích cho mà xem. Và trên đường về có khi ngài còn được ăn kem nữa.”
Chậm rãi, tôi đứng dậy mặc áo vào. “David,” tôi nói.
“Vẫn đây, thưa ông chủ.”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Anh ta trề môi ra và hơi nhăn mặt lại. Hỏi kiểu gì tệ quá. Tôi vẫn cương quyết.
“Tôi đang gặp rắc rối gì à?” Tôi hỏi.
Anh ta càng nhăn nhó hơn, rồi nhìn tôi với đôi mắt trầm tĩnh, điềm đạm.
“Có vẻ thế.”
“Có vẻ thế?”
“Có một đoạn cáp điện loại nặng trong ngăn kéo kia. Vũ khí ưa thích của ông chủ trẻ trung.”
“Thì sao?”
Anh ta mỉm cười lịch sự. “Rắc rối cho ai đó.”
“Ồ, thôi đi David,” tôi nói. “Tôi có cái đó đã hàng tháng nay rồi. Định để buộc hai thứ vào gần nhau thôi mà.”
“Vâng. Hóa đơn từ hai ngày trước. Vẫn còn ở trong túi.” Chúng tôi nhìn nhau một lúc.
“Xin lỗi ông chủ,” anh nói. “Pháp thuật. Đi nào.”
Đó là một chiếc xe Rover, có nghĩa rằng nó là xe công. Chẳng ai lái những chiếc xe hợm hĩnh đến ngu ngốc này, với những đồ gỗ và da bọc ngớ ngẩn, được gắn hời hợt vào những chỗ nối và rãnh ở bên trong xe, trừ khi họ buộc phải làm thế. Và chỉ có chính phủ và ban giám đốc của Rover mới phải đi loại xe này.
Tôi không muốn phá bĩnh Solomon trong khi anh ta lái xe, bởi anh ta thường hồi hộp mỗi khi làm việc này, thậm chí còn không thích nếu như có người bật radio lên. Anh ta mang nào là găng lái xe, mũ lái xe, kính lái xe và một vẻ mặt lái xe, và anh ta nắm vô lăng trong tay hệt như người ta vẫn làm cho tới bốn giây sau khi họ vượt qua bài thi lấy bằng lái. Nhưng khi chúng tôi chậm rãi đi qua đoàn diễu hành kỵ binh, với vận tốc khoảng trên dưới hai mươi lăm dặm một giờ, tôi nghĩ có thể mạo hiểm xem sao.
“Tôi không có cơ hội biết người khác cho rằng tôi đã làm gì sao?”
Solomon nghiến răng và nắm vô lăng thậm chí còn chặt hơn, tập trung cao độ trong khi chúng tôi đi qua một đoạn đường rộng rãi vắng vẻ. Khi kiểm tra xong tốc độ, vòng quay, nhiên liệu, áp suất dầu, nhiệt độ, thời gian, dây an toàn, hai lần liền, anh ta quyết định là đã có đủ khả năng trả lời.
“Điều mà lẽ ra ngài nên làm,” anh ta nói, qua hàm răng nghiến chặt, “là xử sự tốt và cao thượng, như ngài vẫn luôn thế.”
Chúng tôi đỗ vào sân sau của Bộ Quốc phòng. “Tôi đã không thế à?” Tôi hỏi.
“Bính boong. Bãi đỗ xe. Chúng ta đã chết và đã tới thiên đàng.”
Bất chấp một biển báo an ninh cỡ lớn thông báo rằng toàn thể Bộ Quốc phòng đang được đặt ở tình trạng báo động an ninh cấp độ cam, gác cổng vẫn cho chúng tôi đi qua mà chẳng thèm hé mắt.
Tôi nhận ra rằng cảnh vệ của Anh vẫn luôn như thế; trừ khi anh thực sự làm việc trong tòa nhà mà họ đang gác, trong trường hợp đó họ sẽ kiểm tra mọi thứ của anh từ những chỗ trám răng tới cái gấu quần để xem có phải anh chính là cái người mới đi ra ngoài mua bánh sandwich mười lăm phút trước không. Nhưng nếu anh là một khuôn mặt lạ, họ sẽ cho anh đi thẳng vào, bởi vì họ sẽ quá ngượng khi phải làm phiền anh, thẳng thắn mà nói là vậy.
