To read without reflecting is like eating without digesting.

Edmund Burke

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Little Rain
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4643 / 191
Cập nhật: 2014-12-04 16:00:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thần Khải
hiến tranh nổ ra rồi. Thông tin ấy được đón nhận bằng một sự im lặng dằng dặc. Neumann, Bernstein và Adolf H. để nó lan truyền giữa họ như người ta quan sát hiệu ứng chầm chậm của một liều thuốc được bơm qua xi ranh vào cơ thể. Nó sẽ làm hồi phục hay sẽ giết chết người bệnh? Anh ta sẽ sống hay chết?
Họ đã biết trước cuộc chiến sớm muộn cũng xảy ra. Từ vài tuần nay ở Viên không còn là cái nóng của mùa hè mà là cái nóng ngột ngạt, nặng nề, làm người ta bải hoải như trời sắp dông. Đế chế(7) đang vỡ vụn. Căng thẳng cao độ giữa người Slavơ và người Áo đã đến mức không thể chịu được. Ngọn lửa chiến tranh đương nhiên sẽ bùng lên. Vấn đề chỉ còn là cái cớ, một tia lửa. Thay vì tia lửa đó lại là một cú sét: ngày 28 tháng Sáu năm 1914, người Serbia đã giết quận công Franois-Ferdinand ở Sarajevo. Nhưng mưa bão chưa đến ngay. Từ bốn tuần nay, trời vần vũ, trĩu nặng, không khí ngột ngạt. Người trên đường đi như chạy trong thành Viên với cảm giác như bị nghiến nát xuống mặt đường, đi lại trong một cơn ác mộng nặng nề, người ướt đầm, run rẩy, hụt hơi, biết mình đã nhiễm một cơn sốt nhiệt đới. Đại họa đang đến gần. Người thì cảm thấy lo lắng, người thì sốt ruột. Dây thần kinh ai cũng căng lên, mắt hướng lên bầu trời nài xin việc gì phải đến cứ để nó đến. Ngày hôm đó, 28 tháng Bảy năm 1914, cuối cùng thì những đám mây cũng bục ra, mưa như trút nước, cơn dông đổ sập xuống.
- Chiến tranh nổ ra rồi.
Chính Neumann là người đã mang tin từ Tòa thị chính về. Anh chạy và quyết không suy nghĩ gì trước khi báo được tin cho hai bạn.
Ba chàng trai không rời nhau nửa bước từ khi tốt nghiệp trường Mỹ thuật. Họ đưa ra cái cớ sống chung thì có lợi hơn - làm sao sống được chỉ bằng tác phẩm nghệ thuật của mình khi mới hai mươi lăm tuổi? - nhưng tình bạn mới là lý do thật sự khiến họ dọn đến sống cùng nhau. Gu hội họa, văn học và triết học đều khác nhau, họ chẳng đồng ý với nhau về bất cứ điều gì, tranh luận mọi chủ đề, say mê trao đổi quan điểm đến tận khuya muộn và có thể nói rằng chính sự bất đồng quan điểm trên mọi chuyện như thế là cơ sở của sự hòa hợp giữa họ.
- Chiến tranh nổ ra rồi.
Lần đầu tiên trong đời, ba họa sĩ có cùng quan điểm: chiến tranh là một thảm họa. Có thể đó không phải là một thảm họa với nước Áo. Có thể không phải là một thảm họa với những người đương thời. Nhưng với họ đó thực sự là một thảm họa.
Chỉ nay mai, họ sẽ bị động viên. Sau đó họ sẽ phơi mình nơi mũi tên hòn đạn. Dù họ sống hay chết cũng không quan trọng, họ không còn tự quyết định được vận mạng của chính mình nữa. Bao cố gắng trong suốt những năm qua, những nỗ lực cần mẫn và trung thực để học sáng tác, cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để đẩy lui những giới hạn của họ - giới hạn của bàn tay, con mắt, trí tưởng tượng - cùng ý chí kiên cường và những cuộc tranh luận, tất cả sẽ không còn ý nghĩa. Vô ích. Thừa thãi. Chiến tranh sẽ phạt bằng tất cả từ dưới lên. Họ chỉ còn là những súc thịt. Hai chân, hai tay. Thế đã là đủ cho đất nước rồi. Thịt. Những tấm bia di động. Những súc thịt hoặc để giết người ta hoặc để người ta giết. Xương và thịt. Không gì khác nữa. Những sinh vật đi hai chân, được trang bị vũ khí. Không hơn. Không tâm hồn, hoặc chỉ có một chút tâm hồn đủ để vãi đái vì sợ. Cái con người độc đáo mà họ đã phấn đấu trở thành, họ phải xếp trong phòng thay quần áo ở doanh trại, để chiến đấu hoặc là chết. Tất cả những cái họ thích ở nhau, đánh giá cao ở nhau, tất cả những cái vì nó mà họ gắn bó với nhau, tất cả chúng đang trở nên nực cười, hèn hạ từ góc độ một công dân, và không chấp nhận được từ góc độ lòng yêu nước. Tương lai của họ không thuộc về họ nữa, từ nay nó thuộc về đất nước.
Tồi tệ hơn cả sự thất vọng, với họ, chiến tranh là một sự phản bội. Phản bội lý tưởng nghệ thuật để trở thành lính bộ binh. Phản bội bao nhiêu năm đèn sách để mang một cây súng tiểu liên. Phản bội cái công việc dài hơi là tu thân để bị rút gọn thành một con số trong một đơn vị quân đội. Và nhất là, phản bội hoạt động sáng tạo mỗi ngày sinh thêm cho thế giới những sinh linh mới, để tham gia vào một cuộc đồ sát tràn lan, một sự hủy diệt, trượt dốc vào khoảng không hun hút phía trước.
- Có lẽ chiến tranh cũng không lâu lắm đâu?
Adolf nói vậy để làm vơi bớt nỗi muộn phiền của họ. Nhưng sự im lặng của hai bạn sau khi nghe cho thấy nó không có tác dụng gì.
- Tớ nghĩ đó là điều ngu ngốc mà người ta lần nào cũng viện ra.
Họ đi xuống bếp nơi Neumann đang mở một chai vang. Họ uống để lời nói quay lại.
Vô ích. Vì cả ba người đều cảm thấy tức giận, tê tái, lần đầu tiên, bộ ba không còn lý do để tồn tại. Họ ưa chia sẻ sự khác biệt chứ không phải sự tương đồng. Ngay cả tình bạn của họ cũng vừa bị triệt hạ. Họ chỉ còn là những thân xác, ba cái xác tương đối khỏe mạnh và lành lặn để bị giết. Họ có thể trở thành đồng chí nhưng không còn là bạn bè; làm đồng chí bởi tình đồng chí chỉ là việc ở trong cùng một hoàn cảnh; không còn là bạn bởi tình bạn đòi hỏi người ta phải yêu nhau vì cái mình khác với người kia chứ không phải vì cái cả hai đều có.
Ngoài kia, người ta bắt đầu la hét. Đám thanh niên đang túm tụm để phô trương niềm vui được tham chiến. Họ hát. Họ hét. Các khẩu hiệu ca ngợi chiến thắng hoặc kích động lòng hận thù truyền từ miệng người này sang miệng người khác, dần dần trở thành dàn đồng thanh ồn ĩ, kích động. Nặng nề.
Adolf là người phản ứng đầu tiên.
- Tớ sẽ đi tìm đàn bà!
Hai người bạn hơi ngạc nhiên nhìn Adolf. Bộ ba đã sống lại. Họ không đồng ý với nhau.
- Cậu định làm gì? Neumann nói.
- Ngủ với một người đàn bà. Bất kể đó là ai.
- Ngủ với cô ta hay tìm sự an ủi ở cô ta? Bernstein hỏi.
- An ủi vì cái gì cơ chứ? Tớ ngủ với cô ta vì đó là cái mà tớ làm tốt nhất và chỉ vài ngày nữa thôi, tớ không biết là mình còn có cơ hội để thể hiện cái tài này không nữa.
Cả bọn cười ồ lên.
Neumann nói rằng, về phần mình, anh sẽ đi khắp phố phường để xem dân tình phản ứng ra sao.
- Dù gì đi nữa, cái ngày tuyên chiến ở thành Viên, chắc cả đời này tớ không còn cơ hội thứ hai để quan sát nó.
Khi nhìn thấy ánh mắt của hai bạn, Neumann hối hận vì đã nói như thế, anh hiểu rằng nó đã gợi nên hình ảnh đáng sợ của thần chết cận kề.
- Thế còn cậu? Neumann hỏi Bernstein.
- Tớ ấy à? Tớ sẽ vẽ, vẽ và vẽ đến bao giờ người ta đến giằng tớ ra khỏi giá vẽ.
Bernstein sầu não nói. Anh là người tài năng nhất trong cả ba. Adolf và Neumann không hề cảm thấy ghen tị; ngược lại, họ là những người đầu tiên khâm phục Bernstein, coi anh là hình mẫu và hoan hỉ vì bạn mình đạt đến đỉnh cao nhanh đến thế.
Bernstein đã trở thành thầy và con của họ. Là thầy, vì bằng trực giác, Bernstein biết làm những cái mà người khác phải học tập; là con, vì anh thường xuyên suy sụp tinh thần và rất nhiều lần phải cần đến lòng tin vô điều kiện của hai bạn để quay lại giá vẽ. Bernstein đã trưng bày các tác phẩm của mình tại một trong những gallery danh tiếng nhất của thành Viên và chính anh là người làm cho bộ ba sống sung túc hơn từ vài ba tháng nay.
Adolf và Neumann dõi theo Bernstein đang đi về xưởng vẽ. Adolf chợt rùng mình và quay sang Neumann.
- Cậu có nghĩ giống tớ không?
- Về Bernstein ấy à?
- Ừ.
- Có.
