If we are peaceful, if we are happy, we can smile, and everyone in our family, our entire society, will benefit from our peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: H.y.schandler
Thể loại: Lịch Sử
Dịch giả: Nguyễn Mạnh Hà
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1328 / 40
Cập nhật: 2016-07-14 17:40:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1: Quyết Định Can Thiệp 1964-1965
huyện ấy đến rất nhẹ nhàng và chúng ta nhúng tay vào như thế nào, hầu như cũng không ai để ý. Có thể nói là không xảy ra một hành động nào gọi là quyết định hay không thể đảo ngược, ngay cả với khá nhiều những loại hành động mà ta có thể phản đối nếu tính riêng rẽ đơn độc, ấy thế mà khi đem kết hợp chúng lại, lại làm cho chúng ta lâm vào tình trạng chiến tranh tại lục địa châu Á mà chẳng có ai thật sự lên tiếng phản đối khi chúng ta đang làm việc ấy" (1).
Năm 1965 là năm xảy ra những quyết định chính và lịch sử liên quan đến mức độ nỗ lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam làm biến đổi tính chất của chiến tranh và vai trò của Hoa Kỳ trong đó. Tứ 1965 trở đi việc can thiệp của Hoa Kỳ gia tăng theo những giai đoạn chậm chạp và cứ mỗi khi sắp bước thêm một bước khác nữa lại có những lần khắc khoải duyệt lại chính sách, ở những cấp cao nhất trong chính quyền.
Tuy nhiên xuyên suốt quá trình cuộc can thiệp này chẳng có mấy ai trong giới làm chính sách liên quan đến việc duyệt chính sách và việc quyết định này có vẻ có khả năng nhìn xa thấy rộng trong tương lai, đề ra được một chiến lược toàn diện mạch lạc dài hạn để thực hiện được các mục tiêu đặc biệt của Hoa Kỳ.
Từ ngày lật đổ chính quyền Diệm hồi tháng 11-1963 cho đến cuối mùa Đông, trong tháng 2 và 3-1964, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã bắt đầu thấy rõ thêm mà trước đây chưa thấy rằng tình hình tại Việt Nam đang suy sụp quá tồi tệ đến mức nỗ lực Hoa Kỳ đầu tư vào đấy từ trước đến nay không thể thay đổi được chiều hướng.
Cũng trong thời kỳ này người ta càng thấy rõ thêm rằng những bài báo đã quá lạc quan đến mức độ cường điệu về sự tiến triển khả quan trong việc tiến hành chiến tranh và mặc dù đã có Hoa Kỳ thực hiện tình trạng ổn định chính trị. Washington càng lo ngại Hoa Kỳ bất lực trong khả năng chặn đứng sự sụp đổ sắp xảy ra của Chính phủ Nam Việt Nam một khi càng nhận thức rằng nước đồng minh mà Hoa Kỳ đã tăng sự gắn bó đang bước vào tình trạng sắp sụp đổ về chính trị và quân sự. Vì thế Tổng thống đã phải cương quyết duyệt lại đường lối sắp tới của Hoa Kỳ trong chiến tranh.
Ngày 8-3-1964 Tổng thống Johnson đã phái Bộ trưởng Quốc phòng Robert G.Mc.Namara và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Đại tướng Maxwell D.Taylor qua Việt Nam để đích thân xem xét tình hình tại chỗ và phúc trình của họ đã được đệ trình lên Tổng thống ngày 1-5-1964 rồi được chấp thuận ngay ngày hôm sau.
Kế hoạch được đề cập trong văn kiện này mang ký hiệu NSAN 288. (Bị vong lục 288 của Hội đồng An ninh quốc gia) đòi hỏi phải gia tăng rất nhiều sự cam kết của Hoa Kỳ viện trợ cho Nam Việt Nam. Kế hoạch này chủ yếu nhấn mạnh vào việc tăng cường quân lực Nam Việt Nam bằng cách gia tăng cung cấp thêm cho họ những vũ khí mới để họ có thể tăng lực lượng vũ trang thêm 50.000 quân nữa và bằng cách tăng cường sự ủng hộ của Hoa Kỳ trên phương diện tài chính và chính trị cho Chính phủ Nam Việt Nam.
Tuy nhiên bản phúc trình Mc.Namara - Taylor hồi tháng 5-1964 đã đặc biệt bác bỏ những giải pháp sau đây:
1) Chấp nhận trung lập Việt Nam bằng cách phong tỏa không đưa thêm viện trợ.
2) Gây sức ép quân sự đối với Bắc Việt Nam.
3) Cung cấp thêm quân để nắm vững Sài Gòn; và
4) Nắm lấy trọn vẹn quyền chỉ huy quân sự tại Nam Việt Nam.
Tuy thế Mc.Namara vẫn khuyến cáo rằng nên có kế hoạch để Hoa Kỳ nắm quyền chủ động gây sức ép gia tăng từng bước về quân sự đối với Bắc Việt Nam nếu trong tương lai thấy cần đến.
Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (ngoài Đại tướng Taylor) tỏ ra nghi ngờ những biện pháp giúp đỡ có phần hạn chế nay sẽ đủ sức thích ứng để đảo ngược tình hình và đã khuyên Tổng thống nên có ngay những biện pháp quân sự chống Bắc Việt Nam. Khi bác bỏ lời khuyên của các cố vấn quân sự. Tổng thống đã nói rõ hai lý do chính tại sao ông chống lại một đường lối như vậy:
1) Cơ sở chính trị và quân sự tại Nam Việt Nam quá mong manh nên nếu Hoa Kỳ trực tiếp tham dự vào thì càng làm cho địch gia tăng hoạt động; và
2) Đánh vào miền Bắc có nguy cơ gây ra sự trả đũa của Liên Xô hay của Trung Quốc hoặc của cả hai.
Tuy nhiên ngay từ lúc đầu hình như đã thấy rõ ràng chương trình hạn chế này chắc sẽ không đủ. Tình hình chính trị biến động hầu như bất tận tại Sài Gòn đã phản ảnh qua việc tinh thần quân đội suy sụp dần dần tại nông thôn suốt mùa xuân qua cho đến tháng 7, khi kế hoạch của Hoa Kỳ được đem ra thực hiện. Cuộc tranh chấp giữa Công giáo và Phật giáo càng gia tăng. Chính quyền dân sự tại Nam Việt Nam vẫn tiếp diễn trong tình trạng xáo trộn và bất lực. Các đơn vị quân đội càng lùi về thế thụ động và càng mất tinh thần, nạn đào ngũ gia tăng và các hoạt động tác chiến hầu như ở trong tình trạng bế tắc.
Trong cùng một lúc ấy, quân Cộng sản càng củng cố các căn cứ yểm trợ của họ tại Lào một cách rõ rệt, gia tăng việc đưa binh lính và tiếp tế xâm nhập vào Nam Việt Nam và phát động thêm nhiều trận tấn công quy mô hơn, thường xuyên hơn và táo bạo hơn vào các tiền đồn của Chính phủ.
Ngoài các trung tâm đông dân cư và các địa phương có truyền thống quyền lực tôn giáo, phần nhân dân còn lại dần dần phải ngả sang phía Việt Cộng. “Vì phần lớn kể như bị bỏ mặc. Vụ rắc rối Vịnh Bắc Bộ đầy mâu thuẫn xảy ra ngày 4, 5 tháng 8 năm 1964 đã đẩy Hoa Kỳ vào cuộc trả đũa đầu tiên chống Bắc Việt Nam và đã tạo cơ hội cho Tổng thống đạt được một nghị quyết ủng hộ rộng rãi của Quốc hội (2).
Cuộc trả đũa nhanh chóng và sự ủng hộ hầu như nhất trí của Quốc hội đã chứng minh một cách hùng hồn sự gắn bó của Hoa Kỳ đối với Nam Việt Nam, một sự gắn bó được tiến hành mà chẳng bị chỉ trích hay thắc mắc nhiều trong nội bộ. Ngoài ra, việc Hoa Kỳ sử dụng vũ lực đối với Bắc Việt Nam đã thành tiền lệ.
Phấn chấn vớt việc trả đũa này và bất bình với tình trạng chính trị rối loạn tại Nam Việt Nam và sự bất lực hiển nhiên của các chương trình của Hoa Kỳ, nhiều quan chức và cơ quan trong nội bộ chính quyền chủ trương việc tiếp tục dùng vũ lực đối với miền Bắc cần phải được tiến hành với một nhịp độ gia tăng nhanh hơn nếu muốn đạt được kết quả bền vững trong việc chặn đứng tình hình suy sụp.
Tuy nhiên Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao vẫn liêp tục cảm thấy rằng những biện pháp ấy không bõ công mạo hiểm lôi cuốn Liên Xô hoặc Trung Quốc trả đũa và cũng không chắc gì có hiệu quả hơn nếu không có một chính quyền ồn định ở một mức đó nào đó tại Việt Nam (3).
Tuy thế, những sức ép đòi hỏi phải hành động mạnh hơn đã lên đến tột đỉnh trong một loạt các phiên họp chiến lược của quan chức chính quyền tại Washington hồi đầu tháng 6 năm 1964. Các đề nghị của các tư lệnh không quân và Hải quân yêu cầu mở ngay chiến dịch ném bom miền Bắc đều bị Tổng thống bác bỏ.
Tuy thế ông vẫn chấp thuận các công tác chuẩn bị trả đũa Bắc Việt Nam trên căn bản ăn miếng trả miếng nếu còn xảy ra trường hợp các lực lượng hay cơ sở của Hoa Kỳ bị tấn công. Hình như lúc ấy mọi người đều nhất trí nhấn mạnh nhu cầu cần phải củng cố thêm cho cơ cấu chính quyền Nam Việt Nam (4).
Nhưng trong số các cố vấn thân cận của Tổng thống hình như mọi người đều tán thành rằng sau khi đã cải thiện tình trạng ổn định chính trị của chính quyền Nam Việt Nam thì có lẽ Hoa Kỳ sẽ phải công khai dùng đến sức ép quân sự đối với Bắc Việt Nam vì nếu không có sức ép trực tiếp thì khó lòng ngăn chặn Bắc Việt Nam đỡ đầu cho việc nổi dậy tại miền Nam. Việc dự kiến có thể có nhu cầu dùng đến lực lượng Hoa Kỳ trong việc này càng thêm vững chắc trong thời gian còn lại của năm 1964 với sự suy sụp của cơ cấu chính trị tại Nam Việt Nam, với những bằng chứng cho thấy mức độ gia tăng của quân lính Bắc Việt xâm nhập vào Nam Việt Nam và với các hoạt động của các lực lượng Bắc Việt và Việt cộng tại miền Nam.