Nếu anh muốn một địa điểm được canh gác tử tế, hãy thuê tụi Đức.
Solomon và tôi đi lên ba cầu thang, qua nửa tá hành lang cùng hai thang máy, dọc đường anh ta phải đăng ký mấy lần tên tôi, cho tới khi chúng tôi đến một cánh cửa màu xanh lá đậm có biển đề C118. Solomon gõ cửa, rồi chúng tôi nghe thấy một giọng phụ nữ vọng ra bảo “Đợi đã” và sau đó “Được rồi”.
Bên trong là một bức tường cách cửa tầm một mét. Và giữa bức tường với cửa, trong cái khoảng không gian chật hẹp khó tin đó, có một cô gái áo màu chanh ngồi ở bàn, với cái máy chữ, bình cây cảnh, cốc đựng bút chì, búp bê lông thú và những xếp giấy màu cam. Thật không thể tin nổi là có ai hay thứ gì có thể hoạt động được trong một không gian như thế. Như thể ta đột nhiên phát hiện có cả một bầy hải ly đang trú trong giày của mình vậy.
Nếu như bạn đã từng chứng kiến điều đó.
“Ông ấy đang chờ các ông,” cô nói, hồi hộp đưa cả hai tay giữ cái bàn sợ chúng tôi làm rơi thứ gì.
“Cảm ơn, cô,” Solomon vừa nói vừa lách qua bàn.
“Người mắc chứng sợ không gian lớn à?” Tôi vừa hỏi vừa đi theo anh ta, và nếu như chỗ đó rộng hơn thì chắc tôi đã đạp cho mình một cái, bởi vì hẳn cô ấy phải nghe điều đó ít nhất năm mươi lần một ngày.
Solomon gõ cánh cửa phía trong, sau đó chúng tôi đi thẳng vào.
Mỗi nửa mét vuông mà người thư ký mất đi thì cái văn phòng này nuốt hết.
Ở đây trần nhà cao, các cửa sổ ở hai bên treo những tấm rèm lưới do chính phủ trang bị và giữa các cửa sổ là một cái bàn cỡ sân quần vợt. Đằng sau chiếc bàn ấy, một cái đầu hói đang cúi xuống, rất tập trung.
Solomon đi thẳng tới bông hồng ở giữa tấm thảm Ba Tư, còn tôi chọn một vị trí sát ngay vai trái anh ta.
“Thưa ông O’Neal,” Solomon nói. “Lang đã tới.”
Chúng tôi cứ chờ.
O’Neal - nếu đó là tên thật của ông ta, thì tôi còn ngờ- trông giống như tất cả những người ngồi sau bàn giấy rộng. Người ta thường nói chủ nào chó nấy, nhưng tôi vẫn luôn cho rằng câu đó cũng đúng, nếu không muốn nói còn đúng hơn, khi nói về chủ nhân của những cái bàn và những cái bàn của họ. Đó là một bộ mặt bè bè, phẳng đét, đôi tai cực lớn phẳng lì, và rất nhiều chỗ hữu dụng để chứa kẹp giấy. Thậm chí cả chuyện ông ta không có râu cũng tương đồng với lớp véc ni Pháp sáng bóng của cái bàn. Ông ta mặc áo cánh đắt tiền, và tôi không thấy chiếc áo khoác nào trong phòng cả.
“Tôi nghĩ chúng ta đã hẹn lúc chín rưỡi cơ mà,” O’Neal nói mà không nhìn lên hay xem đồng hồ.
Giọng nói của ông ta không đáng tin chút nào. Nó cố bắt chước cái kiểu èo uột của quý tộc, nhưng còn khuya mới được như quý tộc. Nó căng sít và the thé, và giá như vào lúc khác có lẽ tôi đã cảm thấy thương cho ngài O’Neal. Nếu như thực sự đó là tên ông ta. Điều mà tôi vẫn hoài nghi.
“Tôi xin lỗi, xe cộ đông quá,” Solomon nói. “Chúng tôi đã cố tới đây nhanh hết sức rồi.”
