Số lần đọc/download: 105 / 24
Cập nhật: 2020-06-17 09:38:34 +0700
Chương 3 - Bí Mật Kỳ Diệu
T
riệu Dung nhanh nhẹn cuối xuống, xốc Văn Bình lên vai, chạy như bay xuống cầu thang, vào ca-bin. Chàng đặt bạn nằm ngay ngắn lên giường rồi trở lên boong.
Đội cứu hỏa của pháo đài ZZ đang hoạt động ráo riết. Những vòi ròng đua nhau phun tuyết thán khí vào đống lửa cao ngất. Một toán nhân viên mặc y phục đặc biệt bằng ma-thạch trắng toát đã tiến sát phi cơ, khi ấy chỉ còn là đống sắt vụn méo mó khủng khiếp.
Hạm trưởng đầu trần, vai khọm xuống, có vẻ già thêm 10 tuổi, đang đứng điều khiển cuộc cấp cứu. Thấy Triệu Dung, ông lấy mù soa lau mồ hôi, miệng buông ra 3 tiếng bi thảm:
- Thật không ngờ!!
Triệu Dung chỉ đống lửa:
- Có cứu ai được không?
Hạm trưởng lắc đầu:
- Chưa biết. Nhưng theo tôi nghĩ thì hy vọng rất mỏng manh. Vì lửa cháy rất nhanh và rất lớn. Vã lại, còn tiếng nổ...
- Tiếng nổ do thùng xăng hay là...?
- Không phải do thùng xăng. Vì nếu là thùng xăng thì không thể long trời, lở đất như vậy được. Tôi chắc là trên phi cơ có chất nổ.
- Chất nổ do nhà bác học mang theo hay là chất nổ do đối phương bí mật bỏ vào?
- Phải điều tra tường tận phải trả lời dứt khoát được. Trên nguyên tắc, các nhà bác học hoạt động thường ngày với chất nổ. Tuy nhiên, mỗi lần lên phi cơ, họ đều được yêu cầu thận trọng. Mỗi khi có chất nổ, tôi đều ra lệnh dùng trực thăng đặc biệt để vận chuyển.
- Như vậy thì chắc chắn có bàn tay phá hoại của đối phương rồi. Phi cơ đáp xuống tận nơi mới nổ, phải không hạm trưởng?
- Phải. Thoạt tiên, tôi tưởng phi cơ nổ trên không trung. Nhưng tôi đã hỏi lại nhân viên kiểm soát hạ cánh. Phi công đã thi hành đúng chỉ thị của phòng kiểm soát, và đã lái máy bay đúng vào phi đạo. Khi bánh xe vừa chấm xuống tàu thì nổ.
- Nghĩa là địch đã gài bom nơi bánh xe?
- Tôi chưa dám đoan quyết. Thứ nhất là đoan quyết do địch gây ra. Thứ hai là đoan quyết bom được gắn vào bộ phận đáp xuống. Song nếu ông muốn tôi đưa ra một lời phỏng đoán không chính thức thì tôi xin nói rằng vụ nổ này được tổ chức một cách vô cùng chu đáo.
Hạ thấp giọng, hạm trưởng nói:
- Hấu hết, các chuyên viên của pháo đài và đặc phái viên CIA đều có mặt trên phi cơ nầy. Tôi mang trên vai một trách nhiệm quá nặng nề. Tôi lại không phải là chuyên gia điều tra. Hy vọng ông sẽ cố gắng giúp tôi. Dầu sao...
Triệu Dung ngắt lời:
- Ông đã báo cáo lên Bộ Tư Lịnh chưa?
Hạm trưởng bâng khuâng nhìn đám mây xanh ngắt lơ lững trên vòm trời bát ngát:
- Rồi. Có lẽ Trung Ương đã phúc đáp. Mời ông về ca-bin với tôi.
Triệu Dung lặng lẽ theo sau hạm trưởng, hai tay chắp sau đít.
Một viên phụ tá đến trước mặt hạm trưởng, đứng lại, mặt ướt sũng mồ hôi và than đen, giọng hổn hển:
- Thưa hạm trưởng, đám cháy đã được dập tắt.
Hạm trưởng hỏi:
- Còn việc cấp cứu?
- Thưa, đang tiếp tục. Hầu hết đều thiệt mạng.
Triệu Dung xen vào:
- Người đàn bà có bị thiệt mạng không?
Viên phụ tá đáp:
- Thưa, tôi chưa biết rõ. Song, tôi không tin bà còn sống. Vì tất cả đều cháy ra than. Sau này phải phân chất mới có thể xác định được.
Hạm trưởng ngoắt tay:
- Phi hành đoàn?
- Thưa, khi phi cơ lâm nạn, nhân viên phi hành bấm nút cho ghế bắn ra ngoài. Có ba người, thì hai bị tử thương vì đụng vào mảnh thép nhọn. Còn người thứ ba thoát chết.
- Song, bị thương nặng?
- Vâng. Thân thể bị cháy xém, và dường như thần kinh hệ bị va chạm.
- Tỉnh hay mê?
- Thưa, mê.Y sĩ đang tận tình chăm sóc.
Triệu Dung lại xen vào:
- Nhân viên phi hành sống sót này hiện đang được điều trị tại đâu?
- Thưa, trong phòng hồi sinh.
Phòng hồi sinh là một ca-bin được trang bị dụng cụ máy móc y tế tối tân, trong bịnh viện của mẫu hạm. Nghe nói đến phòng hồi sinh, Triệu Dung nhăn mặt:
- Không được. Yêu cầu ông mang bịnh nhân đi nơi khác an toàn hơn.
Viên phụ tá không hiểu, hỏi lại:
- Thưa, mang đi đâu ạ?
Triệu Dung buông thõng:
- Đi đâu, tùy ý, nhưng không được mang tới phòng hồi sinh. Chẳng hạn, mang bịnh nhân vô ca-bin của hạm trưởng.
Viên phụ tá đưa mắt hỏi ý kiến hạm trưởng. Hạm trưởng gật đầu, vẻ mỏi mệt hiện rõ trên mặt:
- Được. Đưa ngay vào phòng tôi. Và cử người võ trang canh gát. Hai người, nghe chưa? Không cho ai được đến gần, ngoại trừ y sĩ và nhân viên an ninh.
- Tuân lịnh.
Viên phụ tá rảo xuống cầu thang xoắn ốc bằng thép mạ kền bóng loáng.
Hạm trưởng nói với Triệu Dung, giọng thán phục:
- Nếu ông không nhắc, tôi cũng không nghĩ ra. Thường lệ, tôi rất bình tĩnh, ngay cả khi con tàu do tôi chỉ huy bị oanh tạc cơ của địch vây kín, hoặc bị thủng nát, sửa soạn chìm xuống biển sâu, tôi vẫn thản nhiên như không. Thế mà lần nầy, tinh thần tôi hoàn toàn bị lung lạc. Có lẽ vụ nổ phi cơ chỉ là giai đoạn đầu.
Triệu Dung chậm rãi đáp:
- Tôi cũng nghĩ như hạm trưởng.
- Vì vậy, ông sợ người hạ sát nhân viên phi hành đoàn còn sống sót phải không?
- Phải. Nếu là sự phá hoại, nhất là phá hoại đại qui mô, đối phương phải bịt miệng nhân viên phi hành nầy. Vã lại, tôi có linh tính... Linh tính là đối phương đang có mặt trên mẫu hạm.
Hạm trưởng đứng sững, mặt tái mét:
- Ông nói sao? Nhân viên của địch đang có mặt trên mẫu hạm của tôi?
Triệu Dung nhún vai:
- Vâng.
Hai người đã về đến phòng hạm trưởng. Tứ phía đã được canh gác cẩn thận. Một nhân viên chờ sẵn với cái phong bì lớn màu vàng. Hạm trưởng ký giấy nhận, rồi đóng cửa ca-bin.
Triệu Dung ngồi xuống bên. Hạm trưởng mở tủ sắt, lấy ra cái máy dịch mật điện nhỏ xíu. Trong vòng hai phút đồng hồ, bức điện được dịch xong.
Nội dung như sau:
"Trung ương yêu cầu hạm trưởng tăng cường tối đa biện pháp an ninh trên mẫu hạm.
Dặng Phượng Hoàng chờ tôi. Giờ đến, nội ngày nay, sẽ báo sau.
Hoàng"
"Phượng Hoàng" là bí danh của Triệu Dung trên mẫu hạm. Hạm trưởng không biết tên thật của chàng và chàng cũng không biết tên thật của hạm trưởng. Kể ra, nếu hạm trưởng hỏi, Triệu Dung cũng nói, vì hạm trưởng là nhân viên DIA, cơ quan điẹp báo của Ngũ Giác Đài. Là chuyên gia hóa trang, Triệu Dung còn biết hạm trưởng không luống tuổi như mái tóc hoa râm và những nếp nhăn trên trán, và ở đuôi mắt tố cáo. Song, có lẽ vì thói quen kín miệng nghề nghiệp, chàng vẫn lặng thinh.
Hạm trưởng bật lửa, đốt mảnh giấy dịch bức điện ra than. Phụ tá só 3 bước vào:
- Thưa, công tác cấp cứu đã hoàn tất.
Hạm trưởng hất hàm:
- Tất cả đều chết?
- Vâng. Trừ phụ tá hoa tiêu đang mê man. Theo lịnh, y đã được chở từ phòng hồi sinh xuống khu ZA và hiện đang ở ca-bin bên cạnh.
- Khi nào bịnh nhân có hy vọng tỉnh lại?
- Thưa, tôi chưa hỏi y sĩ.
Hạm trưởng ra hiệu cho Triệu Dung. Chàng theo hạm trưởng sang ca-bin kế cận. Đặc biệt glà ca-bin này trống trải, không kê đồ đạc, dầu là đồ đạc bằng kim khí gắn vào vách tàu như thường lệ. Ở một góc, chỉ có một cái giường sắt nhỏ, bên trên một người nằm thiếp, đắp mền trắng.
Hai người vào thì y sĩ đứng dậy, trút ra tiếng thở dài khe khẽ.