Đầu óc họ rối bời. Nếu Bernstein kiệt xuất đến thế, nếu Bernstein đạt tới đỉnh cao nhanh thế, có phải số của anh là phải chết trẻ hay không? Con Tạo bao giờ chẳng khéo trêu ngươi, liệu nó có đang giăng bẫy rình rập Bernstein? Một số phận oanh liệt nhưng bi thảm? Như Pergolèse, Mozart, Schubert? Tim Adolf thắt lại. Không. Đừng cướp đi Bernstein. Đành là cậu ấy đã thực hiện được vài kiệt tác. Nhưng cậu ấy sẽ còn làm nhiều hơn thế nữa. Không. Đừng cướp cậu ấy đi. Leonardo da Vinci đã sống tới hơn sáu mươi tuổi. Bernstein ít ra phải sống được chừng ấy năm. Lạy Chúa tôi. Xin hãy ban ơn. Đừng để điều bất công xảy ra. Đừng chọn Bernstein.
- Nếu có công bằng trên đời này thì tớ mới là người phải chết đầu tiên... Đó sẽ không phải là một mất mát lớn lao gì, Adolf nói.
- Dù gì thì trên đời cũng chẳng có công bằng.
Neumann nghiến răng, trả lời giọng trầm đục.
Adolf nhìn bạn, lòng thanh thản.
- Cậu có lý. Không có công bằng trên đời này. Đời là trò chơi xổ số. Sinh, tử, tài năng. Thế thì mặc kệ chúngta.
Adolf bước gấp qua bậc cửa xưởng vẽ và hòa mình vào đám đông ồn ào.
Hắn muốn gặp Isobel. Hay Leni. Hay Margit. Ai là người đầu tiên trong số những người đàn bà đẹp nàyrảnh rỗi để gặp hắn, hắn sẽ làm tình với người đó theo cách tuyệt nhất. Hắn không thấy có gì cần thiết ngoài chuyện ấy.
Adolf đam mê chuyện chăn gối đến mức chỉ ngủ với những người đàn bà đam mê xác thịt. Đều đã có giađình và gắn bó với chồng, Isobel, Leni, Margit chỉ dâng hiến cho Adolf vì hắn biết đem lại cho họ những cảm giác chưa từng biết đến. Được đảm bảo vì đã có gia đình và không muốn thay đổi cuộc sống hiện có, họ càng hiến dâng hết mình cho tình nhân - kẻ thông thái đến mức không bao giờ vỗ ngực rằng mình đang choán hết chỗ trong cuộc sống của họ. Adolf là cái mở ngoặc nhỏ trong cuộc đời của họ, là điều bí mật trong các buổi chiều của họ, một dạng thú vật mà với nó họ trở thành thú vật. Về phần mình, kể từ khi Stella bỏ đi, Adolf đã nhanh chóng hiểu ra rằng chỗ trú ẩn tốt nhất cho những ham muốn xác thịt của hắn là những người đàn bà ngoại tình. Lũ gái điếm làm việc lạnh lùng như một tay kỹ sư, thường xuyên vụng về và không bao giờ có cảm xúc. Bọn gái tơ thì quá chú trọng đến bản thân mình, quá ám ảnh bởi ý nghĩ trao thân là trao cả tuổi trẻ của mình nên khó có thể trở thành bạn tình tốt. Đám điệu đà thì chỉ là những cô gái trẻ đang già đi và khoái sưu tập đàn ông. Người phụ nữ độc thân lâu năm, cô nào không ưa chế ngự người tình thì thường đi tìm một tấm chồng chứ không phải một nhân tình. Tóm lại, chỉ những người phụ nữ có chồng là đang đắm mình trong một trạng thái nữ tính vừa phải; ổn định về mặt xã hội nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, đã biết chuyện gối chăn nhưng chưa được vẹn toàn, quen hơi đàn ông nhưng vẫn còn tò mò, những người phụ nữ ấy biết ơn tình nhân tạm thời của họ chừng nào người ấy còn là tình nhân và tạm thời.
Adolf bấm chuông nhà Isobel. Cô hầu dẫn hắn vào nhà và nhìn quanh quất, điệu bộ y như một điệp viên. Isobel tiếp hắn.
Nàng được thiên nhiên ưu ái ban cho một cặp giò cao và dài, thon như búp măng, trơn nhẵn, cắm xuống đất như hai thanh giáo đung đưa. Một thiên thần hoang dại với cử chỉ hung bạo và khát máu, náu mình trong bộ đồ lụa óng ả, tư sản và thanh nhã. Phòng khách thơm mùi cỏ trị điên đen. Một thứ mùi nằng nặng, kích thích, hơi gây buồn nôn. Đó là một dấu hiệu đáng khích lệ.
Mắt Isobel rân rấn khi nhìn thấy Adolf.
- Ôi, chàng trai bé nhỏ tội nghiệp của em...
Nàng mở rộng vòng tay và âu yếm siết hắn vào ngực. Adolf buông mình trôi sát vào cặp vú của nàng.
- Adolf yêu quý của em, em sắp mất anh rồi... anh sắp ra trận... có thể anh sẽ bị thương...
Adolf không để nàng nói tiếp. Không được để ưu phiền vượt quá giới hạn. Adolf muốn làm dịu nó đi, không muốn tuyệt vọng. Hắn muốn mình trần truồng ấp lấy tấm thân mỹ miều kia được sinh ra cho niềm sung sướng tột cùng của đám mày râu.
Hắn để mặc ham muốn đang trào dâng điên loạn cuốn đi. Hắn cởi quần áo nàng gần như lỗ mãng, dán môimình vào môi nàng để nàng ngừng nói và làm tình như thể đang chiến đấu.
Đi vào trong nàng, lên, xuống, Adolf không thể chế ngự được cả nghìn ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu. Nếu chỉ vài tuần nữa hắn chết? Liệu có thể chết trong khi vẫn cảm thấy sức sống hừng hực như thế không? Hắn sẽ tiếc cái gì nhất nếu phải chết đi? Đàn bà. Đó là tình yêu đàn bà. Làn da của họ ư? Cái gì? Không gì khác nữa à? Công việc họa sĩ của hắn? Hắn không phải là một họa sĩ lớn, hắn biết điều đó. Hay đúng ra, chưa là một họa sĩ lớn. Dù gì thì hiện tại cũng không có bằng chứng nào cụ thể, được đóng khung, vẽ trên toan, rằng thế giới sắp mất đi một họa sĩ thiên tài. Ngược lại, hắn tiếc ước mơ của mình. Đúng vậy. Ước mơ được là một họa sĩ lớn. Đó chính là cái phần thanh cao trong hắn. Cái phần mà hắn yêu trong hắn. Làm thế nào mà Isobel lại có cái bụng êm ái đến thế nhỉ? Tại sao trong suốt phần đời còn lại, hắn không thể giữ mãi như thế này, dương vật thút sâu trong vùng da thịt ấm ướt của Isobel? Nếu số hắn phải chết vì đạn pháo thì hãy cho hắn chết ngay vào lúc này đi. Trong cái tư thế này.
Hắn xuất tinh. Dương vật co lại. Nỗi sợ hãi chảy ngược vào trong.
Hắn lại bị đẩy vào cảm giác cô độc.
- Anh sẽ đến thăm em khi anh nghỉ phép chứ?
Isobel nói, vẻ mặt đầy thỏa mãn. Adolf sắp gia nhập vào một thế giới toàn đàn ông nhưng nàng đã làm tròn nghĩa vụ người phụ nữ của mình. Trong một chừng mực nào đó, nàng đã hoàn thành nghĩa vụ với đất nước, cả nàng nữa, trong cuộc tổng động viên này, để người chiến sĩ được nghỉ ngơi. Hòa bình đòi hỏi người ta phải tiến hành chiến tranh.
- Anh sẽ còn gặp em trước khi lên đường, em phải cho anh tất cả các buổi chiều của em đấy.
- Em sẽ xoay xở được, anh yêu ạ.
Nhìn đi, nàng sẽ xoay xở được cho xem! Ông chồng già của nàng không bao giờ phải ra trận; nàng sắp có niềm hạnh phúc được giữ rịt ông ta, khoái trá vì mỗi ngày khinh ông ta thêm một chút. Chắc chắc rằng nàng sẽ tìm được cách để đến với người lính về phép của nàng! Như thế, nàng sẽ đóng góp cho cuộc chiến này.
- Em sẽ dành trọn thời gian của em cho anh.
Chưa gì nàng đã xúc động vì tấm lòng của mình với đất nước. Nàng hân hoan khi nghĩ đến những cố gắng của mình để lừa được ông chồng. Nàng nhìn thấy bằng chứng của đức hạnh và lòng yêu nước của mình trong những lời nói dối nàng sẽ nghĩ ra.
Adolf mặc lại quần áo. Hắn lại cảm thấy ủ dột. Vậy là chỉ còn mỗi cách: đi gặp Leni.
Sau đó là Margit.
o O o
- Hu ra!
Tiếng kêu vỡ tung trên đầu đám đông. Một quả bom vui sướng phát nổ.
Đó là ngày 2 tháng Tám năm 1914. Quảng trường Odéon chưa bao giờ tụ họp đông người đến thế. Từ ngày đầu tiên, Munich đã ao ước được bước vào cuộc chiến. Ngay tối hôm xảy ra vụ ám sát, ngày 28 thángSáu, dân chúng Munich đã ra phán quyết bằng cách đập tan tành quán cà phê Fahrig vì dàn nhạc ở đó đã từ chối chơi bản tụng ca Người gác sông Ranh, một bản nhạc làm những trái tim yêu nước đập rộn ràng. Sau đó, đám đông đã cào xé hai người đàn bà nói tiếng Pháp. Hàng ngày, báo chí, bất kể khuynh hướng chính trị, thậm chí cả những tờ cánh tả, đều ngợi ca niềm vui được tham chiến. Người ta còn đợi gì? Chờ luật của Liên minh quy định điều ấy. Tất cả những dân tộc nói tiếng Đức cần phải hiệp sức chống lại những dân tộc khác. Mùa hè năm đó, người ta được chứng kiến tinh thần quốc gia lên cao chưa từng thấy. Với một số người, đó là sự phụchưng, với một số khác đó là sự phục sinh. Người ta tóm lấy những gì làm mọi người đoàn kết lại nhiều hơn là những cái làm chia rẽ. Hoàng đế đã nói ở Berlin: “Tôi không biết trên đời có những đảng phái nào nữa, tôi chỉ biết có những người Đức mà thôi.” Và Louis III xứ Bavaria cuối cùng cũng chấp thuận đưa bang mình vào cuộc chiến.