Solomon nhìn ra ngoài cửa sổ, như thể để nói rằng anh ta làm xong việc của mình rồi. O’Neal nhìn anh ta chằm chằm, đoạn liếc sang tôi, rồi quay trở lại với công việc đang-đọc-cái-gì- đó-quan-trọng của mình.
Vì Solomon đã đưa tôi tới an toàn, và không cớ gì anh ta phải chịu rắc rối, tôi quyết định đã đến lúc khẳng định mình một chút.
“Chào buổi sáng, ông O’Neal,” tôi nói, giọng to đến độ xuẩn ngốc. Âm thanh vọng lại từ các bức tường phía xa. “Tiếc là bây giờ không tiện cho lắm. Như thế cũng không hề tốt cho cả tôi nữa. Tại sao không để thư ký của tôi cùng với thư ký của ông bố trí một cuộc gặp khác? Thực ra, sao không để các thư ký của chúng ta ăn trưa cùng nhau? Để thế giới này được đặt đúng trật tự của nó.”
O’Neal nghiến hai hàm răng vào nhau một chốc, rồi ngước lên tôi với cái nhìn mà hẳn nhiên ông ta nghĩ là xuyên thấu được tâm can.
Khi đã nhìn no mắt, ông ta bỏ tập giấy xuống đoạn đặt hai tay lên mép bàn. Rồi ông ta nhấc tay lên đặt vào lòng mình. Rồi ông ta trở nên khó chịu với tôi vì tôi đã quan sát ông ta thực hiện những hành động kỳ quặc đó.
“Ông Lang,” ông ta nói. “Ông nhận ra mình ở đâu chứ?” Ông ta mím môi vẻ thành thục.
“Tôi biết chứ, thưa ông O’Neal. Tôi đang ở phòng C188.”
“Ông đang ở trong Bộ Quốc phòng đấy.”
“Hừm. Cũng khá đẹp. Có cái ghế nào quanh đây không?”
Ông ta lại nhìn tôi trừng trừng, rồi hất cằm về phía Solomon, anh ta liền đi qua cửa và kéo về một thứ nhái theo kiểu đầu thế kỷ mười chín, đặt vào giữa tấm thảm. Tôi vẫn ởchỗ cũ.
“Ngồi xuống đi, ông Lang.”
“Cảm ơn, tôi thích đứng hơn,” tôi nói.
Giờ ông ta nóng mũi thực sự. Hồi còn đi học bọn tôi thường làm những trò kiểu này với một thầy giáo dạy địa lý. Ông thầy rời trường sau hai học kỳ và trở thành mục sư ở quần đảo Western.
“Ông biết gì về Alexander Woolf, thưa ông?” O’Neal vươn người ra trước, chống tay lên mặt bàn, và tôi thoáng thấy một cái đồng hồ đeo tay vàng chóe. Quá nhiều vàng đến nỗi chẳng là vàng nữa.
“Người nào?” ông ta cau mặt.
“Ông hỏi ‘người nào’ là thế nào? Thế ông biết mấyAlexander Woolf?”
Tôi khẽ nhích môi, đếm nhẩm. “Năm.”
Ông ta thở dài bực dọc. Đúng thế, thầy ơi, hạ hỏa đi chứ.
“Các người tên Alexander Woolf mà tôi đang đề cập tới,” ông ta nói, với giọng chế giễu thông thái rởm đặc trưng mà tất cả những người Anh ngồi bàn giấy sớm hay muộn rồi thì cũng mắc phải, “có một ngôi nhà ở đường Lyall, Belgravia.”
“Đường Lyall. Tất nhiên rồi.” Tôi tặc lưỡi. “Thế thì là sáu.”
O’Neal bắn cái nhìn về phía Solomon, nhưng không nhậnđược sự trợ giúp nào từ đó. Ông ta quay lại tôi, với một điệu cười làm sởn gai ốc.
“Tôi đang hỏi ông, ông Lang, ông biết gì về ông ấy?”
“Ông ta có một ngôi nhà ở đường Lyall, Belgravia,” tôi nói. “Thế có giúp gì được ông không?”