Giật mình, hạm trưởng hỏi:
- Hết hy vọng?
Y sĩ gật đầu:
- Vâng.
Cử chỉ thận trọng, Triệu Dung tiến lại gần giường. Nạn nhân nằm ngữa, mắt lim dim, miệng mím lại, mặt cháy xém một bên, nước nhờn còn chảy lòng dòng. Linh tính nghề nghiệp báo cho chàng biết là viên phụ tá hoa tiêu đã chết trăm phần trăm, không phép lạ nào của loài người có thể giúp y hồi sinh nữa.
Tuy vậy, linh tính nghề nghiệp lại đánh thức hồi chuông báo động thần bí trong lòng Triệu Dung. Chàng đứng thẳng người, ngắm khuôn mặt tái mét.
Rồi chàng kéo tuột tấm mền trắng che đến cổ xuống. Sự thật đã xuất hiện rõ ràng như ban ngày: luồng nhỡn tuyến võ sĩ nhu đạo tuyệt luân vừa khám phá ra một vết bầm nhỏ xíu, chỉ nhỏ bằng nửa đầu que diêm là cùng. Vết bầm này nằm giữa đường thẳng từ nhân trung xuống ức, trên cuống họng thở, nhu đạo gọi là huyệt kachikaké.
Huyệt kachikaké là tử huyệt. Kẻ lão luyện chỉ cần vung ngón tay điểm vào là nạn nhân mạng vong trong chớp mắt.
Nghĩa là viên phụ tá hoa tiêu đã bị hạ sát. Hung thủ phải là võ sĩ nhu đạo cừ khôi. Nguyên nhân của vụ hạ sát rất dễ hiểu: hung thủ không muốn nạn nhân sống sót để trình bài một phần sự thật.
Nhưng hung thủ là ai?
Triệu Dung ngước đầu nhìn y sĩ. Đó là một người quá tứ tuần, dáng dấp đậm đà, vẻ hiền hậu - hiền hậu đến nỗi gần thành chất phát - nổi bật trong tia mắt chậm chạp. Tuy không phải là nhà tướng số, Triệu Dung có biệt tài quan sát diện mạo để phăng ra bề sâu tâm can. Chàng không thể nào lầm được: y sĩ của mẫu hạm chỉ là một nhân viên chuyên môn tận tụy, một người chồng gương mẫu, thích ăn ngon, thích tiêu khiển như mọi người đàn ông tứ tuần khỏe mạnh khác trên trái đất, nhưng không thể là kẻ giết người chớp nhoáng.
Và lại, lối đi bàng bạch, cái gật đầu nặng nề, và nhất là bàn tay trắng xanh, mềm nhũng như bàn tay con gái cấm cung - vì Triệu Dung đã có lần nắm chặt tay khiếng y sĩ nhăn nhó như nỡm ăn gừng - không phải là võ sĩ phi thường của cấp đai đen nhu đạo.
Tóm lại, y sĩ không phải là hung thủ. Song y sĩ đã theo bịnh nhân từ trên boong xuống khu ZA tất phải nhớ mặt, nhớ tên những kẻ đến gần. Sự kiện này sẽ giúp chàng phăng ra bí mật nhanh chóng.
Triệu Dung há miệng định hỏi, songlại nín thinh. Chàng nhận thấy bất lợi, tốt hơn giả vờ ngu xuẩn. Lặng lẽ, chàng đáp mền lên mặt xác chết. Rồi hỏi:
- Vụ giải phẫu tốt đẹp không, thưa y sĩ?
Y sĩ đáp:
- Xong rồi, hoàn toàn khả quan. Lúc nầy, bà ấy đã tỉnh. Theo lời ông dặn, tôi đã yêu cầu ban an ninh canh gát chu đáo.
Triệu Dung quay laị phía hạm trưởng:
- Xin lỗi, tôi cần về ca-bin một lát.
Dọc đường, chàng phập phồng lo ngại. Tuy hành lang không lấy gì làm dài, chàng có cảm tưởng là đi hàng 5, 10 phút chưa tới. Thật ra, ca-bin của chàng ở giữa hành lang, hầu như đối diện với phòng hạm trưởng. Khu ZA này được coi là cấm địa, không ai được bén mảng tới, ngoại trừ các phụ tá tin cậy của hạm trưởng, và y sĩ điều trị, các nhân viên khác phải xuất trình giấy phép đặc biệt.
Vậy mà Triệu Dung vẫn nóng ruột khác thường. Chàng cảm thấy ngu ngốc vì đã lừa đánh Văn Bình, để rồi mang xuống ca-bin. Mục đích của chàng là chế ngự sự xốc nổi của Văn Bình. Nếu đối phương lẻn vào ca-bin, lợi dụng chàng vắng mặt, Văn Bình còn bất động mà hạ độc thủ thì trọn đời chàng sẽ mang hối hận ghê gớm.
Mừng rỡ xiết bao, Văn Bình vẫn còn nguyên. Khi Triệu Dung xô cửa ca-bin thì Văn Bình đang ngồi trên ghế, xoay lưng ra ngoài. Nghe tiếng động, dĩ nhiên chàng phải nghe, vì tay chàng rất thính. Văn Bình không buồn ngoảnh lại.
Mùi thuốc Salam quyện lên thơm ngát. Triệu Dung đứng trên ngưỡng cửa, nhìn mớ tóc phiến loạn trùm xuống nửa gáy Văn Bình. Lẻ ra, Z.28 phải yết kiến thợ cạo từ nửa tháng trước, song chàng hẹn lần, khất lữa không đi. Đối với người khác thì tóc dài lỏm chỏm làm khuông mặt trở nên dữ tợn hoạc đểu cáng, nhưng Văn Bình lại thích hợp cả tóc ngắn lẫn tóc dài. Mớ tóc ngắn tạo cho chàng vẻ rắn rỏi của người chiến binh hồ hải ba sương một nắng. Khi để tóc dài, chàng lại biến thành nhà thơ luôn luôn trầm mặt, suy tư.
Văn Bình gạt tàn thuốc lá, giọng nhỏ nhẹ:
- Chào anh.
Triệu Dung giật bắn người:
- Anh. Té ra anh đã biết là tôi.
Vẫn không quay lại, Văn Bình nói:
- Tôi chờ anh từ lâu. Lúc anh ở đầu hành lang, tôi đã nghe rõ tiếng chân. Anh có lối đi đặc biệt, không đời nào tôi lầm được.
- Anh đã khỏe hẳn chưa?
- Cám ơn anh.
- Vạn bất đắc dĩ...xin anh bỏ lỗi.
Đột nhiên, Văn Bình phá lên cười:
- Vậy, tôi cũng xin anh bỏ lỗi một thể.
Triệu Dung nhìn bạn, ngơ ngác:
- Ồ, anh đánh lừa tôi. Anh không ngất, mà tôi cứ tưởng... Lạ thật.
- Anh đinh ninh làm tôi ngủ đi 10,15 phút chứ gi? Anh quên rằng trong thời gian ở Đông-kinh, tôi đã học Ninjitsu. Giỏi Ninjitsu thì đạm mũi gươm vào cổ cũng không trầy da, huống hồ điểm huyệt. Tôi chưa đạt đến trình độ cao siêu nầy, nhưng ít ra cũng chịu nổi một phát atémi hạng nhẹ.
- Trời ơi!!
- Dạo nầy, anh hay la trời như Nguyên Hương. Không khéo anh trở thành đàn bà mất. Nếu tôi không lầm, tính tình anh đã thay đổi hoàn toàn.
- Có lẻ anh nói đúng.Thay đổi hoàn toàn vì sau nhiều năm sống cô đơn, tôi bắt đầu cảm thấy lạnh lẽo. Nhưng thôi, chuyện tầm phào trong lúc này không tiện. Ông Hoàng sắp đến...
- Tôi biết, tôi biết... Nhưng trước khi bàn đến tương lai, hãy cứu xét hiện tại. Tôi không muốn đặt câu hỏi mà muốn tự anh nói ra, vì dầu sao, tôi cũng còn hy vọng...
- Như Luyến ấy à?
- Phải.
- Cũng như anh, tôi đang cố gắng hy vọng.
- Người ta chưa tìm được xác nàng?
- Không. Không tìm được xác ai hết. Tất cả đều tan thành than. Vả lại, phần lớn đã rớt xuống biển hoặc bay tản mát dưới sức mạnh của chất nổ.
- Nói một cách cụ thể: nàng đã chết.
Triệu Dung im lặng không đáp.
Văn Bình xoay ghế về phía Triệu Dung đứng. Từ cặp mắt sáng rực của chàng tóe ra nhiều tia lửa soi mói, dữ tợn, tưởng chàng có thể dùng lửa trong mắt đốt cháy được ca-bin bằng thép.Chàng từ từ rút điếu Salem trong túi ra, đua lên mũi ngửi, giọng buồn buồn:
- Đây là thuốc Salem của nàng. Nàng đặt riêng để tặng tôi. Quỳnh-Loan làm dữ, ông Hoàng phải lưu đày Như Luyến qua Tây bán cầu. Tuy vậy, nàng vẫn lén lút gởi thuốc lá về. Khốn nạn, nàng mầy mò từ Ba-Tây lên tận Bắc-Mỹ, tìm tới tận xưởng ché tạo thuốc Salem, thửa một loại đặc biệt. Ông Hoàng cũng thửa thuốc đặc biệt cho tôi, nhưng còn thua thuốc của Như Luyến một trời, một vực. Cụ già lẩm cẩm có khác Như Luyến đã mất nhiều ngày giờ trong phòng thí nghiệm để trộn chất thuốc Salem với một thứ lá thuốc Virginia, loại nhỏ và lùn. Nàng tự tay ủ lá, thái nhỏ ra, rồi đưa cho hãng Salem...Tội nghiệp. Đây là điếu Salem cuối cùng của nàng.
Văn Bình mân mê điếu thuốc có cái lọc trắng trong bàn tay run run, giọng lạt hẳn đi:
- Có lẽ tôi loạn trí, anh ạ.