Tuy nhiên Hoa Kỳ cũng đã tự kiềm chế không trực tiếp dùng vũ lực trong lúc này. Tổng thống Johnson đang dính líu trong một cuộc vận động bầu cử, trong đó ông tự phô trương mình như là một ứng cử viên tiêu biểu cho lẽ phải và thận trọng tương phản với Harry Goldwater là con người hiếu chiến, tiền hậu bất nhất và vô trách nhiệm. Suốt thời kỳ vận động Johnson đã nói rõ ý định của ông không muốn lôi cuốn Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn tại lục địa châu Á
Thuyết trình tại Manchester, New Hampshire hồi cuối tháng 9 ông còn nhắc lại “Tôi chưa nghĩ rằng đã sẵn sàng để cho những thanh niên Hoa Kỳ ra chiến trường chiến đấu thế cho thanh niên châu Á. Việc mà tôi muốn tiến hành là làm sao cho những thanh niên ở Việt Nam đứng ra tự chiến đấu cho chính họ - chúng tôi sẽ không ném bom Bắc Việt Nam trong giai đoạn này của cuộc chiến". Vì thế người ta không để cho các quyết định gay go, kể cả những hoạt động của Hoa Kỳ sau đó tại Việt Nam có thể ảnh hưởng vào cuộc vận động.
Trong khi chưa hết năm 1964 đã có hai lần các lời khuyên đã được đưa ra yêu cầu bắt đầu các cuộc ném bom trả đũa Bắc Việt. Ngày 1-11 căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Biên Hòa đã bị Việt cộng tấn công gây nhiều thương vong và phá hủy nhiều máy bay. Việc nhằm riêng vào căn cứ không quân chính của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam là mục tiêu tấn công tàn phá là một biến cố chống Mỹ ngoạn mục và cố tình nhất từ trước tới nay trong cuộc chiến tranh.
Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cùng với đại tướng Maxwell D.Taylor bấy giờ là đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam nghĩ rằng cuộc tấn công này tạo lý do để trả đũa ngay Bắc Việt, một việc từng được xem xét trong hội nghị tháng 9 nên họ đã đề nghị việc ấy. Nhưng việc oanh kích này là một việc thực tế không thuận tiện ngay vào lúc sắp có cuộc bầu cử tổng thống nên đề nghị này đã bị bác bỏ.
Cũng tương tự, một vụ đánh bom vào một nơi trú quân của Hoa Kỳ tại Sài Gòn trước đêm Giáng sinh cũng đã gợi đề nghị ấy song cũng bị Tổng thống bác bỏ với lý do tương tự (5). Tuy rằng đại khái hồi tháng 9 mọi người cũng đã nhất trí về ý kiến gia tăng áp lực quân sự đối với Bắc Việt Nam. Tổng thống vẫn ngần ngại trong việc ra lệnh mở rộng chiến tranh theo chiều hướng này trước khi đạt được một mức độ nào đó về ổn định chính trị tại Nam Việt Nam. Ngoài ra theo thói quen. Tổng thống Johnson chưa chịu đi đến cái quyết định gay go này trước khi cân nhắc kỹ lưỡng đầy đủ tất cả các giải pháp sẵn có.
Do đó sau cuộc pháo kích vào Biên Hòa. nhưng trước cuộc bầu cử Tổng thống đã bổ nhiệm một toán công tác để tiến hành một cuộc xem xét toàn diện khác về chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam nhằm giúp ông những giải pháp và lời khuyên về hành động tại Việt Nam trong tương lai.
Sau gần một tháng thảo luận các cố vấn vẫn không tìm ra được một giải pháp hứa hẹn nào cả và trong cuộc hẹn ngày 4-12 với Tổng thống, họ chỉ lặp lại các lời khuyên cũ nhưng bây giờ buộc chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một chỉ bao hàm tiếp tục các hoạt động hiện tại trả đũa kiểu ăn miếng trả miếng đối vớt Bắc Việt khi họ tấn công vào các lực lượng Hoa Kỳ tại miền Nam và những nỗ lực gia tăng cải tổ và củng cố chính quyền Nam Việt Nam. Chỉ khi nào việc này được hoàn thành hoặc trên chiều hướng tiến triển tốt thì mới tiến hành giai đoạn hai, một chiến dịch gia tăng dần dần các cuộc oanh tạc Bắc Việt để làm cho họ bỏ ý định yểm trợ cho chiến tranh tại miền Nam.
Đây không phải là những ý kiến mới được đề xuất và cũng không thấy có viễn ảnh kết quả nhanh chóng. Tổng thống lại nhấn mạnh vì nhu cầu củng cố chính quyền Sài Gòn trước khi mở màn bất cứ hành động quân sự nào đánh Bắc Việt Nam. Ông chuẩn y giai đoạn hai và tán thành giai đoạn hai tối thiểu trên nguyên tắc. Tuy thế cũng thấy rõ ràng cho đến đấy Tổng thống cũng chưa có gì là gắn bó trong việc mở rộng chiến tranh qua những hoạt động quân sự chống Bắc Việt trong tương lai (6).
Trong cuộc duyệt lại chính sách này, người ta cũng có xét qua giải pháp Hoa Kỳ thôi không ủng hộ chính quyền Sài Gòn bất lực hiển nhiên trong việc tự củng cố lực lượng và tổ chức một chính quyền ổn định để tự bảo vệ. Tuy nhiên các đại diện Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã mạnh mẽ bác bỏ giải pháp này và lời phản kháng của họ đã có kết quả trong việc đặt nhẹ vấn đề này cho nên vấn đề này không được trình lên Tổng thống.
Tuy thế Johnson đã nghĩ đến giải pháp này và trong cuộc duyệt lại chính sách trong tháng 9, ông cũng đã hỏi các cố vấn xem phải chăng đã có vị nào nghi ngờ về việc "Việt Nam còn xứng cho ta cố gắng như thế”. Mọi người đều nhất trí rằng mất Nam Việt Nam thì tất cả Đông Nam Á sẽ mất theo (7) và Đại sứ Taylor nhìn nhận rằng trong tâm trí ông chưa bao giờ thoáng qua ý nghĩ đề nghị triệt thoái bằng cách có phần khôn khéo trút hết trách nhiệm cho Quốc hội trong việc Hoa Kỳ tham dự tại Việt Nam: “Quốc hội đã chẳng tuyên bố với vỏn vẹn hai phiếu chống rằng: "Hoa Kỳ coi việc duy trì hòa bình và an nình quốc tế tại Đông Nam Á rất thiết yếu cho quyền lợi quốc gia của họ và cho hòa bình thế giới?", một khi tính chất thiết yếu của nhiệm vụ chúng ta đã được xác nhận đầy uy tín như thế không một quan chức cấp cao nào đó có thể đang tâm nuôi dưỡng ý nghĩ rút lui".
Mặc dù hồi năm 1964 các Cố vấn của Tổng thống đã đi đến chỗ nhất trí rằng sẽ phải cần đến việc gia tăng áp lực quân đội đối với Bắc Việt Nam; sự nhất trí này cũng chưa phản ảnh được một chiến lược được xác định chính xác trên phương diện đường hướng sẽ được dùng sau đó cho hoạt động quân sự tại Việt Nam hoặc giả một mong ước của chung mọi người về kết quả mà việc gây sức ép sẽ đem lại.
Nói chung các nhà lãnh đạo quân sự tán thành biện pháp mạnh: dùng đến vũ lực một cách sôi động và hùng hậu vì chỉ còn cách ấy mới có thể gây sức ép đáng kể đối với Bắc Việt Nam. Như đã được đề cập biện pháp quân sự này sẽ ngăn chặn các đường xâm nhập vào Nam, phá hủy toàn bộ khả năng của miền Bắc trong việc cung cấp viện trợ cho quân nổi dậy trong ấy, bẻ gãy ý chí của Bắc Việt Nam trong việc tiếp tục viện trợ cho quân du kích Việt Cộng, khuyến khích chính quyền và dân chúng Nam Việt Nam và cuối cùng trừng phạt chính quyền Bắc Việt Nam về các hoạt động của họ tại miền Nam.
Các quan chức Bộ Ngoại giao và các quan chức quân sự Bộ Quốc phòng chủ trương một đường lối giải quyết từ từ và thận trọng hơn “với qui mô và cường độ tăng dần" trong đó triển vọng dùng áp lực mạnh hơn chắc tối thiểu cũng không kém phần quan trọng so với sự thiệt hại thật sự gây ra.
Như đã được dự kiến. Bộ Ngoại giao cũng lo nghĩ về các hệ quả của chính trị quốc tế do các biện pháp vũ lực này gây ra. Các quan điểm này hình dung việc gia tăng sức ép quân sự đối với Bắc Việt Nam như là cơ hội tạo cho Hoa Kỳ có thêm nhiều điểm thuận lợi trong việc thương thuyết sắp đến và như là biểu hiện làm cho Bắc Việt, cho các nước cộng sản khác và cho các đồng minh của chúng ta thấy rõ quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc cam kết chiến đấu chống lại các cuộc tấn công do bên ngoài hỗ trợ.
Chính cái "biểu hiện" này của quyết tâm của Hoa Kỳ đi cùng với bất cứ thiệt hại nào có thể thực sự gây ra cho Bắc Việt Nam là điểm đã được các nhà lãnh đạo dân sự nhấn mạnh.
Dù sao cũng không thiếu gì lý do để tấn cộng Bắc Việt Nam một khi việc Hoa Kỳ cam kết gắn bó với Nam Việt Nam đã được xác định. Rốt cuộc quyết định sử dụng vũ lực đối với miền Bắc sở dĩ mà có được hoàn toàn chẳng phải là có một lý lẽ thúc bách nào đã được đưa ra đòi hỏi việc ấy mà cũng chính vì chẳng có ý kiến nào khác được đề nghị. Mục tiêu chính là làm sao Bắc Việt Nam thôi không yểm trợ và chỉ đạo việc nổi dậy tại miền Nam nữa nhưng chưa thấy ai đồng ý về triển vọng của một kết quả như vậy hay về một chiến lược để đạt được kết quả ấy.
Và sự ngần ngại của Tổng thống trong việc chấp thuận các hành động này là vì đã dựa trên một sự tin tưởng rằng chính quyền Nam Việt Nam sẽ mạnh mẽ hơn và nhờ đó sẽ khỏi phải cần Hoa Kỳ gia tăng quân tham chiến và hoạt động quân sự.