Lần này O’Neal thử một chiến thuật khác. Ông ta hít một hơi dài rồi thở ra từ từ, có ý làm cho tôi nghĩ rằng dưới cái khuôn mặt phúng phính đó ẩn chứa một cỗ máy giết người đã được bôi trơn, và chỉ cần hai bước chân là ông ta có thể nhào qua cái bàn đó và đập chết tôi. Đó là một màn trình diễn hết sức đáng thương. Ông ta thò tay vào ngăn kéo, lôi ra một cặp tài liệu màu da bò, rồi bắt đầu lật giở với vẻ giận dữ.
“Ông ở đâu vào mười rưỡi tối qua?”
“Lướt ván buồm ở Bờ Biển Ngà,” tôi nói, gần như trước cả khi ông ta hỏi hết câu.
“Tôi đang hỏi ông rất nghiêm túc đấy, ông Lang,” O’Neal nói. “Tôi khuyên ông, một cách chân thành nhất, là nên trả lời tôi một cách nghiêm túc.”
“Còn tôi xin thưa rằng đó không phải chuyện của ông.”
“Chuyện của tôi...”, ông ta bắt đầu.
“Chuyện của ông là bảo vệ.” Tôi đột nhiên gào lên, gào thật sự, và từ khóe mắt tôi có thể thấy Solomon quay lại nhìn. “Và thứ mà ông được trả lương để bảo vệ là quyền của tôi, cái quyền được làm gì mình muốn mà không phải trả lời hàng tá câu hỏi chó chết.” Tôi dịu giọng lại. “Còn gì nữa không?”
Ông ta không trả lời, bởi vậy tôi quay người bước về phía cửa. “Chào anh, David,” tôi nói.
Solomon cũng không trả lời. Tôi vừa đặt tay vào núm cửa thì O’Neal lên tiếng.
“Lang, tôi muốn ông biết rằng tôi có thể bắt giữ ông ngay giây phút ông rời khỏi tòa nhà này.”
Tôi quay lại và nhìn ông ta. “V ì cái gì?”
Đột nhiên tôi không thích chuyện này. Tôi không thích bởi vì, lần đầu tiên kể từ khi tôi bước vào, O’Neal trông đầy thư giãn.
“Âm mưu giết người.”
Căn phòng trở nên yên tĩnh.
“Âm mưu?” Tôi hỏi.
Anh biết bị tắc tị giữa dòng sự việc là thế nào chứ. Thông thường, từ ngữ được chuyển từ não bộ xuống khoang miệng, và tại điểm nào đó dọc đường truyền anh dừng chúng lại một lát để kiểm tra xem chúng có thực sự là những gì anh đã đặt hàng và có được gói ghém cẩn thận hay không, trước khi anh gửi tới vòm họng để phát ra ngoài không khí.
Nhưng khi anh bị tắc tị giữa dòng, cái phần kiểm tra trong tâm tưởng của anh đã không hoàn thành nhiệm vụ.
O’Neal đã thốt ra bốn chữ “Âm mưu giết người”.
Cái cụm mà tôi nên nhắc lại bằng giọng điệu hoài nghi đáng lẽ ra phải là “giết người”; nhưng trong bốn chữ đó cái mà chắc chắn tôi không nên chọn để nhắc lại là “âm mưu”.
Tất nhiên, nếu như chúng tôi nói chuyện lại, tôi sẽ làm mọi việc khác đi rất nhiều. Nhưng chúng tôi đã không làm thế.
Solomon đang ngó tôi, và O’Neal đang ngó Solomon. Bản thân tôi thì đang bận rộn với cái chổi và gàu hót ngôn từ.
“Ông đang nói cái quái gì thế? Ông thực sự không có gì hay ho hơn để làm à? Nếu ông đang nói về chuyện tối hôm qua thì ông nên biết, nếu ông đã đọc bản khai của tôi, rằng tôi chưa bao giờ gặp người đàn ông đó, rằng lúc ấy tôi đang tự vệ trước một vụ tấn công bất hợp pháp, và trong khi vật lộn hắn... đã đập vào đầu hắn.”
Tôi chợt nhận ra những mệnh đề đó mới khập khiễng làm sao.