Triệu Dung kéo ghế lại gần bạn:
- Hừ, trong đời ai chẳng có lúc đau khổ. Con người nổi tiếng có khối óc điện tử và trái tim bằng sắt như tôi mà cũng đau khổ ghê gớm, nữa là... Nhiều khi vào phòng ông Hoàng, tôi phải đứng yên, không dám động mạnh, vì anh biết không? Mắt ông Hoàng ươn ướt... Theo tôi, tất cả đều do định mạng. Cuộc đời của chúng ta cũng do định mạng an bài. Biết đâu, lát nữa, anh sẽ phải khóc tôi. Còn tôi, biết đâu, sẽ phải khóc anh...
Văn Bình thở dài:
- Tôi cũng muốn lý luận như anh, nhưng từ bao năm nay, tôi đã lý luận như vậy hàng chục, hàng trăm bận rồi. Lần nầy, đầu óc tôi rối beng, tôi không thể lý luận thêm nữa. Vì tôi biết là giả tạo. Trong quá khứ, tôi đã tìm cách đánh lừa lương tâm, đánh lừa tình cảm bản thân. Anh Dung ơi, tôi chán ngấy cái nghề điệp báo tàn bạo này rồi. Giờ đầy, không mãnh lực nào trên thế gian có thể giữ tôi lại nữa.
- Anh từ chức ư?
- Chưa biết.
- Từ chức sao được? Đang còn ông Hoàng, còn sở, còn anh, chị, em. Còn nhiệm vụ?
- Trước kia, mỗi lần định ra đi, tôi đều nghĩ đến ông Hoàng, đến sở, đến anh, chị, em, đến nhiệm vụ. Vì vậy, tôi chỉ dám nán lại Vạn-Tượng 10 tháng rồi phải lao đầu vào cuộc sống phiêu lưu. Nhưng bây giờ thì mọi việc đã trở thành vô vị. Hoàn toàn vô vị đối với tôi.
- Anh đi đâu?
- Chẳng đi đâu cả.
- Trời, anh điên rồi.
- Thì tôi đã bảo là điên mà anh chưa chịu tin.
- Anh chẳng đi đâu thì định làm gì?
- Cũng chẳng định làm gì. Có lẽ tôi phải chết, anh ạ.
- Ồ, nếu anh muốn tự tử thì chưa điên chút nào. Vì kẻ muốn tự tử thường rất sáng suốt.
- Để tôi kể lại chuyện này anh nghe. Lâu lắm, tôi không thích lênh đênh trên tàu, vì mỗi lần ra khơi, tôi lại nhớ tới lần ôm xác một người đàn bà đẹp nhảy xuống nước.
- Luz?
- Phải, Luz. Nàng chết vì tôi. Tôi hối hận mãi về cái chết của nàng. Lần này đến lượt Như Luyến. Cũng vì tôi mà nàng chết.
Văn Bình bâng khuâng đứng dậy. Giọng chàng vụt trở nên rắn rỏi và sắc như dao chém đá:
- Dầu sao, tôi cũng phải tìm ra. Tôi phải trả thù... Rồi sau đó, tôi sẽ...
Hạm trưởng vừa tiến vào phòng. Không để ý đến vẻ mặt khổ não của Văn Bình, ông nói:
- Trong vòng một giờ đồng hồ nữa, ông Hoàng sẽ tới mẫu hạm. Bây giờ, xin mời hai ông lên phòng thí nghiệm.
Triệu Dung hỏi:
- Để làm gì hạm trưởng?
Hạm trưởng đáp:
- Trong mật điện, ông Hoàng dặn tôi nói lại là hai ông phải vào ngay phòng làm việc của bà Như Luyến. Mặt khác, công việc sửa soạn cho đại tá Văn Bình lên đường với chiếc tàu ngầm bỏ túi đuợc hoãn lại vô hạn định.
Văn Bình bỏ điếu Salem nhầu nát vào túi áo trên;
- Thì đi.
Không khí trên boong làm chàng tỉnh táo. Mùi ét xăng cháy còn đượm khét bầu không khí yên lặng xế trưa. Mặt biển vẫn chạy thẳng lắp đến tận chân trời xanh biếc. Hàng không mẫu hạm nguyên tử rập rình trên hải phận Nam-Việt bát ngát.
Hạm trưởng giải thích:
- Khu chúng ta ở được đặt là khu ZA, tức là cấm khu. Khu làm việc của các nhà bác học là khu ZB, cũng là cấm khu, tuy nhiên thể thức canh phòng và kiểm soát ở đó còn chặt chẽ hơn khu ZA một bật. Lên xuống chỉ có một thang máy riêng, ngày đêm đều có đội an ninh túc trực gác với súng máy đạn lên sẵn. Không ai được vào ZB, kể cả nhân viên phụ tá thân cận của tôi.
Thang máy mở ra. Trước mặt ba người là một hành lang rộng, sạch sẽ, ngăn nấp, kền bóng loáng, nền tàu không tìm ra một hột bụi. Sạch sẽ, ngăn nắp là phương châm sinh hoạt của mọi tàu biển. Tuy nhiên, trên hàng không mẫu hạm ZZ, sự sạch sẽ và ngăn nắp đã tiến tới trình độ khác thường, khiến Văn Bình không ngăn được sửng sốt và thán phục.
Hạm trưởng chỉ tay về cuối hành lang:
- Phòng giấy của bác sĩ Như Luyến ở về hướng nầy. Ca-bin của các nhà bác học đều gồm hai căn khít nhau, phía trước làm văn phòng, phía sau để ở.
Hai người gác cao lớn, đeo súng tiểu liên, rập chân chào hạm trưởng.
Cửa ca-bin không được gắn khóa thông thường mà là loại khóa điện tử tối tân chỉ được dùng trong một số ngân hàng Mỹ, và Tổng hành dinh Trung ương tình báo ở Langley. Loại khóa điện tử này gồm một lỗ mắt thần nhỏ xíu, và tròn xoe. Nó nhìn thấy người đứng trước cửa, và truyền hình vào cho một bộ óc IBM tí hon, nhưng vô cùng tinh vi. Bộ óc tức khắc ra lịnh cho ổ khóa sửa soạn mở.
Chỉ sửa soạn nhưng chưa mở. Vì đương sự còn phải lên tiếng cho tai điện tử nghe. Nếu đúng là tiếng chủ nhân, hoặc tiếng người quen đã được bộ óc nghe một lần, và được chủ nhân bảo đảm thì ổ khóa sẽ reo "tách" nhẹ nhàng, cánh cửa ca-bin bằng thép dầy mở ra êm như ru.
Tấm thép cửa được chế tạo theo một công thức hóa học cơ khí đặc biệt, bom nặng một trăm kí nổ bên cũng không suy suyển. Ca-bin cũng được chế tạo theo một kế hoạch riêng: vách tuờng chỉ đuợc gắn hờ vào thân tàu, dưới nền phòng có nhiều bánh xe, khi động đụng, Như Luyến bấm nút trong phòng-nút này hoàn toàn bí mật, chỉ riêng nàng và hạm trưởng được biết-căn phòng thép bất khả xâm phạm sẻ tách khõi hàng không mẫu hạm, chạy ra ngoài hành lang. Căn phòng có thể nổi lềnh bềnh trên mặt biển, mặc dầu rất nặng. Sở dĩ ca-bin của Như Luyến và của các nhà bác học khác trên pháo đài ZZ được trang bị máy móc lạ lùng, vì nơi đó cất nhiều hồ sơ, tài liệu bi mật.
Hạm trưởng áp người vào cửa sắt, mắt nhìn chăm chú vào lỗ mắt thần, lớn bằng đồn xu bẹt. Vừa nhìn, hạm trưởng vừa lên tiếng:
- Tôi là hạm trưởng, yêu cầu mở cửa.
Văn Bình cầm quá nắm, toan giật ra. Hạm trưởng vội giữ tay chàng lại:
- Chờ... Quả nắm này không phải dùng để mở cửa đâu. Vì cửa đóng mở hoàn toàn tự động. Nó được lắp vào cửa để đánh lừa người ta, hơn nữa để đề phòng trường hợp - một trường hợp chắc chắn không thể xẩy ra - óc điện tử lầm lộn, mở cửa cho người lạ vào. Anh bước vào thì đạn thuốc mê sẽ bắn ra tới tấp, và trăm phấn trăm anh phải té ngã trong khoảnh khắc, và máy vô tuyến truyền hình sẽ nhìn thấy anh...
Hạm trưởng ngưng bặt.
Trong một phút say sưa, hạm trưởng suýt quên mình là ông già mái tóc muối tiêu, lưng còng, nếp răng loạn xạ trên trán, chứ không còn là chàng thanh niên khôi ngô, có vợ trẻ măng, ở bên kia bờ biển Thái-Bìnhn và cũng khoái sống hoang toàng như điệp viên bán trời không văn tự Z.28. Hạm trưởng đã thân mật gọi Văn Bình bằng "anh" thay vì tiếng "ông" nghiêm trang thường lệ.
Hiểu ý, Triệu Dung đỡ lời:
- Chúng mình đều là đồng nghiệp, và đều xấp xỉ tuổi nhau. Gọi nhau bằng "anh", thân mật hơn. Hạm trưởng cho phép nha?
Hạm trưởng cười:
- Vâng.
Nói đoạn, hạm trưởng lấy bàn tay xòe ra, bịt lỗ mắt thần lại, rồi mở ra, cất tiếng:
- Yêu cầu mở cửa, và tắt hệ thống ZBER nấy lại.
Rồi quay về phía Văn Bình, giải thích, giọng vui vẻ:
- Trong trưởng hợp cầm lộn quả nắm cửa, hệ thống bắn đạn thuốc mê bị báo động, thì ta phải che mắt thần một phút, rồi lên tiếng lần nữa. Bộ óc IBM sẽ khám phá ra, tuy nhiên, ta phải chờ đúng 300 giây, nghĩa là 5 phút đồng hồ, ổ khóa tự động mới chịu mở ra.
Văn Bình:
- Làm gì mà phải đợi những 5 phút?