Nhưng sự cải tiến để ổn định chính trị của chính quyền Sài Gòn không thành hình được. Cuộc tranh chấp quyền lực chính trị tại Sài Gòn đã gây trở ngại cho các cuộc hành quân vì lẽ rất nhiều đơn vị mạnh của quân đội Nam Việt Nam đã bị lưu giữ tại trung tâm Sài Gòn hay gần đó để đề phòng đảo chính.
Một sự thất bại rất nồi bật đã xảy ra trong thời kỳ 26-12-1964 và 2-1-1965 khi Việt Cộng hầu như tiêu diệt hai tiểu đoàn Nam Việt Nam tại Bình Giã. Đây là lần đầu tiên lực lượng địch dám quyết định lưu lại chiến trường và đương đầu với các lực lượng chính quyền trong những trận đánh kéo dài.
Lúc mới bước sang năm mới, chính quyền đã chìm đắm trong nỗi chán chường và lo âu nặng nề về nguy cơ sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Nam Việt Nam. Cuộc tranh cãi vẫn tiếp diễn tại Washington về các phương thức và phương tiện phát sinh ra được các biện pháp quân sự càng tích cực hơn, mạnh mẽ hơn chống Bắc Việt Nam - và đáng lưu ý nhất là về tính cách thích đáng và hiệu quả có thể có của các cuộc oanh kích trà đũa miền Bắc trong giai đoạn 2.
Tuy sự phấn khởi mong muốn các hoạt động này đang trên đà gia tăng nhưng vẫn còn rất hạn chế. Giới tình báo vẫn tỏ ra ít tin tưởng rằng các áp lực quân sự này sẽ có khá ảnh hưởng vào các đường lối hoặc các hành động của Hà Nội.
Thời gian xây dựng kế hoạch đầy do dự, những cuộc nghiên cứu và tranh cãi khắc khoải kéo dài hàng tháng đã đột ngột lên tiếng đến tột đỉnh hồi hộp lúc 2 giờ sáng ngày 7-1-1965 khi Việt cộng tiến hành nhiều cuộc tiến công đồng bộ và cực kỳ tai hại vào doanh trại các cố vấn Mỹ và một căn cứ trực thăng Hoa Kỳ gần Pleiku ở Nam Việt Nam. Các lính Mỹ đã tử trận trong hai cuộc tấn công và các thiệt hại về vật chất được kể như rất quan trọng.
Đây là một cuộc tấn công hùng mạnh nhất của cộng sản từ trước tới nay đánh vào các cơ sở quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam và cuộc tấn công đã xảy ra ngay vào lúc mới khởi đầu việc thủ tướng Liên Xô Kôsơghin đến thăm Hà Nội, một cuộc viếng thăm làm cho chính quyền cảm thấy Liên Xô sắp gia tăng viện trợ cho Hà Nội như đã dự kiến.
Cố vấn Tổng thống Ms. George Bundy lúc ấy đang có mặt tại Việt Nam. Từ bộ chỉ huy của Đại tướng Westmoreland ở Sài Gòn điện thoại về. Ông khuyến cáo thông qua Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng lúc ấy trả lời điện thoại trong phòng trực ban vùng ngoài các cuộc oanh kích trả đũa ngay tức khắc chống miền Bắc. Hoa Kỳ cần phải phát động giai đoạn của biện pháp quân sự đã dự định trước đây để chống Bắc Việt Nam.
Lần này Tổng thống cũng tỏ ra dứt khoát tương tự như đã từng biểu lộ 6 tháng trước đây trong vụ rắc rối Vịnh Bắc Bộ. Việc trả đũa Bắc Việt Nam đã được quyết định trong phiên họp 75 phút tại phòng họp nội các tối ngày 6-2 (giờ Washington) với sự hiện diện của lãnh tụ khối đa số thượng viện Ni ke Mansfield và Chủ tịch Hạ viện John Mac Cormick. Vị đại diện cao cấp nhất lúc ấy của Bộ Ngoại giao đã trình cho Tổng thống thấy rằng mọi người đều nhất trí rằng phải có biện pháp đối phó (9).
Các cuộc oanh kích trả đũa được máy bay của hải quân Hoa Kỳ tiến hành ngay 14 giờ đồng hồ tiếp theo sau đó đánh vào các doanh trại và các khu vực tập trung quân Bắc Việt ở Đồng Hới ngay phía Bắc khu phi quân sự. Hành động quan trọng này được hình dung lừ lâu trong các bản dự thảo của các nhà kế hoạch đã xúc tiến một loạt các sự cố chuyển biến nhanh chóng, đã thay đổi hẳn bản chất của chiến tranh Việt Nam và vai trò của Hoa Kỳ trong ấy.
Đồng thời nó cũng biến thành một hành động mở màn cho cái mà chẳng mấy chốc đã biến thành một giai đoạn hoàn toàn khác lạ của chiến tranh, đó là nỗ lực oanh tạc trường kỳ của Hoa Kỳ chống Bắc Việt Nam, như đại sứ Taylor đã trình bày “những điều kiềm tỏa từng hạn chế việc sử dụng ưu thế không quân của chúng ta đánh vào đất nước địch đã được giải tỏa và một giai đoạn mới trong chiến tranh đã mở màn" (10).
Các biến chuyển bắt đầu tiếp diễn nhanh chóng hơn tại Washington. Sau khi từ Việt Nam về ngày 8-2, ông Mc George Bundy đã đệ trình Tổng thống các kết luận mà nhóm ông đã đạt được liên quan đến tình hình Nam Việt Nam.
Bản phúc trình ấy viết: "Tình hình tại Việt Nam đang suy sụp và nếu Hoa Kỳ không có hoạt động thì chắc không thể tránh khỏi việc bại trận - có lẽ không phải trong vòng vài tuần lễ hay ngay cả vài tháng mà trong vòng năm sau hay đại khái như vậy! (11).
Bundy không thấy có cách gì "trút gánh nặng cho người Việt Nam" hoặc "thương lượng cho chúng ta rút ra khỏi Việt Nam", từ đó ông cho thấy rằng việc khai triển và thực thi một chính sách trường kỳ trả đũa Bắc Việt Nam là đường lối hành động đầy hứa hẹn nhất mà Hoa Kỳ có thể dùng được.
Ông nói tiếp: "Đây là quan điểm chung của tất cả mọi người từng đi chung với tôi từ Washington và tôi nghĩ rằng cũng là của mọi thành viên của toán Country (12) (Quê nhà).
Trong số những Cố vấn Tổng thống tại Washington chỉ có Phó Tổng thống Humphrey biểu lộ quan tâm về việc thực hiện điều khuyên chính đề cập trong phúc trình Bundy là việc oanh tạc trường kỳ trả đũa Bắc Việt Nam. Sự chống đối của Humphrey chính yếu căn cứ trên điều kiện chính trị nội bộ và ông đã dùng một biện pháp bất thường là nói rõ ý nghĩ của ông trong một bị vong lục trình Tổng thống (13).
Mặc dù các cố vấn của Tổng thống hầu như nhất trí tán thành việc trả đũa nhưng vẫn có bất đồng ý kiến về nhịp độ và qui mô. Runây và Đại sứ Taylor quan niệm theo một kế hoạch mềm dẻo, trong đó các hành động sắp xếp theo một lớp lang có chừng mực để đối phó tương xứng theo mức độ bạo lực và khủng bố của Việt Cộng tại miền Nam, áp lực quân sự chống miền Bắc có thể sẽ được giảm bớt nếu sự khủng bố của Việt cộng có thể thấy giảm bớt tại miền Nam. Mục đích không phải là thắng lợi trong trận chiến tranh bằng không lực chống Hà Nội mà là để ảnh hưởng vào đường hướng của cuộc chiến đấu tại miền Nam.
Mặt khác, giới quân sự nhấn mạnh rằng chương trình phải là một chương trình rất mạnh mẽ, một chương trình “áp lực gia tăng từng cấp" hơn là một “trả đũa theo từng mức độ" nói lên được xu hướng vững chắc và liên tục muốn đi đến chỗ thuyết phục Hà Nội cho họ thấy "sự hao tốn quá lớn... về các chương trình lật đổ, nổi dậy và xâm lược tại Đông Nam Á", nhu cầu viện cớ trả đũa cho các cuộc oanh kích sẽ giảm dần đi theo đà gia tăng của cường độ các cuộc oanh kích (14).
Nhờ địch mà Tổng thống lại có phần dễ dàng hơn trong việc quyết định. Trong một việc được một số người xem như là một hành động thách thức có tính toán, Việt Cộng lạt tiến hành một cuộc đột kích quan trọng khác đánh vào doanh trại binh sĩ Hoa Kỳ tại Qui Nhơn, Nam Việt Nam ngày 10-2-1965, gây cho Hoa Kỳ một tổn thất nhân mạng nặng nề nhất từ trước đến đây (23 quân nhân Mỹ chết).
Nội trong 24 giờ đồng hồ, quân Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã tiến hành một cuộc tập kích trả đũa lớn nhất chưa từng có (15). Ý nghĩ của Tổng thống trong lúc này đã được bộc lộ trong bản tin họp báo của Nhà Trắng ngày 11-2. Việc loan báo ném bom trả đũa lần này rất đáng để ý là các cuộc oanh tạc không còn được kể như là một việc trả đũa về vụ mới xảy ra, nhưng như là phản ứng thông thường hơn về một loạt dài "các hành động xâm lăng liên tục" đã từng xảy ra từ ngày 8-2 và đã từng được coi như những tiết mục bình thường của chiến tranh tại miền Nam (16).
Sự thay đổi này trong ngôn từ, từ "trả đũa" biến thành "phản ứng đối với việc xâm lăng liên tục". Rõ ràng là có dụng ý và đã phản ánh được quyết định tuy không công bố nhưng có ý muốn nới rộng khái niệm trả đũa đúng theo lời yêu cầu của các cố vấn và thực hiện việc ấy dần dần và càng êm thấm càng tốt.
Cho nên mặc dù cuộc oanh tạc ngày 11-2 mở màn cho chương trình ném bom kéo dài và liên tục mà bây giờ là lúc phát động, cuộc tấn công của Việt Cộng đã tạo điều kiện cho việc thay đổi đường lối này được tiến hành ít gây xúc động như thể đấy là một chuỗi dài hợp lý các biện pháp không thể tránh được để đáp ứng các thách thức của đối phương.
Ngày 13-2 Tổng thống Johnson chính thức chấp thuận một chương trình hành động cho Hoa Kỳ tại Việt Nam trong đó bao gồm các hoạt động "chừng mực và hạn chế” của không quân đánh phá các mục tiêu quân sự đã được lựa chọn tại Bắc Việt Nam. Chi tiết những cuộc oanh kích này mà Hoa Kỳ sẽ phải tiến hành chung với không quân Nam Việt Nam rất là sơ sài, cho thấy rằng Tổng thống vẫn muốn duy trì được thế linh động tối đa trên khía cạnh qui mô và tính chất của hoạt động này (17).