Hitler phấn khích với đám đông, khoan khoái thả mình theo cảm xúc mang tính truyền nhiễm ấy. Hắn nhắc lại từng khẩu hiệu, từng bài ca, và sung sướng hòa tiếng ca của mình vào hàng chục nghìn tiếng ca khác. Hắn không còn nghe thấy giọng mình nữa, tai hắn chỉ nghe thấy một tiếng kêu lớn đồng tâm đồng lòng, một thứ âm thanh ồn ĩ không mang tính người, gần như tiếng kêu của kim loại, hắn lao mình vào đó, tan vào đó, hắn đã suýt biến mất hoàn toàn vào đó nếu không còn giữ được chính mình nhờ vào một chút chất nhầy nhầy ngưa ngứa trong cổ họng. Cơ thể hắn chỉ còn là một cái màng đang rung lên theo đám đông đang rung động vì những cử động và tiếng vang của người khác. Vốn ghét mọi đụng chạm về thân thể, vậy mà giờ đây hắn để cả đám đông đi sâu vào mình, ngập mồm, ngập tai, ngập não, ngập tim, bị chèn, bị ép, bị nghiến, bị ngạt, không nhìn thấy gì, mất thăng bằng, lấy lại hơi, nhảy lên trên đám người xung quanh để rồi lại bị nó nuốt chửng. Không chần chừ, không ngại ngùng hay tính toán, hắntrao mình cho hàng nghìn người này bởi họ không phải là những cá thể mà là một dân tộc.
Hitler đang ở Munich và hắn muốn mình là người Đức. Ngay cả khi cha mẹ hắn đã phạm sai lầm khi chọn quốc tịch Áo và đẻ hắn ở đó, từ lâu nay, Hitler biết rằng hắn là người Đức. Đó là quê hương duy nhất chấp nhận được, cao quý và xứng đáng với hắn. Hắn không thể thuộc về một quốc gia nhỏ hơn, kém hùng mạnh hơn nước Đức.
Đám đông còn rùng mình mấy lần nữa. Sau đó là sự lặng đi sau cơn cực khoái. Mỗi người trở về với chính mình, hiểu rằng cuộc gặp mặt đã kết thúc và rồi tản mát theo những ngả đường.
Hitler nhập vào trong nhóm đang hát bài Không có cái chết nào hào hùng hơn thế và đi về phía một quán rượu. Đám đông đón nhận Hitler không chần chừ. Chỉ cần có cùng niềm hăng say là gia nhập được. Họ uống và nói đến lòng căm thù quân địch. Họ ngợi ca tầm vóc vĩ đại của nước Đức. Họ tin rằng thắng lợi cuối cùng chẳng mấy chốc sẽ nằm trong tay mình. Họ uống.
Thành viên trong bọn của Hitler là những thanh niên tư sản, bừng bừng nhiệt huyết. Lớn lên trong giàu sang, yên ổn và những nghĩa vụ của giai cấp mình, họ suýt chết vì nhàm chán. Họ đã có lúc nghĩ rằng, chủ nghĩa anh hùng chỉ thuộc về quá khứ và chuyện cổ tích, rằng họ sẽ không bao giờ được hưởng sự sung sướng của chiến trường; họ nuối tiếc những cuộc mạo hiểm lớn và ở tuổi mười tám, họ đã tự cho là đời mình chấm hết. Chiến tranh nổ ra, tương lai được hoàn trả cho họ. Họ run lên vì sốt ruột. Nay mai, họ sẽ được sống qua những cuộc phiêu lưu. Họ uống. Chiến tranh đã chữa cho họ như một liều thuốc thần. Nó trao lại cho họ tuổi trẻ, sự cường tráng của cơ thể, bầu nhiệt huyết, đôi chân để chạy, đôi tay để chiến đấu, để bắn, để bóp cổ. Nó trao lại cho họ bộ phận sinh dục của mỗi người, cái bộphận đầu tiên, cái nam tính, cái duy nhất dựng lên trong trận đánh. Nó trao cho họ vinh quang, lý tưởng, sự tận tụy với Tổ quốc. Họ uống. Sống hay chết thì họ đã được Tổ quốc ban phước lành rồi. Họ uống.
Hitler đồng ý với tất cả những ý nghĩ trên vì hắn đang trong tâm trạng sẵn sàng đồng ý. Tuy nhiên, trái với họ, hắn trốn tránh sự thiếu an toàn, sự phiêu lưu, cảnh bần hàn và sự không thích nghi được với xã hội.
Hitler đang làm gì ở Munich? Hắn đang lặp lại thất bại của mình ở Viên.
Sau bốn năm ở nhà cứu trợ dành cho đàn ông, cuối cùng hắn cũng đến tuổi - hai mươi tư - được thừa kế gia sản của cha để lại. Hắn đã được nhận tám trăm mười chín curon và chín mươi tám heller, số tiền thu được từ việc bán gia sản của ông Aloês Hitler do tòa án quận Linz tuyên bố vào ngày 16 tháng Năm năm 1913. Hitler không nói gì với các bạn cùng nhà trọ để tránh phải khao, hắn biến mất, đầu tư một số tiền để mua vé đi Munich, phần còn lại để thuê phòng cùng với một người làm nghề đại diện thương mại mà hắn đã gặp trên tàu. Có tiền trong tay, Hitler không còn trông đợi gì ở mấy tay công chứng nữa, hắn ra đi mà không để lại địa chỉ liên hệ với hy vọng sẽ thoát được quân dịch ở Áo. Qua hồ sơ của cảnh sát, cơ quan hành chính Áo đã tìm ra được Hitler ở Đức. Hắn đã thanh minh rằng mình là mộtnghệ sĩ mơ mộng và quá bị ám ảnh bởi sứ mệnh của mình nên không kịp hoàn thành thủ tục giấy tờ theođúng thời gian quy định. Sau đó, hắn đã nhịn ăn mười lăm ngày trước khi lảo đảo bước đến doanh trại Salzbourg, nơi người ta từ chối nhận hắn vì lý do thiếu sức khỏe, đó là vào tháng Hai năm 1914.
Ở Munich, hắn lại mua bưu thiếp và tiếp tục công việc cóp thành tranh. Hắn dạo qua chào mời các nhà hàng và cửa hàng ở Munich và nhanh chóng tìm được mối giao hàng. Gallery Stuffle trên quảng trường Maximilian thậm chí đã quyết định bán vài bức tranh của hắn, chủ yếu là vì đề tài trong tranh như Tòa thị chính, Nhà hát quốc gia, hình ảnh về một số sân và chợ cổ trong thành phố và còn vì tranh của hắn rất rẻ. Không còn nghĩ đến việc cải thiện tranh của mình, hắn vẽ không cảm xúc, không đam mê, làm việc như một tay chủ cửa hàng nhỏ kiếm đủ sống. Hắn tính toán nhiều hơn là tưởng tượng: mỗi bức tranh bán được từ năm đến hai mươi mác, nếu hắn chỉ để riêng ra mười hai mác, hắn sẽ có khoảng támmươi mác mỗi tháng, trong đó tiền nhà mất sáu mác, tiền ăn ba mươi mác (vì một mác đã đủ hai bữa ăn mộtngày cho hắn), tiền mua vật liệu vẽ mất năm mác, trừ đi từng ấy khoản tiêu, hắn vẫn còn đủ tiền để giữ mình sạch sẽ, tự cho phép nghỉ vài ngày chỉ để đọc báo trong các quán cà phê và hai hoặc ba tối mua vé đứng xem opera. Khi cần phải mơ mộng hắn tự nhủ rằng mình có hai sự lựa chọn cho tương lai, hoặc trở thành kiến trúc sư hoặc làm nhà chính trị. Nếu ai đó có hỏi thì hắn sẽ thú thật là mình thích trở thành kiến trúc sư chứ không phải chính trị gia vì hắn biết rằng mình vụng về khi nói trước đám đông. Nhưng chẳng có ai hỏi hắn câu ấy cả...
Chiến tranh đến chậm làm thay đổi con người hắn. Bị báo chí đầu độc, nói ít, đọc nhiều, hắn sống trong một thế giới không tồn tại hoặc chỉ tồn tại trong phòng biên tập của các tờ báo, một thế giới được hình thành từ một vài đường nét đơn giản, phần lớn là những đường nét chính trị, nơi Guillaume II(8) cậu cậu tớ tớ với Franois-Joseph(9), nơi Louis III xứ Bavaria đóng vai người anh em họ giàu có đến từ tỉnh xa, nơi người Pháp là lũ đếquốc, người Anh là lũ ngạo mạn, người Serbia là quân khát máu, một thế giới với đường ranh giới rõ nét và mang màu cơ bản, một thế giới nơi những định kiến được coi là sự thật, sự giản lược ve vãn đầu óc dốt nát của người đọc, cái lặp đi lặp lại trở thành chân lý, cái năng động mang tính tuyên truyền. Do toàn bộ báo giới đồng tình với cuộc chiến, dù là để tấn công hay tự vệ, đến một ngày, bên cốc cà phê sữa, Hitler cũng cho rằng chiến tranh là cần thiết. Hắn muốn có chiến tranh. Rồi khao khát nó. Rồi chờ đợi nó vì chính phủ các bang cứ lần lữa mãi. Do vậy, hắn, người đã trốn quân dịch, đã nổtung vì sung sướng - một thứ pha trộn giữa sự kịch phát và lòng tự hào vì là người đã nắm được chân lý trước khi các chính phủ nhận ra điều ấy - khi Franois-Joseph của Áo, rồi Hoàng đế Đức Guillaume và cuối cùng là vua xứ Bavaria, Louis III đồng ý đưa quân tham chiến. Để hắn thoát khỏi sự cô đơn điên dại, để hắn có thiện cảm với người khác, ít nhất cũng phải có một cuộc chiến tranh. Và nhất là, ít nhất phải có chiến tranh thì lý tưởng của hắn mới được nuôi dưỡng.