Hạm trưởng đáp:
- Hồi mới nhận chức chỉ huy trên mẫu hạm nầy, tôi cũng thắc mắc như anh. Những con toán khó khăn và phiền toái nhất, bộ óc IBM đặc biệt này chỉ giải đáp trong vòng 30 giây là chậm nhất. Chẳng qua, chúng phải chờ 5 phút là vì biện pháp trừng phạt. Máy điện tử trừng phạt 5 phút đứng mỏi chân ngoài cửa để từ đây trở đi khỏi táy máy. Đúng hơn, công ty chế tạo đã đạt ra lối trừng phạt lạ lùng nầy.
Văn Bình lại hỏi:
- Hệ thống ZBER là hệ thống bắn đạn thuốc mê, phải không anh?
Hạm trưởng gật đầu;
- Phải. Như anh đã biết. Z là tên của pháo đài nổi. B là tên khu vực trên tàu. Vòn ER là tên dụng cụ. Dụng cụ phòng thủ đều bắt đầu bằng chử E. Như ER là súng bắn đạn thuốc mê, ES là đại bác bắn đạn sa mù mỗi khi muốn ngụy trang mẫu hạm, không cho phi cơ lạ bay ngang qua, và lén chụp hình. Và như EQ là súng bắn tia laser. À, tôi quên chưa báo anh biết mẫu hạm này là con tàu thứ nhất trên thế giới được trang bị súng bắn tia laser. Tuy súng laser còn ở trong thời kỳ thí nghiệm, phải chờ nhiều năm nữa mới được hoàn bị, nó cũng đã là một vũ khí lợi hại. Nó co thể xuyên qua thân phi cơ, một cách quá dễ dàng như lưỡi dao đâm vào bơ vậy. Phi cơ chỉ bị tia laser xuyên qua một lần là đủ rơi xuống rồi, không cần phải sử dụng đại bác phòng không hoặc khu trục cơ phải cất cánh để tham dự không chiến nữa.
Cửa ca-bin reo lên một âm thanh êm ái rồi mở ra. Văn Bình có cảm giác như mùi thơm da thịt của Như Luyến đang thoang thoảng đâu đây.
Là ngươi đàn ông giàu kinh nghiệm, chàng đã biết phân biệt giữa hàng trăm mùi hương da thịt khác nhau. Thật vậy, đàn bà, nhất là đàn bà đẹp, cũng như bông hoa - vả lại, nhà thơ muôn thuở cũng đã ví đàn bà với bông hoa biết nói kia mà... đều có hương vị riêng. Nếu hoa thược dược thơm hắc, hoa quỳnh thơm lan man, hoa lê-dơn thơm kín hở, thì đàn bà cũng vậy, có những làn da thơm như suốt đời sức nước hoa đắt tiền, như vừa ở bồn tắm sửa tươi bước ra, như thoa xà-bông quế... Sau khi tắm, mùi thơm giai nhân mới có sắc thái độc đáo, có người thơm quyến rũ, như cơ thể toàn là phấn Elizabeth Arden, ngửi phải là muốn ôm chầm lấy, ngĩ đến cảnh thần tiên phản phất mùi rượu Uýt-ky trong hộp đêm thượng lưu thoát y vũ, nhưng lại có người chỉ thơm nhẹ nhỏm, thơm dịu dàng, thơm e lệ, trên mình như có mùi kẹo chuối, mùi va-ni loãng, hoặc mùi bạc-hà... và phần nhiều mùi thơm khác thường này chỉ xuất hiện trên làn da trinh nữ, tâm hồn và thể xác còn trong sạch, tinh khiết như tờ giấy hoa tiên ngày Tết chưa viết chữ.
Mùi thơm của da thịt Như Luyến, Văn Bình không thể nào quên được, dầu ở chân trời góc biển, hoặc dầu thời gian đã biến chàng thành ông già lụ khụ. Thật vậy, Như Luyến đã gieo vào lòng chàng rất nhiều kỷ niệm sâu xa. Đàn bà một con thường đẹp nổi tiếng, Như Luyến lại đẹp một cách xuất phàm. Hơn nữa, nàng lại am tường bí quyết tạo lập hạnh phúc lứa đôi. Vì dầu sao, nàng đã có hai đời chồng, Túc Lăng và Đoàn Trung, cả hai đều là nhà bác học, mê mải chai lọ trong phòng thí nghiệm mà xao lãng báu vật nhan sắt, hoặc thiếu bản lãnh để làm chủ kho tàng vệ nữ, độc nhất vô nhị...
Văn Bình muốn dừng lại trên ngưỡng cửa để hít hương thơm kỳ dị này vào buồng phổi.
Nhưng chàng phải vẹo người sang bên. Một bóng đen từ trong phòng tối lao vút ra một cách nguy hiểm.
Triệu Dung thét lên:
- Văn Bình.
Song Văn Bình đã kịp thời tránh được đòn thứ nhất. Nhưng đòn thứ hai đã ào tới.
°
Trước đó một lát, ông Hoàng, Tổng giám đốc Mật vụ, đang trên đường từ trụ sở Công ty điện tử tới trường bay Tân Sơn Nhất.
Như mọi lần, xe hơi của ông vẫn là chiếc Ciroën 15 ngựa, cà rịch, cà tang, sơn tróc lung tung, riềm đen che kín kính sau, bánh xe lấm bùn bê bết, không có hông trắng sang trọng, và nệm xe cũng không lót vải trắng, như các xe hòm đen khác trong thành phố.
Phải là người trong nghề mới biết sự tồi tàn kia chỉ là bề ngoài ngụy trang. Vì chiếc Citroën cổ lỗ sĩ ấy được gắn động cơ đặc biệt. Đối vời cộng sự viên thân cận như Nguyên Hương, Lê Diệp và Văn Bình, thì chiếc Citroën của ông già lẩm cẩm vừa được tối tân hóa và trẻ trung hóa.
Động cơ của nó không còn là loại ọc ạch ngày xưa từ thời tiền chiến, mà là của loại DS-21 vừa được chế tạo tại Pháp và được giới chơi xe trên thế giới coi là thần diệu. Máy DS-21 kiểu Prestige đã chạy nhanh hơn DS-21 thường, mặc dầu với hơn 2 ngàn phân khối và 12 mã lực, ban chuyên mon của Sở lại nối thêm bình xăng đăc biệt, sửa lại bơm xắng, xút-báp và ống sẹt-măng, kết quả là tốt độ tối đa của xe DS-21 là 175 cây số giờ đã vọt tơí 220; nghĩa là hơn xe đua Porsche, và không kém thần mã cơ khí Ferrari, báu vật trong làng xe qua quốc tế tân tiến.
Hồi còn trẻ, ông Hoàng mê tốc lực cũng như Văn-Binh mê đàn bà đẹp vậy. Nhưng ngày nay, ông không còn trẻ nữa. Ông muốn xe riêng của ông ngốn đường kinh khủng, không phải vì trong trái tim đang còn máu say tốc độ sùng sục, mà chính vì những đòi hỏi gắt gao về an ninh. Phàm địch muốn ám sát ông bằng lựu đạn hoặc bằng súng, họ phảo tính toán tốc độ xe hơi, và ông cần đánh lừa họ. Mặt khác, khi lâm sự tài xế chỉ cần đạp hết chân ga là ít có xe hơi nào ở Việt-Nam theo kịp.
Vậy mà cách đây không lâu, một chiếc xe Fiat mui trần mảnh khảnh đã theo kịp và xả đạn qua cửa kính. Đạn của họ thuộc loại đặc biệt, có thể xuyên qua thép chiến xa, nên suýt nữa, nếu tài xế phản ứng chậm trễ một phần trăm giây đồng hồ và kém kinh nghiệm thì ông Tổng giám đốc đã ra người thiên cổ.
Hôm ấy, ông đang từ Bình-Dương về, đường buổi trưa nắng chang chang, vắng tanh, vắng ngắt. Qua khút vòng, biết bị rược theo, tài xế xả hết ga. Song chỉ trong khoảnh khắc, chiếc xe Fiat đã bám sát và, tacata, tacata... loạt đạn gieo tan tóc đầu tiên được bắn ra.
Tài xế quẹo tay lái sang bên, rồi mở bình xăng phụ, chiếc xe hòm cũ kỹ chồm lên. Trong khi ấy, Lê Diệp mở kính xe, chĩa mùi súng ra ngoài. Chàng chỉ cần một băn đạn tiểu liên là triệt hạ được xe ám sát.
Đạn trúng hai bánh trước, chiếc Fiat mui trần loạng choạng giữa đường lộ rồi đâm sầm vào góc me, gây ra đám cháy. Ba người trên xe đều bị chết thiêu. Đúng ra, Lê Diệp đã thả thêm lựu đạn vào xe cho họ chóng chết. Sau nầy, nhân viên chuyên môn nghiên cứu máy xe Fiat thì được biết nó không phải là động cơ xe Fiat 1.500 phân khối thường mà là loại Dino-Ferrari. Từ đó, ông Tổng giám đốc gia tăng thận trọng, và dành mối quan tâm đặc biệt với xe hơi, mỗi khi công xuất[39].
Xe Citroën đã tới Tân Sơn Nhất.
Lê Diệp lái chiếc Peugeot ọp ẹp mở đường đã ngóac tay ra hiệu cho người lính gát cổng rạt sang bên. Cũng vì phương tiện an ninh, ông Hoàng ít vào sân bay bằng ngõ trước, hoặc bằng cửa VIP bên trái, dành cho yếu nhân. Ông thường vào cổng hông hoặc cổng Phi-Long.
Trong chớp mắt, tài xế đã tới phi đạo. Chiếc phi cơ trắng của hải quân đã chờ sẵn.
Đột nhiên, chuông điện thoại siêu tần số reo lên. Xe hơi đậu lại, vệ sĩ mở cửa mời ông Hoàng xuống.
Song lời báo cáo trong điện thoại đã làm ông Hoàng thay đổi ý kiến. Người báo cáo là Nguyên Hương. Điệm đàm vô tuyền giữa ông Hoàng và trung tâm Nguyễn-Huệ dùng một tần số riêng, không cơ quan nào biết, mặt khác lại có dụng cụ điện tử phá âm, khiến người ngoài cuộc, ngay cà đối phương được trang bị máy móc tân tiến, cũng không tài nào nghe nổi[40].