Mặc dù cuộc oanh kích của kế hoạch mới mang danh hiệu Rolling Thunder (Sấm Rền) đã được dự định vào ngày 30-5-1965, nhưng những vụ xáo trộn chính trị tại Nam Việt Nam đã gây trở ngại trong thủ tục đồng ý của chính phủ Nam Việt Nam và các cuộc oanh kích đành phải được hoãn hoài.
Tuy thế tình trạng xáo trộn chính trị lại Nam Việt Nam chưa phải là lý do độc nhất trong việc làm đình hoãn việc ném bom. Liên Xô dùng ngoại giao đưa ra đề nghị triệu tập lại hội đồng chủ tịch trong tinh thần Hiệp định Genève về Việt Nam để nghiên cứu giải quyết tình hình khủng hoảng hiện hành tại Việt Nam đã làm cho Washington hoãn lại các vụ ném bom để tránh gây khó khăn cho nỗ lực này.
Sáng kiến này rốt cuộc cũng vô bổ, chính quyền Nam Việt Nam đã có phần được ổn định và các cuộc ném bom đầu tiên của chiến dịch "Sấm Rền" đã được tiến hành đánh vào Bắc Việt Nam ngày 2-3-1965 (18). Cuộc oanh tạc kế tiếp xảy ra 11 ngày sau đó và chương trình này đã biến thành một loạt các cuộc tấn công bằng không quân có chừng mực và cách khoảng. Đánh vào miền Bắc thực hiện mỗi tuần một lần.
Phương thức được áp dụng nhằm để cho Tổng thống dễ dàng trong việc lựa chọn muốn xúc tiến gia tăng nhịp độ hay không tùy theo phản ứng của Bắc Việt Nam. Việc mơn trớn ngừng ném bom cũng có vẻ quan trọng không kém gì đòn tiếp diễn ném bom.
Tổng thống hình như vẫn nghĩ rằng việc oanh tạc toàn diện chắc sẽ đem lại nhiều nguy cơ làm lan rộng chiến tranh hơn, sẽ tỏ cho Hà Nội cùng với cả thế giới thấy những triệu chứng chiến tranh vượt hẳn ra ngoài các mục tiêu và ý đồ có giới hạn của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, có thể đem lại những hậu quả chính trị tai hại không thể chấp nhận được trong nội bộ, có thể cản trở triển vọng thực hiện các mục tiêu của Hoa Kỳ tương đối khỏi dùng đến nhiều vũ lực và sẽ không chắc gì làm Bắc Việt Nam giảm bớt ủng hộ cuộc nổi dậy tại miền Nam.
Tuy nhiên hầu như ngay tức thì sau khi phát động các cuộc oanh kích Sấm Rền, trong nội bộ chính quyền đã bắt đầu có nhiều cố gắng để làm cho chương trình này thêm phần mạnh bạo và liên tục hơn.
Bộ trưởng Quốc phòng MacNamara đã tỏ ra chưa vừa lòng với những thiệt hại quân sự do các cuộc oanh tạc gây ra và Đại sứ Taylor đã biểu lộ sự bất bình về cái mà ông xem như cách thức quá dè dặt không cần biết trong việc tiến hành các cuộc oanh lạc về khoảng cách quá xa giữa các cuộc oanh tạc và hiệu quả mập mờ lấp lửng. Ông khuyến cáo nên gia tăng cường độ và nhịp độ các cuộc oanh tạc ấy (19).
Tham mưu trưởng lục quân, Đại tướng Harold K.Johnson sau khi đi theo một chuyến công tác của Tổng thống nghiên cứu có thể làm gì để cải thiện tình hình tại Nam Việt Nam trở về ngày 14-3 cũng đã khuyên nên gia tăng qui mô và nhịp độ các cuộc oanh tạc và bãi bỏ các điều tự gò bó làm giảm hiệu lực việc oanh tạc. Theo lời báo cáo của Tướng Johnson: "Nhịp dộ các cuộc oanh kích trừng phạt không đủ để làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy rõ ý nghĩa các mục đích của Hoa Kỳ.
Tổng thống đã chấp thuận phần lớn kế hoạch của tướng Johnson và đến ngày 15-3-1965, chiến dịch Sấm Rền chống miền Bắc đã từ một công việc rời rạc ngập ngừng chuyển biến thành một nỗ lực điều hòa liên tục có ý nghĩa về quân sự (20).
Tuy thế Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng vẫn tiếp tục nắm vững công cuộc oanh tạc trong tầm tay một cách rất kỹ lưỡng. Chỉ tiến hành các cuộc oanh kích với các máy bay chiến đấu ném bom, bay thấp, áp dụng được các kỹ thuật ném bom chính xác. Việc lựa chọn mục tiêu đều do Washington quyết định cuối cùng và các nơi đông dân cư đều được tránh né kỹ lưỡng.
Bộ trưởng Quốc phòng đã qui định mức tối đa các phi vụ, ấn định các khu vực hoạt động của các phi vụ ấy và xác định các loại mục tiêu cần phải đánh phá.
Việc sử dụng các máy bay B-52 ném bom tại miền bắc cũng được đề cập nhưng không được chấp thuận. Các chương trình ném bom dài hạn có triển vọng làm cho hoạt động tại chiến trường đỡ bị gò bó hơn cũng không được chấp thuận.
Các đề nghị ném bom của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đệ trình cũng chỉ được chấp thuận theo từng nhóm mục tiêu còn phải được thông qua một loạt hệ thống chuẩn y tại Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, trong hệ thống này thường có cả Tổng thống và hai vị bộ trưởng.
Kế hoạch Sấm Rền đã được nới rộng về cường độ, phạm vi khu vực hoạt động và cách lựa chọn mục tiêu. Đến giữa năm 1965, số lượng các cuộc oanh tạc đã gia tăng từ số lượng vài vụ mỗi tuần lên đến 10-12 vụ mỗi tuần và số phi xuất đã lên đến số lượng 900 hàng tuần tăng gấp 4 hay 5 lần lúc ban đầu (21)
Trong những ngày cuối tháng 2 và suốt tháng 3, Chính quyền đã tiến hành vừa công khai vừa kín đáo việc biện hộ cho những lý do buộc phải oanh tạc Bắc Việt Nam. Cũng dễ tiên liệu được phản ứng của chính giới và của công chúng đối với các cuộc oanh kích lúc đầu. Đa số báo chí coi việc oanh tạc như là cần thiết và chính đáng, nhưng số đông đã phải lâm vào cảnh lầm lẫn hoặc hoài nghi một cách trầm trọng ngay trong việc không biết đường lối của Hoa Kỳ tại Việt Nam đang muốn gì và đang đi về đâu.
Tổng thống đã giành khá nhiều thì giờ với các nghị sĩ dân biểu quốc hội, thảo luận với họ tại văn phòng nhắc lại rằng ông vẫn tiếp tục chính sách của những vị tiền nhiệm và nhấn mạnh rằng ông đã phải tỏ ra rất tự kiềm chế và nhẫn nại (22).
Nhưng mặc dù đã đem hết tài thuyết phục ra sử dụng, ông vẫn không ngăn được làn sóng đả kích đang lên. Phong trào lên án cuộc ném bom đã lan sang các trường đại học và vào giới danh sĩ dân biểu quốc hội mỗi ngày một mạnh hơn lên.
Ngoài ra, mặc dù chính quyền vẫn mong ước chiến dịch ném bom Sấm Rền sẽ thuyết phục Hà Nội phải đi đến chỗ thương thuyết để chấm dứt chiến tranh hoặc ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền Nam để đánh đổi lấy việc ngừng ném bom nhưng nỗi mong ước cũng không thể thực hiện được.
Sau một tháng ném bom liên tục và đều đặn mà vẫn không thấy phản ứng của miền Bắc, thái độ lạc quan của chính quyền bị phai mờ. Mặc dù hoạt động quân sự địch tại miền Nam có giảm sút. Bắc Việt Nam tỏ vẻ đang tìm cách chống lại chiến dịch ném bom hạn chế và đang chuẩn bị đối phó với cuộc phong tỏa lâu dài trong khi vẫn tiếp tục yểm trợ cho Việt Cộng tại Việt Nam.
Bắc Việt Nam còn tỏ thêm thái độ ương ngạnh không chịu thương thuyết của họ bằng cách bác bỏ các đề nghị giảng hòa đưa ra trong một diễn văn đọc ngày 7-6 tại Trường Đại học John Hopbins và bằng cách không đáp ứng được một cách đầy đủ ý nghĩa cho các lời đề nghị đã được đưa ra trong thời gian ngưng ném bom suốt một tuần lễ từ 12-5 đến 18-5 (23). Cho nên đến khoảng giữa tháng 4-1965 thì đại khái người ta đã phải chịu nhận rằng muốn thu hút được Hà Nội đến bàn hội nghị, thì phải có một dấu hiệu gì chứng tỏ rằng Việt Cộng không thể thắng được tại miền Nam.
Nhưng chính quyền đã thôi không còn đặt nặng vấn đề chiến tranh bằng không quân nữa để chuyển sang các hoạt động của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Khoảng 9 giờ sáng ngày 8-4-1965. một bộ phận cỡ tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ đã đổ bộ lên bờ tại Đà Nẵng ở Nam Việt Nam. Một tiểu đoàn khác cũng đổ bộ bằng đường không cuối ngày hôm ấy.
Tuy tại Nam Việt Nam đã có sẵn hơn 80.000 quân nhân Hoa Kỳ hiện diện nhưng đây là lần đầu tiên có nguyên một đơn vị đánh bộ được bố trí nhiệm vụ giao phó cho hai tiểu đoàn bao gồm việc bảo đảm an ninh cho sân bay cùng với các cơ sở và tiện nghi yểm trợ của Hoa Kỳ, chỉ thị đã được nói rõ lực lượng lính thủy đánh bộ sẽ không, xin nhấn mạnh là không, tiến hành các cuộc hành quân thường ngày chống Việt Cộng (24).
Việc đổ bộ và nhiệm vụ giao phó cho các lực lượng này đều do lời đề nghị của đại tướng Westmeroland hôm 22-2-1965, ông đã tỏ ra lo ngại về khả năng của quân đội Nam Việt Nam trong việc bảo vệ căn cứ, từ đó căn cứ này các máy bay Hoa Kỳ xuất phát oanh tạc miền Bắc và tiến hành các phi vụ yểm trợ tại miền Nam.