“Cảnh sát,” tôi tiếp tục, “đã tuyên bố rằng họ hoàn toàn hài lòng, và...”
Tôi dừng lời.
O’Neal ngả lưng vào ghế và đặt cả hai tay ra sau đầu. Một mảng mồ hôi rộng cỡ đồng mười xu hiện ra mỗi bên nách ông ta.
“Ồ, tất nhiên, họ có thể tuyên bố rằng họ hài lòng mà,đúng không?” Ông ta nói, nhìn hết sức tự tin. Ông ta chờ tôi nói điều gì đó, nhưng chẳng có gì xuất hiện trong đầu tôi cả nên tôi cứ để ông ta tiếp tục. “Bởi vì họ đã không biết những gì mà hiện giờ chúng tôi biết.”
Tôi thở dài.
“Ôi Chúa ơi, tôi phấn khích với cuộc nói chuyện này quá, e chảy máu cam mất. Cái điều quan trọng chết tiệt, quan trọng đến nỗi làm tôi bị lôi đến đây vào cái giờ này, các ông biết nó là gì chứ?”
“Bị lôi đến?” Ông ta nói, lông mày nhướng lên tới tận đường chân tóc. Ông ta quay về phía Solomon. “Ông đã lôi ông Lang tới đây à?”
O’Neal đột nhiên trở nên cợt nhả và nghịch ngợm, và đó là cảnh tượng đáng buồn nôn. Hẳn Solomon cũng buồn nôn như tôi, bởi vì anh ta không trả lời.
“Tôi đến tổn thọ vì ở trong căn phòng này mất thôi,” tôi bực bội nói. “Vào thẳng vấn đề đi.”
“Rất tốt,” O’Neal nói. “Giờ chúng tôi đã biết, nhưng cảnh sát lúc đó không biết, rằng tuần trước ông đã có cuộc gặp bí mật với một tay buôn vũ khí người Canada tên là McCluskey. McCluskey đã ướm ngỏ ông một trăm ngàn đô la nếu ông chịu... kết liễu Woolf. Theo chúng tôi biết, ông đã xuất hiện tại ngôi nhà của Woolf ở Luân Đôn và đã bị chặn lại bởi một người tên là Rayner - còn có tên là Wyatt hay Miller - về pháplý được Woolf thuê về làm vệ sĩ. Chúng tôi biết rằng hậu quả của vụ đụng độ đó là Rayner đã bị trọng thương.”
Dạ dày tôi dường như đã co lại bằng kích thước của một quả bóng crickê. Một hột mồ hôi đang tụt xuống sống lưng tôi một cách hết sức vớ vẩn.
O’Neal tiếp tục. “Dù ông đã kể gì với cảnh sát đi nữa, chúng tôi vẫn biết không chỉ có một mà hai cuộc gọi tới tổng đài 999 đêm qua; cuộc đầu tiên chỉ gọi xe cứu thương, cuộc thứ hai gọi cảnh sát. Hai cuộc gọi cách nhau mười lăm phút. Chúng tôi biết là ông đã khai tên giả cho cảnh sát, vì những lý do gì thì chúng tôi chưa xác minh được. Và cuối cùng,” ông ta nhìn tôi như một ảo thuật gia tồi với một cái mũ đựng đầy thỏ, “chúng tôi biết rằng khoản tiền hai mươi chín ngàn bốn trăm bảng, tương đương năm mươi ngàn đô la Mỹ, đã được chuyển vào tài khoản ngân hàng của ông tại quận Swiss Cottage bốn ngày trước.” Ông ta gập phắt hồ sơ lại và mỉm cười. “Khai vị thế ổn không?”
Tôi đang ngồi trên cái ghế giữa văn phòng của O’Neal. Solomon đã chạy đi pha cà phê cho tôi và trà hoa cúc cho chính anh ta, thế giới dường như chuyển động chậm lại một chút.
“Thế này,” tôi nói, “hiển nhiên là tôi đã bị cài bẫy, vì một lý do nào đó.”
“Hãy giải thích cho tôi nghe nào, thưa ông Lang,” O’Neal nói, “tại sao kết luận đó lại là hiển nhiên?”