Lê Diệp đã tới bên cửa xe. Chàng mặc sơ-mi bỏ ngoài quần, thắt lưng hơi cợm, chứng tỏ túi dao lá liễu bá phát bá trúng với tài nghệ như Dưỡng Do Cơ ngày xưa vẫn kè kè trong người chàng.
Chàng thò đầu vào:
- Mời ông đi ngay mới kịp.
Ông Tổng giám đốc khoát tay:
- Anh nói với phi hành đoàn là tôi không đi nữa.
Đã quen với những thay đổi đột ngột giờ chót trong nghề, nhất là
đối với ông Hoàng, nên Lê Diệp không tỏ vẻ sửng sốt - dầu chỉ là sửng sốt hợp lý - và cũng không hỏi lại. Chàng vâng một tiếng ngắn rồi bước rảo vế phía phi cơ.
Giọng báo cáo của Nguyên Hương qua điện thoại siêu tần số vẫn thanh thót đều đặn:
- Thưa, họ đã phối kiểm tin tức kỹ lưỡng. Phòng thí nghiệm hàn học của RU vừa được di chuyển đến nơi khác, sau khi một điệp viên MI-6 đột nhập vào cấm khu và bị bắt giữ.
- Di chuyển tới đâu?
- Thưa, hiện thời chưa có tin tức rõ rệt. Họ xin ta một thời hạn tối thiểu là một tuần, đúng một tuần, kể từ 0 giờ hôm nay. Có thể họ sẽ khám phá ra trước thời hạn và sẽ cho ta biết.
- Tôi không tin...Rầy rà thật. Hành động vụng về và nông nổi của MI-6 đã làm hỏng kế hoạch của ta, sau bao nhiêu ngày tháng chuẩn bị, phiền nhất là ta mất cơ hội hãn hữu kiếm tiền.
- Thưa, dầu muốn, dầu không, đi ngay cũng không được nữa. Vì Nguyệt Hằng vừa bị giải phẫu, y sĩ trên pháo đài ZZ cho biết nàng phải dưỡng sức ít nhất một tuần lễ. Nếu ông không muốn đình hoãn, tôi xin báo tin tức thời cho hạm trưởng…
- Không. Công viêc ở nhà còn bề bộn kinh khủng. Tôi cần gặp mặt để dặn dò lần cuối. Nhưng như thế này thì Văn Bình vẫn chưa thể lên đường được. Này...
- Dạ.
- Điện ngay cho Triệu Dung, nói là tôi ra lịnh tạm gát công tác của Z.28 qua Nga-Sô.
- Thưa, vâng.
- Dặn họ đừng chờ tôi nữa. Nội ngày nay, chỉ thị chi tiết sẽ được gởi tới cho Văn Bình. Tuy nhiên, cô nói trước cho Văn Bình biết là tôi ủy thác điều tra những việc vừa xẩy ra trên pháo đài. Hẹn trong một tuần phải hoàn thành công tác.
Rồi ông ngẩn đầu lên, nhìn tài xế. Ông không cần ra lịnh song tài xế đã hiểu. Phục vụ dưới quyền ông lâu năm, tài xế đã đọc được ý muốn của ông trong mắt và trong nét mặt thay đổi.
Băng sau được ngăn với băng trước bằng tấm kính dầy, như ta thường thấy trên chiếc Rolls-Royce, Mercedes 600 hoặc DS-21 Prestige dành cho yếu nhân chánh quyền. Lời nói của ông Hoàng, tài xế ngồi băng trước không tài nào nghe được.
Song y đã biết được ông Hoàng muốn quay về trụ sở công khai ở đại-lộ Nguyễn-Huệ.
Cổng sắt lại mở rộng.
Chiếc Citroën bề ngoài cũ mèm phóng như bay trên con đường xế trưa Tân Sơn Nhất vắng lặng và đầy nắng.
°
Bức mật điện của Nguyên Hương tới phòng chỉ huy của pháo đài ZZ giữa lúc Văn Bình, Triệu Dung và hạm trưởng khựng người vì một bóng đen từ trong phòng Như Luyến vút ra.
Đòn thứ hai lao tới như trận cuồng phong.
Đã né được món đòn bất thần phủ đầu, dĩ nhiên Văn Bình có đủ tài nghệ để thoát hiểm dễ dàng. Vừa tránh đòn, chàng vừa nhận diện được đối phương.
Đó không phải là đối phương núp trong bóng tối dể đánh lén. Mà là một con vật.
Một con Bẹt-giê lông đen. Đúng hơn là lông đen và đỏ, dài, rậm rạp, với cặp tai nhỏ xíu, vểnh lên và cái đuôi cong veo một cách kiêu căng và thách thức.
Trong chớp mắt, Văn Bình đã nhận ra nó. Tự tay chàng mua tặng Như Luyến trong một chuyến công tác ở Hồng-Kông. Chàng mua của một người chuyên môn nuôi chó nổi tiếng, khi nó mới được ba tháng. Chàng phải cho nó ăn sữa như bà mẹ có con mọn. Trên đường về, chàng phải thí thố nghệ thuật điều đình và ẩn lậu mới mang thoát tới Sàigòn và từ Sàigòn thoát khỏi quan thuế và công an kiểm soát.
Đúng theo luật lệ quốc tế, chàng phải xuất trình giấy khám sức khỏe và giấy chích ngừa bịnh dại, song thời gian quá gấp rút, mua xong là chàng phải đi liền. Cũng theo luật lệ quốc tế, hàng khách đáp máy bay phải gởi chó ở hầm chứa hàng hóa và dọ mõm lại. Nhưng chàng không muốn con chó ba tháng bé bỏng phải nằm một mình. Chàng bèn tiêm thuốc ngủ cho nó, lấp bình dưỡng khí đặc biệt vào mặt, rồi bỏ vào va-li xách tay.
Đến Tân Sơn Nhất, chàng nghêng ngang thoát ra ngoài bằng cửa VIP, theo sau ông bộ trưởng Ngoại giao. Thấy chàng cao lớn, cường tráng và oai vễ, nhân viên an ninh tưởng là vệ sĩ của ông bộ trưởng. Thế là chàng ôm được con chó chow-chow về Sàigòn.
Phải, nó là giống chow-chow, sinh sống ở Trung-Quốc. Song, giống chow-chow chinh quán Tây-Tạng được quí hơn nhiều. Con chow-chow nhỏ xíu này lại đúng gốc Tây-Tạng. Đoàn vệ sĩ của đức Phật Sống Đạt-Lai Lạt-Ma chuyên nuôi chow-chow, tập luyện thành những con chó tuyệt đối trung thành và canh phòng đắc lực, đắc lực không kém nhân viên võ trang giỏi Nhu đạo, mặc dầu nó chỉ cao chừng nữa thước và nặng từ 18 tới 25 kí là cùng[41].
Sau khi đức Phật sống lưu vong qua Ấn-độ, đoàn vệ-sĩ mang chó theo. Tình cờ một cặp được đưa tới Hồng-kông để gây giống. Như Luyến rất thích chó chow-chow. Nàng muốn nuôi từ hồi chồng thứ nhất còn sống, và tòng sự tại một trung tâm nguyên tử bên Mỹ.
Hiểu được sở thích của người yêu, Văn Bình đã tìm cách làm nàng vừa lòng.
Khi ấy, hạm trưởng lùi một bước, cất tiếng gọi lớn:
- Titi.
Trong khung cảnh nghiêm trọng nầy, Văn Bình vẫn bật cười. Vì Titi là tên con chó. Song Titi cũng là tên tắt của 28, Z.28. Con số 28, tiếng Anh là two-eight, t đọc là ti, e đọc là i, t và e là ti-i. Người phương Tây nhớ ai, mến ai thường hay lấy tên người đó đặt cho chó. Như Luyến bèn gọi cho chow-chow là Titi.
Nghe gọi tên, con chó chụm chân lại, nhìn hạm trưởng. Nó vừa nhận ra người quen. Và nhất là nhận ra Văn Bình. Chàng cuối xuống xoa đầu nó, giọng thân mật:
- Titi, mầy quên tao rồi ư?
Con chow-chow xấn mại gần Văn Bình, vẫy đuôi lia lịa, tròng mắt đột nhiên ươn ướt.. Văn Bình ôm nó vào lòng vuốt ve.
Hạm trưởng tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Anh quen nó từ khi nào?
Văn Bình mỉm cười:
- Lâu rồi. Chính tôi đã phải cho nó bú sữa suốt hai tháng ròng rã. Và tuần nào, tôi cũng phải pha nước nóng, tắm rửa và chải lông cho nó.
Hạm trưởng thở phào:
- Thế cũng may. Tôi tưởng nó đã ăn gỏi anh. Loại chow-chow này dữ kinh khủng. Nó lại được tập luyện, nên cắn ai là phải gây trọng thương.
Văn Bình lại cười:
- Cũng chính tôi là huần luyện viên của nó. Nó thông minh đáo để, chỉ học một tuần là biết cắn áo và cắn cổ người lạ. Nhờ nó, Như Luyến đậu xe ngoài đường không cần khóa xe và nhất là ban đêm, không cần rút công-tắc. Mấy tay anh, chị bén mảng đến xe đua của nàng, định mượn chơi, bị nó làm cho một mẻ khiếp vía, vắt giò lên cổ mà chạy. Ly kỳ hơn nữa là có lần nàng về khuya, bị du đãng chận đường giật ví, conTiti rượt theo lấy lại và cắn toang quần áo. Nếu không có xe cảnh sát đậu xe ở đầu đường can thiệp, bắt tên giật sắc về bót thì chắc chắn đêm ấy, hắn trần như nhọng.
ConTiti như nghe được tiếng người, nghếch mõm và tai ra, vẻ chăm chú. Thỉnh thoảng, nó lại gật đầu, vẫy đưôi thành hình vòng tròn.
Hạm trưởng mở đèn trong phòng.