Mặc dù đại sứ Taylor ủng hộ lời yêu cầu được đưa lính thủy đánh bộ đến Đà Nẵng của Đại tướng Westmeroland nhưng ông cũng đã tỏ ra rất dè dặt nghi ngờ khá nhiều về lợi ích của đường lối này, ông nghĩ rằng các căn cứ khác cũng có nhu cầu không kém gì về an ninh và một khi đã thấy rõ các lực lượng Hoa Kỳ đảm trách được nhiệm vụ này thì tiếp theo đó sẽ có thêm các công việc khác cho các đơn vị đánh bộ này. Mặc dù đã có những điểm dè dặt lưu ý như thế, đến ngày 26-2 đại sứ vẫn được thông báo là đoàn quân lính thủy đánh bộ sắp đến.
Việc các đơn vị đánh bộ của Hoa Kỳ đổ bộ vào Nam Việt Nam biểu hiện một sự biến làm điểm mốc quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ can thiệp tại Việt Nam. Đấy là một quyết định quan trọng hình thành không cần ầm ĩ, chẳng cần bàn cãi, hay trù tính gì nhiều. Trong khi phải mất cả một năm bàn cãi mới đưa ra được quyết định ném bom Bắc Việt Nam thì quyết định này về việc sẽ dùng lính thủy đánh bộ đã được đưa ra mà chẳng cần thảo luận gì nhiều tại các cấp cao nhất của chính quyền.
Đúng như lời Đại sứ Taylor đã dự kiến, việc sứ dụng lính thủy đánh bộ và việc bảo vệ các căn cứ cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Lính thủy đánh bộ vừa mới lên bờ chưa xong thì đã có nhiều đề xuất được đưa ra muốn cho lính thủy đánh bộ thực sự tham gia vào cuộc chiến đấu trên bộ.
Đề xuất đầu tiên trong số này xuất phát từ Đại tướng Harold K.Johnson, Tham mưu trưởng lục quân sau khi tham quan tại Việt Nam từ ngày 5 đến ngày 12-3 trở về. Mục đích của chuyến tham quan này là để xem có thể làm gì hơn nữa trong nội bộ Việt Nam và Tướng Johnson đã đề nghị bố trí thêm nguyên một sư đoàn Hoa Kỳ nữa để bảo vệ các căn cứ. Đến ngày 17-3, Tướng Westmoreland lại xin thêm một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nữa để bảo vệ Phú Bài, một căn cứ nằm ở phía Bắc Đà Nẵng.
Khi chuyển tiếp yêu cầu của Westmoreland, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cũng khuyên nên bố trí thêm một tiểu đoàn nữa ở Đà Nẵng. Ngoài ra ngày 20-3 Hội đồng tham mưu trưởng liên quân còn đệ trình một kế hoạch yêu cầu trển khai một lực lượng ba sư đoàn, hai của Hoa Kỳ và một của Nam Tiều Tiên (25).
Ngày 1 và 2-8-1965, Tổng thống đã họp với các cố vấn để duyệt lại toàn bộ các loại biện pháp quân sự và không quân sự có thể được tiến hành tại cả Nam lẫn Bắc Việt Nam. Nhưng trọng tâm các cuộc thảo luận rõ ràng đã chú trọng vào các hoạt động tại Nam Việt Nam và mối quan tâm chính của các nhà vạch ra chính sách là triển vọng triển khai thêm các lực ượng trên bộ của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam và nhiệm v sẽ được giao phó cho các lực lượng này.
Tuy đồng ý với vệc đưa thêm lính thủy đánh bộ vào Việt Nam nhưng Đài sứ' Taylor vẫn chống đốiviệc đưa thêm một sư đoàn Hoa Kỳ mà không tìm hiểu thêm về triển vọng,hiệu quả của đơn vị cấp ấy với những nhiệm vụ sẽ được giao phó. Theo lời Tổng thống Johnson,có nhiều vị cố vấn, mà Tông thống không cho biết tên, không tán thành cho thêm quân khá nhiều vào cuộc chiến tranh trên bộ (26).
Các quyết định của Tổng thống đã được công bố trong bị vong lục Hội đồng an ninh quốc gia 32 (NSAN 388) ngày 6-4-165, chuẩn y việc triển khai thêm hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một ở Đà Nẵng, một ở Phú Bài và việc tăng thêm 18.000 - 20.000 quân cho các lực lượng hậu cần và yểm trợ của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, đáng lưu ý hơn có lẽ là vụ NSAN 388 chấp nhận một sự thay đổi trong nhiệm vụ của lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ, tuy sẽ dùng một lời lẽ hết sức thận trọng: “Tổng thống chuẩn y một sự thay đổi trong nhiệm vụ của tất cả các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ triển khai tại Việt Nam để tiện cho việc đã sử dụng tích cực hơn trong những điều kiện sẽ được bộ trưởng quốc phòng xác định và chấp nhận sau khi đã hội ý với Bộ trưởng Ngoại giao" (27).
Quyết định tuy không xác định rõ rệt nhiệm vụ sắp tới cũng vẫn là một quyết định then chốt Nó đã nói lên việc Tổng thống chấp nhận khái niệm binh lính Hoa Kỳ sẽ phải đương đáu trên đất liền với một địch thủ châu á. Muốn cho chắc chắn, lời lẽ trong ấy còn cho thấy mong muốn tiến hành từ từ và thận trọng. Cái mà người ta không thấy' đề cập đến trong NSAN 388 là việc nói về khát niệm một chiến lược đồng nhất hợp lý về việc sử dụng các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ. Đại sứ Taylor cùng với một số khác đã đưa ra thắc mác liệu các bính lính phương Tây có chiến đau được một cách có hiệu quả tại Việt Nam không? Tổng thống hình như đã đồng ý ràng trước khi đề ra một chiến lược trong việc sứ dụng các lực lượng này thí cũng cần thí nghiệm xem chúng có hiệu quả như thế nào trong môi trường mới ấy.
Nhưng lại có chuyện phải cố gắng làm sao quần chúng Hoa Kỳ càng ít nhận thấy sự thay đổi càng tốt. Bản bị vong lục mang chữ ký của Mc George Bundy, cho biết Tổng thống mong muốn tránh việc làm cho quần chúng lưu ý quá sớm về các quyết định này và rằng: "ngay cả các biện pháp cũng nên được tiến hành càng sớm chừng nào càng tốt chừng nấy, song phải làm sao cố gắng tối đa cho thấy ít có sự thay đổi đột ngột trong đường lối... Ý của Tổng thống muốn các vụ chuyển quân và thay đổi này phải làm sao hình thành từng bước một và hoàn toàn phù hợp với chính sách hiện hành".
Vì thế việc thay đổi trong nhiệm vụ, một bước tiến quan trọng đi đến chỗ làm cho các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ phải tham gia chiến đấu tại Nam Việt Nam, đã được giữ kín không để cho dân chúng Hoa Kỳ biết, tin này đã lọt ra ngoài hầu như một cách bất ngờ hai tháng sau đó trong bản tin họp báo của Bộ Ngoại giao, ngày 8-6 với nội dung nói rằng: "Các lực lượng của Hoa Kỳ sẽ được dùng vào việc chiến đấu chung với các lực lượng của Việt Nam khi nào xét thấy cần đến".
Các bài xã luận trong báo chí ngày hôm sau đã vạch rõ ý nghĩa trong lời công bố có vẻ như vô thưởng vô phạt: "Nhân dân Hoa Kỳ đã được một quan chức không quan trọng thuộc Bộ Ngoại giao thông báo hôm qua rằng trên thực tế họ đang ở trong tình trạng chiến tranh trên bộ tại lục địa châu Á. Cho đến nay vẫn chưa có một lời giải thích của chính quyền về hành động đã thay đổi hoàn toàn tính chất của việc Hoa Kỳ can thiệp tại Việt Nam... (nước nhà) đã phải dính líu vào một cuộc chiến tranh trên bộ do Tổng thống đơn phương quyết định trong khi chưa hẳn đã là một trường hợp khẩn cấp không kịp cho Quốc hội thảo luận" (28).
Nhưng, cũng trong ngày ấy, Nhà Trắng ôn tồn phủ nhận việc đã có một quyết định như vậy. George E.Roedy, Tùy viên báo chí của Tổng thống. đã đọc lời tuyên bố sau đây trong một cuộc họp báo: "Không có gì thay đổi trong nhiệm vụ của các đơn vị tác chiến trên bộ của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong những ngày hay những tuần lễ mới đây. Tổng thống không có ban hành bất cứ một chỉ thị nào cả trên phương diện này cho đại tướng... mới đây hoặc trong bất cứ một thời gian nào khác (29)
Các quyết định ngày 16-4-1965 của Tổng thống cũng không làm giảm bớt áp lực đòi tăng cường lực lượng của Hoa Kỳ. Từ ngày 30-4 trở đi, Đại sứ Taylor đã nhận tới tấp những thư tín chỉ thị của Washington biểu lộ sự nóng lòng xúc tiến việc đưa vào miền Nam một số lực lượng tác chiến trên bộ vượt xa số lượng đã được chấp thuận trong khi...đại sứ Taylor đã tỏ ra cho Washington thấy được sự bực bội của ông đối với các áp lực đang lên này. Ông đã buộc phải đình việc triển khai lữ đoàn 173 không vận từ Okinawa sang đến Việt Nam, một việc đã được quyết định mà không hỏi ý kiến ông.
Liên lạc giữa Washington và Sài Gòn càng thêm căng thẳng và sự bực bội của Đại sứ Taylor đã biến thành bất bình và phản đối công khai ngày 15-4, khi ông tiếp nhận một chỉ thị khác mà theo như người ta được biết đã được chức quyền tối cao duyệt y, trong đó, cùng với nhiều chuyện khác nữa, có những đề nghị sau đây:
1. Thí nghiệm việc lồng quân nhân Hoa Kỳ trong hệ thống cán bộ của Olvnor hoặc bằng cách bổ nhiệm 50 quân nhân Hoa Kỳ vào mỗi tiểu đoàn trong số 10 tiểu đoàn QĐVNCH hoặc bằng cách "kết hợp" các tiểu đoàn QĐVNCH chung với các tiểu đoàn Hoa Kỳ thành các đại đơn vị để tác chiến.
2. Đưa thêm một lực lượng cỡ lữ đoàn vào vùng Biên Hòa, Vũng Tàu để đảm trách an ninh cơ sở rồi sau đó sẽ nới rộng ra đảm nhiệm công tác chống nổi dậy...
3. Đưa thêm nhiều tiểu đoàn vào các căn cứ lõm vùng duyên hải.
Đứng trước cảnh Washington thay đổi ý muốn quá nhanh chóng, Đại sứ Taylor nói rằng ông cần được chính phủ cho thấy rõ ràng hơn về các ý định và mục đích để rồi ông mới có thể trình bày trường hợp của những vụ triển khai này cho chính phủ Nam Việt Nam. Trong điện văn gửi về Washington ông có nêu: “trước khi tôi có thể trình bày sự việc của chúng ta với chính phủ VNCH, tôi cần phải biết rõ sự việc ấy như thế nào và tại sao. Chắc sẽ không dễ ép được người ta đồng ý cho việc đưa quân nước ngoài vào một cách đại qui mô trừ khi đã thấy rõ ràng là có nhu cầu và không có gì úp mở” (30).
Nhằm san bằng các vấn đề trục trặc và lặp lại một phần nào đó trong việc thống nhất ý chí một cuộc hội nghị đã được vội và triệu tập tại Honolulu qui tụ phần đông những nhân vật then chốt có trách nhiệm về chính sách tại Việt Nam: Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Đại tướng Wheeler, Bộ trưởng Quốc phòng MacNamara, đại tướng Westemoreland, Đô đốc Sharp, Đại sứ Taylor và các Trợ lý bộ trưởng William Band và John Mc Naughton.
Hội nghị này đã thuyết phục được Đại sứ Taylor thôi không chống đối việc gia tăng các lực lượng Hoa Ky và đã làm cho việc gia tăng lên tổng số 13 tiểu đoàn và 82.000 quân được mọi người đồng ý. Hội nghị Honolulu mở màn cho việc tương đối giảm bớt sức ép bằng không quân đối với Bắc Việt Nam để chuyển về hoạt động mạnh mẽ hơn tại miền Nam.
Các cố vấn tổng thống đã nhất trí rằng từ nay trở đi, ưu tiên dùng các phương tiện không quân cho các mục tiêu tại Nam Việt Nam. Bây giờ đã đến lúc người ta nói rằng bí quyết thành công không phải là chỗ gây áp lực quá mức chịu đựng cho đối phương mà chính là làm trở ngại cho chiến lược của họ, bẻ gãy ý chí của VNDCCH bằng cách không để cho họ chiến thắng" (31).
Các khuyến cáo của hội nghị Honolulu trên thực tế đã đề ra một chiến lược vùng lõm - nghĩa là sẽ tập trung các hoạt động tại các vùng duyên hải nhằm bảo vệ dân chúng và triệt đường không địch sử dụng tài nguyên các khu vực chiến lược này. Lúc đầu do Đại tướng Harold K.Johnson đề xướng hồi tháng 6 nhưng về sau đã được Đại sứ Taylor kiên trì chủ trương trong suốt thời kỳ này. Taylor thấy chiến lược này có nhiều điểm lợi.
Cái vai trò từng được đề xướng cho các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ là việc chiếm cứ và phòng thủ của các khu vực lõm dọc bờ biển như là Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa và Nha Trang. Bố trí như vậy sẽ lợi thế, lực lượng của chúng ta được bố trí tại những khu vực rất tiện việc đi lại, đòi hỏi rất ít vấn đề hậu cần trên phương diện tu bổ và bảo dưỡng. Sự có mặt của các lực lượng Hoa Kỳ sẽ giúp vào việc phòng vệ các khu vực quan trọng then chốt này và làm cho một số lực lượng của VNCH rảnh tay để sử dụng ở nơi khác. Các đơn vị sẽ không được sử dụng trong các cuộc hành quân chống nổi dậy trừ trường hợp phải tự bảo vệ vị ta, nhờ đó sẽ ít bị tổn thất hơn.
Do đó chiến lược vùng lõm, đã hình dung được việc triệt đường chiến thắng của địch thì họ dù có thắng lợi đến đâu đi nữa trên phần lãnh thổ cũng sê không thể nào chiếm lĩnh được các khu vực quan trọng quyết định vì đã có lực lượng Hoa Kỳ đóng giữ. Đồng thời lực lượng Hoa Kỳ, không cần nhiều về số lượng, sẽ được vận chuyển và tiếp tế một cách dễ dàng bằng đường biển, tuyệt đối dưới quyền kiểm soát của hải quân Hoa Kỳ, và cũng sẽ được rút đi một cách dễ dàng hơn. Nếu vạn nhất tình hình đòi hỏi vượt ra ngoài các vùng lõm, quân sĩ VNCH sẽ được dự kiến tiếp tục tiến hành chiến tranh chống lại các quân chủ lực địch.
Song, cũng như Đại sứ Taylor đã từng nêu lên chiến lược vùng lõm là một nhiệm vụ phòng thủ không vinh quang, thiếu hấp dẫn, đối với họ, lực lượng Hoa Kỳ và không gây uy tín đối với người Việt Nam (32). Theo quan niệm các nhà cầm quân thì đây là một chiến lược tiêu cực, nhường thế chủ động và chỉ nhằm gây thiệt hại chứ không đánh được địch.
Tuy việc bảo đảm an ninh không còn đơn độc là nhiệm vụ qui định của các đơn vị Hoa Kỳ nhưng vẫn là nhiệm vụ chính và họ đã củng cố cùng mở mang các vùng căn cứ của họ tại duyên hải. Khu vực tuần tiễu đã được nới rộng và việc phòng thủ chủ động đã được tiến hành, mặc dù có nhiều vấn đề gai góc trong phạm vi kiểm soát và phối hợp giữa các lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam không giải quyết được đã gây trở ngại cho việc hành quân tiến công yểm trợ cho quân đội Việt Nam trong một vài tháng.
Tình trạng chiến sự tương đối lắng dịu tại miền Nam đến tháng 5 thì chấm dứt. Trong những ngày cuối tháng 5, quân đội Nam Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề trong một loạt trận đánh tại Ba Gia gần thị xã Quảng Ngãi. Đầu tháng 6, hai trung đoàn Việt Cộng lại đánh bại quân Nam Việt Nam tại Đồng Xoài gây nhiều thương vong (33).
Mặc dù trong cả hai trường hợp đều có quân đội Hoa Kỳ ở gần đấy, họ cũng không được giao phó nhiệm vụ ngăn cản sự thất trận của quân đội Nam Việt Nam.
Ngày 7-6-1965, một thời gian rất ngắn sau trận Ba Gia, Đại tướng Westmoreland đã chuyển đến vị Tổng tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCRAC) một bản duyệt lại qui mô nhu cầu lực lượng... chiếu theo tình hình đang biến chuyển tại Đông Nam Á và trong nội bộ CHVN, nói về quân đội Nam Việt Nam như là gần tan rã với số lượng đào ngũ lên cao bất thường và sức chịu đựng hỏa lực đáng hoài nghi.
Westmoreland nhận thấy chúng ta không còn cách gì hơn là gia tăng nỗ lực của chúng ta tại Nam Việt Nam bằng cách đem thêm quân của Hoa Kỳ và quân của nước thứ ba càng được nhanh chừng nào tốt chừng ấy trong những tuần lễ nguy ngập sắp đến. Ông còn nói thêm ngoài ra cũng nên chuẩn bị để sẵn sàng triển khai thêm những lực lượng mạnh hơn nếu cần để đạt được các mục tiêu của chúng ta hay để chống lại thế chủ động của đối phương.
Tuy thế các lực lượng này sẽ không dính líu vào chiến lược an ninh hoặc chiến lược vùng lõm theo như quan niệm của Đại tướng Westmoreland: "Tôi tin chắc rằng, với sức sống động khả năng cơ động và hỏa lực của họ, quân đội Hoa Kỳ có thể thành công trong việc buộc Việt Cộng phải chấp nhận chiến đấu, mục đích cơ bản của các việc triển khai thêm quân là để tạo cho ta một khả năng tấn công quan trọng và nhiều kết quả tại chiến trường" (34). Trong điện văn này Westmoreland yêu cầu được tăng cường tổng số lên đến 35 tiểu đoàn cơ động và thêm 9 tiểu đoàn nữa sẵn sàng chờ triển khai sẵn nếu cần.
Trong những chuyến liên lạc sau đó, vị Tư lệnh Hoa Kỳ đã trình bày rõ quan niệm của ông về cách sử dụng các lực lượng này, gạt bỏ các vết tích cuối cùng của chiến lược vùng lõm. Westmoreland đưa ra các kế hoạch của ông để lấy thế công và đánh bại địch. Ông hình dung chiến tranh diễn tiến thành ba giai đoạn rõ rệt như sau:
Giai đoạn 1, cần phải có sự tham chiến của các lực lượng Hoa Kỳ (hoặc các nước thế giới tự do khác) để chặn đứng chiều hướng thất trận đang lên ở cuối 1965.
Giai đoạn 2, các lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh tiến hành các hoạt động tấn công quan trọng giành thế chủ động nhằm tiêu diệt các lực lượng du kích và chính qui địch. Giai đoạn này sẽ kết thúc khi địch bị hao mòn lui về thế thủ và bị đánh lui ra khỏi các khu vực đông dân cư quan trọng.
Giai đoạn 3, nếu địch kiên trì chống cự sẽ cần thêm một thời kỳ một năm hoặc một năm rưỡi để diệt tận gốc các lực lượng địch còn lại tại các vùng căn cứ địa xa xôi hẻo lánh (35).
Những lời đề đạt của Đại tướng Westmoreland trình lên tổng thống đã khuấy động rất mạnh tại Washington. Việc ông yêu cầu tăng quân đại qui mô, cùng với ý muốn sử dụng lực lượng ấy vào thế công trong khắp nước vượt hẳn ra ngoài các khuôn khổ để chấp nhận đã từng được đưa vào trong các chiến lược được bàn luận từ trước tới nay và trên thực tế đã làm cho người ta linh cảm Hoa Kỳ sắp sửa thực sự đảm nhận việc chiến đấu. Sự lo ngại về viễn ảnh các lực lượng quân sự quan trọng của Hoa Kỳ dính líu vào một cuộc chiến tranh trên bộ tại lục địa châu Á quả thật đã trở thành một chuyện có thể xảy ra. Người ta không thể không nghĩ đến các hệ quả đối với Hoa Kỳ trên phương diện sinh mạng và tiền bạc.
Trước hết ngày 26-6 Đại tướng Westmoreland đã được phép sử dụng lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ ở bất cứ nơi nào trong nước mà ông xét thấy cần thiết trong việc tăng cường lực lượng Nam Việt Nam. Do đó, thoát khỏi các sự gò bó của các vùng lõm, cuộc hành quân quan trọng đầu tiên của lực lượng Hoa Kỳ trong khuôn khổ này đã được tiến hành ngày 27 tháng 6 tại chiến khu Đ phía tây bắc Sai Gòn (36).
Tuy nhiên trước khi có quyết định khác để triển khai thêm quân, Tổng thống Johnson lại muốn duyệt lại hết các đường lối lựa chọn. Ngày 16-7 Bộ trưởng Mc Namara đã được phái sang Sài Gòn để nghiên cứu các giải pháp và nhận định về các nhu cầu lực lượng cho những ngày sắp đến và cho năm 1966.
Đại tướng Westmoreland đã cho Mc. Namara thấy rằng đến cuối năm 1965 sẽ cần đến một sự tăng quân lên đến 44 tiểu đoàn (bây giờ đã được lồng vào các lực lượng giai đoạn 1 và tổng cộng 175.000 quân) tại Nam Việt Nam. Tuy nhiên ông cần nói thêm rằng lực lượng này theo kế hoạch tấn công mới chỉ đủ sức để dọn đường đưa thêm quân vào giúp ông lấy lại thế chù động của Việt Cộng. Ông dự kiến nhu cầu cần thêm khoảng 24 tiểu đoàn tác chiến cùng với các đơn vị yểm trợ tác chiến và đơn vị hậu cần vào cuối năm 1966,(các lực lượng giai đoạn 2 tổng cộng 100.000 quân). Lực lượng này sẽ giúp ông mở được cuộc tấn công trong năm ấy và với viện binh thích ứng chứ không nói rõ số lượng (giai đoạn III) sẽ đánh bại được địch vào cuối năm 1967 (37).
Mc Namara đã báo cáo nhu cầu này lên Tổng thống ngày 20-7, ông đề nghị nên đáp ứng yêu cầu giai đoạn I của Westmoreland với điều kiện sẽ tăng thêm quân trong năm 1966 và cũng yêu cầu quốc hội chấp thuận cho việc gọi 235.000 quân nhân dự bị nhập ngũ. Báo cáo của Mc. Namara đã phát động việc xem xét về các mục tiêu và chiến lược cho Việt Nam tại cấp cao nhất trong chính quyền. Có lẽ là lần duy nhất đại qui mô trước cuộc tấn công Tết 1968.
Tổng thống Johnson đã tiếp xúc với nhiều cố vấn và với nhiều người cầm đầu các nhóm trong quốc hội hầu như liên miên trong thời kỳ từ 21-7 đến 27-10-1965. Các Cố vấn của Tổng thống không nhất trí với nhau và đây là lần đầu tiên đã nói lên mối lo ngại của họ.
Đại sứ Taylor và vị phụ tá là U.Alexix Johnson nhìn nhận tình hình tuy có nghiêm trọng song cũng ít tin tưởng vào triển vọng thắng lợi mặc dù đã phải đem nhiều quân vào. Cả hai người đều lo ngại về hậu quả của việc tăng quân đối với người Việt Nam. Tuy không trực tiếp chống đối việc dùng đến lực lượng Hoa Kỳ để trợ lực cho quân Nam Việt Nam, họ muốn công việc được tiến hành từ từ để tránh làm cho Nam Việt Nam mất uy tín và quyền điều khiển trong việc tiến hành chiến tranh (38).
Thứ trưởng Ngoại giao Georges Ballon cả trong các lần họp với Tổng thống cũng như trong các bị vong lục mà ông đã đệ trình đều đã trực tiếp phản đối việc tăng cường lực lượng. Theo ông quan niệm, chưa rõ gì tuyệt đối đảm bảo được rằng sự tăng thêm lực lượng trên bộ là Hoa Kỳ có thể đạt được các mục tiêu của mình tại Việt Nam. Ông thấy có nguy cơ dính líu vào một cuộc chiến đấu không rõ kết cục mà lại hao tổn quá nhiều chưa ai định trước được và ông nghĩ rằng Hoa Kỳ không nên mạo hiểm đi vào con đường ấy (39).
Bộ trưởng Ngoại giao Dan Rusk cực lực chống đối quan niệm đã được vị Thứ trưởng của ông bày tỏ. Trong một bị vong lục ít khi được viết tay, gửi Tổng thống và sau đó trong những lần thảo luận về vấn đề này, ông đã cho thấy ông nghĩ rằng Hoa Kỳ tuyệt đối cần phải tôn trọng lời hứa hẹn của mình tại Nam Việt Nam: "Việc giữ được trọn vẹn lời cam kết của Hoa Kỳ là trụ cột chủ yếu của hòa bình trên khắp thế giới. Nếu lời cam kết này không còn đáng tin tưởng được nữa, thế giới cộng sản sẽ đi đến những kết luận đem lại sự suy tàn cho chúng ta và hầu như chắc chắn là phải đi đến một cuộc chiến tranh tai hại". Chừng nào người Nam Việt Nam còn sẵn sàng chiến đấu theo họ, chúng ta không thể bỏ rơi họ và khỏi gây thảm bại cho hòa bình và cho quyền lợi chúng ta trên khắp thế giới" (40).
Những vị khác như là Phụ tá Bộ trưởng ngoại giao William Bundy và Clark Clifford đều có ý kiến tương đối lưng chừng. Họ muốn triển khai thêm lực lượng chỉ vừa đủ để tránh khỏi bị đánh bại và vẫn đủ tư thế dẫn tới việc giải quyết bằng đường lốt ngoại giao (41).
Trong số các giới lãnh đạo trong quốc hội được tham khảo ý kiến chỉ có thượng nghị sĩ là có đôi chút chống đối, theo như quan niệm của trưởng nhóm đa số chúng ta chẳng cam kết gì hơn là giúp đỡ Nam Việt Nam trong việc tự bảo vệ từ bấy đến nay chưa có chính quyền hợp pháp. Chúng ta không có gì ràng buộc với chính quyền này cả vì không có cam kết gì hết... Chúng ta đang đi sâu vào chiến tranh. Chúng ta không thể trông chờ nhân dân chúng ta phải đài thọ một cuộc chiến tranh từ ba đến năm năm. Cái mà chúng ta sắp đạt được là một cuộc thập tự chinh chống cộng kéo dài triền miên, hết cuộc leo thang này đến cuộc leo thang khác (42).
Rốt cuộc Tổng thống Johnson đã phải đồng ý theo các lập luận của vị Bộ trưởng ngoại giao của ông. Như sau này ông đã cho biết:
“Nếu chúng ta rút khỏi Đông Nam Á, tôi có thể tiên đoán là chúng ta sẽ gặp rắc rối khắp nơi trên thế giới - không những chỉ nội châu Á mà còn tại Trung Đông và tại châu Âu, tại châu Phi và ở châu Mỹ Latinh. Tôi tin chắc rằng nếu chúng ta rút lui khỏi cuộc thách thức này thì sẽ mở rộng con đường đưa đến chiến tranh thế giới thứ ba... Tôi biết khá rõ nhân dân chúng ta để nhận thức được rằng nếu chúng ta rút khỏi Việt Nam và bỏ rơi cho Đông Nam Á sụp đổ thì sẽ kéo theo một cuộc tranh chấp phân hóa tai hại trong nội bộ nước ta... Theo tôi một cuộc tranh chấp về việc ai đã để mất Việt Nam, tai hại cho chúng ta trong sinh hoạt quốc gia hơn vụ tranh cãi về Trung Quốc rất nhiều. Chắc chắn là nó sẽ làm tăng thêm các sức ép chủ trương sống biệt lập của cánh tả cũng như cánh hữu và gây ra một sự rút lui trong những cam kết của chúng ta tại châu Âu và Trung đông cũng như tại châu Á" (43).
28-7-1965, Tổng thống Johnson triển khai các lực lượng của giai đoạn I tổng cộng 175.000 quân (sau này tăng lên 219.000) tại Nam Việt Nam. Ông từ chối không gọi nhập ngũ những quân nhân dự bị và không có quyết định gì về việc triển khai các lực lượng giai đoạn II (lúc ấy chưa cần có quyết định). Khi loan báo những việc tăng quân cho các lực lượng Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Tổng thống đã nhấn mạnh về tính cách liên tục trong việc Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Nam Việt Nam và cho thấy dự kiến khó lòng có được một giải pháp nhanh chóng ở đấy (44).
Chưa biết mỗi người nghĩ như thế nào về tính cách xác đáng của quyết định tháng 7-1965 rất quan trọng này nhưng mọt người tham dự đều nhận thức rằng đã bước qua một ngưỡng cửa quan trọng. Đã bước vào một đường hướng mới mà kết cuộc như thế nào vẫn chưa rõ.
Theo lời của Westmoreland nói rõ "trong đề nghị của tôi xin 44 tiểu đoàn và trong lời Tổng thống phê chuẩn đề nghị ấy có điều khoản cho phép các đơn vị Hoa Kỳ và đồng minh được tự do hoạt động trên khắp Nam Việt Nam. Do đó chiến lược vùng lõm quá gò bó mà tôi đã phản kháng ngay từ lúc đầu rốt cuộc cũng phải bị bãi bỏ" (45). Và đúng như Johnson đã nói sau này, bây giờ, chúng ta đã phải nhúng tay vào một cuộc chiến đấu quan trọng tại Việt Nam (46).
Tiếp theo sau sự thay đổi này từ thế phòng thủ vùng lõm, chuyển qua các cuộc hành quân chủ động mang tên "tìm và diệt" như sau này người ta thường gọi còn có thêm một sự thay đổi nữa, tuy tinh tế, nhưng cực kỳ quan trọng về mục đích: Thay vì nhằm vào mục tiêu giới hạn trong việc chỉ lo ngăn chặn đừng để địch chiến thắng và làm cho địch thấy rằng họ không thể thắng được, trọng tâm sức mạnh của chính sách Hoa Kỳ bây giờ hướng vào việc cung cấp đầy đủ lực lượng để đánh bại địch quân tại miền Nam.
Việc quyết định tăng cường lực lượng Hoa Kỳ và sử dụng các lực lượng ấy trong một chiến lược tiến công không còn giới hạn trong việc Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Nam Việt Nam. Số lượng binh sĩ cần thiết trong việc đánh bại đối phương hoàn toàn tùy thuộc vào sự phản ứng của địch đối với việc tăng cường của Hoa Kỳ và ý muốn của địch trong việc gia tăng phần tham dự vào cuộc chiến. Do đó số lượng binh lính từng được Tổng thống Johnson chấp thuận hồi tháng 7-1965 đã được coi như chỉ đủ để ngăn ngừa sự sụp đổ của Nam Việt Nam trong khi dọn đường cho việc triển khai thêm nhiều lực lượng Hoa Kỳ hơn nữa.