Ông ta lại trêu đùa rồi. Tôi hít thật sâu.
“Thì, trước tiên tôi phải nói với ông là tôi không biết tí gì về số tiền đó cả. Ai mà chẳng làm được chuyện đó, từ bất cứ ngân hàng nào trên thế giới. Điều đó dễ thôi mà.”
O’Neal làm một màn trình diễn ấn tượng: mở nắp chiếc bút máy Parker Doufold và ghi nhanh điều gì đó xuống một mảnh giấy. “Và rồi cô con gái xuất hiện,” tôi nói. “Cô ta nhìn thấy vụ đánh nhau. Cô ta đã làm chứng cho tôi trước cảnh sát đêm qua. Tại sao các ông không đưa cô ta tới đây?”
Cánh cửa mở ra và Solomon quay lại, anh ta đang giữ ba chiếc cốc thăng bằng. Anh ta đã bỏ chiếc áo mưa màu nâu ở đâu đó và giờ đang mặc áo len kiểu thể thao có khóa kéo cùng màu. Rõ ràng là O’Neal thấy khó chịu vì chiếc áo, thậm chí tôi còn thấy nó không ăn nhập chút nào với những thứ còn lại trong phòng.
“Tôi đảm bảo với ông, chúng tôi sẽ thẩm vấn cô Woolf vào lúc thuận tiện,” O’Neal nói trong khi cẩn thận nhấp một ngụm cà phê. “Tuy nhiên, mối quan tâm trước mắt của Bộ là ông. Ông Lang, ông đã được yêu cầu thực hiện một vụ ám sát. Có được ông cho phép hay không thì tiền cũng đã được chuyển vào tài khoản ngân hàng của ông. Ông xuất hiện ở ngôi nhà của mục tiêu và suýt giết chết vệ sĩ của ông ấy. Rồi sau đó ông...”
“Dừng một phút,” tôi nói. “Chết tiệt, dừng một phút cái đã. Mấy chuyện vệ sĩ này là sao? Woolf thậm chí còn không ở đó cơ mà.”
O’Neal trừng mắt nhìn tôi bằng cái kiểu điềm tĩnh thật đáng tởm.
“Ý tôi là,” tôi tiếp tục, “làm sao một vệ sĩ lại bảo vệ được một người không ở trong cùng tòa nhà với hắn ta? Bằng điện thoại à? Vệ sĩ kỹ thuật số chắc?”
“Ông đã lùng sục ngôi nhà, phải không ông Lang?” O’Neal chất vấn. “Ông đã tới ngôi nhà đó để tìm kiếm Alexander Woolf?” Một nụ cười nguy hiểm xuất hiện trên môi ông ta.
“Cô ta bảo tôi là ông ấy không ở đó,” tôi nói, bực mình vì vẻ khoái chí của ông ta. “Và dù gì đi nữa, thôi mẹ nó đi.”
Ông ta lưỡng lự một chút.
“Dù sao đi nữa,” cuối cùng ông ta lên tiếng, “trong trường hợp đó thì sự hiện diện của ông trong căn nhà ấy cũng đáng để chúng tôi dành thời gian và công sức quý báu lắm chứ.”
Tôi vẫn không thể làm mọi thứ cho ra đầu ra đũa được.
“Tại sao?” Tôi nói. “Tại sao lại là các ông mà không phải cảnh sát? Cái ông Woolf đó có gì đặc biệt vậy?” Tôi hết nhìn O’Neal rồi lại đến Solomon. “Và nếu đúng vậy thì có gì đặc biệt ở tôi vậy chớ?”
Điện thoại trên bàn O’Neal kêu reng reng, ông ta liền chộp lấy bằng một cử chỉ khoa trương, hất cái dây ra sau khuỷu tay khi đưa ống nghe lên tai. Ông ta nhìn tôi trong khi nghe điện thoại.
“Vâng? Vâng... Thực vậy. Cảm ơn.”
Cái ống nghe đã được đặt lại vào giá và nằm yên ngay tức thì. Nhìn cách ông ta xử lý nó, tôi dám chắc rằng nói chuyện điện thoại là một tuyệt kỹ của ông ta.