- Ông chủ quán đãi quý vị một cốc miễn phí đây các chàng trai ơi.
Đám thanh niên vỗ tay rào rào hoan nghênh chủ quán và cảm ơn sự rộng rãi của ông ta, họ quá say không nhận ra nổi rằng ông ta đãi họ một tuần bia chủ yếu là để xóa đi mặc cảm có lỗi của người ở lại hậu phương.
Họ ôm hôn nhau khi chia tay, hẹn sẽ gặp lại nhau nơi tuyến lửa. Họ thề sẽ cùng nhau ăn óc của quân Pháp, nhắc lại tên nhau một lần nữa để khỏi quên. Rượu đã phóng đại tất cả, giọng nói, cảm xúc, những vòng tay ôm hôn, nhưng rượu cũng làm tất cả trôi tuột vào cái rãnh của sự quên lãng.
Ngày hôm sau, Hitler tỉnh giấc, đầu đau như búa bổ, lờ mờ nhớ chuyện hôm qua và không cưỡng nổi hammuốn được quay lại cái thế giới sống động, nhiệt thành nơi ai ai cũng hăng say chia sẻ sự đồng cảm.
Hắn chạy vội đến một doanh trại với quyển sổ quân dịch trên tay và lợi dụng lúc mọi chuyện đang hỗn độn, thử vận may của mình. Viên trung sĩ tuyển quân làm không xuể trước một đám đông lớn đến vậy, vẫn còn ngây ngây vì đêm qua đã uống quá nhiều, không buồn nhìn kỹ giấy tờ của Hitler, còn hắn tránh tối đa nhắc đến việc mình là người Áo. Trống ngực hắn nện thùm thụp, Hitler bước ra sân, chói mắt vì nắng to: hắn đã được nhận vào quân đội Đức.
Hắn được sinh ra một lần nữa. Hắn đã được rửa tội một lần nữa. Vậy đó, từ nay hắn sẽ là một quân nhân và là người Đức. Hắn đã hoàn thành mục tiêu của mình.
Những ngày sau đó, hắn được đưa vào một doanh trại để theo một khóa huấn luyện cấp tốc. Hắn tập bước đều kiểu nhà binh. Hắn lau chùi nhà tắm. Hắn bắn súng. Hắn trèo. Hắn bò. Dậy lúc sáu giờ, đi ngủ lúc chín giờ, hắn dâng hiến trọn vẹn cơ thể, thời gian và năng lượng của mình. Buổi tối, hắn được ăn suất đúp: thịt lợn rôti và sa lát khoai tây. Hắn chưa bao giờ ăn ngon như thế. Hiện tại, hắn mới chỉ bắn vào mấy tấm bia, sắp tới hắn sẽ được bắn người thật.
- Cảm ơn trời cao đã cho con sống trong một thời đại như thế này! Hằng đêm, hắn lẩm bẩm câu này trước khi kéo cái thân xác rã rời lên tấm nệm rơm của mình.
o O o
Một đêm mùa thu, con tàu dừng lại ở Bazancourt, một thành phố nhỏ ở vùng Champagne(10), thả xuống một đám lính mới toe.
Cái điều tưởng khó xảy ra đã trở thành hiện thực, kia kìa, trên ke ga, Adolf H. đã ra đến chiến trường. Vài tuần nay, ở trại lính, khi người ta cố biến hắn thành một người lính, cố tước bỏ nhân tính và óc sáng tạo ở hắn, hắn cứ ngỡ đang kẹt vào cái bẫy mà một trong những giấc mơ của mình đã giăng ra.
Đó là một nhà ga nhỏ trông vui tươi như cảnh trang trí cho một vở opera nhỏ. Adolf là người cuối cùng đặt chân lên tấm cầu ván bắc xuống sân ga.
Đám lính mới đi cùng hắn đang cứng đờ người. Họ căng tai nghe ngóng. Chưa gì họ đã nghe thấy ở bên kia đường chân trời tiếng ì ùng của chiến trường vọng lại. Một hồi trống trầm đục. Người ta có cảm giác như nông thôn đang phả ra một mùi hôi hám.
- Tập hợp! Xếp hàng bốn!
Adolf cảm thấy gần như được giải thoát nhờ vào một núi mệnh lệnh đang được hô vang. Nó át đi những tiếng ầm ì đáng lo ngại. Những chiếc giày đinh của họ khua vang trên đường. Chính họ, những người lính, cũng đang chế ngự âm thanh. Làm sao họ có thể cảm thấy sợ cái tiếng rền vừa yếu lại vừa ít khả năng có thực ấy trong khi chỉ cần chút tiếng động vô hại khác đã đủ làm nó bặt đi? Họ không được để trí tưởng tượng cuốn đi vì chính nó là cái đẻ ra sự sợ hãi.
Trời khoác màu mận chín. Đoàn quân đi qua nhiều ngôi làng nữa. Họ qua trước mặt những người nông dân Pháp đang đứng ở bậu cửa, nhìn họ với ánh mắt tò mò xen lẫn lo lắng. Từng đàn gà mái kêu quang quác, dửng dưng. Đất chuyển dần sang màu đen. Những ngọn núi nhấp nhô xa dần. Trước khi trời tối hẳn, đoàn quân dừng lại, nghỉ trong một cái kho chứa.
Thả phịch balô và vũ khí xuống đất, Adolf tham lam hít căng lồng ngực cái không khí nóng ngột ngạt của cỏ khô. Đứng trong cái không khí lên men nóng ran ấy, những cảm giác thời trẻ con, vô lo, tràn về trong tâm trí Adolf. Những người lính bắt đầu kể những câu chuyện khác vui hơn. Họ cười, họ ăn, họ uống.
Nhưng ngay khi được lệnh đi nghỉ thì tất cả sự thư giãn do bia và thịt mỡ hầm mang lại đã tan biến. Họ nghe thấy tiếng đạn pháo nổ. Những tiếng gầm gừ trầm đục, liên tục nghe ngày càng rõ hơn, lúc rời rạc, lúc dồn dập, lúc như cả đội pháo đang trút giận, khi lại là một sự im lặng kéo dài rồi sau đó là những tiếng nổ dữ dội. Khúc giao hưởng kim loại của chiến trường mang đến những sắc thái tởm lợm và sự thèm khát xác người của nó. Cả đơn vị khó khăn lắm mới chợp mắt được.
Ngày hôm sau, ánh mặt trời rạng rỡ đánh thức họ dậy. Từng đàn chim chiền chiện tung cánh trên bầu trời thanh bình. Không còn nghe thấy tiếng gì khác ngoài những âm thanh của thiên nhiên buổi bình minh. Adolf băn khoăn tự hỏi không biết có phải đêm qua mình lại bị trí tưởng tượng lôi đi quá xa một lần nữa không.
Họ lại tiếp tục hành quân. Hai tiếng nữa, họ phải đến được trận địa của đơn vị mình. Champagne đẹp và đầy hương thơm. Adolf tìm lại được niềm vui thuở xưa khi đi dạo với mẹ.
Rồi cảnh vật trở nên đáng e ngại. Những hố đạn, những hầm trú ẩn bị sập, những thân cây bị phạt đổ. Đồng đất bị lóc từng mảng, trụi cỏ, để lộ ra những vạt đất đỏ rực. Một mạng lưới chiến hào cũ ngang dọc rạch nát mặt đất. Từ cánh rừng xa, tiếng đì đoàng của một cuộc chạm súng vọng lại. Thiên nhiên dường như đang lâm bệnh.
Từ phía chiến trường, hai chiếc xe cam nhông cũ, động cơ nổ phành phạch, lao nhanh về phía đám lính mới. Khi xe đi ngang qua Adolf, hắn có cảm giác những tiếng kêu thét nghèn nghẹt đang thoát ra sau tấm bạt phủ thùng xe. Rồi những người bị thương đi bộ đến, từng người một, rồi hai người một, rồi cả xâu người, mỗi lúc một nhiều thêm, xiêu vẹo, khập khiễng, người chống một nạng, người chống hai, kẻ được dìu. Người lê cái cổ chân cứng nhắc, kẻ lết một bên chân bất động, không còn vũ khí, quần áo tơi tả, tóc bết vào vì sợ, họ nhìn đám lính mới. Họ trân trân nhìn vào những thân thể tươi mới, lành lặn, còn sử dụng được. Họ ngạc nhiên. Những đôi mắt thâm quầng dường như đang hỏi: liệu người ta có thể bước đi dễ dàng đến thế được không nhỉ? Adolf ngoảnh mặt đi.
Giờ đến lượt những người bị thương ở mặt. Trán họ được băng chéo hoặc hàm được băng bó bằng gạc,máu đông đã chuyển sang màu nâu. Cơn sốt bắt đầu làm mắt họ lồi ra. Họ hiên ngang nhìn đám tân binh vàdường như muốn nói: “Hãy dũng cảm nhìn ta đi! Hãy dũng cảm nói với ta rằng ta đã bị thương.” Sự đau đớn khoét vào khuôn mặt đàn ông của họ, nhưng đầu họ, phồng tướng lên vì các lớp băng, cũng làm cho họ trông giống những đứa bé quái thai.
Đi ngược hướng đơn vị của Adolf giờ là những chiếc cáng do những thanh niên cao lớn khiêng, sự nhanh nhẹn của họ bắt đầu giống như một ngoại lệ khó có thể chấp nhận. Có người nằm bất động trên cáng, run bần bật dưới một mớ quần áo lùng bùng; có người đang rịt những tấm gạc bông trên bụng, từ chỗ bị thương, máu và ruột vẫn tiếp tục xổ ra; có người đang siết chặt hai thành cáng cứ như thể họ sợ sau khi trúng đạn họ lại tiếp tục bị ném xuống con đường đầy đá này; có người chìm trong im lặng đáng sợ, để mặc sự sống thoát ra ngoài qua vết thương trên cơ thể. Tất cả ngước mắt nhìn đám lính mới. Dường như đám thương binh đang nói: cái gì, sao bọn họ vẫn còn nguyên vẹn thế kia? Và còn nguyên vẹn được bao lâu nữa?