Nhưng việc lấy việc đánh bại địch làm mục tiêu hơn là triệt đường chiến thắng của địch, theo như George Ball từng nêu lên, sẽ có triển vọng kéo theo việc tăng thêm quân một cách bất tận. Mặc dù các lực lượng Hoa Kỳ có thể nắm được thế chủ động chiến lược từ đầu đến cuối nhờ sẵn sàng tung thêm lực lượng vào cuộc chiến đấu. Do đó nhịp độ và cường độ chiến cuộc sẽ tùy thuộc vào địch chứ không phải vào Hoa Kỳ.
Rốt cuộc sự chấp nhận việc tăng cường các lực lượng Hoa Kỳ sử dụng các lực lượng ấy vào vai trò thế công trên khắp nước Việt Nam đã công khai nói lên việc hoàn toàn mất tin tưởng vào quân lực VNCH (QLVNCH) và thái độ do đó mà có của các cấp chỉ huy quân sự Hoa Kỳ muốn gánh vác lấy phần chính trong nỗ lực chiến tranh.
Điều mỉa mai là ở chỗ người Mỹ chiến đấu cho một quân đội (và một chính quyền) mà họ đối xử một cách khinh rẻ miệt thị. Người Nam Việt Nam mà Hoa Kỳ đã lấy danh nghĩa để tham gia vào một cuộc chiến tranh trên bộ tại châu Á đã bị đối xử như thểkhông đáng cứu vớt. Do đó đã xảy ra một chuyện mâu thuẫn hiển nhiên giữa các mục tiêu chính trị của chiến tranh và tình trạng thực sự hầu như không đếm xỉa đến chính quyền và quân đội Nam Việt Nam trong việc hình thành chiến lược của Hoa Kỳ.
Việc Hoa Kỳ dính líu vào một cuộc chiến trên bộ tại châu Á là một chuyện đã thành sự thực. Nội sự kiện hồi cuối năm 1967, thời kỳ mà Đại tướng Westmoreland ước lượng đánh bại được đối phương, Hoa Kỳ đã có 107 tiểu đoàn và tổng cộng 523.000 quân tại Việt Nam mà chưa thấy triển vọng chiến thắng cũng đủ để làm bằng chứng cho các hệ quả lạ thường của các quyết định đã có trong mùa hè 1965...
Chú thích
(1) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 62-66; Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 308-311, US -Vietnam Relations (Quan hệ HK-VN) IVc (1), trang 1-55.
(2) Eugene G.Windcily: Tonkin Gulf (Vụ Vịnh Bắc Bộ) trang 317; Joseph C.Goulden: Truth is the First Casualty (Sự thật là tổn thất trước tiên). The Gulf of Tonkin Atfair: Illusion and Reality (Hư và thực trong vụ Vịnh Bắc Bộ) trang 38, 48-79. Ủy ban ngoại giao Thượng viện Hoa Kỳ: The Gulf of Tonkin, the 1964 Incident (Sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964).
(3) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 119; US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam IVc (1) trang 97. IVc (2) (b) trang 32. Hiện diện trong các phiên họp tại Washington có Bộ trưởng Rusk, Mc.Namara, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Đại tướng Wheeler, Giám đốc cục tình báo trung ương Mc. Cone, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng John T.Mc Naughton, Đại tướng Maxwell D.Taylor được bổ nhiệm làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn hồi tháng 7-1964.
(4) Jack Shephero và Christopher S. Wren, Quotations From Chairman IBC (Những lời trích dẫn chủ tịch IBC) tr.65; "Tổng thống lo ngại lính Mỹ phải chiến đấu chống với hàng triệu quân Trung Quốc". Muốn biết về các lời tường thuật về vấn đề Việt Nam trong cuộc tranh cứ năm 1964 hãy xem cuốn sách của Theodore E.White "The Making of the President 1964" (Việc xây dựng một Tổng thống) trang 132-133, 443-445; Gayélin: Lyndon B.Johnson and the World (Lyndon B.Johnson và thế giới) trang 193-198; Lilton C.Cummings Jr soạn The National Election of 1964 (Cuộc bầu cử toàn quốc năm 1964); Stephen C. Shadegg: What Happens to Goldwater? The Inside story of the Republican Campaign in 1964 (Chuyện gì đã xảy ra cho Goldwater? Chuyện thực của cuộc vận động bầu cử năm 1964 của Đảng Cộng hòa) trang 124-125; Westmoreland: A soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân).
(5) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 121; Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 523-525, 332-333; US - Việt Nam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (2) (c) trang 3-5, 72-73; IVc (3) trang 4-9.
(6) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 120.
(7) Westmoreland: Report on the war in Vietnam (Phúc trình về chiến tranh tại Việt Nam) trang 95. Muốn biết về tình hình rối loạn chính trị tại Nam Việt Nam trong giai đoạn này hãy xem Dennis J.Duncanse: Government and Revolution in Vietnam (Chính quyền và cách mạng tại Việt Nam) trang 342-351; Robert Shaplen - The lost Revolution (Cuộc cách mạng thất bại) trang 266-322; Westmoreland: A Soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 62-65, 71-74. 77-81, 90-95.
(8) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 124; Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 335. US - Vietnam relation IVc (I) trang VI; IV (c) (3) tr.23; Westmoreland: A Soldìer's Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 115-116.
(9) Còn có thêm sự hiện diện của những vị khác như là Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara, Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng Cyrus Vance, Đại tướng Earle Wheeler, William Bundy, Bộ trưởng tài chính Douglas Dillon, Can Rowan thuộc USIA và Marshall Carter thuộc Cục tình báo trung ương. Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 124.
(10) Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 335. Cuộc oanh kích Đồng Hới có thể kể như là một sự thất bại, ít ra là trên khía cạnh quân sự, khi lệnh thi hành đã được ban bố chỉ có một trong 3 chiếc tàu sân bay có mặt tại hiện trường. Hai chiếc kia đang trên đường đi ở một nơi nào đó. Họ đã được lệnh khẩn cấp phải trở về tham dự trận đánh, trận này phải hoãn đến lúc họ về đến chỗ mà máy bay của họ có thể bay đến mục tiêu ấn định. Tuy thế ngay lúc ấy thời tiết xấu làm trở ngại cho việc tấn công vào hai mục tiêu và chỉ có một mục tiêu bị tấn công mạnh mẽ. Nhằm mục đích làm cho việc trả đũa càng thêm cứng rắn và cho thấy đấy là một phản ứng chung liên quân Hoa Kỳ Nam Việt Nam, ngày hôm sau (8-11) lại có một cuộc công kích khác do các máy bay trên các tàu sân bay Hoa Kỳ không đến được mục tiêu ngày hôm trước tiến hành, đánh vào mục tiêu (Đồng Hới) và một trận oanh kích khác của không quân Nam Việt Nam đánh vào doanh trại Vu Sơn cũng trong khu vực ấy. US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) trang 23.
(11) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 186. US - Vietnam Relation IVc (3) trang 191. Thành phần của phái đoàn gồm có John Mac Naughton phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng, Unger phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao, Đại tướng Goodpaster, phụ tá Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và Chester Cooper thuộc thành phần Hội đồng An ninh quốc gia.
(12) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 126-127. Nội dung bản phúc trình của Bundy có dùng trong US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam).
(13) Humphrey: The Education of Public (Giáo dục công chúng). Xem bài của ‘Humphrey Early Critic Vietnam" (Lời chỉ trích đầu tiên của Humphley về chiến tranh Việt Nam).
(14) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) trang 33-47. Westmoreland: A soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 112-113.
(15) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (5) trang 27.
(16) Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Department of State Bulletin (Tập san Bộ ngoại giao) tập 52 trang 290-294. Xem cả Geyelin: Lyndon B.Johnson and the World (Lyndon B.Johnson và Thế giới) trang 214, 219-220.
(17) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 130. Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 337. US - Vietnam Relations IVc (3) trang 45-51.
(18) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) trang 52-59.
(19) Như trên - trang 64-69.
(20) Như trên - trang 69-73
(21) Như trên, trang 79 IVc (7) (a) trang 1-2, cả của Kearvs: Lyndon Johnson and the American Dream (Lyndon Johnson và giấc mơ của người Mỹ) trang 269-272.
(22) US -Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) trang 56-59.
(23) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 139-141. US - Vietnam Reiations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) trang 25-93; IVc (5) trang 56-52.
(24) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (5) tr 126.
(25) Ground war in ASIA (Chiến tranh trên bộ tại châu Á)
(26) Bộ ngoại giao Hoá Kỳ: Department of State Bulletin (Tập san Bộ Ngoại giao) tập 52 trang 1041; Taylor: Swards and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 344-345; Westmoreland: A Soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 125-136, 138-139.
(27) Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 341-342; US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) trang 7.
(28) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam); Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 342-343.
(29) Như trên, trang 58. Westmoreland: A Soldier’s Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 129-130.
(30) Westmoreland: Report on the war in Vietnam (Tường trình về chiến tranh tại Việt Nam) trang 109.
(31) MACV 19110, 0703352 tháng VI 1968 MACV gởi CINCPAC.
(32) Westmoreland: Report on the war in Vietnam (Tường trình về chiến tranh tại Việt Nam) trang 100. US - Vietnam Rlations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (3) tr. 118-119.
(33) US - Vietnam Relations IVc trang 7. Westmoreland: A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 141
(34) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam IV (c) (a) trang 5-10; IVc (5) trang 117-119. Taylor: Swords and Plowshares. (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 348-349.
(35) US - Vietnam Relations (Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam) IVc (5) trang 104-105; Taylor: Swords and Plowshares trang 346.
(36) US -Vietnam Relations IVc (5) trang 105; IVc (7) (a) trang 6-8; Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) tr. 147; Valenti: A very Human President (Một Tổng thống đầy nhân tính) trang 323-330; 333-334.
(37) US - Vietnam Relations IVc (4) (a) trang 8 - Johnson: The Vantage Point - trang 147.
(38) US - Vietnam Relations IVc (7) (a) trang 106.
(39) Trích trong Valenti: A very Human President (Một Tổng thống đầy nhân tính) trang 354-355.
(40) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 146-151-152. Johnson and The American Dream (Lyndon Johnson và giấc mơ của người Mỹ) trang 252-253.
(41) Public Papers of Lyndon Johnson 1965 (Tài liệu công quyền của Lyndon Johnson 1965) trang 794-799.
(42) Westmoreland: A soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân) trang 144-146-151.
(43) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) tr.153.
Sự Nghiệp Của Một Tổng Thống Bị Đổ Vỡ - L.johnson Và Việt Nam Sự Nghiệp Của Một Tổng Thống Bị Đổ Vỡ - L.johnson Và Việt Nam - H.y.schandler