Đột nhiên, Văn Bình rợn người. Như Luyến bắng xương, bằng thịt dường như vẫn ở đâu đây. Lòng chàng rạo rực nỗi buồn vô hạn. Chàng chưa tái ngộ sau bao ngày tháng xa cách thì nàng đã chết. Chết thành than, rải rắc trên mặt biển vô tình...
Nếu không có hai người đàn ông ở bên, Văn Bình đã rơm rớm nước mắt. Trong cuộc sống khô khan tuyệt đối, nhiều khi chàng muốn trở lại những ngày hoa niên, để được tư do than thở cảnh đời ngang trái bằng giọt lệ ồn ào.
Tuy là ca-bin mẫu hạm, phòng của Như Luyến cũng khá rộng rãi và trang trí tươm tất. Bàn ghế bằng sắt đều sơn một màu, màu xanh quen thuộc của màu biển, song vẫn có vẻ kiểu cách, tươi trẻ, nhờ những con búp-bê Nhật-bản và những chiếc xe hơi nhỏ xíu bằng nhựa ngũ sắc được đặt ở hầu hết khắp nơi.
Giữa phòng chễm chệ bức hình thằng Lập. Chắc là ảnh mới, vì thằng Lập đã lớn vượt lên, nét mặt bầu bĩnh, rí rõm, cái rí rõm cố hữu của mẹ.
Trên bản giấy kê gần góc, Văn Bình thấy lồ lộ chân dung bản thân của Như Luyến, gọn ghẽ và hoa mỹ. Cái khuông bằng vàng tây cầu kỳ và đắt tiền nầy, chàng cũng tự tay mua cho nàng ở Hồng-kông, cùng lúc với con chó chow-chow.
Hồi ấy, cầm cái khuôn, Như Luyến ứa nước mắt, rồi hôn lấy, hôn để. Tự dưng, nàng nhớ lại thân phận riêng của nàng, thân phận chung của hai người. Nàng đã trải qua hai đời chồng, chồng trước chết, chồng sau ly dị, thiên hạ sẽ dị nghị ghê gớm nếu nàng tái giá lần nữa. Dầu sao, Văn Bình cũng còn độc thân. Chàng vẫn có hàng tá người yêu, chàng lại có con với Quỳnh-Loan, nhưng trong bộ đời, chàng là trai tân, chàng lại khôi ngô như minh tinh màn ảnh quốc tế, cường tráng như lực sĩ quán quân thế vận, võ nghệ tuyệt luân như thần tượng nhu đạo, và thông minh như nhà bác học bách khoa. Nghĩa là Văn Bình hội đủ điều kiện cần thiết để lọt vào mắt xanh của các cô gái đang xuân.
Trên thực tế, các cô gái đang xuân đã bám sát Văn Bình như hình với bóng. Tuy vậy, chàng vẫn yêu nàng. Như Luyến khóc vì sung sướng được gần gũi ông hoàng đẹp trai mà phái yếu trên thế giới hăng mơ ước, song phần nào, nàng khóc vì biết trước định mạng trớ trêu và tàn nhẫn không cho phép hai người thành vợ, thành chồng.
Quên bẵng thực tại, Văn Bình nhấc cái khuôn vàng lên ngắm nghía, cũng như Như Luyến, nhiều tháng trước, khi chàng mang quà về biếu nàng. Mắt chàng mờ hẳn đi. Cũng may, hạm trưởng còn bận giới thiệu nên không lưu tâm tới sự thay đổi ủy mị của chàng.
Giọng hạm trưởng vẵng vào tai Văn Bình, mơ hồ như từ một cõi trời xa xăm:
- Đây là phòng khách, lẫn phòng thí nghiệm. Phòng ngủ ở phía sau, tuy nhỏ hẹp nhưng tiện nghi, đây đủ không kém khách sạn sang trọng 50 đô-la một đêm ở Nữu-ước.
Rồi tiếng Triệu Dung:
- Chúng tôi muốn lục lọi giấy tờ một lát. Hạm trưởng có chìa khóa không?
Hạm trưởng đáp:
- Có. Cứ gọi tôi bằng anh cho thân mật.Theo tôi, ở bàn giấy không có giấy tờ quan trọng. Mọi tài liệu nghiên cứu đều được cát trong két sắt. Anh chờ tôi một phút.
Hạm trưởng tiến lại góc phòng, quì xuống, tra chìa vào ổ khóa gắn vào vách thép. Trong chớp mắt, cánh cửa kim khí dầy cộm được mở ra. Như thường lệ, giấy tờ đều bề bộn. Như Luyến có tật thiếu ngăn nắp, hoàn toàn trái ngược với thiên năng nữ gìới. Nàng cho rằng sự ngăn nắp làm cho đàn bà mất bay bướm và mơ mộng thì đàn bà sẽ trở thành đàn ông, khô khan và tàn nhẫn.
Triệu Dung lấy trong két ra một tập hồ sơ bìa đỏ, bên ngoài đề hai chữ tối mầy và phía dưới là chữ số:
Z B-605
Hạm trưởng cắt nghĩa:
- Như anh đã biết, ZB là khu vực nầy, còn 605 là tên kế hoạch thí nghiệm VTOL.
Văn Bình hỏi lại:
- VTOL, phi cơ lên thẳng đấy ư?
Chàng hỏi lại tưởng nghe lầm trong cơn bàng hoàng, nửa mê, nửa tỉnh. Song hạm trưởng đã gật đầu:
- Phải. Loại phi cơ lên thẳng đặc biệt.
- Hoa-Kỳ và Nga-Sô đã chế tạo phi cơ lên thẳng từ năm năm nay rồi. Theo tôi thì không có gì là đặc biệt và bí mật cả.
Rồi ngoảnh sang Triệu Dung:
-Anh nghĩ sao?
Triệu Dung lật một tờ giấy, giọng bình thảng:
- Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, tôi chắc loại VTOL này còn chứa đựng nhiều chi tiết độc đáo nên mới cần được thí nghiệm ở đây.
Hạm trưởng tiếp lời:
- Anh nói đúng. Đồng ý là phi cơ lên thẳng đã được chế tạo từ lâu, song đó không phải là lý do để nó không còn hấp dẫn nữa. Động cơ pít tông xe hơi được lưu hành từ hơn nữa thế kỷ, vậy mà đến nay vẫn chưa được gọi là hoàn bị, và các công ty chế tạo vẫn giữ bí mật tuyệt đối trước khi sản xuất máy mới. Vả lại, theo chỗ tôi biết thì phi cơ lên thẳng có hai loại, STOL[42] và VTOL[43], Loại STOL mới được chế tạo từ 5 năm nay, còn VTOL hoàn toàn chưa ra khỏi giai đoạn thí nghiệm. Và ngay cả loại STOL nữa... bằng chứng là hiện nay chưa quốc gia nào trên thế giới dùng phi cơ STOL trong việc chuyển vận hàng hóa cũng như hoạt động quân sự.
Văn Bình nín lặng.
Số vốn khoa học của chàng chưa đũ phong phú để phản đối lý luận của hạm trưởng. Hơn nữa, hạm trưởng đã nói đúng. Hơn một lần, Văn Bình đã thấy tận mắt phi cơ lên thẳng ở Hoa-kỳ hoặc trong căn cứ bí mật ở bên kia bức màn sắt, song đó chỉ là dụng cụ thí nghiệm.
Hạm trưởng lại tiếp:
- Nếu hai anh cho phép, tôi xin nói rõ thêm một chút nữa. Loại STOL hiện hành là McDonnell 188[44] và McDonnell ST20, có thể chở từ 30 đến 60 hành khách, cất cánh và đáp xuống trên một phi đạo rất ngắn từ 100 đến 150 mét là cùng. Hiện không quân Hoàng gia Anh quốc đã đặt mua 100 chiếc khu trục cơ Hawker-Siddeley P-1127, được chế tạo theo tiêu chuẩn tương tự.
Song về địa hạt lên thẳng như trực thăng, tất cả đều còn ở trong phòng thí nghiệm. Mãi chờ đến cuối năm 1966, lục quân Hoa-kỳ mới ký 6 khế ước nghiên cứu phi cơ VTOL, khả dĩ chở được 3 tấn binh sĩ và quân cụ. Theo các khế ước này thì sớm nhất là 1972, 1973, chiếc phi cơ lên thẳng thứ nhất sẽ được hoàn thành.
Còn loại VTOL, được thí nghiệm trên pháo đài ZZ là của CIA, hợp lực với các cơ quan điệp báo bạn. Có thể nói rằng nó sắp được hoàn thành. Hai anh thấy quan trọng chưa? Trong khi các công ty Hoa Kỳ chờ đến 1972 thì chúng ta đã đến thời kỳ thí nghiệm cuối cùng. Việc sản xuất phi cơ lên thẳng VTOL lúc này sẽ ảnh hưởng lớn lao đến chiến trường du kích địa phương. Tuy nhiên, điều làm phi cơ VTOL được coi là vô cùng quan trọng là một số võ khí và dụng cụ điện tử bí mật mà nó mang theo. Cũng như phi cơ, toàn thể đều đã được hoàn thành. Theo chương trình dự liệu, chỉ độ một vài tuần nữa là bác họ đoán có thể báo cáo tổng kết và các cơ xưởng có thể bắt tay vào giai đoạn sản xuất hàng loạt.
Sực nhớ ra, Văn Bình hỏi hạm trưởng:
- Chiếc VTOL thí nghiệm ở trên máy bay bị nổ hồi nãy, phải không?
- Phải.
- Nghĩa là đã bị hoàn toàn tan tành.
- Vâng. Bao công lao tan tành thành mảnh vụn. Địch vừa thành công một mẻ lớn. Không đến khi nào chúng ta mới thí nghiệm lại được nữa.
- Các nhà bác học mới chế tạo được một chiếc VTOL thì nghiệm thôi ư?
- Đúng ra thì có hai. Nhưng chiếc thứ hai còn quá thô sơ, chưa thể cất cánh được.
- Vậy anh yêu cầu mang tới đây. Tôi hy vọng sẽ giúp anh được phần nào.
Mặt hạm trưởng rực sáng:
- Ồ, té ra... Chiếc thứ hai đang ở trong kho.