Ông ta nguệch ngoạc gì đó lên giấy rồi gật đầu ra hiệu Solomon đi tới chỗ bàn. Solomon nhìn tờ giấy, rồi cả hai cùng nhìn tôi.
“Ông có súng không, ông Lang?”
O’Neal hỏi với một điệu cười niềm nở đầy hữu dụng. Quý khách muốn đặt ghế ngồi dọc lối đi hay gần cửa sổ hơn ạ? Tôi bắt đầu cảm thấy phát ớn.
“Không, tôi không có.”
“Ông có từng tiếp xúc với bất kỳ loại súng nào?”
“Không, kể từ khi tôi rời quân ngũ.”
“Rồi,” O’Neal nói, và tự gật đầu với mình. Ông ta dừng lại một lúc lâu, kiểm tra tờ giấy để bảo đảm cho chắc những chi tiết mình có được là hoàn toàn đúng. “Thế thì có lẽ thông tin về một khẩu súng lục Browning 9 ly, với 15 viên đạn, được tìm thấy trong căn hộ của ông có lẽ sẽ làm ông ngạc nhiên?”
Tôi ngẫm nghĩ.
“Tôi còn ngạc nhiên hơn vì căn hộ của tôi đang bị lục soát.” “Đừng bận tâm chuyện đó.”
Tôi thở dài.
“Được thôi,” tôi nói. “Không, tôi không hoàn toàn ngạc nhiên.”
“Ý ông là gì?”
“Ý tôi là tôi bắt đầu hiểu rõ ngày hôm nay sẽ như thế nào.” O’Neal và Solomon trông thần mặt ra. “Ồ, thôi nào,” tôi nói.
“Bất kỳ người nào định bỏ ra ba mươi ngàn bảng để làm tôi giống một tay súng đánh thuê thì có lẽ cũng sẽ không ngại lẳng thêm ba trăm bảng để làm tôi giống một tay súng đánh thuê mang sẵn súng mà ông ta có thể thuê được.”
O’Neal nghịch nghịch môi dưới một lúc, dùng ngón tay cái và ngón trỏ vặn vẹo nó sang cả hai bên.
“Tôi đang gặp rắc rối ở đây, phải không ông Lang?”
“Ông á?”
“Đúng, tôi nghĩ là tôi đang gặp phải rắc rối,” ông ta nói. Ông ta bỏ tay ra khỏi môi, và cái môi cứ ở nguyên tình trạng đó, trề ra như một củ hành, như thể nó không muốn trở lại hình dạng ban đầu vậy. “Hoặc ông là một sát thủ, hoặc là có kẻ nào đó đang cố để làm ông giống một sát thủ. Vấn đề là tất cả chứng cứ tôi có được đều cân bằng giữa hai khả năng. Thật sự là rất khó khăn.”
Tôi nhún vai.
“Hẳn vì thế mà họ cho ông cái bàn to đến vậy,” tôi nói.
Cuối cùng thì họ đành để tôi đi. V ì lý do nào đó, họ không muốn dính dáng tới cảnh sát trong một vụ tàng trữ vũ khí trái phép, và Bộ Quốc phòng, theo tôi được biết, lại không có buồng giam của riêng họ.
O’Neal yêu cầu tôi xuất trình thẻ căn cước, và trước khi tôi kịp bịa ra rằng đã làm mất trong máy giặt thì Solomon đã lôi nó từ túi quần sau ra. Tôi được căn dặn phải giữ liên lạc và phải cho họ biết nếu như có bất kỳ người lạ mặt nào nữa tiếp cận tôi. Tôi cũng chẳng thể làm gì khác hơn là đồng ý.
Rời tòa nhà và đi lang thang qua công viên Thánh James trong một ngày nắng tháng Tư hiếm hoi, tôi cố xem liệu mình có cảm thấy khác chút nào không, khi biết rằng Rayner chỉ gắng làm công việc của anh ta. Tôi cũng tự hỏi tại sao tôi không biết anh ta là vệ sĩ của Woolf. Hoặc thậm chí ông ta có vệ sĩ.
Nhưng quan trọng hơn, quan trọng hơn thế nhiều là: Tại sao cô con gái của Woolf lại không biết những việc đó?
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm