Reading is to the mind what exercise is to the body.

Richard Steele, Tatler, 1710

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Drifters
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Vũ Phương Vân
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1007 / 119
Cập nhật: 2018-09-19 19:36:32 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Britta
on gái của sư tử cũng là sư tử.
Khi quân Đức xâm chiếm Na Uy, tôi đã có thể thích ứng với sự chiếm đóng của họ. Khi quân Anh bị đánh bại ở vùng biển của chúng ta, tôi không mảy may nghi ngờ là một ngày nào đó họ sẽ trở lại giải cứu chúng ta. Khi lương thực bị cắt, chúng ta vẫn sống; khi chất đốt khan hiếm, chúng ta run rẩy vì lạnh và tìm mọi cách xoay xở; ngay cả khi quân Đức dường như đã thắng lợi trên mọi mặt trận, chúng ta che giấu cảm xúc của mình và không bao giờ đánh mất hy vọng vào thắng lợi cuối cùng. Nhưng khi Knut Hamsun, tiểu thuyết gia vĩ đại từng được nhận giải Nobel của chúng ta, quay lưng lại với tất cả những gì mà Na Uy đã đại diện và công khai tuyên truyền nhân danh nước Đức Quốc xã, chúng ta không những mất hết nhuệ khí mà còn phải chịu đựng nỗi nhục muôn đời, như thể một thành viên trong gia đình chúng ta đã làm điều khủng khiếp này, bởi vì nếu các vị không thể tin tưởng các nhà văn vĩ đại đã được các vị trao nhầm phần thưởng cao quý nhất thì nhân danh Chúa các vị còn tin tưởng được vào ai nữa?
Cám dỗ muôn thuở của cuộc đời là làm lẫn lộn ước mơ và hiện thực. Tiêu tan hy vọng muôn thuở của cuộc đời xảy đến khi mơ ước đầu hàng hiện thực.
Dù bao làn gió mặn mòi
Thổi nhẹ nhàng qua đảo Ceylon
Dù mọi viễn cảnh đều tươi đẹp
Và chỉ con người là đê tiện
Vô ích lòng nhân từ bát ngát
Ân phước của Thượng đế được ban phát
Kẻ ngoại đạo vì sự mù quáng của mình
Quỳ gối nghiêng đầu trước gỗ đá.
• Đức Giám mục Heberh[10]
Vì Chúa, hãy trao cho tôi chàng trai có đủ thông minh để xử sự như một thằng ngốc.
• Stevenson[11]
Tấm màn sân khấu của Hồi Một mở ra, để lộ một bãi biển hoang vắng man rợ trên đảo Ceylon. Ở bên trái và bên phải, một vài túp lều bằng tre đan. Phía trước, hai ba cây cọ phủ bóng xuống những bụi xương rồng khổng lồ bị gió vặn xoắn. Bên dưới, trên một mỏm đá nhô ra biển, đống đổ nát của một ngôi chùa cổ Hindu. Xa xa, đại dương, lấp lánh dưới vầng mặt trời rạng rỡ.
• Thơ mò ngọc trai[12]
Kẻ già cả các ngươi sẽ mơ thấy những điều mơ ước, trai trẻ các ngươi sẽ nhìn thấy những ảo tưởng.
• Joel[13]
Bí mật của tình trạng mệt mỏi là cái gì cũng nói.
• Voltaire
A, vì nơi ẩn dật nào đó
Sâu thẳm ở phương Đông rực nắng phía xa kia, nơi cuộc đời ta bắt đầu rộn ràng...
Những chòm sao mênh mông hơn đang cháy sáng, những vầng trăng dìu dịu và những phương trời hạnh phúc.
Bóng mát bao la của rừng nhiệt đới và rừng cọ Thiên đàng san sát.
Thương nhân chưa bao giờ dặt chân, cờ châu Âu chưa bao giờ tung bay.
Chim muông chao liệng trên miền rừng nắng chói, cây leo đung đưa trên vách đá hiểm trở;
Ngả nghiêng lùm cây rộ hoa, trĩu trịt cành cây sai quả.
Quần đảo Eden xanh tươi nằm giữa mặt biển tím sẫm.
• Tennyson[14]
Người Scandinavia này đáp máy bay từ Stockholm đến mỗi năm bốn lần. Bất chấp nhiệt độ là bao nhiêu, ông ta vẫn mặc quần áo bơi và đi thẳng ra nằm trên cát, dù có nắng hay không. Chúng tôi hỏi ông ta về điều này thì ông ta trả lời: “Tôi phải bỏ ra cả đống tiền để xuống đây. Tôi có nhiệm vụ phải ở trên bãi biển này và mặt trời có nhiệm vụ phải ở trên trời cao kia và nếu nó không hiểu được nhiệm vụ của nó thì đó không phải lỗi của tôi.” Và bạn biết không? Lần nào về nước ông ta cũng có nước da rám nắng.
Ta nghe như trong mơ
Trôi dạt giữa muôn hoa
Giọng hát êm ái dịu dàng của nàng
Gợi lên tiếng chim chóc hót ca.
Ánh sáng muôn vì sao xa xăm
Cho phép nhìn thấy một lần nữa
Cảnh đẹp của màn sương quyến rũ đó
Tỏa sáng mờ mờ trong làn gió.
• Thợ mò ngọc trai
Những gì được tường thuật trong câu chuyện này, tôi đều chứng kiến tận mắt hoặc nghe những người có liên quan kể. Chẳng hạn như cô gái Na Uy tóc hoe vàng mà bây giờ tôi sẽ nói đến, từng như nàng Scheherazade, bỏ ra nhiều ngày làm tôi say mê với những mẩu chuyện về thời thơ ấu của cô ở miền Bắc Na Uy.
Britta Bjørndahl sinh ra trên đảo Tromsø, cách Vòng Bắc Cực hai trăm dặm về phía Bắc. Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ II, cha cô từng là một nhà ái quốc có tiếng. Trong ba năm gian nguy, ông đã chống lại ách chiếm đóng của quân Đức, ẩn mình dọc theo các vịnh hẹp ở Na Uy và trong những dãy núi để truyền tín hiệu qua vô tuyến điện cho London hoặc gửi mật mã bằng ánh đèn cho các tàu Anh quanh quẩn ngoài khơi. Cuối chiến tranh bốn nước đã tặng thưởng huy chương cho ông, và mùa hè năm 1957 toàn bộ thủy thủ đoàn một tàu khu trục Anh đã bay tới Tromsø để cùng ông ôn lại cảm giác hồi hộp trong những ngày huy hoàng ấy.
Những huy chương đó mang lại rất ít lợi ích cho cha cô; thời bình ông trở về Tromsø kiếm sống đạm bạc với vai trò nhân viên trong một công ty chuyên chở cá tới cảng Bergen. Ông cưới cô gái đã liều mình tiếp tế đồ ăn và báo chí cho ông trong suốt những năm dài trốn tránh bọn Đức Quốc xã, và chẳng bao lâu sau họ có ba đứa con.
Mỗi mùa hè, mẹ Britta lại dõi mắt lên trời xem đã đến một ngày thích hợp nào đó chưa, và khi nó đến bà tập hợp đàn con rồi dẫn chúng đến xưởng đóng tàu của Holger Mogstad, vậy là lão sẽ giong buồm đưa họ vào eo biển ngăn cách Tromsø với một hòn đảo phía Tây che chắn cho nó trước sóng gió Đại Tây Dương. Cha Britta không bao giờ tham gia những chuyến đi ấy cùng với họ vì ông rất coi thường lão Mogstad, “Râu ria thì bẩn thỉu còn hơi thở thì thối hoắc,” là tất cả những gì ông nhận xét về lão chủ xưởng đóng tàu, nhưng Britta đoán là mối thâm thù giữa họ đã bắt nguồn từ hồi chiến tranh, khi cha cô vào rừng chiến đấu với quân Đức, còn lão thì ở lại Tromsø đóng tàu cho kẻ thù.
Tất nhiên, Britta muốn đứng về phía cha, nhất là sau một buổi tối cô bắt gặp lão Mogstad đang cố hôn mẹ cô trong nhà kho ở bến cảng, khi chuyến đi biển kết thúc; cô không nói gì về chuyện đó, một chuyện mà chính cô cũng chưa hiểu được hết nhưng đã khiến nỗi khinh ghét lão Mogstad càng tăng. Tuy vậy, cô vẫn theo mẹ và các em trong những chuyến đi biển hàng năm ấy vì không muốn bở lỡ cơ hội được chiêm ngưỡng điều kỳ diệu nơi eo biển.
Cô sẽ ngồi cạnh các em ở mũi thuyền nhòm xuống mặt biển sẫm màu, trong khi mẹ cô và lão Mogstad ngồi ở đuôi tìm cách lập một hình tam giác xung quanh vị trí con tàu chìm theo một số mốc bờ trên các mũi đất khác nhau, và sau nhiều lần nhầm lẫn, mọi người sẽ nhất trí, “Chắc hẳn chính là chỗ này,” rồi họ ngả người vào thành tàu chăm chú nhìn xuống nước.
Và dần dần, hiện ra từ làn nước tối tăm như một con quái vật nào đó chìm dưới đáy đại dương từ thời tiền sử, bóng dáng một con tàu chiến hùng vĩ sẽ từ từ thành hình. Nếu mặt trời ở đúng vị trí, và nếu sóng yên biển lặng, bọn trẻ sẽ đôi lúc được thấy toàn bộ con tàu đang say ngủ trong nấm mồ của nó, trải rộng về khắp mọi phía đến nỗi dường như còn lớn hơn cả bản thân đảo Tromsø. Nó thật bí hiểm, thật đáng sợ, một lời nhắn nhủ không thể nào cưỡng lại từ quá khứ xa xôi, và bọn trẻ nhìn không biết chán con tàu đó, con tàu chiến khổng lồ chìm trong hải cảng của chúng.
Bọn trẻ cũng nghe mãi không biết chán câu chuyện người mẹ kể về việc con tàu bị đắm ở đó như thế nào. Britta có thể nhắc lại câu chuyện hầu như chính xác không kém gì mẹ nhưng cô vẫn thích nghe lại từ miệng người từng tham gia đánh đắm con tàu hùng vĩ này:
“Đó là mùa đông năm 1943, khi số phận toàn thế giới đang ngàn cân treo sợi tóc. Nước Anh đang đói. Nước Nga sắp sụp đổ vì thiếu vũ khí. Người Na Uy chúng ta ư? Chúng ta không còn gì ăn cả vì cứ đến mùa thu bọn Đức lại cướp hết hoa màu của chúng ta. Song chúng ta biết rằng nếu mỗi người đàn ông và đàn bà ngày ngày chiến đấu thì vẫn còn có cơ hội. Khi các con lớn lên và đối mặt với khó khăn, các con phải nhớ tới cha và mẹ hồi mùa đông năm 1943 ấy.
“Cha các con ẩn nấp trong dãy núi trên kia. Nhiều người ở trong hoàn cảnh như cha các con đã chạy sang Thụy Điển, và mẹ không trách họ, vì bọn Đức sử dụng chó săn và máy bay săn lùng họ, vì vậy họ phải rời Na Uy. Nhưng cha các con đã ở lại. Cha và ông Storness thợ điện và cả ông Gottheld dược sĩ nữa - sẽ chẳng ai biết được họ đã sống sót bằng cách nào. Các con có biết tại sao họ ở lại trên núi, lẩn tránh máy bay của Đức quốc xã và tiêu diệt chó cảnh sát khi chúng đến quá gần không? Bởi vì họ phải đánh điện cho máy bay ở Anh. Cha các con có một cái radio, không phải đồ tốt, và ông Storness quay máy bằng tay, hết giờ này sang giờ khác - và các con có biết thế nào không? Mỗi lần họ đánh được một bức điện tới London, thông báo cho máy bay biết vị trí để ném bom thì bộ chỉ huy Đức ở Tromsø cũng nhận được thông điệp đó. Bởi vì chúng cũng có thể thu được tín hiệu điện đài, đúng không nào? Vậy là ngay khi cha các con bắt đầu nói vào radio, bọn Đức đã phái đội tuần tra và chó săn đi lùng sục, còn chúng ta chỉ biết chờ xem khi quay về chúng có bắt được ai không.
“Các con có đoán được cha các con thông báo những gì cho London không? Gần như suốt thời gian đó không nói được nhiều. Nhưng những người khôn ngoan ở London... các con có nhớ mẹ đã nói với các con ông Halverson chủ nhà băng là một người trong số đó không? Tuy mọi người và mẹ thấy lạ không hiểu tại sao, nhưng những người khôn ngoan đó biết rằng một ngày nào đó, chiến hạm Tirpitz đồ sộ của Đức sẽ bí mật vào cảng Tromsø, chính nơi này, và trốn tránh không để máy bay Đồng minh phát hiện cho tới khi đã đến thời điểm quyết định lao ra phá hủy toàn bộ tàu của quân Đồng minh. Nếu tàu Tirpitz gây được thiệt hại kha khá thì quân Đức có thể thắng trận, và bây giờ các con sẽ phải nói tiếng Đức. Và khi lớn lên các con sẽ phải lấy người Đức. Nguy hiểm gần kề như vậy đó. Vì vậy mọi người và mẹ phải canh chừng tàu Tirpitz.
“Trong gần hai năm... các con có tưởng tượng được nó là khoảng thời gian dài như thế nào không? Trong hai năm cha các con ở trên núi và báo cáo với London mọi việc xảy ra ở Tromsø. Nếu có chiến hạm nào trốn trong vùng biển của chúng ta, cha các con sẽ điện cho máy bay ở London và hôm sau quân ta sẽ ném bom xuống chiến hạm đó, và cũng xuống cả nhà chúng ta nữa, nhưng chúng ta không quan tâm đến chuyện đó vì chúng ta đều biết rằng vẫn còn có cơ hội.
“Và rồi một ngày tháng Chín năm 1944, các con có đoán được cái gì xuất hiện quanh mũi đất này không?”
“Chiến hạm Tirpitz,” bọn trẻ trả lời.
“Nó to lớn đến nỗi chúng ta không thể tin nó sẽ lọt được vào giữa quần đảo. Mẹ còn nhớ mẹ đã chạy xuống bến ở đằng kia xem nó cao vút giữa không trung như thế nào. Các con không thể tin nổi đâu. Chỗ thuyền trưởng đứng còn cao hơn nhiều so với bất kỳ tòa nhà nào ở Tromsø và các cỗ đại bác của nó thì khổng lồ đến nỗi chỉ nhìn thấy chúng thôi các con đã đủ chết khiếp rồi. Chúng ta không cần nghe nói cũng biết nếu vật ghê tởm này được tự do trên Đại Tây Dương thì nó sẽ đánh chìm toàn bộ tàu của quân Đồng minh. Đó là một thứ vũ khí gớm ghiếc đang ẩn náu trong cảng của các con. Thử nhìn xem nó đáng sợ đến mức nào, ngay cả khi nó đã nằm yên.”
Mùa hè nào cũng vậy, cứ đến chỗ này là bọn trẻ lại nhìn chằm chằm xuống chiếc vỏ tàu khổng lồ và rùng mình khi thấy nó vươn mình mãi xa trong làn nước dưới chân chúng, như một con quái vật chờ đợi thời cơ vươn lên mặt biển để phá hủy tất cả. Khi mẹ chúng tiếp tục câu chuyện, bà luôn hạ giọng, nhưng đó là đoạn chúng thích nhất vì nó liên quan đến cha mẹ. “Chiến hạm Tirpitz vừa tới, tên chỉ huy Đức ở Tromsø đã huy động thêm cảnh sát để kiểm tra bất kỳ người nào khả dĩ có được một chiếc radio. Hắn cho máy bay bắn súng máy xuống những điểm cha các con có thể ẩn náu. Còn các đội tuần tra và đàn chó càn quét trên sườn núi. Nhưng cha các con đã làm gì?”
“Cha ở yên một chỗ và gửi đi gửi lại mãi một thông điệp trong năm tiếng đồng hồ,” Britta nói với các em. “Cha thông báo cho các máy bay ở London, ‘Chiều nay tàu Tirpitz đã tới Tromsø. Lỗ to ở boong trước. Có thể ở đây sáu tuần.’”
“Khi cha đánh xong bức điện cuối cùng,” bà Bjørndahl kể tiếp, “lũ chó đã gần tới chỗ ông rồi. Đó là lúc ông Gottheld bị trúng đạn. Ông tình nguyện ở lại phía sau để điện đài có thể được an toàn.” Nói đến đây bà ngừng lại để tưởng nhớ ông Gottheld, một người đàn ông nhỏ bé, sợ giông tố, chó và vợ, sợ tất cả mọi thứ trừ bọn Đức Quốc xã.
“Ông ấy bị bắn chết. Bọn chúng bêu xác ông ở cổng cảng. Và trong một thời gian, có vẻ như sự hy sinh của ông là vô ích. Bởi vì không có máy bay nào từ London tới. Và khi không nghe thấy tin tức gì của cha các con và ông Storness, chúng ta đoán họ cũng chết rồi. Rồi đầu tháng Mười một, chúng ta nhận được một tin nhắn từ London đề nghị báo bằng điện đài cho họ biết tàu Tirpitz có còn ở đây không. Nhưng khi cha các con đang mất tích thì chúng ta làm sao trả lời được?
“Một đêm khuya tháng Mười một, một cậu bé dũng cảm đến nhà trao cho mẹ một lá thư ngắn: ‘Tới gặp vợ Storness thợ điện nhận một cái bọc mà bà ấy sẽ có. Đêm nay mang nó ra túp lều ở mũi vịnh vì điện đài cũ của bọn anh bị hỏng rồi.’ Dĩ nhiên đó là giờ giới nghiêm, càng nghiêm ngặt hơn vì tàu Tirpitz, nhưng mẹ cũng tránh được quân Đức và đến nhà Storness, tại đó bà Storness giao cho mẹ một gói nhỏ bọc vải có tẩm một lớp mỡ lợn mà thời đó gần như không thể kiếm ở đâu ra. Mẹ giấu cái bọc trong váy, như thế này này, rồi lẻn ra khỏi nhà bà ấy - và các con nghĩ chuyện gì đã xảy ra nào?”
Britta là người trả lời, “Một con chó cảnh sát xông vào mẹ. Nó ngửi thấy mùi mỡ lợn, mẹ quệt một ít vào ngón tay cho nó liếm, thế là nó bỏ đi.”
“Mẹ lẻn qua phòng tuyến Đức vào vùng nông thôn và đi bộ cho đến sáng. Rồi mẹ trốn trong rừng, nghe thấy tiếng phi cơ Đức bay qua trên đầu, đêm hôm sau mẹ tới mũi vịnh và giao cái bọc đó. Mẹ hôn cha các con rồi quay về Tromsø ngay - và các con có đoán được mẹ đã nhìn thấy gì khi mẹ ẩn nấp trong rừng buổi sáng ngày thứ ba ấy không?”
Britta đưa ra câu trả lời, “Mẹ nhìn thấy một trăm máy bay Anh bay trên đầu. Rồi mẹ nhìn thấy bom nổ hết quả này đến quả khác khiến bầu trời sáng rực. Và mẹ nghe thấy những tiếng nổ lớn vang dội qua dãy núi. Rồi khi lẻn qua phòng tuyến Đức trở về, ra bờ biển nơi những người khác đang đứng, mẹ không còn thấy tàu Tirpitz đâu nữa.”
Trong số sách báo mà bà Bjørndahl lén mang đến cho ông chồng tương lai lúc bấy giờ đang ẩn náu trên núi có một cuốn tạp chí National Geographic cũ vớ được từ con tàu nào đó đi ngang qua, đăng tải một câu chuyện dài về Ceylon, và vì ông Bjørndahl phải ở lại trên núi vừa lạnh lẽo vừa không có gì ăn, lại liên tục bị bọn Đức quấy rối nên ông giữ cuốn tạp chí ấy lại và dần dần cái tên Ceylon đã ghi sâu vào tâm trí ông, vì nó là tất cả những gì mà Bắc Na Uy không có: nó có hoa quả phong phú mà người ta có thể hái được ngay trên cây; ngày nào trong năm nó cũng có ánh mặt trời; người ta đi ra đường không phải bó chặt trong áo lông; và quan trọng nhất, nó có vẻ thanh tao yểu điệu của những cây cọ, của đàn voi chuyển động chậm chạp và âm nhạc mê hồn. Nếu trên trái đất này có một nơi con người được hạnh phúc thì đó chính là Ceylon, và ông Bjørndahl đã hạ quyết tâm ngay khi chiến tranh chấm dứt - vì ông tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi của quân Đồng minh - ông sẽ sống nốt quãng đời còn lại ở Ceylon.
Đặc điểm tự nhiên khác thường ở Tromsø càng củng cố quyết tâm này của ông. Ngay cả trong thời bình, Tromsø cũng bộc lộ nhiều khó khăn, vì mùa hè không có đêm và con người phải sống ở một vùng đất hầu như không có thực của những hư ảo và mộng tưởng, trong khi mùa đông lại không có ngày. Suốt tháng Giêng mặt trời không bao giờ mọc lên quá chân trời và ánh sáng yếu ớt của nó lại xám xịt và ma quái. Những năm dài ẩn náu trong núi, ông đã trải qua hàng trăm ngày hoàn toàn không có chút ánh sáng nào, bóng tối sâu thẳm của những tháng ngày đó đã xâm chiếm tâm hồn ông. “Ngày mà bọn Đức đầu hàng, tôi sẽ đi Ceylon,” ông nói đi nói lại với đồng đội của mình.
Nhưng khi hòa bình trở lại thì trách nhiệm cũng trở lại theo. Ông cưới cô gái duyên dáng đã cung cấp đồ ăn thức uống cho ông trên núi, và giờ thì ông phải chăm lo cho con cái của cô ấy - ông luôn gọi bọn trẻ là “con của cô ấy” Công việc của ông không cho ông thời gian để đi du lịch, vả lại nếu có thì ông cũng không có tiền. Bốn cái huân chương được bày trong một cái hộp lót nhung treo trên tường và Ceylon dần lùi xa vào huyền thoại. Nó vẫn tồn tại trong ánh mặt trời bất diệt của nó ở nơi chân trời xa lắc nào đó, nhưng đến đầu những năm 1960 ông đã nhận ra rằng mình sẽ không được nhìn thấy nó.
Điều đó không có nghĩa là ông đã mất hứng thú. Xuất phát bằng tờ báo người vợ tương lai mang đến, ông bắt đầu sưu tầm tất cả những gì liên quan tới Ceylon. Ông có những tấm bản đồ, một tập giấy biên nhận hàng hóa gửi đi Colombo, những bài tường thuật các chuyến du hành thế kỷ mười chín, những mảnh vải của người Sinhala, và đặc biệt là một loạt áp phích quảng cáo của hãng hàng không thể hiện những quang cảnh sống động khắp Kandy và Ratnapura. Giữa những khoảng thời gian mong ngóng hồi hộp, thỉnh thoảng lại có một khách lữ hành nào đó từng ghé thăm Ceylon dừng chân ở Tromsø, và sau đó, tại quầy rượu của Grand Hotel, người ấy sẽ phát biểu, “Tay Bjørndahl đó còn hiểu biết về Ceylon hơn cả tôi, mà tôi đã từng tới đó đấy.”
Gia đình Bjørndahl nhượng bộ trước niềm đam mê của ông: một căn phòng nhỏ được dành riêng ra cho những vật lưu niệm về hòn đảo đó. Trên tường treo kín bản đồ và trang trí áp phích quảng cáo của các hãng hàng không, nhưng nổi bật nhất là một món đồ mãi sau này ông mới có, chiếc máy hát được ông cho quay đi quay lại các trích đoạn ấn tượng của vở Thợ mò ngọc trai do Georges Bizet sáng tác mà ông đã sưu tầm từ nhiều nguồn tình cờ. Cho đến thời điểm này, ông đã tìm được một đoạn nam cao lĩnh xướng, một bè đôi với giọng nam cao và nam trung, và một đoạn đặc biệt trong đó giọng nữ cao cầu xin thần Brahma và Shiva phù hộ cho thợ mò ngọc trai được an toàn. Những lúc ngồi trong phòng Ceylon nghe các trích đoạn ám ảnh này, dường như ông không còn ở Tromsø mà đang ở chính mảnh đất ông say mê đó.
Trích đoạn nam cao ấy, về mặt kỹ thuật là một khúc cavatin đơn giản đến mức gần như ngây ngô, là một trong những sáng tác du dương nhất thế kỷ mười chín, một bài hát êm đềm ủy mị đến mức các ca sĩ giọng nam cao hiện đại càng ngày càng e ngại. Cha của Britta có tới ba phiên bản của bài này: bản được trình bày bởi Enrico Caruso, người từng yêu thích nó; Beniamino Gigli, người thể hiện thành công hơn bất cứ ai; và Jussi Bjørling, ca sĩ Thụy Điển độc nhất vô nhị có chất giọng thích hợp với những nốt nhạc ngân dài. Trong suốt những đêm dài mùa đông vốn bao trùm lên toàn bộ ngày, bọn trẻ nhà Bjørndahl dần quen với mấy giọng nam cao ám ảnh hát khúc bi ca:
“Ta nghe như trong mơ,
Trôi dạt giữa muôn hoa
Giọng hát êm ái dịu dàng của nàng
Gợi lên tiếng chim chóc hót ca.”
Phần chọn lọc mà Britta ưa thích nhất là đoạn nhân vật nữ chính cầu nguyện, vì mỗi khi giọng nữ cao gọi tên các thần Brahma và Shiva, Britta đều có thể hình dung được tượng của hai thần và ngôi đền thờ phụng họ. Vì vậy Ceylon trở nên sống động đối với cô cũng gần như đối với cha cô, và mặc dù không chia sẻ với ông lòng khao khát đa sầu đa cảm được nhìn thấy hòn đảo, cô cũng hiểu nó đã ám ảnh trí tưởng tượng của ông đến mức nào. Ở trường, Britta nói với cô giáo: “Em lớn lên ở Ceylon,” và khi cô giáo tìm hiểu rồi phát hiện Britta chưa bao giờ rời khỏi Tromsø, cô bèn cho nữ sinh này là kẻ bịa chuyện nhỏ tuổi, nhất là Britta còn khăng khăng nói là cô bé đã ở đó... cùng cha mình.
Ở Tromsø có nhiều người mỉm cười bao dung trước ông Bjørndahl và những mộng tưởng của ông; họ đâm ra ngờ rằng những năm dài ẩn nấp trong núi đã ảnh hưởng đến đầu óc ông, nhưng một thực tế cốt yếu đã dập tắt mọi lời bàn luận bất lợi: trong tất cả các nhà yêu nước trốn trên núi kia, kể cả ông Storness thợ điện và ông Gottheld dược sĩ, ông Bjørndahl là người duy nhất đã sống sót qua giá lạnh và bọn Đức Quốc xã. Nhiều người ban đầu hoạt động cùng ông, nhưng phần lớn đều phải chạy sang Thụy Điển; ông Storness chết vì thiếu ăn còn ông Gottheld bị bắn.
Vì vậy Britta không bao giờ quên cha cô là anh hùng thực sự, và cả mẹ cô cũng vậy. Đó chính là lý do cô im lặng khi bắt gặp mẹ và lão Mogstad xấu xí với bộ râu bẩn thỉu. Và đó cũng chính là lý do tại sao mỗi mùa hè cô đều bằng lòng giong buồm cùng lão Mogstad để xem chiếc chiến hạm đã bị chìm, bởi khi chăm chú ngó xuống làn nước tĩnh lặng và nhìn thấy cái vật gớm ghiếc ghê tởm đang ẩn náu dưới đó, cô có thể thành thật mà nói: “Cha mẹ mình đã đánh đắm nó.”
Khi lớn hơn, cô phải thừa nhận cha mình đã trở thành một người đàn ông vô dụng như thế nào; khúc cavatin là khúc bi ca dành cho những cơ hội ông đã bỏ lỡ. Những tiếng kêu kéo dài của nó là lời ai oán dành cho bao hy vọng tiêu tan, và những người khác cảm thấy thương hại ông, nhưng khi Britta nhìn ông, cô có thể xót xa nói, “Mình là con gái những anh hùng.”
Đến mùa hè thứ mười lăm của cuộc đời, Britta Bjørndahl đã là một trong những cô gái nhan sắc nhất Tromsø, một hòn đảo vốn nổi tiếng vì những phụ nữ xinh đẹp, kể cả các cô gái vùng Lapland bẽn lẽn trong bộ váy áo dệt sặc sỡ đã rời xa những đàn tuần lộc phương Bắc để xuống đây. Bạn đọc sẽ hiểu là Britta không hề nói với tôi nhiều lời như thế này: “Cháu được coi là người đẹp ở Tromsø,” vì cô rất khiêm tốn, nhưng tự tôi có thể nhận thấy điều đó. Hơn nữa, chỉ một cô gái tự tin thầm lặng về sức quyến rũ của mình mới gặp được những chuyện mà cô đã kể với tôi khi ở Tây Ban Nha.
Mùa xuân năm đó, thời kỳ chúng tôi thường xuyên trò chuyện với nhau, Britta mười tám tuổi, không cao quá khổ, thân hình cân đối không chê vào đâu được, hàm răng đều đặn trắng bóng, da dẻ mịn màng của người phương Bắc, tóc ngắn quá vai như một chú thị đồng, không phải màu bạch kim như vẫn thường thấy ở Phần Lan và Bắc Na Uy, cũng không phải màu mật ong như ở các vùng phía Nam, mà là một màu trắng mát mắt điểm ánh hổ phách của rượu sâm banh. Britta rất hay cười, cô đã qua cái thời e thẹn và thường xuyên bị những khách hàng vốn tính tự do thoải mái của quán rượu nơi cô làm việc sờ mó, tán thưởng, thậm chí là hôn. Cánh thủy thủ Mỹ, hiển nhiên là rất thích cô, thường gọi cô là “nàng Viking[15] của chúng ta”, và quả thật cô có nét điềm đạm và sự đôn hậu thẳng thắn vốn là đặc trưng của dân tộc dũng cảm này. Hơn nữa, như hầu hết những người Scandinavia có giáo dục, cô nói tiếng Anh giọng không nặng lắm nhưng với sắc thái riêng vừa đủ tăng thêm sự lôi cuốn. Nhưng khi kể tất cả những điều trên, tôi đã bỏ sót một phẩm chất cơ bản của cô gái đáng yêu này. Cô gây ấn tượng là người phóng khoáng; cô không cao mà cũng không béo, nhưng vai rộng và hông cũng vậy. Cô bước đi tự tin, và trong nét mặt cô có sự cởi mở dễ chiếm cảm tình và vẻ trong trắng lôi cuốn tất cả đàn ông. Cô là người có sức mạnh tinh thần.
Trong mùa hè thứ mười lăm này, mẹ cô lại một lần nữa thu xếp cho lão Mogstad đưa bọn trẻ ra biển thăm con tàu đắm Tirpitz, và mặc dù Britta đã xem nhiều lần, cô vẫn đi cùng, khi nhìn thấy con quái vật mờ mờ dưới nước, lần đầu tiên cô mới đánh giá hết được sự dũng cảm cần phải có để đối chọi với sức mạnh đáng sợ này, và suýt nữa nước mắt cô đã trào lên nếu như không kịp nắm tay để kìm lại. Nhìn thấy thế, lão Mogstad nói vài lời dỗ dành nhưng Britta đều bỏ ngoài tai. Khi xuồng cập bến và bà Bjørndahl đã đưa mấy đứa em về nhà, Britta phải ở lại xếp dọn mọi thứ, rồi khi đang ôm một chồng đệm mang cất vào kho chứa buồm, cô đột nhiên thấy lão Mogstad đã ở sau lưng, vồ lấy cô rồi vật ngửa xuống đất.
Britta sững sờ đến nỗi không kêu lên được, thấy thế lão Mogstad lại tưởng cô xấu hổ, và cô chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì lão đã lột được gần hết váy áo của cả hai, tìm cách chiếm đoạt cô. Cô đã từng bàn luận với các bạn học về tình dục và cũng hiểu khá rõ vấn đề này, nhưng lại chưa được chuẩn bị để đối phó với cuộc tấn công này, rồi trong trạng thái hoảng hốt mê muội, cô đã để lão đạt được mục đích, chẳng biết mình còn có thể làm gì khác nữa. Đó là vụ hãm hiếp vội vã, vụng về, kinh khủng và hoàn toàn ghê tởm, bộ râu bẩn thỉu và hơi thở hôi thối của lão Mogstad càng làm tăng thêm sự khó chịu. Khi mọi chuyện đã xong xuôi, lão chủ xưởng đóng tàu liếc đôi mắt dâm đãng nhìn cô: “Chúng ta sẽ không kể với ai, phải không?” Britta hoang mang trước hành động của lão đến mức chỉ nhìn lão rồi đi về nhà.
Mùa hè năm đó, lão Mogstad thường xuyên sán lại gần cô để rủ rê cô vào kho chứa buồm, nhưng bây giờ khi đã có cơ hội quan sát lão kỹ hơn, cô thấy lão là một gã béo núc ngoài bốn mươi tuổi thậm chí trông còn khó coi hơn cô tưởng, với hàm răng xám xịt và tật co giật cơ mặt. Quả là trông lão thật ghê tởm, và cô thấy khó chịu ngay cả với việc nhận những lời lịch sự ngọt xớt của lão. Nhiều lần lão gạ gẫm cô cho lão làm tình nữa, hứa sẽ sẵn sàng chi tiền nếu cô muốn, thật lố bịch hết chịu nổi, và một hôm cô gắt lên: “Cút đi! Ông thật tởm!”
Giữa tháng Bảy Britta bắt đầu quan hệ nghiêm túc với một anh hàng xóm, một chàng đẹp trai mười bảy tuổi tên là Haakon, và họ đã cùng phát hiện nhiều góc tối nơi người khác không bao giờ ngờ sẽ tìm thấy họ. Ở đó họ đã có những khám phá lẫn nhau rất đáng hài lòng, vì vậy ký ức về kinh nghiệm tình dục đầu tiên ghê tởm của cô được xóa nhòa nhẹ bẫng. Cô nhận thấy mình thích đàn ông và những trò chơi tình dục mà họ có thể đáp ứng, vì vậy sang tháng Tám, cô và Haakon bắt đầu kết bạn với một đôi mười tám tuổi ít nhiều cũng dược gọi là đang sống cùng nhau, và thỉnh thoảng cặp lớn tuổi hơn ấy lại kiếm được một phòng sẵn sàng mà cả bọn có thể dùng chung trong một không khí riêng tư tôn trọng lẫn nhau. Một đêm, khi chia tay ai về nhà nấy, Britta nói: “Điều mà em thích trong quan hệ tình dục là, dù nó có bắt đầu như thế nào đi nữa thì bao giờ anh cũng biết nó sẽ kết thúc ra sao.” Một thời gian sau, cả hai đôi đều chia tay, Britta chuyển sang cặp với anh bạn kia, vì vậy những căn phòng mà anh thu xếp cho cô bạn gái đầu tiên giờ đây được anh dành cho Britta. Tên anh là Gunnar; anh có công ăn việc làm tử tế; và chắc hẳn một ngày nào đó anh và Britta sẽ để mặc cho mình bị cuốn vào một đám cưới Tromsø thông thường.
Khi sinh nhật lần thứ mười tám của Britta tới gần, cô phải đi làm vì nhà Bjørndahl không có đủ tiền cho con học tiếp. Cha cô vẫn tiếp tục làm một nhân viên quèn với đồng lương ít ỏi ở công ty xuất khẩu cá và đêm đêm vẫn mơ mộng về Ceylon. Ngôi nhà vẫn tràn ngập tiếng hát của Beniamino Gigli “Tôi nghe như trong mơ...” hay của Luisa Tetrazzini tài năng trong vai nữ tư tế ở đền thờ thần Brahma. Cha của cô thích kể cho bọn trẻ nghe không những về Ceylon mà còn về các ca sĩ, “Ông Gigli, người nghệ sĩ xuất sắc này, đã trở thành phần tử phát xít nói những điều tồi tệ về nước Mỹ, nơi ông ta kiếm sống trong nhiều năm. Ông ta là người đáng căm giận thật đấy nhưng lại có thể hát được, về phần cô Tetrazzini khốn khổ, sau khi trở thành một lão phu nhân béo phì, con cái bà đã đưa bà ra tòa và yêu cầu thẩm phán tước hết tiền của bà vì bà tiêu pha không tính toán thận trọng gì cả và bọn họ sợ bà sẽ chẳng để lại được gì cho họ. Họ bảo bà bị thần kinh, nhưng trước toàn thể phòng xử án bà đã hát bài này, và quan tòa phán rằng bất kỳ người nào có thể hát như vậy - lại nhớ được cả lời nữa - chắc chắn không bị thần kinh.
Bà Bjørndahl kiếm cho Britta một việc làm lại trong chính văn phòng lão Holger Mogstad! Những tháng đầu tiên là khoảng thời gian khó khăn vì lão Mogstad tìm mọi cách dụ cô vào trong góc để sờ nắn và luồn tay vào chân cô. Một hôm, lão gặp cô trong nhà kho và đã bắt đầu cởi khuy áo cô, nhưng hành động này làm cô tức giận đến nỗi cô đập vào đầu lão và dọa: “Ông là một lão già ngu ngốc. Hãy cư xử cho phải phép đi, nếu không tôi sẽ đấm cho đấy.” Đó là một lời cảnh cáo chẳng có gì đáng sợ nhưng cũng làm lão choáng váng và chấp nhận thực tế là bất cứ mơ tưởng yêu đương nào với cô gái này cũng chỉ vô ích mà thôi. Lão trả thù bằng cách giao cho cô những công việc khó chịu và mỉm cười đểu cáng mỗi khi Gunnar xuất hiện vào cuối ngày để đưa cô về nhà. Một lần lão thầm thì: “Tôi cá là cô đã ngủ với thằng ấy, đúng không?” Thật vô cùng ghê tởm, nhưng chẳng còn kiếm được việc nào khác.
Britta lờ mờ có được ý niệm nghiêm túc đầu tiên về tương lai vào một đêm, khi Gunnar thu xếp cho cha mẹ đi xem phim để đưa cô về nhà anh - và trong lúc nằm trên giường sau cuộc làm tình vui thú, cô nghĩ thầm: Nếu chúng mình được sống chung công khai thì sẽ dễ chịu biết bao. Nhưng trong lúc ấp ủ những ý nghĩ tươi sáng ấy, cô vô tình nhìn sang Gunnar thấy anh khom người trên cái bàn đặt một chiếc radio sóng ngắn, và cô nhận ra anh cũng say mê cái radio y như cha cô say mê Ceylon vậy. Đúng thời điểm không thích hợp này, Gunnar lại reo lên, “Nghe này, Britt! Đây chính là anh chàng ở Samoa mà anh đã kể với em đấy!” Và trong khi anh tiếp tục nghịch mấy cái núm điều khiển, cô có thể hình dung ra anh vài chục năm sau, lãng phí thời gian ban ngày với một công việc tầm thường nào đó mà anh không thể chuyên tâm và lấp đầy ban đêm với chiếc radio. Mối lo ngại của cô càng tăng lên khi vô tình nhắc đến niềm đam mê của anh với cha mẹ, và cha cô reo lên, “Không biết cậu ta có liên lạc được với Ceylon không nhỉ?” Kết quả là Gunnar tìm mọi cách thực hiện chuyện đó, bắt liên lạc với một người Anh ở Kandy, rồi trong nhiều đêm căng thẳng, Gunnar cùng ông Bjørndahl chụm đầu bên chiếc radio, nói chuyện với Ceylon; và hết giờ này sang giờ khác, những thông điệp lạ lùng được trao đi đổi lại, và đến nửa đêm ông Bjørndahl trở về nhà, hớn hở vì Ceylon thực sự tồn tại. Nhưng Britta nhận thấy trong suốt thời gian bị thu hút bởi niềm say mê này, Gunnar gần như quên hẳn cô, và trong suốt tháng Mười, họ không lên giường với nhau một lần nào.
Nhưng một vấn đề thậm chí còn sâu xa hơn tình dục đã nảy sinh: đầu tháng Mười một, Tromsø đi vào đường hầm, buộc Britta phải nghi ngờ những giá trị sống ở Na Uy. Hàng năm, cứ đến ngày hai mươi hai tháng Chín, trong chu trình lên xuống đã định trên khoảng trời, vầng dương lại tiến đến điểm giữa của hành trình lặn xuống, và rồi ngày và đêm có độ dài bằng nhau; nhưng ngay sau đó mặt trời xế bóng, vì vậy ngay cả giữa trưa nó cũng khuất dưới đường chân trời khiến cho ngày thì ngắn và đêm thì vô tận. Khi tháng Mười hai đến gần, dân Tromsø nói: “Chúng ta sắp vào trong đường hầm rồi,” một lối so sánh thích hợp, vì nó truyền tải ý niệm là sau một đoạn dường dài tối tăm thế giới sẽ lại một lần nữa bừng lên ánh sáng ban ngày vui tươi; nhưng đối với lớp trẻ hình ảnh ấy thật ảm đạm vì họ không thể tìm được niềm an ủi ở sự hứa hẹn về một mùa xuân xa vời vợi. Họ chỉ thấy nắng đã tắt và thời gian mù mịt giữa ánh sáng và bóng tối đè nặng lên tâm hồn họ đã bắt đầu.
Giữa tháng Mười hai, khi bóng tối đã sâu thẳm phía trên họ, cha Britta nói một cách triết lý: “Vậy đấy, chúng ta lại đến đây rồi đâm đầu vào đường hầm.” Và những đêm tiếp theo, Britta thấy cha trốn biệt trong căn phòng nhỏ nghe bản nhạc Ceylon hư ảo, và thường thường khi đang làm việc trong văn phòng lão Mogstad, cô lại thấy mình huýt sáo nho nhỏ khúc cavatina trong vở Thợ mò ngọc trai, như thể cuộc sống của cô cũng đang tồn tại trong một giấc mơ, và cô cảm thấy chính mình cũng bị mắc vào sự viển vông đã hạ gục cha cô, và thế giới dường như không thể chịu đựng được nữa, và cô thì thầm: “Mình muốn mặt trời.”
Xin các vị đừng tưởng Tromsø nằm trong bóng tối hoàn toàn suốt cả hai mươi tư giờ mỗi ngày; giữa trưa sẽ có một màn sương xám mỏng manh, thỉnh thoảng lại tạo ấn tượng một vẻ đẹp không thể quên, với những rừng cây trên đất liền nhô ra khỏi bống tối như những tòa lâu đài tưởng tượng. Giữa buổi chiều, các cô gái làm việc dọc bến cảng lại rời văn phòng một lúc, khi con tàu hơi nước từ Bergen vòng qua mũi đảo trên hành trình Bắc tiến đến thành phố Kirkenes, ở phía bên kia mũi đất. Khi con tàu đã ra khơi, các cô gái sẽ miễn cưỡng thơ thẩn quay về với công việc, và đến cuối ngày, thế giới của họ sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối. Nên khi họ nói với nhau: “Chúng ta đã vào đường hầm,” thì họ ngụ ý rằng việc quan trọng bây giờ là phải cố gắng chịu đựng, bằng mọi cách, cho đến khi màn đêm đáng sợ này qua đi.
Buổi sáng thứ hai, ngày mười sáu tháng Mười hai, Britta bị đánh thức lúc bảy giờ do một linh cảm rõ rệt hôm nay sẽ là một ngày đặc biệt - một cái gì đó có lẽ liên quan tới Gunnar hoặc công việc của cô. Nhìn chiếc nhiệt kế treo bên ngoài cửa sổ, cô thấy nó chỉ âm mấy độ và nghĩ: Chẳng có gì đặc biệt về thời tiết. Bóng tối vẫn dày đặc như mọi khi: Cũng chẳng có gì đặc biệt ở đó. Nhưng cô cảm thấy tinh thần Giáng sinh trong không khí, như thể khi cô đi làm, dân Lapland có thể đã ở trên phố với đàn tuần lộc của họ rồi.
Để giữ được khí thế của ngày khác thường này, cô chọn chiếc váy mini ngắn nhất của mình, màu đỏ tươi; và để bảo vệ chân, cô xỏ đôi tất len thô có sọc dày cùng một đôi bốt màu trắng bằng da tuần lộc. Bên ngoài áo thêu, cô khoác áo da có mũ trùm để bảo vệ khuôn mặt nhưng chỉ dài quá hông mấy inch. Ngắm mình trong gương, cô thì thầm: “Không có gì hấp dẫn, nhưng mày cũng được đấy.” Cô gọi với vào trong chào mẹ rồi rời nhà và bắt đầu rón rén bước dọc theo con đường đóng băng nằm lọt thỏm giữa những đống tuyết cao đến thắt lưng. Một lúc sau, má cô đã đỏ như màu váy.
Trên khắp thế giới, chỉ một vài thành phố hấp dẫn hơn Tromsø trong buổi sáng Bắc Cực này, vì nó đã phô bày một Bắc cực quang nhân tạo. Nhiều năm trước, dân thành phố đã quyết định tốt hơn hết họ nên làm một việc gì đó để bù đắp cho cái ảm đạm phương Bắc, vì vậy họ thống nhất rằng mỗi người sẽ sơn nhà mình bằng một màu sắc rạng rỡ riêng biệt. Lúc này, khi Britta cuốc bộ tới nơi làm việc, cô đi qua những ngôi nhà màu xanh lơ và đỏ tía, màu anh đào, màu hoàng thổ và màu vàng. Nhà nào cũng bật đèn sáng trưng vì điện vốn rẻ, và đèn bật từ tháng Mười vẫn được để sáng cho đến tận tháng Tư. Tromsø quả là một xứ sở màu sắc thần tiên, được các cô gái mặc váy mini sặc sỡ như Britta làm cho thêm phần nổi bật.
Đến Peter Hansen’s Gate, một con đường rộng dẫn ra cảng, cô vẫy tay chào tất cả mọi người, rồi rẽ trái vào phố Storgata chật kín những người má đỏ au, khuôn mặt ngời sáng như chiếc đèn lồng trong bóng tối triền miên. Cô mỉm cười với từng người, trong lòng vẫn tin chắc hôm nay sẽ là ngày may mắn của mình. Rồi, khi sắp rời khỏi phố Storgata, cô chợt nhìn thấy ngay trước mắt khung cửa sổ gắn kính dày của một công ty du lịch có dán tấm áp phích in hình một cô gái Scandinavia to như người thật mặc áo bơi hai mảnh đang đứng cạnh cái cối xay gió bằng đá cũ kỹ trông xuống Địa Trung Hải. Trên tấm áp phích chỉ xuất hiện ba từ, nhưng nó có tác động mạnh mẽ: Hãy tới Torremolinos!
Lần đầu tiên bắt gặp tấm ảnh ấy, Britta không dừng lại ngắm kỹ vì cô chưa nhận thức được đó chính là linh cảm đã làm cô tỉnh giấc, nhưng bằng một cách nào đó không thể miêu tả được, nó kích thích trí tưởng tượng của cô, nên khi nhìn lão Mogstad, cô lại thấy một cái cối xay gió bằng đá, và khi nói chuyện với thư ký của lão, người phụ nữ đó lại trở thành một cô gái mặc bikini đứng bên bờ Địa Trung Hải.
Trên đường về nhà tối hôm đó, cô ngắm tấm áp phích một lần nữa, và khi nghe thấy cha mở đoạn nhạc “Ta nghe như trong mơ,” cô lại nhìn thấy như trong một giấc mơ: chính cô đang đứng dưới ánh nắng cạnh một cái cối xay gió ở Tây Ban Nha. Trong lần xuất hiện đầu tiên, hình ảnh ấy chưa đánh thức nỗi khát khao đặc biệt nào; thực ra phản ứng của cô chỉ theo lý trí: Tất nhiên... Torremolinos... tháp của cối xay... cái tên thật dễ thương. Nhưng khi vào phòng cha hỏi mượn tập bản đồ, cô phát hiện ra tấm bản đồ Tây Ban Nha không có tên Torremolinos. Chắc nơi ấy phải nhỏ lắm, cô nghĩ.
Gunnar đến ăn tối, sau đó cả hai đi xem phim rồi về thẳng nhà một người bạn và nhảy luôn lên giường. Cuộc mây mưa khá vui thú, chủ yếu do Britta luôn đòi hỏi phải như vậy, nhưng không say đắm lắm, và trong khi Gunnar lăn ra ngủ bên cạnh cô vì không có radio để chơi, cô nhìn thấy trên những bức tường của căn phòng tối hình ảnh những cối xay gió bằng đá và những bãi biển cát trắng uốn lượn. Sáng hôm sau trên đường đi làm, cô chăm chú ngắm tờ áp phích và một tấm bìa treo cạnh đó: Các bạn cũng có thể tận hưởng Tây Ban Nha chan hòa ánh nắng với chi phí ít hơn các bạn tưởng. Tối hôm đó, cô bước vào công ty du lịch và ngập ngừng tiến lại gần người đàn ông ngồi sau bàn giấy.
Đó là một người đàn ông nhỏ bé sốt sắng, hơi thấp đối với người Na Uy, ve áo trái cài một bông hoa nhựa màu vàng khá lớn. Nó gắn một khẩu hiệu quảng cáo có in tên doanh nghiệp: Hãy đến nước Ý rực rỡ ánh mặt trời. Tua du lịch Sven Sverdrup, Tromsø, Na Uy. Sau lưng ông ta là một áp phích khêu gợi cảm xúc mang hàng chữ: Hãy đi nghỉ ở Hy Lạp rực rỡ ánh mặt trời. Tại các công ty du lịch miền Bắc Na Uy, mặt trời là thứ dễ tiếp thị.
Mặc dù trông cô rõ ràng chưa đến mười bảy tuổi và chắc chắn không có khả năng quan tâm đến một chuyến du lịch tốn kém, ông Sverdrup vẫn niềm nở chào cô như thể cô có tiền nghìn để mà tiêu pha. “Tôi là Sven Sverdrup,” ông vui vẻ nói. “Và quý cô muốn gi? Một chuyến du lịch Oslo trong đợt nghỉ Giáng sinh chăng?”
“Tôi đang tính đến Torremolinos,” cô đáp.
Không hề chớp mắt, ông cả quyết, “Nơi nghỉ đông tốt nhất thế giới. Tôi cũng đã từng đến đó. Tuyệt hảo.”
“Bao nhiêu?”
“Cô có mười lăm ngày huy hoàng tràn ngập nắng. Tromsø, Oslo, Copenhagen, Torremolinos. Mời cô xem trang thiết bị.” Cô không hiểu từ này, nhưng ngay sau đó, ông đưa cho cô một tập sách quảng cáo mỏng màu sắc rực rỡ, trên bìa cũng chính là cô gái Scandinavia ấy, cũng bộ áo bơi ấy và cũng cái cối xay gió ấy. Ông mở cuốn sách chỉ cho cô xem khách sạn mà cô sẽ trọ ở Torremolinos, bể bơi và tiện nghi dành cho việc ăn uống. “Toàn trang thiết bị thường chỉ dành cho các triệu phú Mỹ,” ông kết luận.
“Bao nhiêu?”
“Cho mười lăm ngày, toàn bộ phí tổn, kể cả tiền boa... Cô xem đây, chỉ chín mươi lăm đô la - chưa đến bảy trăm kroner.” Cô chưa kịp phản ứng, ông đã hạ giọng nói: “Tất nhiên là hai người ở một phòng. Nếu cô nhất định đòi một phòng đơn thì giá sẽ cao hơn chút ít - một trăm mười đô la.”
“Tôi sẵn sàng ở chung phòng,” cô nói nhanh. Ông đã khôn ngoan khai thác được câu trả lời khẳng định đầu tiên.
“Sao lại không nhỉ?” ông hỏi với vẻ thành thạo. “Cô còn trẻ. Cô không câu nệ đến mức phải có một phòng riêng.”
“Ông nói phải,” cô trả lời khi rời khỏi đó.
Cả ngày hôm sau, trong lúc làm việc giữa đống giấy tờ, Britta luôn nghĩ tới Tây Ban Nha. Giữa buổi chiều, khi con tàu từ Bergen phả đầy hơi nước lên cầu tàu, cô vẫn ngồi tại bàn nghiên cứu cuốn sách quảng cáo và hình dung trong đầu vị trí phòng ăn và bể bơi. Cô cũng bắt đầu những tính toán cân nhắc sẽ làm cô bận rộn suốt khoảng thời gian còn lại của tháng Mười hai: Mình cần phải có một ít tiền để chi tiêu. Rồi cô kiểm tra lại tình hình tài chính của mình, đắn đo giữa khả năng hỏi vay cha (vô vọng), hay đề nghị lão Mogstad ứng trước tiền lương (nguy hiểm, vì lão sẽ đồng ý, với điều kiện cô phải theo lão vào kho chứa buồm) hay xin một việc làm mới nào đó lương cao hơn (hiện tại thì không có chỗ nào, ngoài ra, nếu thay đổi công việc, cô sẽ không được nghỉ phép cho đến tận hè sang năm). Hè năm nay chắc chắn mình sẽ không đến được Tây Ban Nha, cô nghĩ bụng. Mình sẽ đi vào mùa đông, khi tình hình thuận lợi hơn chút ít.
Cô bắt đầu hỏi han bạn bè về Tây Ban Nha, và những ai có người quen từng du lịch đến đó đều say sưa phát biểu cảm tưởng. Cuối cùng cô cũng tìm được một người ở cửa hàng bán quần áo đã thực sự đến đó, một phụ nữ to béo trên năm mươi tuổi, nhưng những gì bà nói phần nào đó khiến cô hơi cụt hứng, “Một số người cứ thêm thắt về Tây Ban Nha nhiều điều hơn cả những gì người khác nên tin.”
Ông Sverdrup và những lời ca ngợi mặt trời của ông chính là nguồn động viên mạnh mẽ nhất. Ngày qua ngày, mỗi khi cô ghé vào văn phòng ông vì những cám dỗ càng lúc càng tăng, ông lại cả quyết rằng dù phải cầu xin giúp đỡ hay vay mượn thì cô cũng phải đến Tây Ban Nha bằng được, “Hãy tưởng tượng chính cô dưới ánh mặt trời, Địa Trung Hải xanh thẳm cách nơi cô ngồi ăn có mười foot, đêm đêm tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng ru cô vào giấc ngủ.” Sau một bài mô tả đặc biệt hăng say về những gì cô sẽ được hưởng thụ, cô đến văn phòng lão Mogstad và nói: “Tôi muốn hỏi ông một câu giả định.”
“Một gì cơ?”
“Giả sử thôi. Nếu tôi gom góp được tiền, tôi có thể nghỉ phép vào tháng Giêng được không?”
Lão Mogstad giơ tay phải, đặt ngón cái và ngón trỏ lên bộ ria, nhẹ nhàng vuốt xuống hai bên. “Tháng Giêng mà nghỉ phép thì cũng tốt đấy. Nhưng cô đào đâu ra tiền?”
“Tôi đang tiết kiệm.”
“Cô định đi đâu? Oslo à?”
“Torremolinos.”
“Tây Ban Nha?” lão nghi ngờ hỏi. “Cô định đi Tây Ban Nha?”
“Đó là nơi thanh niên tụ họp,” cô nói, trích dẫn một câu trong cuốn sách giới thiệu.
Lão Mogstad cắn cả hai đuôi hàng ria mép, rồi hạ giọng: “Nhưng sao lại không đi Oslo nhỉ? Tôi có thể xuống đó giao dịch. Cô sẽ chẳng tốn...”
“Tôi sẽ đi Torremolinos,” cô nói.
“Nhưng nếu cô đi Oslo, chúng ta có thể tới xem bè gỗ Kon-Tiki[16] ở Bygdøy. Tôi sẽ cho cô tiền.”
Chiều hôm đó, cô quay lại công ty du lịch và hỏi ông Sverdrup: “Torremolinos... giá thấp nhất của ông là bao nhiêu?”
Ông chăm chú nhìn Britta, như thể cân nhắc xem có nên tiết lộ cho cô không, rồi lên tiếng: “Cô Bjørndahl, chín mươi lăm đô la là giá rẻ bất ngờ rồi. Nhưng,” nói đến đây ông dẫn cô vào góc văn phòng, “chúng tôi có dành một vài ghế cho mục sư, sinh viên, những trường hợp thật gay go... Ông chủ của công ty này trước kia là mục sư. Ông ấy cho phép chúng tôi... vậy đấy, bảy mươi lăm đô la.”
Cố không để vẻ vui mừng, Britta cả quyết hỏi: “Tôi cần bao nhiêu tiền để chi tiêu?”
Ông Sverdrup sửa lại bông hoa nhựa và nói: “Cô trẻ trung và xinh đẹp. Cô nên sống vui vẻ. Đừng cố xoay xở để chi tiêu dưới năm đô la một ngày.”
“Như vậy là một trăm năm mươi đô la cả thảy. Nhiều quá.”
“Nhiều tiền thật đấy nhưng cô còn nhiều năm ở phía trước. Làm theo lời khuyên của tôi đi. Hãy làm cho những năm tiếp theo ấy đầy ắp kỷ niệm khó quên về mặt trời. Cô mà là con gái tôi, tôi sẽ nói, ‘Hãy đi đi.’ ”
Cô nắm lấy tay ông nói: “Ông khuyên rất đúng.”
Rồi một việc không ngờ tới đã xảy ra. Gunnar dành quá nhiều thời gian cùng cha Britta liên lạc bằng sóng ngắn với Ceylon đến nỗi cô có cảm giác anh không còn để ý cô nữa. Dĩ nhiên cô cũng không còn quan tâm nhiều đến anh và đã đi đến quyết định dù có đi Tây Ban Nha hay không, hết kỳ nghỉ Giáng sinh cô sẽ để ý quanh Tromsø để tìm một bạn trai mới. “Nói thẳng ra,” cô tâm sự với một cô bạn ở văn phòng, “Gunnar làm tớ phát chán.” Rồi, Gunnar lại tỏ ra quan tâm âu yếm và thu xếp cho bà dì đến chơi với họ hàng để anh và Britta có thể sử dụng nhà của bà, và khi họ nằm trên giường, anh nói: “Britta này! Ông Nordlund vừa thăng chức cho anh làm tổng giám thị, vì vậy anh nghĩ chúng mình nên cưới nhau đi.”
Lời cầu hôn khá đột ngột vì cô chưa chuẩn bị tinh thần, và nguyên nhân tầm thường của nó khiến cô cảm thấy bị xúc phạm. Khi nằm đó, cô có thể hình dung ra những tháng năm dài phía trước. Cuộc sống của cô sẽ là sự tiếp nối vô tận những gì đã diễn ra với cha mẹ cô, và khi cô có con, bọn trẻ bị nhốt trong những mùa đông đằng đẵng ở Tromsø ấy sẽ ôm ấp những mộng tưởng của bản thân và sẽ kết tinh những mộng tưởng đó thành nhà tù. Đó là một viễn cảnh chẳng có gì vui thú, và nó còn trở nên chán ngán hơn nữa khi Gunnar bắt đầu kể lể những vấn đề đặc biệt mà cả hai sẽ phải đương đầu, “Tất nhiên chúng ta không có khả năng kiếm được một căn nhà riêng, nhưng nếu em tiếp tục làm ở chỗ ông Mogstad và anh được tăng lương thêm ít nữa ở chỗ ông Nordlund, chúng ta có thể đăng ký và có lẽ tám hay mười năm nữa chúng ta sẽ mua được.”
“Trong lúc chờ đợi thì sao?” Britta hỏi.
“Chúng ta có thể sống ở nhà cha mẹ em hoặc cha mẹ anh.” Câu chuyện đến đó thì kết thúc và họ buông mình vào cuộc làm tình không mấy mặn mà, sau đó Gunnar thiếp đi, yên trí là bây giờ mình đã đính hôn, còn Britta nằm thao thức nghĩ lời cầu hôn phải là một điều gì đó đặc biệt hơn cách ngỏ lời của Gunnar, viễn cảnh tương lai phải có nhiều hứa hẹn hơn. Chợt nhận thấy mình đang hát khẽ “Ta nghe như trong mơ”, cô bực bội ngừng lại và lẩm bẩm một mình, “Mình không muốn mơ với mộng nữa,” và cô quyết định phải nói cho Gunnar biết cô không thể lấy anh.
Luôn sẵn sàng đối diện với thực tế ngay lập tức, Britta lay Gunnar vài lần, và khi anh tỉnh dậy, cô nói: “Gunnar, em không nghĩ là chúng mình nên lấy nhau.
“Tại sao lại không?” anh hỏi như một đứa trẻ còn ngái ngủ chưa hiểu hết lời nói của người lớn.
“Em chưa sẵn sàng. Em định đi Tây Ban Nha.”
“Tây Ban Nha!” Ngồi bật dậy, đặt tay trái lên ngực cô, anh hỏi: “Em nói chưa sẵn sàng nghĩa là sao? Chuyện gì thế?”
“Em thích lên giường với anh,” cô thừa nhận. “Em thích tình dục. Nhưng em không nghĩ là chúng ta sẽ thành một gia đình hạnh phúc. Em chưa sẵn sàng.”
“Có chuyện gì vậy, Britt?”
Cô ngồi dậy cạnh anh, co chân lại tựa cằm vào đầu gối và vuốt lại chăn. “Em nghĩ đó là vì em muốn nhìn thấy những nơi tràn ngập ánh nắng mà cha em và anh mơ tưởng. Em không muốn nói hay nghe về Ceylon. Em muốn nhìn thấy nó.”
“Britt! Ceylon chẳng là cái quái gì cả. Ở Tromsø em sẽ gặp hàng trăm thủy thủ đã đi khắp thế giới, họ sẽ kể cho em nghe sự thực đó. Đâu đâu cũng chán ngắt như Tromsø thôi.”
Cô không bị thuyết phục, và trong lúc ngồi cạnh nhau trên giường, hoàn toàn khỏa thân, chăn quấn quanh người, họ tranh luận về cuộc sống và hôn nhân cho đến khi cơn ham muốn lại bùng lên, kéo họ vào một cuộc làm tình dữ dội và lạnh nhạt, nhưng lúc Britta mặc quần áo để về nhà, cô nhận ra đây là lần cuối.
“Em không nghĩ là em sẽ bận tâm đến việc gặp anh thêm bất cứ lần nào nữa,” cô đứng ở ngưỡng cửa nói.
“Thật là một từ chúc Giáng sinh không thể chịu nổi,” Gunnar làu bàu. “Anh sẽ không bận tâm đâu.”
“Đó chính là từ em đang mong anh nói ra.” Cô đóng cửa lại và thả bước xuyên qua đêm tối tràn ngập ánh sao để về giường mình.
Đổ vỡ với Gunnar càng củng cố quyết tâm đi Torremolinos của Britta, và cô tiến hành đánh giá một cách thực tế hơn tình hình tài chính của mình. Cô đã dành dụm được gần bốn mươi đô la và cần một trăm năm mươi nữa trong trường hợp ông Sverdrup có thể đưa ra cho cô giá thấp nhất. Khi cô hỏi ông về vấn đề này, ông nói: “Chừng ấy thì tôi có thể hứa với cô được. Thế hiện giờ cô đã có bao nhiêu rồi?” Khi cô cho ông biết, ông nói: “Bốn mươi thì còn lâu mới tới một trăm năm mươi, nhưng cô còn trẻ, cô phải cố gắng lên. Chuyến du lịch này có thể thay đổi cuộc đời cô đấy.”
Ông chỉ cho cô thấy nếu cô làm việc đến hết tháng Giêng và tiết kiệm từng xu tiền lương, cô sẽ có gần đủ số cần thiết. Ngoài ra, ông nghĩ cô có thể làm đêm ở một cửa hiệu nào đó đang muốn giải quyết hết hàng tồn đọng sau Giáng sinh, nhưng việc này xem ra cũng không thực tế, vì vậy cô tìm được một cách giải quyết khác: cô có thể giúp ông đánh máy báo cáo gửi về tổng công ty ở Copenhagen, và cô đã làm như vậy, hết đêm này sang đêm khác.
Ngay sau kỳ nghỉ đầu năm, ông Sverdrup nhận được áp phích mới quảng cáo về các chuyến đi nghỉ ở Tây Ban Nha, và khi bỏ tấm cũ ra khỏi cửa sổ, ông hỏi Britta: “Cô có muốn treo cái này trong phòng cô không?” Cô định cầm nó như kỷ vật về một mảnh đất cô đã dần dần yêu mến, nhưng chưa đưa tay ra cô đã nhận thấy tấm áp phích này như một sự cám dỗ, thứ đầu tiên trong vô vàn vật thay thế sẽ được cô dán khắp phòng như hồi ức về những ước mơ không thành, nên cô từ chối. “Với tôi thì không có áp phích gì cả. Tôi muốn người thực việc thực.”
Chính sự hết mình không gì lay chuyển nổi trước thực tiễn đó đã khuyến khích ông Sverdrup nói hết mọi chuyện với cô. Chờ cho đến khi cô có mặt sau giờ làm vào một buổi tối thứ Hai lạnh giá âm u, ông bảo cô: “Tuần này không có việc đánh máy. Nhưng có một điều tôi phải nói cho cô biết.” Ông dẫn cô vào phòng trong và mời cô ngồi xuống ghế. “Chính xác thì cô đã có bao nhiêu tiền?” ông hỏi. Cô cho ông xem thành quả tiết kiệm của cô, và ông nói: “Cô Bjørndahl, cô có vừa đủ rồi.”
“Không!” cô phản đối. “Tôi sẽ không đi xuống đó như một kẻ không xu dính túi. Tôi phải có bảy mươi lăm đô la tiền chi tiêu.”
“Cô đã có rồi,” ông nói.
“Ông thêm thắt bằng cách nào vậy?” cô hỏi.
“Cách này,” ông đáp. “Tôi không được phép nói với khách hàng tương lai điều này, bởi vì tất nhiên chúng tôi muốn họ trả đầy đủ tiền vé. Nhưng nếu cô chờ cho đến phút chót mới mua vé, và nếu còn bất kỳ chỗ trống nào trên máy bay, chúng tôi sẽ bán cho cô một vé với giá... cô đoán bao nhiêu?”
Bởi giá vé của cô đã hạ từ chín mươi lăm đô la xuống còn bảy mươi lăm, cô biết không thể hạ thêm quá nhiều được, vì vậy cô đoán, “Sáu mươi lăm?”
“Cô chỉ phải trả tất cả là hai mươi sáu đô la.”
Britta ngồi im, tay đặt trong lòng. Chắc chắn đây là một cái bẫy... một trò đùa. Cô biết không ai có thể bay tới Tây Ban Nha bằng máy bay phản lực, ở trong một khách sạn sang mà không phải trả tiền ăn, được hưởng một kỳ nghỉ mười lăm ngày nhất hạng mà chỉ mất có hai mươi sáu đô la - và cô sẽ không để mình bị biến thành một con ngốc. Vì vậy cô không nói gì.
“Cô có nghe thấy tôi nói gì không đấy?” ông Sverdrup hỏi.
“Có. Hai mươi sáu đô la. Để chi cho thứ gì? Bánh kẹp thịt chăng?”
“Cho mọi thứ. Máy bay, khách sạn, ăn uống, tiền boa, xe buýt. Mọi thứ trong mười lăm ngày.”
“Ông nói nghiêm túc đấy chứ?” cô hỏi khẽ.
Ông cười thích thú vì thấy cô vẫn chưa dám tin vào một sự thật hiển nhiên, rồi nói: “Britta, trên thế giới này có nhiều người muốn giúp đỡ lớp trẻ. Công ty chúng tôi lập luận rằng vì dù thế nào thì máy bay cũng phải cất cánh, và vì chúng tôi đã thanh toán tiền khách sạn cho cả năm rồi, nên thà dành những ghế không có người ngồi cho các bạn trẻ, những người có thể thu được nhiều điều bổ ích từ chuyến đi này, còn hơn để máy bay trống một nửa. Tôi có thể nói với cô điều này từ một tháng trước đây nhưng tôi muốn thử thách cô - để xem niềm khao khát của cô có đủ mạnh mẽ khiến cô phải chịu hy sinh không.”
Britta e mình sẽ khóc òa lên mất, vì vậy cô không đáp lại.
“Như vậy là cô đã đủ tiền,” ông Sverdrup nói tiếp. “Hãy về nhà chuẩn bị đi. Máy bay sẽ cất cánh vào năm giờ sáng ngày 3 tháng Hai. Nhưng...
“Tôi đã biết là thể nào cũng phải có một chữ nhưng...
“Chữ nhưng này nhỏ thôi nhưng làm cô bực mình đấy. Như hôm nay, chúng tôi có một số ghế trống. Tôi chắc là mai chúng tôi cũng có ghế trống. Nhưng nếu vì lý do bất ngờ nào đó mà đùng một cái máy bay lại kín chỗ thì...”
“Tôi sẽ không đi được?”
“Không đi Tây Ban Nha được. Nhưng ở Copenhagen còn có các chuyến bay khác đi đến những nơi khác.”
“Tôi muốn đi Tây Ban Nha,” cô kiên quyết nói.
“Còn tôi muốn cô đến được đó. Nhưng trong mọi việc lúc nào cũng có may rủi. Cô có thể kết thúc chuyến đi ở Hy Lạp lắm chứ.”
Những ngày tiếp sau đó thật căng thẳng vì khắc khoải. Mỗi sáng, trong bóng tối trên đường đi làm, Britta nhìn chằm chằm tấm áp phích mới ở cửa sổ. Giờ ăn trưa, cô rời bến cảng vội vã tới phố chính, và trong màn ánh sáng mờ mờ bàng bạc của vầng dương trôi gấp gáp dưới đường chân trời, cô lại nhìn ông Sverdrup xuyên qua cánh cửa, và ông lại gật đầu ra hiệu vẫn còn ghế trống. Chiều tối, sau giờ làm việc, cô lại ghé vào văn phòng ông đánh máy tất cả những gì chất đống trên bàn, từ chối tiền công, và mỗi đêm, trong lúc giúp ông đóng cửa văn phòng, cô lại được nghe lời động viên của ông: “Copenhagen báo là ‘Vẫn còn chỗ trống.’”
Cô lấy hộ chiếu hợp lệ, nói lời chia tay với anh chàng Gunnar vốn vẫn yên trí cô sẽ quay về làm đám cưới nên dần trở nên gần gũi với cha cô hơn bao giờ hết. Thường thường, lúc đêm khuya, cô lại vào căn phòng nhỏ trưng đầy áp phích với bản đồ và ngồi xem ông vạch con đường vượt Ấn Độ Dương của các nhà thám hiểm, không bao giờ thỏa mãn với niềm khát khao hiểu biết tất cả những gì liên quan tới hòn đảo của mình. Và ông lại nghe bản nhạc Thợ mò ngọc trai trong khi hai cha con chuyện trò, vì vậy cô lại nghe thấy giọng ông vang đến tai mình qua một tấm màn mỏng những tiếng cầu nguyện trầm bổng của các thầy tế và tiếng hát của những người đánh cá Sinhala, và trong lòng cô dần nảy sinh mối thương cảm sâu sắc dành cho người đàn ông ít nói đã bị cuộc đời đối xử khá tệ bạc này.
Sau này, khi kể cho tôi nghe về cuộc ra đi của mình, Britta nói về cha cô, “Ông khôn ngoan hơn cháu tưởng nhiều. Ông là người đầu tiên cảm nhận được sự thực về chuyến đi xa của cháu... những nguyên nhân thực sự ấy. Và ông còn đoán rất đúng là cháu không thừa nhận chúng với chính bản thân mình... thậm chí còn chưa ý thức được về chúng.” Cha cô muốn đề cập chủ đề này nhưng cũng như mọi khi, ông im lặng và trốn tránh trong những đề tài ít quan trọng hơn. “Mọi việc giữa con và thằng Gunnar kết thúc rồi à?” ông ngập ngừng hỏi. Khi cô gật đầu, ông nói tiếp: “Không có gì đáng ngạc nhiên.” Tất nhiên ông đã biết, rằng giống như nhiều thanh niên ở Tromsø - và khắp Na Uy nếu xét riêng vấn đề đó - họ đã sống cùng nhau, nhưng điều đó không làm ông lo ngại. Ông cho rằng, nếu Gunnar chứng tỏ mình là một chàng trai tốt thì đến lúc thích hợp con gái ông sẽ lấy cậu, còn nếu không, cô tự mình tìm cách giải quyết thì cũng đúng thôi. “Nghị lực của cậu ấy chỉ có hạn,” ông nói. Rồi, lo sợ vì lời nhận xét này đưa ông đến gần những nguyên nhân cơ bản, ông ngậm miệng lại và cúi nhìn bản đồ. Sau một lúc lâu im lặng, mắt không nhìn thẳng vào con gái, ông nói: “Con là người có nghị lực, Britt ạ. Hãy giữ mãi như thế nhé.”
Cô cũng muốn tâm sự nhưng lại sợ sự thôi thúc sâu xa hơn đang đẩy cô tới Tây Ban Nha, vì vậy, giống như cha, cô rút về với những chuyện tầm phào, “Nếu con tới sân bay mà không có chỗ thì sẽ rất vô duyên. Cứ tưởng tượng ra cái nỗi mình đã nói tất cả những lời tạm biệt thế mà rồi lại quay trở về làm ở chỗ ông Mogstad như trước.”
“Ông ta là người như thế nào?”
“Đê tiện.”
“Mẹ con có vẻ thích ông ta.”
“Ông ta là kẻ đê tiện.”
“Có lẽ khi con trở về...” Đây là những lời mà bất cứ người cha người mẹ nào quan tâm đến việc làm đầu tiên của con gái mình đều có thể nói, nhưng đối với ông Bjørndahl, chúng nguy hại như ngọn lửa, vì chúng bắt ông phải đối diện với câu hởi thực sự: Con gái ông có quay về không? Ông nhìn con, và mặc dù cả hai không ai nói gì, họ đều hiểu rằng cô sẽ bỏ Tromsø vĩnh viễn... sẽ chạy trốn khỏi Na Uy với lòng quyết tâm sắt đá không bao giờ trở về. “Mình không hiểu liệu nó có biết nguyên nhân không?” ông Bjørndahl tự hỏi. Ông ước gì được nói chuyện cởi mở với con gái vì ông rất yêu quý cô. Cho dù có nhan sắc ấn tượng, cô vẫn là người biết suy nghĩ. Nếu cô chạy trốn khỏi Na Uy, ông tin chắc cô có lý do chính đáng.
Đối với mẹ, Britta lại rất thận trọng, giúp bà nấu nướng, rửa bát đĩa sau bữa ăn và trả lời các câu hỏi với thái độ nhã nhặn bất thường. Khi bà Bjørndahl hỏi về chuyện của cô với Gunnar, Britta chỉ nói: “Con e rằng nó đã kết thúc rồi.” Cô không kể chi tiết và bà Bjørndahl kết thúc cuộc đối thoại bằng hai câu: “Nó sẽ là chàng rể tốt đấy. Cha con thích nó.”
Ngày 2 tháng Hai, Britta thức dậy với nỗi bồn chồn lo lắng không sao che giấu nổi, vì ngày hôm nay sẽ cho biết trên máy bay có chỗ trống hay không. Khoảng mười giờ sáng, ông Sverdrup sẽ nhận được bức điện tổng hợp chi tiết từ Copenhagen, vì vậy lúc mười giờ ba mươi, Britta nói với lão Mogstad là cô muốn vắng mặt vài phút, và trong lúc lão ta còn đang cẩn thận rẽ bộ ria sang hai bên mép, phân vân không biết có nên cho phép hay không thì cô đã bước ra ngoài. Đến công ty du lịch, cô được biết ông Sverdrup đã ra ngoài, cô bèn hỏi người trợ lý xem có tin gì từ Copenhagen không, nhưng không biết được điều gì, nên cô đành chờ đợi trong nỗi lo sợ càng lúc càng tăng.
Cuối cùng ông Sverdrup cũng trở lại, bông hoa màu sáp ong của ông đung đưa sống động trong ánh sáng nhợt nhạt. “Tin tốt lành!” ông reo lên ngay khi nhìn thấy Britta. “Như tối qua... còn chỗ. Sáng mai cô sẽ bay đến Copenhagen. Và nếu cô không thể lên máy bay đi Torremolinos, chúng tôi sẽ ghép cô vào chuyến khác. Marốc, Hy Lạp - ai mà biết đêm mai cô sẽ ở đâu?”
“Tôi sẽ ở Tây Ban Nha,” Britta nói.
Vì giữa đêm và ngày không có sự khác biệt nhiều, chuyến bay đi Copenhagen bao giờ cũng rời Tromsø vào lúc ba giờ sáng, nên Britta không ngủ; cô trò chuyện với cha lần cuối cùng, ông nói, “Cha sẽ không ra sân bay với con.” Cô cảm thấy rất gần gũi mẹ và cũng chuyện trò với bà, nhưng khi nói chuyện, cô lại nghe thấy giai điệu thê lương của khúc cavatina, và nỗi niềm khao khát tuyệt vọng từ khúc nhạc ấy vò xé trái tim cô đến nỗi cô phải quay lại chỗ người cha đang ngồi cô đơn lật giở sách vở. “Cha ước gì được đi với con,” ông nói, nhưng điều ông muốn nói lại là, “Cha ước gì mình có đủ can đảm thoát ly từ những năm trước.”
Tại sân bay, Britta hôn Gunnar chiếu lệ, chủ yếu vì anh kéo theo vài người bạn và sẽ khó xử nếu cô không làm cho họ tưởng hai người vẫn yêu nhau. Đến lúc tạm biệt mẹ, cô cảm thấy sự xúc động trào dâng trong lòng, và trong một giây ngắn ngủi, cô phải thầm công nhận nguyên nhân thực sự khiến cô phải tranh đấu tuyệt vọng như vậy để đi Tây Ban Nha, “Mình sẽ rời Tromsø vĩnh viễn. Mình không thể chịu đựng được tính trật tự chán ngắt... những năm tháng không bao giờ thay đối... các quy tắc nặng nề đối với vẫn từng ấy thứ cũ kỹ... Mình không muốn chờ mười năm rồi mới bắt đầu cuộc sống của mình. Mình không muốn đường hầm nữa.”
Rồi, ngay chính cô cũng bất ngờ, Britta buột miệng nói thật với mẹ, “Con sẽ không quay lại... không bao giờ. Mẹ nói với cha nhé.”
Bà Bjørndahl chộp lấy cánh tay cô, định bắt giải thích về tuyên bố bất thường ấy, nhưng Britta đã đẩy bà ra và chạy về phía máy bay, leo nhanh lên cầu thang trước khi mẹ cô đuổi kịp.
Đến Copenhagen, cô phải chờ hai giờ trong khi ba chiếc máy bay mà công ty du lịch thuê được nhồi chật kín. Chiếc thứ nhất đi Tây Ban Nha đã có một số lớn khách, nhân viên của công ty du lịch mà Britta hỏi tin cho rằng tất cả hành khách dự bị sẽ bay trên chiếc thứ hai đi Marốc. “Đó là một nơi tuyệt vời. Cô sẽ thích cho mà xem.” Chiếc máy bay thứ ba đi Hy Lạp cũng được khách quen chiếu cố đặt chỗ, nhưng trên đó chắc chắn không còn ghế trổng. Vì vậy hoặc là Marốc hoặc là Torremolinos, và Britta bắt đầu cầu nguyện.
Ngày hôm đó có tất cả sáu khách dự bị, năm cô gái và một chàng sinh viên của một trường đại học ở Thụy Điển. Tất cả bọn họ đều nói không quan tâm lắm đến việc đi đâu, miễn là nơi đó có ánh mặt trời, vì vậy Britta đề nghị, “Nếu các bạn không quan tâm, và nếu chỉ còn một suất tới Torremolinos, tôi có thể giành được suất đó chứ?”
“Người ta cho chúng tôi đi đâu thì chúng tôi đi đó,” một cô gái đáp.
“Với giá cả thế này, cô không thể kén chọn được,” cậu thanh niên nói.
Vậy là Britta đứng một mình, hai bàn tay nắm chặt, và khi người của công ty du lịch đến chỗ hành khách dự bị thông báo: “Chúng tôi còn hai chỗ đi Torremolinos,” cô liền lao về phía trước, suýt xô ngã anh ta, và ngay cả khi đã thắt dây an toàn, cô vẫn sợ đến nỗi không giảm bớt được căng thẳng, nhưng khi chiếc máy bay phản lực SAS khổng lồ cuối cùng cũng tăng tốc xuôi đường băng rời khỏi mặt đất, cô đã có thể hài lòng là ước mơ bấy lâu nay của mình sắp thành sự thật, không để ý đến các hành khách đang giật mình ngơ ngác xung quanh, cô vung cả hai tay lên cao và thét: “Đã thành sự thật rồi!”
Khi chiếc máy bay phản lực hạ cánh ở Málaga và hai trăm du khách Scandinavia đặt chân lên mặt đất, một hiện tượng lạ lùng đã diễn ra. Họ xuống sân bay, ngẫu nhiên gặp hai trăm người vừa kết thúc kỳ nghỉ và đang trên đường trở về Scandinavia, và khi hai đoàn đi ngang qua nhau, nét mặt một bên lộ rõ vẻ phấn khởi rạng rỡ, còn bên kia là sự buồn nản, vì đoàn thứ nhất đang tiến về ánh mặt trời, đoàn thứ hai đang quay lại đường hầm. Những du khách nam trên đường về nước ẩn mình sau chiếc mặt nạ chấp nhận dửng dưng, tự an ủi bằng thực tế là giữa Thụy Điển văn minh và Tây Ban Nha cổ điển thực ra không có sự chọn lựa; bất cứ một người có đầu óc tỉnh táo nào cũng sẽ thích Thụy Điển hơn với chế độ bảo hiểm, bệnh viện hiện đại, thậm chí trường học cũng tốt hơn và một chính quyền dân chủ, công bằng, không chịu ảnh hưởng của giáo hội. Nhưng các cô gái trẻ trung với nước da rám nắng dưới ánh mặt trời mùa đông thì lại không tự dối mình như vậy; họ đã yêu Tây Ban Nha và muốn ở lại, ít nhất cho đến lúc phương Bắc vào hè, và khuôn mặt họ thường xuyên chìm trong nét u sầu, “Tôi không muốn về nhà. Tôi không muốn về nhà!” Họ dường như đang hô thầm, như dàn đồng ca trong truyện dân gian Scandinavia nào đó.
Quang cảnh Tây Ban Nha đầu tiên Britta Bjørndahl nhìn thấy đã vượt quá sự mong đợi của cô: ít nhất là một lần này những tấm áp phích quảng cáo du lịch đã không lừa dối người ta. Ngày sáng sủa và có mặt trời, với những đám mây xốp nhẹ trôi dạt từ Địa Trung Hải và hơi ấm nương mình trong dãy núi trải dài về hướng Bắc. Một dãy xe buýt vàng dừng lại trước lối vào sân bay, và khi những người mới đến lên xe, họ nhìn thấy chiếc máy bay phản lực SAS đang được tiếp nhiên liệu, như con chim khổng lồ nào đó đang nóng lòng quay về tổ. Britta gật đầu chào khi đi ngang qua nó. “Về nhà đi!” cô thì thầm. “Ta sẽ không cần mi nữa đâu.”
Chặng đường từ Málaga tới Torremolinos mất chưa đến hai mươi phút nhưng nó là một cuộc hành trình từ nền văn minh này sang nền văn minh khác: sân gôn xếp hàng chờ đợi dưới ánh mặt trời, những hiệu ăn nhỏ có vườn lộ thiên, thấp thoáng Địa Trung Hải xanh thẳm hơn cả ngọc bích, và thật bất ngờ, một cụm hai mươi bảy tòa nhà chọc trời đánh dấu lối vào chính thức của thành phố. Xe buýt vượt qua Torremolinos, rẽ trái về phía biển và đỗ thẳng hàng trước cửa Northern Lights, một khách sạn mười bảy tầng có đội ngũ nhân viên hoàn toàn là người Scandinavia. Với tính hiệu quả nhờ kinh nghiệm đón tiếp các đoàn khách đều đặn đến đây mỗi tuần hai lần trong suốt năm, những chàng trai tóc vàng trực sau quầy phân phát số phòng và chìa khóa phòng ngay khi khách bước vào sảnh, và trao cho họ tờ bìa in bản hướng dẫn cách tìm phòng và đường từ đó đến phòng ăn. Chỉ sau sáu phút kể từ lúc xuống xe buýt, Britta đã xách chiếc túi du lịch nhỏ rời khỏi thang máy bước vào tầng mười sáu. Đẩy cửa căn phòng được dành cho mình, Britta thấy một cô gái Thụy Điển, cô này tự giới thiệu tên là Sigrid và ngay phút đầu chào hỏi đã nói luôn: “Thứ Sáu này tớ phải về rồi.”
Câu hỏi đầu tiên của Britta là câu mà cô sẽ phải nhắc đi nhắc lại trong suốt hai tuần tiếp theo, “Ở đây có thể tìm được việc làm không?”
“Tuyệt đối không thể. Không có việc gì hết.”
“Nhưng giả dụ là có,” Britta khăng khăng. “Tớ phải làm thế nào thì mới tìm được?”
“Tớ đã bắt đầu với ông quản lý ở đây. Ông ta bảo mỗi tuần ông ta nhận được năm mươi câu hỏi từ các cô gái như chúng ta. Việc tốt nhất cậu có thể làm là chọn một cái quán bar nào đó rồi quanh quẩn ở đó cho đến khi người ta quen mặt quen tên cậu. Nếu có bất cứ công việc gì, người ta sẽ cho cậu biết.”
“Các quán bar ở đâu?” Britta hỏi.
Sigrid phá lên cười và nói: “Xuống dưới, rẽ phải, vấp ngón chân là cậu sẽ thấy ngay bảy quán liền. Nhưng cậu phải quyết định đã. Thụy Điển, Đức hay Mỹ?”
“Quán bar cũng theo quốc tịch sao?”
“Tất nhiên. Quán ăn cũng vậy.”
“Tớ có thể xin làm hầu bàn được không?”
“Không có cơ may nào đâu. Tớ cũng đã thử rồi.”
“Thế còn các quán bar?”
“Quán Thụy Điển sạch sẽ nhất... và tất nhiên là cậu biết tiếng Thụy Điển. Nhưng cậu không gặp được đàn ông giàu có... hoặc người có thể kiếm công ăn việc làm cho cậu. Quán Đức thú vị nhất và cậu sẽ gặp...”
“Tớ không thể làm việc với người Đức,” Britta ngắt lời, và Sigrid, vốn đã biết cô bạn là người Na Uy, không nói thêm gì.
“Quán Mỹ là chốn khá tệ và rất ồn ào. Tớ không chịu được những nơi ấy, nhưng cậu sẽ gặp được đám đàn ông ở căn cứ quân sự và bọn họ thì khá rủng rỉnh.”
“Họ có tìm được việc làm cho cậu không?”
“Không. Nhưng số tiền cậu có thể kiếm được cho phép cậu duy trì cuộc sống cho đến khi tìm được việc làm.”
“Rồi sẽ có việc làm chứ?”
“Bạn thân mến! Có đến hơn một trăm cô gái Scandinavia làm việc ở Torremolinos. Không ai trong số đó tìm được việc ngay khi mới đến, nhưng bằng cách này hay cách khác bọn họ vẫn bám trụ được. Và bây giờ họ đều có công việc tử tế, và tớ đang héo hon mòn mỏi vì ghen tị khi nghĩ đến việc họ xoay xở được mà tớ thì lại không.”
“Làm ơn nói cho tớ biết, họ xoay xở bằng cách nào... thực sự ấy?”
“Ba cách,” Sigrid nói, đứng bên cửa sổ phóng tầm mắt về phía Đông hướng tới thành phố Málaga đang phơi mình trong ánh nắng giữa núi non và biển cả. “Dịp cuối tuần, đàn ông Tây Ban Nha từ các công ty thương mại ở Madrid đổ xuống Torremolinos, và người nào cũng hy vọng tìm được một sueca... Họ gọi chúng ta như vậy đấy. Họ vốn có truyền thống hào phóng với tình nhân... cung cấp nhà ở... một ít tiền trợ cấp... và họ cũng không trông đợi quan hệ kéo dài mãi mãi. Cách thứ hai là người Đức. Dân này thậm chí còn hào phóng hơn, nhưng đối với một cô gái Na Uy thì tớ đoán là không được rồi.”
Britta chằm chằm nhìn thẳng vào hình bóng thành phố Málaga phía trước, vì vậy Sigrid kết luận, “Cuối cùng là cách mà phần lớn đám con gái đã chọn. Cứ đến cuối tuần hàng đoàn lính Mỹ lại xuống đây - thậm chí cả thủy thủ ở Rota nữa. Và điều tuyệt nhất trong đời họ là thu xếp được một căn hộ để sống chung với một cô gái Thụy Điển. Họ rất hào phóng vì được trả lương cao, nhưng họ quá ồn ào và gần như thất học. Tớ cũng đã định làm theo cách này... nghiêm túc đấy... bất cứ cách gì để có một chỗ đứng ở Tây Ban Nha. Nhưng cuối cùng tớ lại không thể chấp nhận. Cậu sẽ nói chuyện gì với một anh lính Mỹ cơ chứ?” Cô thở dài rồi nói nhỏ: “Vậy là thứ Sáu tớ sẽ bay về... nếu trước đó tớ không nhảy ra khỏi cái cửa sổ kia.”
Buồn rầu trước lời miêu tả này, Britta nói, “Tớ đói quá rồi,” vậy là họ xuống dưới ăn trưa và được đưa đến một trong những bàn đẹp nhất, suốt thời gian cô ở Northern Lights không một lần nào có bất cứ ai thể hiện bằng bất cứ cách gây xúc phạm nào là họ biết cô tới đây với giá rẻ nhất có thể được. Đối với nhân viên khách sạn, Britta là một cô gái Na Uy khả ái nữa có thể được lợi dụng để tô điểm cho khách sạn này và làm cho nó có gì đó trông giống như các tấm ảnh trong cuốn sách quảng cáo, và họ biết nếu đối xử chu đáo với cô, sau này cô có thể quay lại... với một trăm phần trăm giá.
Trên mọi phương diện, Britta thấy các điều kiện vật chất trong kỳ nghỉ của cô đều tốt hơn những gì cô đã mong đợi. Phòng rộng hơn, chăn đệm sạch sẽ hơn, phong cảnh gây ấn tượng hơn. Thức ăn rất ngon, mỗi bữa ba món, mỗi món lại chia ra làm bốn đĩa để khách chọn: một đĩa hoàn toàn Scandinavia, chủ yếu là cá; một đĩa Tây Ban Nha đậm đà gia vị; một đĩa Pháp mà mỗi bữa lại thay một loại nước xốt mới; và một đĩa quốc tế hoàn toàn không có mùi vị gì đặc biệt. Chỉ riêng bể bơi trong nhà là có một nhược điểm nghiêm trọng: cứ ba cô gái thì mới có một người đàn ông. Nói tóm lại, khách sạn Northern Lights là một trong những nơi du lịch giá trị nhất thế giới, ngay cả khi giá ở mức cao nhất, và với 26,13 đô la cho mười lăm ngày thì đúng là một phép màu.
Vậy mà Britta không thể nào tận hưởng nó được, bởi vì mỗi sáng thức giấc cô lại nhận thức rõ giờ phút rời khỏi đây đã gần thêm một ngày, và điều đó làm cô chán nản. Cô đã hỏi ông quản lý khách sạn xem liệu ông có bất cứ công việc nào không, và ông giơ cả hai tay lên trời, “Cô bạn thân mến! Nếu có năm mươi việc làm thì tôi cũng có đủ người để nhận rồi.” Cô cũng rẽ vào văn phòng hãng SAS, nhưng họ đã đủ nhân viên. “Các cô gái đã kiếm được việc ở đây thì chẳng rời đi đâu cả,” viên giám đốc công ty nói. Cô đã thử đến các khách sạn sang trọng, hết nơi này đến nơi khác, mà không kiếm được việc gì. Thứ Sáu, cô chào tạm biệt cô bạn cùng phòng; Sigrid nước mắt lưng tròng khi rời Tây Ban Nha, và tối hôm đó, giường của Sigrid đã được dành cho Mette, một cô gái người Copenhagen dễ thương, con gái một biên tập viên báo chí.
Mette có những quan niệm dứt khoát về cách sử dụng thời gian đi nghỉ, và ngay đêm đầu tiên cô đã rủ Britta tới vũ trường Arc de Triomphe với lời giải thích: “Khi hai cô nàng tóc vàng cùng nhau bước vào, một anh chàng tử tế sẽ nhanh chóng hành động, vì thể nào anh ta cũng phải có một người bạn chí cốt, và để có một người bạn chí cốt ít nhất anh ta cũng phải có tính người. Nếu cô nàng tóc vàng vào một mình, rất có khả năng cô ta sẽ vớ phải một thằng cha tởm lợm chuyên hành động riêng lẻ.”
Khi Mette tự tin dẫn Britta vào vũ trường, họ đã làm tất cả mọi người xôn xao, và chưa đến nửa đêm cô đã hẹn hò với hai lính Mỹ ở căn cứ gần Sevilla. Hai anh chàng đều trẻ trung, sáng sủa, nói cười ồn ào và có một căn hộ gần biển. Mette bảo muốn xem phòng của hai anh chàng, nhưng Britta cảm thấy để sau thì hơn. Trước khi sống cùng với quân nhân, cô sẽ khai thác triệt để mọi khả năng tìm việc; cô tin chắc là một điều gì đó rất ấn tượng sẽ xảy ra cứu cô khỏi cảnh phải bay về Tromsø và cô sẽ theo đuổi mọi khả năng có thể giúp điều đó xảy ra.
“Tớ không phải người làm ra vẻ đoan trang về vấn đề tình dục,” cô nói với Mette khi cô bạn Đan Mạch quay về khách sạn sáng hôm sau. “Đến bước đường cùng, tớ sẽ nhận một căn hộ của người Mỹ. Nhưng cái tớ thực sự muốn là một việc làm.
“Cậu sẽ tìm được,” Mette nói, “và người ta sẽ dựng cho cậu một bức tượng - ở cảng Copenhagen, ngay cạnh bức tượng Nàng tiên cá bé nhỏ.” Nhưng sau đó cô thừa nhận: “Tối qua cậu về nhà là khôn ngoan đấy. Bọn họ càng lúc càng say sưa.” Nhưng đến gần nửa đêm cô lại rủ: “Tớ sẽ không lãng phí đêm thứ Bảy trong phòng khách sạn với một cô gái khác đâu. Đi nào, tớ sẽ khao cậu một chầu ở Arc de Triomphe.”
Tại vũ trường, Britta nhìn thấy hai anh lính Mỹ hôm trước nhưng họ đang đứng bên quầy rượu, say mờ say mịt đến nỗi còn không nhớ nổi hai cô nữa. Không có chuyện gì xảy ra. Nhạc ầm ĩ và dường như số thanh niên cũng đông như đêm trước, nhưng không chàng trai nào đến bàn họ bắt chuyện, vì vậy khoảng hai giờ sáng, Mette đã mất hết hy vọng bèn bước tới quầy rượu nhắc lại cho hai anh lính Mỹ say khướt biết cô là ai. Họ thỏa thuận rằng cô sẽ ngủ ở chỗ họ lần nữa, vậy là Mette quay lại nói với Britta: “Cậu có thể đi với tớ nếu cậu muốn,” nhưng Britta từ chối: “Không, cảm ơn. Tớ không phản đối một chút tình dục nhưng người đàn ông phải tỉnh táo lúc bắt đầu.”
Cô đi bộ một mình về khách sạn, và chính trong đêm ấy, khi sao lấp lánh trên đỉnh núi và âm nhạc rộn rã phát ra từ các quán bar, cô bắt đầu hoang mang, “Ôi Chúa ơi! Minh sắp bỏ lỡ cơ hội rồi. Chín ngày nữa, máy bay sẽ quay lại đưa mình trở về đường hầm.” Không nhận thức được mình đang làm gì, cô bắt đầu khe khẽ huýt sáo khúc cavatina trong vở Thợ mò ngọc trai, và giai điệu u buồn phù hợp với đêm phương Nam Tây Ban Nha ấy vò xé tâm can cô với ảo ảnh những thiên đường đã mất. Cô đi qua một loạt quán bar đông nghẹt khách nghỉ cuối tuần, hai lần đám đàn ông Tây Ban Nha từ Madrid sán đến gần cô với những lời lẽ tán tỉnh khoa trương, và cô nghĩ thầm, “Don Energetico,”[17] một bước sai lầm thôi, là ngài sẽ phải cáng đáng một cô nhân tình Na Uy đấy.”
Về đến khách sạn, cô không làm sao bước vào trong được. Cô không thể chịu đựng nổi việc nhìn thấy đại sảnh kiểu Scandinavia sạch sẽ đó, căn phòng vô trùng hiu quạnh với khung cảnh Málaga xa xăm đó: Ôi Chúa ơi, mình sợ hãi biết chừng nào. Mình cô đơn biết chừng nào. Trong đêm tối cô muốn khóc nhưng lại cảm thấy làm như vậy không xứng đáng với phẩm cách người Na Uy. Cắn chặt môi để ngăn dòng nước mắt, cô trở lại trung tâm thành phố, một cô gái mười tám tuổi quyết tâm tìm một lời giải, bất kỳ lời giải nào cho vấn đề của cô.
Không có gì xảy ra cả. Cô vào bốn quán bar khác nhau rồi lại ra ngay trước khi bất kỳ người đàn ông nào kịp bắt chuyện. Cô xuống bãi biển vắng lặng và đi dọc mép nước về hướng đông, hàng trăm ngôi nhà sừng sững phía trên đầu. “Trên kia chắc hẳn phải có ai đó,” cô tự nhủ, “một người nào đó cũng cô đơn như mình. Nhưng cô mình ơi, tìm ra người ấy bằng cách chết tiệt nào được chứ?” Cô vung chân đá vào lớp cát và lang thang trở lại trung tâm thành phố, ở đó có mấy anh lính Mỹ bắt chuyện với cô nhưng người nào cũng say khướt. Cô thử một bar khác nhưng đó lại là quán Đức, vì vậy cô bước ra ngay, và cuối cùng đành quay về khách sạn. Đã bốn giờ sáng rồi mà Mette vẫn chưa về.
“Chắc hẳn phải có một cách nào đó,” cô nhắc đi nhắc lại với chính mình, thiếp đi trên ghế khi vẫn chưa thay đồ.
Hàng ngày, cứ đến giữa trưa là Britta lại làm cho các đồng hương Scandinavia ngạc nhiên và làm cho dân Mỹ và Anh sững sờ bằng cách xuất hiện trong bộ bikini, mặc áo choàng tắm không cài và đi dép, tiến về phía bờ biển. “Cô không đi bơi đấy chứ?” Đám khách trọ hỏi. “Tại sao lại không?” Britta hỏi lại. “Có nắng mà.”
Trên đường ra bãi biển, một luồng gió lạnh buốt quất mắt cá chân cô, thổi tung chiếc áo choàng tắm, vì vậy đám đàn ông có thể ngắm đôi chân tuyệt mỹ và khuôn ngực đẹp đẽ của cô. Họ huýt gió và buông lời ỡm ờ, còn cô thì nghĩ thầm khi đi ngang qua bọn họ: Giá mà bọn đàn ông quê mùa các anh biết sẽ dễ dàng như thế nào nếu các anh có một chút quyết tâm. Một câu nói phù hợp. Một lời mời lịch sự.
Dọc bãi biển lộng gió, chính quyền thành phố đã duy trì một loạt tường thấp làm bằng phên liếp và sậy đan bện theo kiểu nông thôn thời xưa, chúng đã được chuẩn bị sẵn sàng để chắn gió hiệu quả. Hàng ngày, nép sát vào các tấm tường đó, vài người Scandinavia và Đức chịu được lạnh thường tranh thủ tận hưởng ánh nắng, rồi bất cứ khi nào Britta đến nhập hội và cởi bỏ áo choàng để lộ mái tóc vàng nhạt và thân hình tuyệt mỹ, những người tắm nắng đều ngừng mọi việc họ đang làm để chiêm ngưỡng cô. Lần nào cũng vậy, một thanh niên Đức lực lưỡng nào đó lại hỏi cô từ đâu đến, nhưng cô thấy không thể nói chuyện với anh ta được.
Thực ra, khi gió đã bị chặn bãi biển cũng không đến nỗi tệ, và chẳng bao lâu Britta đã có nước da rám nắng cô vẫn mong ước, nhưng thỉnh thoảng cô lại ngước mắt nhìn lên từ dưới bãi cát, và thấy các quý bà quý cô người Anh và Mỹ mặc áo khoác ngoài đang ở trên con đường bên bờ biển, thế là mọi thứ lại có vẻ xa lạ và ngược đời.
Sau khi nằm khoảng một tiếng đồng hồ dưới bất kể chút nắng nào có thể có được, Britta rời bức tường chắn gió và lao xuống mép nước. Không thử xem sóng lạnh giá đến đâu, cô hít một hơi thật sâu và chạy xuống biển cho đến khi nước ngập ngang thắt lưng, rồi ngụp xuống lặn một vài phút. Luôn luôn lạnh hơn cô tưởng nhưng bao giờ cũng ấm hơn ở Tromsø, nước biển làm cho cô thoạt tiên gần như tê cóng, nhưng sự vận động tiếp thêm sinh lực cho cô đến mức cô thấy thật sự vui thích khi được bơi lội, được thở hổn hển và lắc lắc đầu rũ tung mái tóc vàng, và sau mười lăm phút vẫy vùng như vậy cô sẽ chạy lên bờ, lao ngang qua bãi cát và lấy khăn bông tự chà xát thật lực, thế rồi trong khả năng chịu lạnh của mình, cô đã tìm được sức mạnh tinh thần để đối mặt với bao nỗi thất vọng đang phải chống chọi ở Torremolinos.
Lần nào cô đứng lau khô người cũng có người lại gần bắt chuyện, nhưng không ai mang lại cho cô cảm giác họ đang quan tâm đến mức đủ để có thể khiến cô muốn theo đuổi và phát triển. Chiều thứ Sáu, ngày thứ mười hai trong đợt nghỉ, cô khoác áo, tìm lại dép và chán nản bước về khách sạn Northern Lights, vừa đi vừa quật khăn bông vào những bóng ma tưởng tượng. “Cô chơi vui chứ?” ông quản lý khách sạn hỏi. Britta miễn cưỡng mỉm cười, môi dưới hơi trề ra để lộ hàm răng trắng bóng và nói: “Tuyệt vời.” Một mình trong thang máy, cô lẩm bẩm: “Mình có thể đá cho tòa nhà chết tiệt này rơi xuống từng viên gạch một.” Khi cô vào phòng, Mette đang chuẩn bị đến chỗ mấy anh bạn Mỹ, cô nàng rủ: “Nhớ không, hôm nay là thứ Sáu, chắc hẳn sẽ có một số người mới từ căn cứ quân sự xuống. Cậu muốn đi cùng không?”
Tha thiết muốn được đi cùng, Britta đáp: “Được, nếu có người mới thì...” Lúc hai cô gái tới căn hộ của mấy người lính Mỹ đó thì đám đàn ông đã say khướt; không có ai mới cả; bạn trai của Mette khăng khăng đòi lên giường với cô ta ngay; và chỉ mười phút sau khi có mặt tại bữa tiệc, Britta đã trên đường đi bộ về khách sạn, một mình.
Thứ Bảy là ngày tồi tệ nhất trong kỳ nghỉ của cô, một ngày cô vẫn thường nhớ lại với cảm giác kinh hãi. Đã là ngày thứ mười ba, một thực tế đáng ngại mà cô ghi nhớ khi vừa thức dậy. Lúc ăn trưa cô nhận thấy mình đã thuộc lòng thực đơn; thức ăn vẫn ngon lành nhưng nơi đây các món ăn cứ tuần tự tiến đến với cô. Cô đưa mắt ra xung quanh, nhìn những gia đình Scandinavia vâm váp, những phụ nữ trung lưu rắn chắc, những đức ồng chồng thật thà, và cô nghĩ đến việc họ đã dành dụm suốt cả năm cho kỳ nghỉ huy hoàng này ở Tây Ban Nha với ngồn ngộn đồ ăn thức uống được phục vụ tận nơi, và cô có thể hình dung ra chính mình trong gian phòng này, hai mươi năm sau.
Trên bãi biển trong ngày thứ Bảy ấy, cô cảm thấy cô đơn khủng khiếp, đến mức đã cho phép một người Đức nói chuyện với cô hai mươi phút. Anh ta là người đẹp trai nhất, tóc vàng hoe, thân hình vạm vỡ, và anh ta mời cô một ly, nhưng cô chỉ có thể thấy ở anh ta hình ảnh một sĩ quan trên chiếc chiến hạm khổng lồ bị đắm ngoài khơi hòn đảo quê hương cô, anh ta đã biến thành một bóng ma trong bộ quân phục gắn đầy huân chương, nên cô cảm thấy anh ta thật đáng thương và xua anh ta đi.
Cô không thể vào ăn trong khách sạn, nên đến trung tâm thành phố, tự bỏ tiền túi cho một bữa tối kiểu Trung Hoa, và đang ăn thì một thương gia Tây Ban Nha từ Madrid ngồi xuống bàn cô và trò chuyện bằng một thứ tiếng Anh hoàn hảo. Ông ta đề nghị được mời cô bữa tối đó, bảo đảm với cô rằng ông ta thường xuyên tới Torremolinos và sẽ rất hạnh phúc được biết một người hấp dẫn như cô đang chờ đợi mình. Cô quan sát kỹ càng người đàn ông như thể ông ta là người đến xin việc và đã định tiếp tục trao đổi về vấn đề đó, nhưng trực giác mách bảo cho cô biết rằng mối quan hệ kiểu này không phải điều cô mong đợi. Cô được sinh ra cho điều gì đó tốt đẹp hơn là làm nhân tình cuối tuần của một thương gia Madrid, dù chuyện đó có hấp dẫn đến thế nào chăng nữa, vì vậy cô đáp: “Xin lỗi, tôi đang đợi chồng chưa cưới.” Ông ta biết cô đang nói dối; ông ta tin chắc sẽ chẳng có anh chàng nào xuất hiện, nhưng cũng thông cảm với thái độ lịch sự của cô khi đưa ra lý do hợp lý đó, vì vậy ông ta gật đầu và rút lui. Sau một lúc đợi cho phải phép, cô cũng bỏ đi.
Đó là tối thứ Bảy, và cô cảm thấy hết sức cô đơn, không hề bớt nặng nề cho dù thực tế là cô đã tự chuốc lấy nó: cô đã có thể ở lại với đám người Mỹ say rượu đó, hay vớ lấy tay thương gia Tây Ban Nha, nhưng cô cảm thấy đấy không phải lựa chọn chân thành, và cô sẽ không dùng chúng để tự lừa dối mình. Cô bước chậm chạp về phía tiếng ồn phát ra từ vũ trường Arc de Triomphe, mua một vé và vào trong. Tiếng nhạc sôi nổi nhắc cô nhớ lại mình đã say sưa thích thú như thế nào trong lần đầu tiên đến đây, nhưng rồi đêm về khuya, vẫn không có gì xảy ra. Cô không gặp được ai và quyết định quay về khách sạn, khi rời vũ trường thì cô cảm thấy có người nắm tay mình. Đó là tay thương gia Tây Ban Nha.
“Chồng sắp cưới của cô thất hẹn ư?” ông ta lịch sự hỏi.
“Phải đi làm ở Málaga,” cô đáp.
“Thế thì không còn gì gây trở ngại cho cô nữa rồi.”
Cô tự cho phép mình để ông ta dẫn ra khỏi phố tiến về phía một công viên có nhiều chỗ tối. Khéo léo và quyến rũ, người Tây Ban Nha kia đưa cô vào một góc khuất và chỉ trong hai phút thực hiện vài động tác hết sức thành thục đã cởi được gần hết váy áo cô. Nhanh như chớp, ông ta tụt quần xuống và sắp sửa đi vào người cô thì cô chợt tĩnh trí lại và đẩy ông ta ra.
Ông ta đã lường trước việc này, và vừa hôn cô tới tấp vừa kéo tuột nốt váy áo cô, nhưng giờ thì cô chống lại. Đẩy một cái mạnh đến nỗi ông ta khuỵu một chân xuống, cô thu lại váy áo và bắt đầu sửa sang lại trang phục, nhưng ông ta không bỏ cuộc vì nhầm tưởng thái độ do dự của cô là sự e lệ đương nhiên của đêm đầu tiên, nên định một mặt tôn trọng điều đó, mặt khác cũng phải không thèm đếm xỉa.
Vì vậy ông ta lại bắt đầu hôn cô dồn dập trong lúc giật tung áo váy cô, vừa làm vừa thầm thì: “Tên em là gì, em yêu? Nếu anh tìm cho em một căn hộ, em có ở lại Torremolinos không?”
Cách nói của ông ta buồn cười đến mức cô phá lên cười, nhưng hành động này làm ông ta giận điên lên, đập vào đầu cô hai phát thật mạnh. Thật là quá lắm. Vừa xô vừa tát thật lực, cô đẩy ông bạn tội nghiệp lùi lại, khiến ông ta dù có muốn tiếp tục cuộc chiến cũng không sao địch nổi. Khi cô giằng chiếc váy khỏi bàn tay trái của ông ta, ông ta đánh trả nhưng không hiệu quả. “Mặc quần áo vào đi,” cô khinh bỉ nói.
“Cô đồng tính luyến ái à?” ông ta càu nhàu. “Cô không thích tình dục à?”
Câu hỏi ngớ ngẩn đến nỗi cô không thèm đáp. “Tôi rất tiếc,” cô miễn cưỡng nói. “Là ý của ông đấy chứ.”
“Cô tưởng mình là nữ thần phương Bắc lạnh giá nào đó chăng?” ông ta hỏi trong bóng tối.
“Ôi, thôi đi!” cô nói. Cả tá câu bình luận khôn ngoan hiện ra trong đầu, nhưng cô không nói gì vì biết chúng sẽ làm tổn thương ông ta; cô cũng nghĩ tới những lời bình phẩm có trách nhiệm khác sẽ cho phép ông ta giữ được thể diện, nhưng cô quá bối rối đến mức chẳng còn thấy áy náy được nữa. Thật là một sai lầm, một tai nạn đáng tiếc, và cô muốn nó kết thúc. “Tôi rất tiếc,” cô nhắc lại lần nữa rồi tiếp tục đi về khách sạn.
Britta không tự hào về bản thân. Nếu cô không tìm kiếm bầu bạn một cách lộ liễu đến thế ở nhà hàng Trung Quốc, người Tây Ban Nha kia sẽ không tiếp cận cô; và nếu cô không nói dối, ông ta sẽ không bám lấy cô ở vũ trường. “Đến lúc mình rời thành phố này rồi,” cô buồn bã tự nhủ trong lúc đi qua những con phố tối đen, nhưng vừa thốt ra mấy lời đó cô đã bị hậu quả của chúng nhấn chìm: rời Tây Ban Nha, từ bỏ thoáng viễn cảnh một cuộc sống khác. Trong cơn tuyệt vọng, cô chạy qua các phố và trên đường chạy, cô bất chợt nhìn thấy một quán bar nhỏ trước đó cô không để ý. Bằng vào tiếng ồn ào phát ra từ khung cửa mở rộng, nó hẳn phải là quán Mỹ, và nhìn lên biển hiệu cô nhận ra tên một bộ phim do John Wayne làm đạo diễn mà cô đã xem ở Tromsø, THE ALAMO; hàng chữ được in thô sơ dọc theo nòng một khẩu súng gỗ to tướng. Cô đứng hồi lâu lắng nghe tiếng nhạc ầm ĩ, tiếng cười nói lanh lảnh, và thầm nghĩ: Đây chính là nơi mày cần trong những đêm thứ Bảy cô đơn.
Cô ngập ngừng đi vào và lẳng lặng ngồi xuống một chiếc ghế trong góc. Nhân viên pha rượu, một người Mỹ cao, thon thả, tóc dài và để râu, chờ cô yên vị mới ung dung đến gần hỏi cô muốn dùng gì, và cô đáp: “Bia thì thế nào?”
“Dở lắm. Tủ lạnh hỏng. Nhưng quán chúng tôi có nước cam lạnh.”
Anh mang cho cô một cốc và đứng cạnh ghế của cô một lúc: “Cô vừa tới?”
“Đúng vậy. Na Uy.” Cô không nói gì thêm, nên anh bình luận vài câu chung chung rồi trở về công việc sau quầy rượu. Suốt gần một tiếng đồng hồ sau đó, bận rộn vừa trông quầy vừa phục vụ tận bàn, anh không lại bàn cô thêm lần nào nữa. Khi quay trở lại, anh vẫn nói vô thưởng vô phạt như trước. Cô hỏi anh ở bang nào của nước Mỹ, nhưng anh chưa kịp trả lời đã bị gọi về quầy rượu.
Đến hai giờ sáng thì cô bị cuốn vào cuộc chuyện trò với ba lính Mỹ đóng ở căn cứ hải quân Rota, một nhóm thanh niên ồn ào và phóng khoáng. Vì cô có mái tóc vàng và là dân Scandinavia nên họ khăng khăng rằng cô là người Thụy Điển và muốn biết cô nghĩ gì về lời cáo buộc nổi tiếng của tổng thống Eisenhower rằng Thụy Điển là một đất nước suy đồi, xã hội chủ nghĩa, phi đạo đức, nơi mà nạn tự vẫn lan tràn khắp nơi. “Tôi không phải là người Thụy Điển,” cô nói, “nhưng tôi không tin một chính khách ngoại quốc ở vào địa vị của tổng thống Eisenhower lại đưa ra lời buộc tội như vậy.”
“Nhưng cô là người theo chủ nghĩa xã hội, phải không?” một anh thủy thủ gặng hỏi.
“Theo như tôi biết thì không,” cô đáp. Và khi đám lính thủy bắt đầu quay ra lăng mạ người Thụy Điển, buộc tội họ khuyến khích lính Mỹ đào ngũ, thì cô tìm cách phản bác lý lẽ của họ, rồi buột miệng: “Thế Việt Nam thì sao?” Đám lính thủy mỗi người trả lời một cách, và cuộc tranh luận tiếp tục cho đến tận bốn giờ sáng. Họ thích cách nói năng thẳng thắn của cô và muốn biết ngày hôm sau có thể gặp cô ở đâu, cô đáp, “Ngoài bãi biển. Còn ở đâu được nữa?” Vậy là cả bọn sững sờ hỏi lại: “Cô muốn nói là cô sẽ đi bơi à? Vào tháng Hai?” Cô liền bảo họ, “Người Na Uy là dân miền biển thực sự. Không phải các chú bé mặc áo lính thủy,” và thế là một người Mỹ túm vai cô hôn tạm biệt, reo lên, “Cô chính là cô nàng Viking nhỏ bé mà tôi tìm kiếm bấy lâu nay đấy.”
Một lần nữa cô đã xoay sở qua được hết đêm.
Chiều Chủ nhật cuối cùng, Britta phải thừa nhận rằng giấc mơ tươi sáng của mình về Tây Ban Nha đã tan thành mây khói. Cô mặc bikini, khoác áo choàng lên vai và đi xuống bãi biển một lần chót. Cô nhận thấy gió đã hơi bớt lạnh, mặt trời hơi ấm hơn, và cô nghĩ thầm: Thật đáng ghét quá đi mất! Ngày cuối cùng của mình ở đây mà mọi thứ lại đẹp hơn chứ. Sau một lúc tắm nắng khiến đầu óc thực sự thư thái hơn và nước da rám thêm lượt cuối cùng, cô lội ào xuống làn nước giá lạnh, bơi thật lực trong hai mươi phút, rồi lại lao lên bờ và thấy một người lạ đứng bên cạnh áo choàng của mình.
Đó là một cô gái Scandinavia khoảng hai mươi tuổi, chủ tâm xuống bãi biển để nói chuyện với Britta. “Cậu đúng là một nàng tiên cá,” cô gái gợi chuyện trong lúc Britta mặc áo. “Stockholm à?”
“Na Uy.”
“Tớ đã nhìn thấy cậu bốn ngày nay rồi... từ căn hộ của tớ. Tớ thán phục tài chịu lạnh của cậu đấy.”
Họ chỉ mới nói chuyện được một vài phút, Britta đã nêu câu hỏi muôn thuở của mình: “Một cô gái có thể tìm được việc làm ở đây bằng cách nào?”
“Không dễ đâu. Tớ đã phải mất ba tháng đấy.”
“Nhưng cậu vẫn tìm được chứ?”
“Được. Như hầu hết các cô nàng chịu đựng được đến cùng.”
“Cậu sống như thế nào?”
“Một anh bạn rất tử tế cho tớ ngủ nhờ trong phòng anh ấy. Anh ấy có bạn gái rồi. Mỗi đêm trước khi ngủ tớ lại cầu nguyện. Tớ không biết để làm gì nhưng tớ vẫn cầu nguyện. Rồi một hôm một thương gia Bỉ tới gặp anh bạn ấy và bảo, ‘Tôi là chủ một quán bar ở đây nhưng tôi phải quay về Antwerp. Tôi sẽ bán nó đúng giá.’ Và chính cái quán bar ấy là nơi tớ đã có được việc làm.”
“Công việc ấy có... tử tế không?”
“Không hẳn đã đủ sống nhưng còn hơn chán Stockholm mùa đông.” Cô gợi ý nếu Britta muốn thì sau khi mặc xong váy áo có thể ghé vào căn hộ của cô uống nước, Britta liền bảo, “Đồ của tớ ở trên kia,” cô gái Thụy Điển nhìn khách sạn đó và nói, “Chính tớ cũng bắt đầu như vậy đấy. Trên tầng mười khách sạn Northern Lights. Chuyện đó dường như đã lâu lắm rồi.”
“Nó có đáng để cố gắng không?”
“Từng giây từng phút. Giờ thì tớ sắp về nước lấy chồng rồi.”
Britta sững người, như một bức tượng Hy Lạp, một đầu gối chùng xuống, tay phải cầm chiếc dép. Cô hỏi rất dè dặt: “Nhưng nếu cậu sắp về nước...”
“Tớ sắp về.”
“Thì công việc của cậu ở cái quán ấy...”
“Tớ đến nói với cậu chuyện đó đây.”
Britta gần như muốn ngất xỉu. Chân cô khuỵu xuống và chiếc xăng đan rơi xuống đất. “Cầu Chúa ban phước cho cậu,” cô nói. Không cô gái nào lên tiếng, rồi cuối cùng Britta hỏi, “Quán ấy thuộc loại nào?”
“Như mọi quán khác. Nhỏ bé, dơ bẩn, ồn ào. Tớ sẽ rất hạnh phúc nếu suốt cuộc đời còn lại không phải nghe một nốt nhạc nào nữa. Nếu chồng tớ mà rước một cái dàn hi-fi về nhà, tớ sẽ ném xuống biển Bantích cho mà xem.”
Đang nhặt chiếc xăng đan lên, Britta chợt giật mình hoảng hốt và đột ngột hỏi: “Nó không phải quán Đức chứ?”
“Tệ hơn. Quán Mỹ. Một tụ điểm người ta gọi là Alamo.”
“Ôi!” Britta reo lên. “Tớ biết quán ấy rồi! Tối qua tớ đã ở đó!” Cô dừng lại. “Tớ đã không nhìn thấy cậu.”
“Mấy người bạn Thụy Điển tổ chức cho tớ một bữa tiệc chia tay...”
Điều này nghe có vẻ buồn cười, Britta thì thầm, “nhưng tối qua khi ở trong quán của cậu và quan sát anh chàng đó chạy đi chạy lại - vừa trông quầy rượu vừa phục vụ tại bàn tớ đã nghĩ bụng, ‘Anh ấy cần có người phụ giúp,’ và tớ định tối nay thử một lần cuối cùng, quay lại để nói với anh ấy, ‘Anh cần một tiếp viên giúp trông nom quán.’ Cậu có thực sự nghĩ rằng tớ sẽ xin được việc ấy không?”
“Có chứ. Tên tớ là Ingrid. Đi thu dọn đồ của cậu thôi.”
Phần còn lại của Chủ nhật ấy, ngày thứ mười bốn trong kỳ nghỉ của cô, là quãng thời gian Britta không bao giờ quên được, hy vọng và lo âu lẫn lộn. Niềm hy vọng bắt nguồn từ thực tế Ingrid cảm thấy chắc chắn có thể nhường công việc của mình cho Britta; mối lo âu phát sinh khi hai cô gái tới căn hộ Ingrid đang ở nhờ và không gặp một ai. Có hai cái giường rộng, và vì cái nào cũng lẫn lộn quần áo cả nam lẫn nữ trên đó nên hiển nhiên là có hai đôi đang cư ngụ trong phòng.
“Họ sẽ về thôi mà,” Ingrid nói để làm yên lòng bạn. “Chắc đi đâu đó uống nước thôi.”
Britta chỉ một trong hai cái giường và hỏi: “Đây có phải một phần công việc không?”
“Không nhất thiết.” Chỉ một cái giường, Ingrid giải thích: “Chủ nhà này có bạn gái rồi. Anh ấy rất dễ mến. Một anh chàng Ý ở Lugano. Giường này là của tớ. Trước kia anh phục vụ quầy rượu cao lớn mà cậu đã gặp nằm trong cái túi ngủ trên sàn. Rồi một thời gian sau, tớ đề nghị anh ấy lên nằm chung với tớ, do đó chúng tớ cất cái túi ngủ đi. Nếu cậu muốn dùng, tớ chắc họ không phản đối đâu.”
“Ý cậu là tớ có thể ngủ ở đây ư? Dưới sàn nhà?”
“Những người khác đều vậy hết. Nhưng cậu cũng có thể thay chỗ tớ trên cái giường kia... khi tớ đi rồi. Anh ấy là một thanh niên rất dễ mến... hiền lành... hay bối rối... không giống người Mỹ chút nào.”
Hai cô chờ gần một tiếng, chuyện trò về Tây Ban Nha và Scandinavia, Ingrid tâm sự anh chàng Thụy Điển cô sắp cưới là một kiến trúc sư, một kiến trúc sư giỏi. “Tớ cho rằng chúng tớ sẽ hạnh phúc. Đợt nghỉ ở Tây Ban Nha này...”
“Cậu ở đây bao lâu rồi?”
“Tám tháng. Một lần tớ đã thử với một thương gia Tây Ban Nha, nhưng không hợp. Bọn họ có những lề lối đến là ngớ ngẩn... những kiểu cách tán tỉnh rõ lố bịch. Tớ mệt lả với việc phải cố hiểu những trò vè khác nhau của ông ta. Tất cả những gì tớ muốn là một chỗ để ở và có đủ tiền để nuôi thân từ thứ Hai đến thứ Năm, nhưng ông ta lại có nếp sống phức tạp như vậy nên cuối cùng tớ phải bỏ của chạy lấy người. Tớ không còn một xu dính túi, nhưng Jean-Victor gặp tớ ở một quán bar... anh ấy chính là chủ chỗ này...” Cô thở dài nói tiếp: “Tám tháng qua thật tuyệt vời và tớ cho là mình đã sẵn sàng về nhà rồi.”
“Bao giờ họ mới về?” Britta cầu khẩn. “Máy bay của tớ sẽ cất cánh lúc hai giờ sáng mai đấy.”
“Họ sẽ về mà,” Ingrid trấn an Britta, nhưng đêm đã buông xuống mà vẫn chẳng ai về cả. Britta cảm thấy thực sự hoảng sợ và lần đầu tiên trong nhiều năm qua cô bắt đầu khóc. “Tớ chắc chắn chuyện này sẽ chẳng đi tới đâu cả... giấc mơ tươi đẹp này.” Cô ngồi trên giường một lúc, hai tay ôm mặt. Rồi cô nói với vẻ chắc chắn: “Nếu anh ấy không thuê tớ làm ở quán thì tớ sẽ gạ gẫm người đàn ông đầu tiên tớ gặp. Tớ sẽ không bay về Na Uy đâu.” Cô chộp lấy áo khoác và kiên quyết đi ra cửa, Ingrid vội chạy theo sau nói: “Chúng ta ra quán vậy. Chắc chắn họ phải ở ngoài đó.”
Họ leo từ bờ biển lên đồi, đi qua vô số quán bar nơi những cô gái đã giành được việc làm đang bắt đầu tụ tập, và vào trung tâm thành phố nơi các hiệu ăn đủ mọi nước dán trên cửa sổ tên các câu lạc bộ du lịch ở Copenhagen, Berlin và London, mà thành viên có thể trả tiền ăn bằng phiếu biên nhận do câu lạc bộ phát hành. Vài hiệu ăn rẻ tiền hơn trưng ra có khi đến hai mươi tư đề can, nhưng hai cô gái không quan tâm đến việc ăn uống, vì vậy họ đi thẳng tới quán Alamo mà tiếng nhạc rầm trời vang xa đến cả dãy nhà. Bên trong quán, thủy thủ và lính Mỹ đang nói cười ầm ĩ tận hưởng chầu rượu cuối cùng trong kỳ nghỉ cuối tuần trước khi lên đường trở về căn cứ bên kia núi, và tất cả mọi người chào đón Ingrid bằng hàng tràng tiếng hoan hô và những nụ hôn, vì cô đã mang lại niềm vui thích cho những lần họ đến quán. Ba anh lính thủy tiếp chuyện Britta đêm trước đưa ra những lời đề nghị hấp dẫn đến chóng mặt... họ có một căn hộ... cô có thể sử dụng... trong tủ lạnh có thức ăn... và kỳ nghỉ cuối tuần sau cô có thể quyết định liệu cô có muốn sống lâu dài với bất cứ ai trong ba người bọn họ không. Cô thầm nghĩ họ sẽ ngạc nhiên xiết bao nếu biết cô đã tiến gần đến câu trả lời đồng ý như thế nào; thậm chí cô còn quan sát cả ba xem nếu buộc phải chọn thì cô sẽ chọn ai. Cô hỏi: “Bao giờ các anh về Rota?” Họ đáp, “Nửa đêm,” vậy là cô siết chặt tay anh bạn cô thấy đỡ mất cảm tình nhất và nói, “Tôi sẽ quanh quẩn ở đây để chào tạm biệt.” Nhưng khoảng mười giờ anh chàng trông coi quầy rượu mới tới, người cao, tóc dài và nhìn chung dễ coi. Cô cố kiềm chế để không chạy tới chỗ anh và chờ cho đến khi Ingrid gọi cô. “Joe, đây là Britta. Cô gái Na Uy em kể với anh đấy.”
Joe rời mắt khỏi mấy chai bia ngước lên nói: “Tối qua anh đã để ý đến em. Em có đảm nhiệm được công việc ở đây không?”
“Được... nếu anh kiên trì với em trong những ngày đầu.”
Anh mỉm cười nói: “Ngày thì không có vấn đề gì. Đến đêm cơ.”
“Em không sợ làm đêm,” Britta đáp.
“Em bảo khi nào em đi nhỉ, Ingrid?”
“Vé ghi là thứ Tư.”
“Em có thể bắt đầu làm việc từ thứ Tư được không?”
“Ôi, có!” Britta không muốn tỏ ra nôn nóng quá, nhưng cô không sao tự kiềm chế được.
“Em sẽ phải chuyển đồ của cô ấy về chỗ mình,” Ingrid nói.
“Sao lại không chứ?”
“Cô ấy sẽ dùng cái túi ngủ.”
“Sao lại không chứ?”
Khi Joe quay lại quầy rượu, Britta nói: “Tớ muốn dọn đến đó ngay bây giờ. Không, tớ sẽ không chờ cho đến tận ngày mai, vì có thể có trục trặc nào đó. Anh ấy có thể gặp một cô nào khác dễ coi hơn, nhưng nếu tớ ngủ ngay dưới chân giường anh ấy...”
“Rất ít con gái dễ coi hơn cậu,” Ingrid trấn an cô. “Thôi đi nào. Chúng mình đi lấy đồ của cậu.”
Britta đi bộ về khách sạn Northern Lights như thể vỉa hè Torremolinos là những đám mây. Cô muốn hát và ôm hôn tất cả những người qua đường, và vừa về đến khách sạn cô chạy như bay lên gặp ông quản lý người Thụy Điển mà nói, “Tôi tìm được việc làm rồi. Ông bảo không thể được, nhưng tôi đã tìm được một việc làm rồi đấy.” Cô nắm lấy cả hai tay ông nhảy múa, rồi đến quầy du lịch thông báo bằng giọng vang khắp gian sảnh, “Ông có thể gạch tên tôi ra khỏi danh sách ngày mai. Tôi không bay về Tromsø nữa.” Mette không có mặt trong phòng, vì vậy Britta nguệch ngoạc để lại cho cô vài chữ. “Tớ đã tìm được cách ở lại đây. Hy vọng cậu cũng vậy.”
Khi Joe mang đồ của Britta về căn hộ, Jean-Victor và Sandra đã lên giường ngủ, và hai người cứ nằm im trên giường mà hoan nghênh cô, chỉ cho cô cách tìm túi ngủ và cái chăn len kẻ ô vuông, chỉ cho cô chỗ đặt trên sàn. Sandra khuyên: “Tốt hơn hết cậu nên đính một mảnh giấy vào túi ngủ: ‘Cái này thuộc về...’ Tên cậu là gì?”
“Britta. Tớ ở một thành phố nhỏ miền Bắc Na Uy.”
“Narvik à?” Sandra mừng rỡ hởi. “Cha tớ từng chiến đấu ở Narvik đấy.”
“Xa hơn về phía Bắc. Tromsø.”
“Cha tớ cũng đã từng ở đó. Trên một chiến hạm. Ông bảo nơi đó đẹp hoang dã.” Sandra tiếp tục thao thao bất tuyệt về cha mình và những trận đánh ông từng tham gia ngoài khơi Na Uy. Rõ ràng cô rất yêu quý cha, và Britta nói: “Cha tớ ở trong núi để đánh tín hiệu cho tàu nước cậu,” vậy là Sandra lập tức nhảy ra khỏi giường, người trần như nhộng, chạy lại ôm hôn người khách mới. “Cậu sẽ thích chỗ này cho mà xem,” cô nồng nhiệt nói.
Trong tuần thứ hai, sau khi Ingrid đã về Thụy Điển, một đêm Britta nằm trong chiếc túi ngủ kẻ ô vuông nghe tiếng động ở giường Jean-Victor và Sandra, rồi cô nghĩ đến Joe đang ngủ một mình trên chiếc giường rộng, việc sắp xếp có vẻ không được hợp lý lắm, vậy là cô lẳng lặng chui ra khỏi túi, đi vài bước đến bên giường Joe, nhẹ nhàng lay vai anh thì thầm, “Nằm dưới đất không dễ chịu lắm, anh bèn nói giọng ngái ngủ, “lên đây cho ấm,” và con đường quay về Tromsø vĩnh viễn bị chắn lại.
Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 - James Albert Michener Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1