Văn Bình nhún vai:
- Thế thì may lắm. Phiền anh đưa tôi lại kho.
Hạm trưởng mở cửa ca-bin. Cả ba người cùng tới thang máy xuống tầng dưới.
Một cánh cửa sắt đồ sộ được kéo ra.
Trước mặt Văn Bình là một nhà cầu rộng lớn, ba phía gắn kính dầy màu sữa đục, đứng trong có thể nhìn được ra ngoài, nhưng đứng ngoài không thể nhìn được trong.
Sừng sững giữa nhà cầu là tấm bạt sám che kính chiếc phi cơ VTOL. Không khí nhà cầu được điều hòa, tuy nhiên bồ hôi vẫn lấm chấm trên trán Văn Bình. Chàng vừa miên man nghĩ đến hoạt động thầm kín song vô cùng hữu hiệu của địch. Địch là ai, chàng chưa biết, mặc dầu chàng đã có thể ngầm đoán là RU, KGB, SMERCH. Hoặc biết đâu là một cơ quan điệp báo Tây phương, thông lưng với Cộng sản... Nhưng dầu là ai chăng nữa, địch cũng đã chứng tỏ bằng hành động cụ thể là bọn người cừ khôi, len lõi vào giữa pháo đài nổi, ngang nhiên thực hiện những vụ kinh thiên, động địa...
Văn Bình hỏi hạm trưởng:
- Phi cơ này còn thiếu bộ phận gì nữa?
Hạm trưởng đáp:
- Tôi không rõ. Thú thật, tôi chỉ phụ trách hành chính toàn diện và an ninh tổng quát. Công tác chuyên môn hoàn toàn do các nhà bác học đảm nhận. Tuy vậy, tôi có thể nói rằng phi cơ này được chế tạo theo kiểu mẫu cách đây hai tuần. Trong hai tuần qua, ngày nào, các nhà bác học cũng chở phi cơ tới hải đảo thí nghiệm. Sáng đi, tối về, suốt ngày, họ tính toán ở hải đảo. Ban đêm, họ thức rất khuya, có nhiều người không ngủ, để đôn đốc ban cơ khí kỹ thuật điều chỉnh máy móc, dụng cụ cho thích hợp với những tìm tòi mới. Bây giờ, nếu anh muốn thí nghiệm lại, ít nhất phải mất hai tuần... Hai tuần ấy, là có đủ nhân viên cần
thiết. Hẳn anh đã biết, con số chuyên viên lỗi lạc rất hiếm, có thể đếm được trên đầu ngón tay. Tai nạn vừa xẩy ra làm chúng ta thiệt hại nặng nề.
- Bao nhiêu chuyên viên thiệt mạng?
- 15. Đó chỉ kể riêng cho chuyên viên cao cấp. Chưa kể các cơ khí, vô tuyến điện và nhân viên an ninh trung cấp.
- Trên mẫu hạm còn bao nhiêu chuyên viên cao cấp nữa?
Hạm trưởng lắc đầu:
- Gần hết rồi. May sao sáng nay, một toán ở lại nên thoát chết.
- Mấy người?
- 6
- Họ đủ khả năng tiếp tục không?
-Làm cả ngày cả đêm thì có thể hy vọng. Nhưng còn phải chờ phi công thí ngiệm của NASA[45].
- Để làm gì?
- Chỉ có phi công đặc biệt của NASA mới bay thí nghiệm được. Phi công quân sự trên mẫu hạm chưa được huấn luyện về lãnh vực nầy.
Văn Bình thở phào:
- Tưởng gì... Chứ về việc bay thí nghiệm, tôi có thể làm anh không thất vọng. Vì tôi là cựu phi công thí nghiệm NASA.
Hạm trưởng vung hai tay lên trời:
- Thế mà tôi không biết.
Triệu Dung kéo tấm bạt sang bên. Chiếc phi cơ thon, mũi nhọn, sơn bạc óng ánh hiện ra như trong chuyện thần thoại. Thấy trên thân phi cơ có những lỗ tròn gắn ống kính nhiều màu khác nhau, Văn Bình hỏi:
- Máy ảnh, phải không anh?
Hạm trưởng đáp:
- Những ống kính này là bộ phận bí mật nhất của phi cơ lên thẳng, còn bí mât gấp chục lần động cơ nữa. Động cơ VTOL đã được khoa học hàng không thế giới hiện nay liệt vào loại tối mật, thì các anh cũng đủ biết những ống kính đó đáng giá đến đâu.
Thật vậy, sau 4 năm thí nghiệm, ngày đêm không nghỉ, hơn một tỉ đô-la được quăng ra cửa sổ, chúng ta mới tìm ra một số máy móc kỳ dị đặt sau ống kính tròn. Một số là ống kính nhiếp ảnh.
Triệu Dung ngạc nhiên:
- Quái lạ, phi cơ không bay cao như U-2 hoặc như vệ tinh nhân tạo thì cần gì máy ảnh bén nhạy?
Hạm trưởng cười:
- Thoạt đầu, tôi cũng băng khuăng như anh và các nhà bác học cũng cười như tôi đang cười hiện giờ. Đây không phải là máy ảnh thông thường đâu, mà là máy ảnh chụp ngầm dưới đất. Phần lớn, cuộc chiến tranh du kích hiện tại ở Việt-Nam và trong tương lai tại Viễn-Đông. Phi-châu hoặc Nam-Mỹ đều diễn ra trong các địa đạo. Nói cách khác, du kích chiến dưới thời đại trực thăng vận thần tốc phải đổi thành điạ hạ chiến. Khi công đồn, du kích quân thường di chuyển tới gần mục phiêu bằng đường hầm. Súng đại bác cũng giấu dưới hầm, để phòng phi cơ khám phá. Và quan trọng nhất là bộ chỉ huy, kho chứa lương thực, quân trang của du kích cũng đặt dưới hầm. Chiến thuật địa hạ này đã làm giảm rất nhiều hiệu năng của các cuộc pháo kích và không tập.
Từ lâu, khoa học dã tìm ra phương pháp chụp hình xuyên qua mặt đất. Tuy nhiên, phương pháp này còn quá thô sơ. Những ống kính màu đỏ trên phi cơ VTOL là bộ phận nhiếp ảnh đầu tiên trên thế giới có thể nhìn xuyên qua từ 5 tới 15 thước bề sâu, và chụp lại khá rõ ràng, cũng rõ ràng như chúng tá chụp ảnh nhá nhem tối bằng phim nhựa bắt nhanh 400 ASA. Nghĩa là lái chiếc VTOL này trên không phận căn cứ bí mật của địch, chúng ta có thể thấy rõ du kích quân đang ăn, ngủ dưới hầm. Ở độ cao 300 thước, phi cơ có thể thấy rõ đồng hồ đeo tay dưới hầm chỉ mấy giờ, mấy phút nữa. Phương pháp nhiếp ảnh tồi tân kỳ lạ này sẽ là đòn chí tử đánh vào mật khu du kích...
- Còn những ống tròn khác?
- Là dụng cụ khám phá những nơi nào tập trung người và võ khí của địch. Và sau cùng là một loại đại bác kỳ ảo... vì không bắn đạn thường.
- Bằng đạn nguyên tử?
- Không. Vì dùng nguyên tử sẽ có thể châm ngòi đại chiến thứ ba. Đạn nguyên tử sẽ làm cây cối, ruộng đất nhiễm xạ, gây độc cho đời sống con người... Trái bom nguyên tử ném 20 năm trước xuống Trường Kỳ và Quang Đảo cho đến nay vẫn còn độc hại. Các nhà bác học đã phát minh một thứ đạn không phá hoại mùa màng, không nhiễm độc không khí và đặc biệt là không giết người mà chỉ giết sức kháng cự của quân địch.. Đạn này được chế tạo bằng hóa chất.
- Đạn thuốc mê?
- Vâng, cũng gần như thế. Đây là đạn thuốc tê. Bị trúng đạn, nạn nhân sẽ bị tê liệt toàn thân mặc dầu thần kinh hệ vẫn tỉnh táo, lục phủ, ngũ tạng vẫn tiếp tục hoạt động như thường lệ. Chở về bịnh viện chỉ cần cho ngửi một hóa chất khác, pha trộn trong không khí phòng lạnh, là tỉnh lại như cũ, nạn nhân sẽ không đau đớn, không mệt mỏi, và sau này không bị biến chứng.
- Tôi đã biết loại đạn tê liệt này rồi. Nếu tôi không lầm thì nó đang đuợc sản xuất trong phòng thí nghiệm của cơ quan Hoa kỳ NASA.
- Anh nói chỉ đúng một phần. NASA mới sản xuất được đạn tê liệt thông thường. Loại đạn này khác đạn thông thường ở chỗ nó biến thành hơi sau khi thoát khỏi nòng súng và chạm đất, đá, đặc điểm vô tiền khóng hậu của nó là từ trên cao đâm thẳng xuống, xuyên qua đất, đá, dễ dàng như mũi dao thọc vô tảng bơ vậy.
Nghĩa là nếu kế hoạch của chúng ta được hoàn thành, chúng ta chỉ thành lập một không đội VTOL, trang bị máy nhiếp ảnh và đại bác đạn hơi là có thể giải quyết chiến tranh du kích trong vòng một tháng. Phải, trong vòng một tháng. Khỏi cần chuẩn bị hàng tỉ đô-la, khỏi cần đưa vào chiến trường hàng triệu binh sĩ, sử dụng hàng trăm triệu tấn võ khí, với hàng chục ngàn người thiệt mạng mỗi năm. Phi đội VTOL bay khắp miền rừng núi, khám phá ra địa đạo của địch, rồi bắn đạn hơi xuống. Sau 3 giờ đồng hồ, phi cơ quân sự sẽ chuyển vận binh sĩ nhảy dù xuống tận nơi, binh sĩ sẽ đi tay không, xuống hầm khiêng toàn bộ tham mưu của địch lên băng-ca mang về Sàigòn. Cuộc hành quân sẽ diễn ra lặng lẽ, dễ dàng và thi vị như một cuộc du lịch đổi gió ở Vũng Tàu một ngày chúa nhật.
Triệu Dung cười nụ:
- Nghe anh nói, tôi cảm thấy lạc quan lạ lùng.
Hạm trưởng thở dài:
- Tôi cũng lạc quan như anh. Nhưng chỉ lạc quan cho đến sáng hôm nay. Giờ đây, chúng ta phải trở lại khởi điểm. Dầu sao thì địch cũng đã biết. Tôi sợ công việc chúng ta sẽ bị bỏ dở.
Văn Bình nắm chặt bàn tay:
- Anh đừng vội chán nản. Tôi sẽ bắt tay vào việc ngay từ bây giờ. Phiền anh triệu tập các chuyên viên còn lại trong phòng thí nghiệm.
Ba người trở lên tầng trên.
Một viên phụ tá đã chờ sẵn sau cửa thang máy. Thấy hạm trưởng, y vội tiến lại, nói nhỏ vào tai. Mặt hạm trưởng biến sắc. Phút sau, hạm trưởng quay lại, đặt tay lên vai Văn Bình:
- Rất tiếc là không có cách nào nhận diện các tử thi.
Văn Bình đáp, giọng buồn rầu:
- Nhờ anh cám ơn thủy thủ đoàn giùm tôi. Trước khi xuống đây,tôi đã biết là nạn nhân đã cháy ra than.
Hạm trưởng nói:
- Tuân lịnh tôi, họ đã hốt tất cả vào một cái thùng lớn và để trong một ca-bin rộng, sửa soạn nghi lễ tôn giáo. Phần lớn,nếu không nói là hầu hết nạn nhân đều theo đạo Thiên Chúa. Riêng bà bác học...
Văn Bình ngắt lời:
- Nàng cũng là tín đồ công giáo.
Chàng lặng lẽ đi bên hạm trưởng, không thốt thêm lời nào nữa. Vì tâm trí chàng đang hướng về Như Luyến. Giây phút nầy, chắc nàng đã ở một thế giới nào xa lạ. Có lẽ hương hồn nàng đang phảng phất trên đầu chàng, nhìn rõ nét mặt sầu muộn của chàng, nghe rõ giọng nói gần như nghẹn ngào của chàng.
Thế là hết, Như Luyến đã ra người thiên cổ. Nàng chết mà chàng không gặp được mặt nàng, cuối xuống hôn trên trán lạnh lần cuối. Nàng đã hòa với biển cả mênh mông...
Không khí xế trưa nóng bức không làm Văn Bình khó chịu trong bộ đồ phi hành dầy cộm. Trái lại, chàng cảm thấy lạnh. Trong đời, chàng đã sống quen với nhiều khí hậu. Hơi lạnh Nam Cực, quanh năm nước đóng thành băng, nhiệt độ Sahara và GôBi, bốn mùa gió cát khô cháy da thịt, đêm buốt tận xương tủy không hề thay đổi sắc diện của chàng.
Tuy nhiên trời nắng hôm nay lại khiến chàng run rét. Cái rét thần bí và ghê gớm từ lòng chàng dâng lên, rồi trào ra ngoài. Chàng phải nghiến răng cho hàm khỏi đập vào nhau cầm cập.
Triệu Dung vội nói:
- Khổ quá, anh bị cảm rồi.
Văn Bình gắn gượng, xua tay:
- Không sao, tôi còn khỏe như voi.
Biết bạn lảng tránh, Triệu Dung không phê bình thêm nữa.
Trong chốc lát, ba người đã tới nơi quàn tử thi nạn nhân. Con chow-chow khôn ngoan của Như Luyến vẫn lùi lũi chạy một bên Văn Bình, không sủa cũng không nhảy nhót như thường lệ.
Hoạt động gián điệp, Văn Bình đã nhiều lần tiễn đưa bạn bè tới nơí an nghỉ cuối cùng. Nhưng ít khi một người đàn bà tuyệt đẹp như Như Luyến lại chết không được toàn thân.
Bỗng dưng Văn Bình muốn khóc oà lên như một con nít. Chàng giả vờ ngoảnh về phía mặt trời, nói chữa:
- Chói mắt quá.
Rồi rút mù-soa ra lau nước mắt. Cử chỉ khôn ngoan của chàng vẫn không lọt khỏi con mắt quan sát tinh tế của Triệu Dung. Song Triệu Dung lặng thinh và quay ra nơi khác. Chàng không lạ gì Văn Bình. Con người khô khan tàn nhẫn nhất thế giới ấy lại cũng là con người ướt át, hiền hòa nhất thế giới.
Trước mặt ba người là cái thùng sắt lớn, trên phủ tấm vải đen, leo lét mấy ngọn đèn bạch lạp.
Tất cả chỉ có thế.
Hạm trưởng nghiên mình chào rồi lặng lẽ lùi ra ngoài. Ông muốn để Văn Bình được tự do. Sau đó một phút, Triệu Dung cũng biến mất.
Đứng một mình giữa căn nhà rộng, tứ phía là vách thép sơn trắng toát, trước cái thùng sắt liệm màu đen tang tóc, dưới những đèn nến sáng trưng. Văn Bình cảm thấy ruột gan đau xé.
Chàng râm râm khấn vái:
- Như Luyến ơi, anh sẽ trả thù cho em.
Ánh sáng vàng lung linh cách chàng một xải tay. Chàng như vừa nhìn thấy Như Luyến. Nàng vẫn đẹp như dạo nàng bắt đầu đi lại với bác-sĩ Đoàn-Trung và bi điệp viên sô viết săng-ta nguyên tử. Nàng vẫn đẹp như dạo nàng làm quen với Văn Bình. Lần đầu tiên, chàng ôm nàng vào lòng, nàng run bần bật, như thể gái còn trinh nguyên, chưa bao giờ biết mùi da thịt đàn ông.
Trong cơn mơ, Văn Bình quên hết thực tại. Chàng tiến lên một bước, vung tay ra, giọng tha thiết:
- Như Luyến, em Như Luyến!
Dĩ nhiên là nàng không trả lời, vì nàng chỉ ở trong tri tưởng tượng của chàng.
Nước mắt lã chã, Văn Bình ngồi xổm xuống, ôm con chó chow-chow trung thành vào lòng, rồi nói:
- Mầy biết chủ mầy chết rồi ư?
Con chow-chow vẫn giương cặp mắt thao láo nhìn Văn Bình. Nhưng chỉ mấy giây đồng hồ sau, nó vùng ra, nhảy tuột khỏi đùi chàng, và phóng xuống đất.
Như chàng tiên đoán, con Chow-cho chạy lại gần thùng sắt đựng hài cốt tan thành than, mõm và tai nghếch lên, đuôi vẫy nhè nhẹ.
Song trong cử chỉ tự nhiên cửa con chó thông minh vừa xẩy ra một điều kỳ lạ. Mặt Văn Bình đang chứa chan sầu muộn, giọt nước mắt chưa kịp lau còn đọng trên gò má rám nắng, bỗng sáng vụt ra như mặt trời xuân ló ở chân trời sau trận mưa đông tầm tã lạnh lùng.
Chàng lẩm bẩm một mình:
- Lẽ nào... Lẽ nào.
Trong nháy mắt, Văn Bình vừa khám phá ra một bí mật quan trọng, vô cùng quan trọng. Chàng tin là ông Hoàng cho chàng ở lại pháo đài nổi một thời gian để tiếp tục điều tra (Văn Bình chưa biết là ông Tổng giám đốc lưu chàng lại một tuần). Song nếu ông Hoàng không cho phép, chàng cũng vận động để được ở lại.
Vì chàng vừa tìm ra ánh sáng.
Một tia sáng nhỏ bé lóe ra rồi tắt. Nhưng dầu sao, chàng đã có lý do để tin tưởng, để hy vọng tràn trề.
Chàng đứng vụt dậy, mỉm cưới:
- Mình phải giấu Triệu Dung mới được.
Song linh giác làm chàng giựt mình. Linh giác chàng như có mắt, có tai bén nhạy ớ sau lưng và hai bên hông., nên có thể nhìn thấy, nghe thấy mọi bóng dáng và ân thanh bên tai.
Linh giác vừa gióng như hồi chuông báo động trong tâm tư Văn Bình. Như máy điện tử, chàng xoay một vòng. Lúc lâm sự, toàn thân chàng mềm mại như thiếu nữ quen nghề khiêu vũ trong rạp xiếc.
Và chàng bắt gặp một đôi mắt.
Đôi mắt ở một khe cửa mở hé.
Đôi mắt đang chăm chú theo dõi chàng. Chắc hẳn là một vành tai cũng đang ghé sát vào vách thép, nghe lời chàng nói. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là đôi mát của địch trên hàng không mẫu hạm ZZ.
Nghĩa là địch đã đón được ý nghĩ của chàng trong phút vừa qua. Nếu vậy, kế hoạch vừa nhú trong óc chàng sẽ không thể nào thành tựu được.
Với tài nhảy xa phi thường có thể đua tài tại Thế Vận Hội, Văn Bình có thể tóm bắt kẻ lạ núp sau cửa. Chàng chỉ cần giả vờ đứng lại, bắt lửa châm thuốc lá, rồi phi thân lùi vế phía sau, sau khi xoay nhanh 180°.
Song chàng không muốn vội.
Nếu địch có nhân viên trên pháo đài nổi, ngày đêm họ phải theo dõi chàng. Sớm muộn họ phải xuất đầu lộ diện và khi ấy, chàng ra tay cũng chưa muộn. Giờ đây, chàng phải đóng kịch, ngây ngô, khuyến khích địch liều lĩnh thêm nữa.
Chàng vuốt ve con chow-chow. Như đọc được tư tưởng của chàng, con chó Tây-tạng khôn ngoan gâu gâu lên mấy tiếng.
Rồi chàng ôm con chow-chow vào lòng, lặng lẽ lên boong. Chàng không buồn nữa. Chàng bắt đầu vui lại như sắp đến giờ hẹn yêu đương với giai nhân tuyệt thế.
Vì tình cờ, chàng đã nắm được bí mật kỳ diệu. Bí mật quyết địngh cho sự thành công rực rỡ trong tương lai.