Cuối cùng, tiểu đoàn của Adolf đã tiến đến gần trận địa và gặp những người vừa bị thương, những người còn chưa khoác lên mình bộ quần áo thương binh, chưa băng, chưa buộc, chưa bó, cũng chưa có mùi i ốt. Một trung sĩ có đôi vai đầy đặn trắng trẻo bị mảnh pháo khoét thủng. Một người lính bị thủng bụng, ruột vẫn đang xổ trên tay. Một người lính trẻ bị phạt mất mũi, giữa mặt là một cái hố nơi máu đang trào ra, không khí tràn vào làm thành những đám bọt nổi tăm.
Bác sĩ, y tá, tải thương chạy từ người này sang người khác. Tiếng kêu thét làm cảnh tượng thêm hỗn độn. Đâu đó vang lên những tiếng kêu rên xé lòng.
Đội lính dự bị đã nhập vào trung đoàn của mình. Ngay lập tức Adolf đã nhìn ra Neumann và Bernstein. Họ lao vào ôm lấy nhau.
- Ôi các bạn, vui quá thôi. Tớ cứ sợ các cậu đã... bị thương...
Adolf suýt vuột ra chữ “hy sinh” nhưng đã kìm lại được đúng lúc. Nhưng đang vui mừng tột độ, Neumann và Bernstein thậm chí không để ý tới chi tiết ấy.
- Chào mừng tới địa ngục! Bernstein kêu lên.
Cả ba cùng cười.
- Chào mừng các ứng viên cho thương tật, tàn phế, chết chóc, Neumann nói. Như cậu thấy đấy, những người được chọn trước đã lên đường rồi đấy.
Adolf không dám nói với các bạn rằng hắn thấy họ kỳ quặc, khác xưa. Ồ, khác không chỉ vì bộ quân phục loang lổ vết bùn, cũng không vì bộ râu dài như những nhà tiên tri, mà đó là sắc da vàng lợt, hơi bủng beo, khác vì những quầng mắt tím tái, đó là...
- Bệnh kiết lỵ đó mà, Neumann nhắm mắt nói.
- Cậu nói gì?
- Cái mà cậu thấy là di chứng của bệnh lỵ. Bụng lúc nào cũng sôi sùng sục. Ngày nào cũng phải ngồi chồm hỗm cả tiếng đồng hồ. Tớ cũng chẳng hiểu tại sao mình còn kéo cái che đít này lên làm gì nữa.
Adolf thấy sốc. Trước đây, chưa bao giờ Neumann dùng từ “đít” cả. Chưa bao giờ anh lôi chuyện bụng dạ ra để nói cả; chưa bao giờ anh nói đến chuyện mình đang...
- Rồi cậu sẽ quen dần thôi, Neumann kết luận, giọng chắc nịch, như đọc được ý nghĩ trong đầu Adolf.
Viên đại úy ra lệnh tập hợp hàng ngũ. Ông ta đi lại trước mặt thuộc cấp của mình, giải thích những việc phải làm trong mấy giờ tới, hứa là họ sẽ được thử lửa lần đầu tiên vào đêm tới.
- Và bây giờ, ai trong số các anh là nghệ sĩ? Ai là nhạc sĩ, ai là họa sĩ?
Adolf hoan hỉ với ý nghĩ có thể người ta sẽ trao cho hắn một nhiệm vụ xứng tầm mình nên bước một bước ra khỏi hàng.
- Đừng làm vậy, Bernstein nhắc.
Viên đại úy tiến lại gần và cười với Adolf.
- Lao dịch gọt khoai! Chúng ta cần có những bàn tay khéo léo để làm việc trong nhà bếp!
Ông ta bỏ đi, Neumann và Bernstein phá lên cười trước ánh mắt não nề của Adolf.
Sau giấc ngủ trưa, Adolf ra chỗ hai người bạn đang hăm hở giải thích cho hắn cách tự bảo vệ mình trên chiến trường.
- Nếu bị cận thị cậu vẫn có thể tham gia chiến đấu như thường nhưng nếu điếc thì không được. Người ta nhận biết nguy hiểm qua đôi tai. Như mọi thằng lính mới, cậu sẽ co rúm lại trước những tiếng nổ lớn nhất, nghe như khi gõ vào cái xe goòng chở than ấy. Thế là cậu nhầm rồi đấy. Đó là tiếng đàn oóc mà thôi. Nhạc lễ ấy mà. Hoành tráng. To thì to đấy nhưng vô hại vì chúng nổ quá xa. Tai cậu phải theo dõi những tiếng rít trong không trung, tất cả những tiếng xoẹt, kin kít, rèn rẹt; cậu có thể tránh được đạn nổ trong không trung chứ không tránh được đạn nổ khi chạm tới mục tiêu, tất cả những viên bi bay ra từ quả đạn ghém, các mảnh kim loại tóe ra sau tiếng nổ, những mảnh vụn xé toang không khí trước khi cắt ngọt động mạch của cậu. Vì thế cậu phải nghe rõ đây, Adolf: không phải sợ những âm thanh như đàn oóc, như tiếng trống mà phải chú ý đến những âm thanh nghe như tiếng hạc cầm và tiếng sáo nhỏ... Rõ chưa?
Neumann đợi một câu trả lời. Adolf choáng váng lắc lắc đầu.
- Dù gì thì cậu cũng sẽ đi cùng bọn mình, Bernstein nói.
Adolf chăm chú nhìn hoàng hôn. Cuộc sống của hắn những tuần gần đây đều quy tụ về đêm nay cả. Dù rằng trong sâu thẳm lòng mình, hắn luôn chối bỏ nó, hắn vẫn bồn chồn đợi nó đến. Có thể đây là đêm cuối cùng của hắn trên đời? Hắn cần một cái cớ và đêm nay mang lại lời giải thích cho việc hắn từ bỏ hội họa, việc hắn đi quân dịch, mấy tháng tân binh, việc hắn bị nhồi trên tàu hỏa, cuộc tái ngộ với Neumann và Bernstein. Hắn bước vào một không gian thiêng.
Cuối cùng trời cũng tối, không gian chìm đắm trong màu đen.
Bóng tối lan tràn.
Một tiếng rít. Một quả pháo sáng bay lên và tỏa ra một thứ ánh sáng có quầng. Thời gian ngưng đọng. Mặt đất bàng bạc. Tất cả đều im lìm như thể cảnh tượng này là một cái bẫy.
Đêm trở lại đặc quánh.
Đột nhiên, lửa tóe lên. Từ mọi phía, tiếng pháo giã đì đùng, tiếng tiểu liên bắn tành tạch. Pháo sáng trắng. Pháo sáng đỏ. Pháo sáng xanh. Adolf không còn phân biệt được đâu là những loạt súng, pháo của quân Đức với những tiếng nổ ồn ĩ của đạn pháo địch.
- Cúi đầu xuống, Neumann kêu to.
Trên đầu anh từng chùm đạn pháo bay tứ tung, giống như những con ong bầu đang bay đi tìm nạn nhân, rời rạc, rít lên, xì xuỵt, hiểm độc.
Người lính bên cạnh Adolf bỗng hự lên một tiếng. Một mảnh đạn vừa phạt ngang cổ anh ta. Máu phọt ra từ động mạch thành vòi như thể đang hối hả rời xa thân xác. Người lính đổ gục xuống. Anh ta chết rồi ư?
- Chạy qua đây.
Lệnh từ đâu đến? Adolf chạy theo Bernstein. Nhưng chạy theo cái gì? Chạy đi đâu? Họ giẫm lên cái gì đó mềm mềm. Một ổ bụng. Bụng của một người lính vừa ngã xuống. Hắn chẳng cảm thấy gì nữa. Họ tiếp tục di chuyển.
Mặt đất bị xói lên phía trước Adolf. Một trận mưa đất quật vào hắn. Một quả đạn pháo vừa cắm xuống đất cách đó không xa. Nó chưa nổ.
- Đi tiếp đi!
Đi đâu? Đến chỗ an toàn hơn? Đến chỗ khủng khiếp hơn?
Phía trên chiến hào đạn vẫn bắn rát, những cơn mưa thép rú rít trong không trung. Adolf không hiểu gì cả. Chúng đến từ mọi phía, Đông, Tây, Bắc, Nam. Có phải mọi người đang bắn lẫn vào nhau? Có ai đó đang chỉ huy tất cả chuyện này không? Có kế hoạch tác chiến nào không? Hay đây là trò chơi làm sao giết được nhiều người nhất?
Đì đùng. Gầm rú. Vỡ toang.
- Vào tư thế bắn!
Adolf ép mình vào vách hào. Phải bắn. Bắn vào cái gì? Hắn chẳng nhìn thấy gì cả. Bắn về phía trước ư? Chỗ đó hả? Hắn bóp cò.
Người xạ thủ liên thanh vừa quay lại vị trí, không xa chỗ Adolf. Anh ta thoải mái yên vị sau cái công cụ giết người của mình như tay chủ nhà băng ngồi sau bàn giấy, ung dung xả đạn từ chỗ nấp.
Adolf thấy nhẹ nhõm khi thấy mình bắn cùng phía với tay súng này.
- Qua đây!
Lại một mệnh lệnh nữa. Nhưng nó ở đâu ra? Họ chạy qua một nhánh hào khác. Đi đâu? Adolf di chuyển theo Bernstein. Rẽ ngang. Lại rẽ ngang. Bên phải. Bên trái. Bên phải. Bên phải. Hắn không còn biết mình đang ở gần hay xa quân địch nữa.
Tiếng nổ nghe ít chói tai hơn ở đây. Hay là tai đã nghe quen rồi?
- Nghe đi, Bernstein thì thầm vào tai hắn.
Adolf bắt đầu phân biệt được các loại âm thanh. Đầu tiên hắn thấy tiếng gầm của đại bác, rồi tiếng đạn pháo rít lên trong không trung. Rơi xuống. Ba giây sau khi chạm đất quả đạn phát ra một tiếng nổ kinh khiếp. Hắn có cảm giác như một đàn chim dày đặc đang đâm xổ vào hắn, một bầy chim đang rít lên và xì xuỵt. Hàng trăm mảnh đạn trút ào ào xuống mặt đất.
Hắn mỉm cười với Bernstein để cảm ơn. Tuyệt thật. Bây giờ mình có thể đoán trước cái chết của mình ba giây trước khi nó xảy ra. Mặt họ xanh lét dưới ánh pháo sáng chập chờn.
Tiếng súng lại vang lên dữ dội. Đất đá rung lên. Cảnh tượng ngày tận thế. Tiếng la hét vang lên khắp chiến hào. Những thân người đổ xuống. Gỗ chặn hào đổ sụp. Những bao cát trúng đạn nổ tung tóe. Adolf nhắm nghiền mắt. Làm thế nào bảo vệ được mình khi ở trong miệng núi lửa đang trào phun?
- Chạy qua đây.
Gì cơ? Lại một mệnh lệnh nữa? Có ai đó tự cho là mình biết điều gì đang xảy ra?
Trước lối vào hào đánh lấn có hai xác chết. Phải bước qua họ. Hai xác chết. Gần như đáng ngạc nhiên là không có nhiều hơn thế.
Tiếng đạn pháo nghe nặng hơn ở đây. Đất rung đằm hơn, rộng hơn.
- Chạy qua đây!
Mê cung. Chạy. Phải bước qua thêm nhiều xác người nữa. Người họ phủ đầy đất và chìm trong một đống hỗn độn nào ván gỗ, nào bao cát.
Lại tiếp tục.
Trong những đường hào này có ít đạn nổ hơn nhưng tiếng súng liên thanh khô khốc và tiếng súng trường lạch tạch nhiều hơn. Giống như trời đất lắng xuống sau cơn dông. Ta đang quay lại phía sau hay sao?
Không, ngược lại. Nhóm của họ vừa tiến đến sát địch quân.
- Chúng ta sẽ tấn công.
Kế hoạch tác chiến là cử một số người mang lựu đạn bò qua mé bên, những người còn lại bắn trực diện.
Một người lính bỗng thét lên khi cả đội đang thảo luận. Một vật nhỏ tròn đen phụt ra những tia lửa trên không bay đến đập vào bụng anh ta. Quả lựu đạn nổ tung. Người lính vật xuống, ruột văng tung tóe lên đồng đội.
Adolf nhìn thấy một khuôn mặt thò ra phía trên mình, một cái mặt to đùng, xanh lét dưới ánh trăng mờ khuất, mắt tròn, căng ra vì sợ hãi và hung bạo. Adolf thét lên và bóp cò. Người kia ngã gục, mặt vẫn chưa hết ngạc nhiên. Tay gã thõng xuống gờ công sự.
Bernstein và những người khác nhảy bật dậy và nã đạn vào đối phương vừa tiến tới công sự của họ.
Adolf kinh hãi nhìn người bị bắn, người đầu tiên mà hắn giết. Hắn nhớ lại ánh mắt của người này: gã cũng có vẻ sợ như Adolf. Người hắn run lên, giật giật. Những cơn rùng mình chạy khắp người hắn như thể bằng ấy số đạn nảy lên đập vào người hắn.
- Đừng nghĩ gì nữa. Đến đây và bắn đi.
Chính Bernstein là người lắc vai hắn và ngăn không để hắn rơi vào trạng thái mất kiểm soát. Adolf tựa lưng vào thành hào và bắn điên cuồng. Hắn đã thoát chết. Hắn không còn sợ nữa. Hắn rơi vào cơn cuồng nộ.
- Bọn nó tiêu rồi. Bây giờ chạy qua đây.
Lúc nào cũng là những mệnh lệnh, nhưng lệnh ở đâu ra?
Adolf bám sát Bernstein. Hắn không suy nghĩ gì nữa. Hắn muốn giết để không bị giết. Hắn muốn mình hung bạo nhất có thể được. Đúng vậy. Hung bạo nhất có thể được. Nếu không sẽ cầm chắc cái chết.
- Mấy anh kia, qua bên này.
Biệt đội gồm sáu người trong đó có Adolf và Bernstein. Họ cần phải bò qua khoảnh đất này và ném lựu đạn vào mấy cỗ liên thanh của địch. Họ phải làm nhanh gọn, dán mình xuống đất để tránh làn mưa đạn, nằm im khi ở trong tầm pháo sáng.
Họ bò lên khỏi hố. Dường như quân Pháp chưa phát hiện ra họ nên chưa có phản ứng gì.
Họ bò.
Họ tiến lên một cách chắc chắn.
Đột nhiên có tiếng rít và một cú chấn động.
- Một quả đạn pháo! Bernstein thì thầm.
Nhưng quả đạn nằm im lìm trong đất và không phát nổ. Biệt đội của Adolf nằm im đợi bốn giây, mười giây, hai mươi giây rồi thở phào nhẹ nhõm, tiếp tục bò lên.
Một quả đạn pháo khác rơi xuống. Adolf nghe rõ mồn một tiếng của nó. Quả đạn được bắn đi từ phía sau biệt đội. Đó là một quả đạn Đức. Ngu ngốc làm sao: hắn sẽ chết vì một quả đạn của Đức!
Một bựng lửa đỏ. Những tiếng rít. Adolf dán mình xuống mặt đất. Hắn ôm lấy mặt đất như ôm một ngườimẹ. Hắn ôm hôn mặt đất để mặt đất bảo vệ mình.
Có tiếng người kêu thét. Họ bị trúng đạn.
Adolf không dám tin nữa, hắn không hề hấn gì.
- Bernstein?
- Tớ ổn. Thế còn cậu?
- Cũng thế.
Nhưng tiếng kêu đã báo động cho quân Pháp, đạn pháo của Pháp lại rền vang. Họ bắn nhầm hướng. Họ vẫn chưa phát hiện nhóm biệt kích.
- Theo tớ.
Bernstein nhỏm dậy và chạy. Adolf chạy theo bạn. Cả hai chạy đứt hơi.
Một quả đạn pháo nổ tung. Rồi hai quả nữa.
Một trận mưa đạn trút xuống. Pháo sáng bắn tung lên từ mọi phía và nổ lép bép dưới những cái dù trắng. Súng liên thanh nổ tành tạch. Từng chùm đạn lao về phía họ. Họ đã bị phát hiện.
- Lao xuống hố mau.
Bernstein đã nhảy xuống một cái hố đạn. Adolf truồi mình theo Bernstein.
Từng làn mưa đạn đổ ập về phía họ. Bernstein và Adolf dựa lưng vào vách hố đang rung lên như trong một hầm mỏ đang sụt lở.
Adolf nghe thấy có tiếng kêu trên miệng hố. Một thân hình rơi phịch xuống người hắn. Anh ta rơi xuống lưng Adolf. Đó là một người to nặng, quá nặng và trong cái hố chật như miệng phễu, Adolf không có chỗ để xoay trở.
Adolf không suy nghĩ được nữa. Hắn quá sợ. Cái tấm thân bồ tượng đang hấp hối trên lưng hắn đã hoàn toàn đập nát tinh thần hắn. Người đàn ông giật giật vài cái nữa rồi dính chặt vào hắn như một cái giác hút khổng lồ, trơ ì, càng ngày càng nặng. Hẳn anh ta đã chết. Ai vậy nhỉ?
Adolf kêu lên tuyệt vọng. Thối quá. Mông hắn đau rát. Quần hắn ướt đầm. Hắn vừa ỉa ra trong quần. Cái này còn nghiêm trọng hơn tất cả những gì đã xảy ra trước đấy. Hắn rên lên như một đứa trẻ.
- Bernstein, tớ bĩnh ra quần rồi đây này.
Bernstein cười âu yếm.
- Đó là lễ nhập môn. Ai cũng phải trải qua những giây phút như cậu.
Adolf im lặng.
Cầu cho mọi chuyện kết thúc ngay lập tức! Cái đêm khủng khiếp này để làm gì đây?
Kiểu gì chúng ta cũng lên thớt rồi. Hôm nay, ngày mai, mười ngày nữa hay mười giây nữa, chúng ta sẽchết bẩn chết thỉu. Tại sao phải đợi? Nếu có gì phải cầu nguyện thì chính là lời này đây. Được chết, càng sớm càng tốt.
Cầu nguyện ai đây? Chúa ư? Adolf chưa bao giờ tin vào Chúa và không phải cuộc tàn sát này sẽ làm hắn thay đổi ý kiến. Cầu khẩn Bernstein ư? Đúng vậy, nếu phải cầu khẩn ai đó thì chính là Bernstein. Nhưng Bernstein cũng chỉ là một con người nhỏ bé tội nghiệp như hắn, da thịt trần trụi và run rẩy trước cơn bão thép. Làm thế nào để thoát khỏi tai họa này đây khi chỉ là người trần mắt thịt?
Adolf sôi máu vì hoảng sợ và tức giận. Sợ rằng mọi việc diễn ra không đủ nhanh, rằng hắn và Bernstein mất quá nhiều thời gian trước khi chết. Giận cả hai phía. Giận phía Pháp vì lính của họ xả súng vào mình, giận phía Đức vì đã bắn pháo vào biệt đội của mình. Chẳng có ai điều khiển cuộc chiến này. Ai cũng chịu đựng nó. Người ta không biết mình bắn vào ai. Kẻ thù cũng như đồng đội, chỉ khi đã ngã xuống mới mang khuôn mặt người. Điều đó vượt quá mọi thước đo của con người. Con người đặt vào đó sức mạnh nền công nghiệp của mình, tất cả các sản phẩm luyện kim nhưng tựa như một tay phù thủy học việc, nó không có khả năng kiểm soát bất cứ cái gì trong số những cái mình đã tung ra. Giờ đây, thép và lửa, như đang trả thù, dường như đã tự thoát mình ra khỏi lòng đất.
Phía trên những cái hố hình phễu, đạn xới tung đất đá. Cũng không sao, miễn là chúng đừng ném lựu đạn.
Adolf thấy ngạc nhiên vì mình lại muốn sống. Hắn nhìn Bernstein cũng đang quay sang nhìn hắn. Họ cùng cảm thấy một điều như nhau. Họ đợi đến lúc được thoát khỏi cái hố này. Xúc động mạnh nhưng tình cảm ấy không còn là của họ nữa. Đó là bản năng sống đang biến họ thành động vật. Chính bản năng sống là cái biến tất cả thành một cuộc chiến không hồi kết.
Tiếng oanh tạc xa dần rồi thưa dần.
Adolf, vẫn bị cái xác đè cứng trên lưng, bỗng cảm thấy nhẹ nhõm, thở phào khi cơn dông đi qua. Những bức bối thần kinh đã làm hắn trống rỗng. Hắn cảm thấy gần như đã lại sức.
Một lằn sáng hiện lên phía chân trời.
- Nhanh lên, ngày sắp tới rồi. Ra khỏi đây thôi.
Bernstein trèo ra khỏi hố. Adolf phải rũ bỏ gánh nặng trên vai trước khi trèo lên. Khi cái xác to tướng rơi xuống chân hắn, hắn ngập ngừng giây lát trước khi nhìn vào mặt nạn nhân rồi cố gắng nhận ra đó là ai: người chết là một trong sáu người của biệt đội. Mắt anh ta vàng, he hé trông như hổ phách. Một lỗ đỏ khoan thủng trán. Máu khô lại trên bộ ria của anh ta. Hắn thả anh ta xuống vũng nước xăm xắp trong hố và đi theo Bernstein.
Adolf có một mong muốn ngu ngốc là trở về nhà, nguyên vẹn. Tuy nhiên, những con hào trước mắt hắnngập đầy xác chết bị nhục hình. Một vài tay súng còn sống sót, những người khác đã chết; họ cùng đứngtrong một tư thế, thẳng người, áp vào vách hào, đối diện kẻ thù; chỉ sự bất động hoàn toàn, cứng đờ, cho phép phân biệt người sống với người chết.
Bình minh đến mang theo một thứ ánh sáng nhờ nhờ xam xám. Từng đàn chim chiền chiện lao vút lên không trung, vô tư, không thể chịu được, chúng tíu tít làm Adolf nhớ đến trận mưa đạn trong đêm.
Hắn nhìn cánh đồng ngăn cách hai phía tham chiến. Hố. Mảnh kim loại. Mảnh đạn. Thây người. Chân tay bị cắt rời. Và ở giữa vang lên tiếng rên rỉ và những lời cầu cứu bằng nhiều thứ tiếng của những người bị thương.
Bernstein tiến lại gần bạn và lắc mạnh vai bạn. Adolf mỉm cười. Nụ cười ấy chứa đựng tất cả sự biết ơn của Adolf với Bernstein vì hắn không tìm được ngôn từ nào để diễn tả. Tuyệt vời thay, Bernstein đọc được điều ấy và hích hích vào bạn. Mắt họ chợt nhòe đi.
Để không bị tình cảm ủy mị lấn át, Bernstein quay mặt về đám đất nơi tập trung người bị thương và bị chết, nơi những tiếng rên rỉ vang lên và giải thích với Adolf:
- Người ta sẽ để mặc họ chết đi như vậy.
- Thật lòng mà nói Bernstein à, cậu có nghĩ là chúng ta chết mà ra khỏi cuộc chiến này hơn là sống không?
Bernstein châm thuốc - trước đây ở Viên, anh không hề hút thuốc.
- Vấn đề của con người là ở chỗ nó thích nghi được với tất cả.
- Cậu nghĩ vậy à?
- Thậm chí người ta còn gọi đó là trí tuệ.
Bernstein nuốt một ngụm khói rồi nhăn mặt. Rõ ràng, anh ghét thuốc lá. Anh bám chặt lấy ý nghĩ của mình.
- Chúng ta vừa trải qua một đêm trí tuệ, trong một môi trường trí tuệ, bằng cách lợi dụng những sản phẩm mới nhất của trí tuệ kỹ thuật và công nghiệp. Một đêm trác táng trí tuệ ra trò!
Một thương binh chợt thét lên thảm thiết, tiếng kêu giống như của một đứa trẻ hơn là của một người đàn ông. Bernstein ném điếu thuốc ra xa.
- A, người yêu bé nhỏ của anh đây rồi.
Một con mèo lớn, đôi tai vằn như hổ, rách tơi tả vừa xuất hiện. Nó cong mình, kêu, đứng trên cái xà ngoài công sự. Nó ngoe ngẩy đuôi khi nghe tiếng gọi của Bernstein.
Cuối cùng nó cũng trèo xuống và cọ cọ thân mình vào giày của Adolf. Adolf nhận thấy nó chỉ còn nửa cái đuôi. Bernstein trèo xuống chỗ con mèo và vuốt ve mảng lông tam giác trên đầu nó. Còn mèo trông có vẻ đang khoan khoái cực điểm.
- Con mèo đực này đi từ bên này sang bên kia chiến tuyến. Nó có bạn cả ở hai phía. Tớ biết mình không phải là người duy nhất trong đời nó và nếu cậu muốn thì hãy tin tớ, tớ chịu đựng điều đó rất cừ đấy.
Bernstein cười với Adolf khi nói điều ấy.
Lần đầu tiên, Adolf cuối cùng cũng thấy lại con người của Bernstein như hắn đã biết ở Viên. Hắn quỳ xuống và ve vuốt con mèo cụt. Con mèo chấp nhận hắn rất nhanh.
- Con mèo này không phân biệt những cái ve vuốt của Pháp hay Đức, Bernstein thì thầm. Nó không hiểu gì về chiến tranh cả.
- Có nghĩa là nó đã hiểu tất cả.
Cuối cùng, hai người bạn cũng nhìn nhau cười như ngày xưa, tiếng cười của tri âm tri kỷ, dưới chân họ, con mèo đang ngây ngất.
o O o
Lần đầu tiên trong đời Hitler cảm nhận được công dụng của lòng hận thù. Bây giờ, khi kẻ thù đã được xác định, hắn hít thở thoải mái hơn. Người Slavơ ư? Một lũ mọi rợ khát máu. Người Anh ư? Một lũ rắn độc lạnh lùng và tàn ác. Người Pháp ư? Quân đế quốc tham lam và ngạo mạn. Đó là những sắc thái duy nhất do sự căm ghét đến xương tủy của Hitler mang lại. Vậy cái gì tốt đẹp? Nước Đức và chỉ có nước Đức mà thôi. Nước nào xấu xa? Tất cả những nước còn lại. Cuối cùng thì hắn cũng đã xác định được thế giới quan của mình. Hắn không mất thời gian suy nghĩ nữa. Một người bạn khen rượu vang Pháp ngon trước mặt hắn ư? Hắn sẽ phản bác lại là không gì có thể ngon hơn rượu vang làm từ nho vùng sông Ranh. Một người khác nhắc đi nhắc lại rằng pho mát Pháp ngon tuyệt vời ư? Hắn sẽ coi anh ta là quân phản nghịch. Người ta nói với hắn rằng quân thù rất can đảm ư? Hắn sẽ bẻ lại là không nên nhầm lẫn giữa lòng can đảm và sự man rợ. Hắn chẳng khó khăn gì để tìm được câu trả lời cho mọi chuyện. Hắn, người luôn luôn chậm chạp và trì độn trong các cuộc đối thoại, bỗng trở nên nhiều lời, nhiều ý kiến, nhiều khẩu hiệu. Lắm mồm. Bất tận. Hắn đã hiểu rằng trước mọi câu hỏi đặt ra cần phải thiên vị. Hạnh phúc chỉ có được với giá này. Cả sự thanh thản nữa. Hitler vừa cởi bỏ được nỗi hoài nghi, những cung bậc tình cảm, mọi đòi hỏi khắt khe mà những ông giáo già của hắn đã gắn một cách ngu ngốc với óc phê phán, những cái mà giờ đây hắn cho là những triệu chứng của sự tha hóa. Đám trí thức này là những bộ óc đã khô kiệt, không còn cảm giác, bị cắt rời khỏi con tim. Những con người bệnh tật. Những người già. Những kẻ đang hấp hối. Những kẻ yếu ớt. Đúng vậy, Nietzsche đã nói đúng. Những kẻ yếu đang cố gắngkéo những kẻ mạnh và lành mạnh vào sự yếu ớt của chúng bằng cách biến những suy nghĩ xuẩn ngốc củachúng thành tinh thần chân lý. Chân lý ư? Người ta cần chân lý để làm gì? Tại sao lại theo đuổi một chân lý có lợi cho kẻ thù? Chẳng ra làm sao cả. Chúng ta chỉ phải theo đuổi chân lý có lợi cho ta mà thôi. Cho chúng ta. Nước Đức tối thượng. Trên tất cả.
Sau vài tuần huấn luyện, Hitler và những “anh điên xung phong”(11)khác đã rời Munich và đi dọc dòng sông Ranh để tiến về phía Tây. Trước dòng sông, lòng Hitler trào dâng một cảm xúc gần như thần thánh. Dòng sông Ranh chảy về phía trước, rộng và hùng vĩ, nước màuxanh lơ đẹp tuyệt, những cánh rừng dựng hai bên bờ sông như những tấm ri đô tối màu che khuất những ngôi làng yên bình, tắm trong ánh mặt trời, phủ rợp hoa, những ngôi làng từ đó vút lên một cái tháp chuông, tiếng chuông ngân nga hay một khúc dương cầm xưa cũ. Đó là nước Đức, dòng máu màu lục bảo của hắn, chốn cực lạc của hắn. Hắn sẽ chiến đấu để bảo vệ điều đó. Ngực hắn giờ trở nên quá nhỏ không chứa nổi bầu nhiệt huyết trong hắn. Miễn là nước Đức đừng chiến thắng quá nhanh. Khi hắn giật tờ báo trong tay người bán báo dạo và lướt qua những tít lớn, thường là những tin chiến thắng hoặc tôn vinh những người anh hùng, thì sự cay đắng lại nhỏ giọt chua xót của mình vào niềm vui chân thành của hắn. Mỗi chiến thắng mới đều làm hắn lo lắng. Liệu hắn có ra chiến trường quá muộn không?
Đoàn tàu thả họ ở xứ Flandre vào một đêm lạnh lẽo và ẩm ướt. Khi đoàn quân đang đến lán trại ở gần Ypres, một tiếng nổ lớn vang lên, một quả đạn pháo bay qua đầu họ và nổ tung phía sau một hàng quân. Chớp lóe lên... Những mảnh đạn. Mười người chết ngay tại chỗ. Khói và bụi còn chưa tan thì Hitler đã rú lên:
- Hu ra!
Hai trăm cái họng đồng thanh hô:
- Hu ra!
Hitler hớn hở: hay quá, vẫn chưa quá muộn.
Họ đi đến biên giới nơi tành tạch tiếng súng, ì ùng tiếng đại bác, những người sĩ quan đang hét to, những người bị thương gào thét, những xác người rơi ra ngoài chiến hào đang hấp hối, và ở đó, trong một chiếc lán dã chiến ghép bằng những tấm ván xiêu vẹo, Hitler cuối cùng cũng thiếp đi trong giấc ngủ của Người-đến-đúng-lúc, trong tiếng ru của chiến tranh.
Ngày hôm sau, hắn bật dậy và chiêm ngưỡng cuộc sống trong doanh trại.
Những người tải thương gáy đỏ lựng và ướt đẫm mồ hôi đang chui ra từ hàng ki lô mét chiến hào, hào giao thông, hào lấn, gấp rút di chuyển những người lính tử trận đêm qua và phân loại người chết, người bị thương.
Bác sĩ và y tá không để phí một giây. Sau lưng họ, người ta đang tiêm, cắt bỏ, di tản. Người ta đã dùng vải bạt dựng lều liệm những người xấu số; một người thư ký đang ghi lại tên những người mất tích, một người khác đang viết thư cho gia đình tử sĩ; một viên trung sĩ đang phân phát lại đống bốt, vũ khí và thắt lưng, tất cả những gì chưa bị hỏng. Lúc đó những sĩ quan công binh, kỹ sư công sự, kỹ sư nước đến; là những người chuyên nghiệp, họ chỉ nhìn bãi chiến trường theo chuyên môn của mình; họ ra lệnh cho những nhóm người làm việc ở đó: cần phải đào mới, đào lại, xây dựng hầm trú ẩn, xâydựng lại những chỗ đã làm trước đó, dựng lại những thanh chống bằng bê tông, đổ lại những thanh chốngmới, làm mộc, chống đỡ, nhấc lên, san bằng, trát lại hay hạ độ cao, đắp đất, đào đất, khoan giếng mới, đặt đường ống mới để nước chảy, chữa lại đường ống cũ, đóng hố xí cũ, mở những hố xí mới. Những phân đội làm việc trên chiến trường, gồm những người lớn tuổi phần lớn đã mất sức, đang tràn vào hầm hào và công sự như những con kiến để dọn sạch tất cả. Những người phụ trách pháo binh kiểm tra các ổ liên thanh còn chưa bị phá hủy. Sĩ quan phòng khí độc tung ra một cuộc báo động giả để kiểm tra xem mọi người đã được trang bị mặt nạ chưa và quát mắng những người mất hơn mười lăm giây mới đeo được mặt nạ vào. Thư đến. Những người lính anh nuôi mang đến một cái chậu bánh mì nhúng sữa nóng. Tất cả những thứ ấy thật đáng ngưỡng mộ, một sự tổ chức tuyệt vời. Trước sức mạnh trí tuệ ấy, trước sự huy động tất cả các kỹ năng, trước cái xã hội hoàn hảo, toàn diện ấy, Hitler hoàn toàn bị chinh phục.
Hắn được chọn làm lính liên lạc thuộc tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 bộ binh. Nhiệm vụ của Hitler là truyền lệnh của bộ tham mưu tới lính chiến đấu. Hắn làm việc dưới quyền thượng sĩ Hugo Gutmann, một người đàn ông điển trai, tóc nâu với bộ ria bóng láng, thân hình vạm vỡ - vai rộng, eo thon - mắt sáng, giọng sang sảng, trông như hình ảnh một hạ sĩ quan thường thấy trên những tấm tranh khắc và ngay lập tức Hitler đã ngưỡng mộ thượng cấp.
- Hãy nói với mọi người là bốn ngày nữa sẽ được thử lửa lần đầu tiên.
Những bốn ngày, đó sẽ là một sự chờ đợi không thể chịu đựng nổi.
Hitler dành thời gian nói chuyện với những người lính đã ra mặt trận từ vài tuần nay. Hắn hy vọng thu thập được câu chuyện về những tấm gương anh hùng, nhưng hầu hết những người hắn gặp lại là những con người đơn giản, hay phàn nàn, đầu óc chỉ để vào những tiểu tiết của cuộc sống thường ngày như ăn xúp lúc mấy giờ, xúp có ngon không. Ban đầu hắn hơi thất vọng. Sau đó, hắn nhận ra rằng những người hắn tiếp chuyện không thích đề cập đến những đêm chiến đấu. Chuyện dễ hiểuthôi! Họ không để bị vướng víu trong mớ lời nói như những người ở hậu phương hay làm. Họ là những con người của hành động! Khi quan sát họ kỹ hơn, hắn nhận thấy đúng là họ thay đổi hoàn toàn khi màn đêm buông xuống: từ chỗ lờ đờ họ trở nên hoạt bát, vẻ mệt mỏi biến đi đâu mất, một luồng điện mới làm cơ bắp họ căng lên, mắt sáng lên. Hitler vì thế càng trở nên ghen tị và sốt ruột.
Cuối cùng thì hoàng hôn của ngày thứ tư cũng tới.
Người ta thông báo sẽ tấn công vào tối nay. Không phải là mai phục trong chiến hào mà là ra ngoài tấn công. Đi ra phía đồng bằng. Tấn công bất ngờ vào sườn quân địch. Chiếm thêm đất. Đêm đen sẽ là thời điểm thích hợp nhất.
Hitler hòa mình vào đội quân.
Hắn không ở tuyến đầu - lính liên lạc không bao giờ ở hàng đầu cả - mà hắn sẽ truyền những mệnh lệnh quan trọng của ban chỉ huy, trận đánh sẽ không ra gì nếu không có hắn.
Một loạt đạn vang lên. Đạn pháo rơi như mưa trong màn đêm. Tiếng pháo sáng lách tách vọng lại từ xa, chập chờn.
Đơn vị của Hitler trèo lên khỏi chiến hào tiến vào rừng. Quân Pháp ở cách đó không xa. Một loạt súng vang lên.
Hitler truyền mệnh lệnh. Phải chạy dọc cánh rừng này.
Hắn chạy. Hắn hét. Hắn chạy. Hắn chửi.
Có tiếng súng vang lên. Vài viên đạn bay đến găm vào vỏ cây. Vài người đồng đội hự lên rồi ngã xuống.
Hắn chạy.
Hắn thấy mình to lớn. Hắn thấy mình vĩ đại.
Hắn chạy.
Hắn trở thành một chiến binh. Hắn tấn công. Hắn chẳng sợ gì cả. Hắn không sợ chết, hắn sẽ trao nó cho người khác. Hắn là một chiến binh tuyệt đối.
Hắn chạy. Hắn nằm chúi xuống. Hắn bò. Hắn đứng dậy. Hắn chạy.
Hắn không còn là mình nữa, hắn chỉ còn là những phản xạ; cơ thể hắn thông minh hơn hắn; nó biết tất cả; nó cảm thấy tất cả. Cả cơ thể hắn là một. Cuối cùng cũng là một. Một cái đà. Chỉ là một cái đà. Cả một cái đà. Một cái đà đẩy hắn đi và vượt quá hắn. Sức mạnh tăng đến mức tối đa trong hắn. Cháy sáng trắng.
Hắn chạy.
Sự sống thật mãnh liệt. Mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trước đó, hắn chỉ như hư không, vô vị. Giờ đây hắn tồn tại, siêu tồn tại.
Hắn chạy. Hắn ngã. Hắn chửi. Hắn cười. Hắn chạy.
Máu hắn rần rật trong huyết quản. Các giác quan căng lên nghe ngóng. Một thứ năng lượng tập trung trong hắn những sức mạnh chưa từng biết đến. Hắn chưa bao giờ nhìn rõ như thế, nghe thính đến thế. Chưa bao giờ các giác quan của hắn được mài sắc đến thế. Hắn là một người khổng lồ.
Con thú trong hắn đã thức giấc. Nó - con thú ấy - rất đẹp. Nhanh như tên. Không bao giờ cạn kiệt. Bản năng. Nghìn đời. Nó - con thú ấy - mạnh mẽ. Nó chúi mình xuống đất, khéo léo tránh một viên đạn, nó bắn, nó đứng dậy. Con thú ấy có tài đánh hơi tốt khủng khiếp. Nó luôn luôn tránh được lưỡi hái của tử thần. Ngược lại, nó dùng lưỡi hái ấy một cách đầy hiệu quả. Uyển chuyển. Thành thục.
Đúng vậy, con người trong Hitler đã chết. Con thú đã thế vào đó.
Hắn chạy. Hắn bắn. Hắn chạy.
Đây là lửa. Đây là đạn đã lên nòng. Đây là sự ngây ngất do nó mang lại. Ta hạnh phúc. Ta chưa bao giờ hạnh phúc như bây giờ. Cuối cùng ta cũng tồn tại. Lạy Chúa tôi, cảm ơn Người đã cho con biết chiến tranh là thế nào.
o O o
Bây giờ, Adolf H. ghét cay ghét đắng lũ chim. Đó là một trong những hậu quả của cuộc chiến. Từ vài tuần nay, tai hắn dỏng lên mỗi khi nghe thấy tiếng động, dò tìm sự tồn tại của một mối nguy hiểm lớn lao mỗi khi sự yên lặng bị xé rách dù ở mức nhỏ nhất; người hắn căng lên mỗi khi nghe tiếng kêu kin kít như chim yến của những trái pháo sáng báo hiệu trận đánh bắt đầu; người hắn lao chúi xuống mỗi khi nghe thấy tiếng xé gió nhè nhẹ, tươi mới của một viên đạn lạc, dán mình xuống đất khi nghe tiếng rít ác hiểm của những quả đạn ghém, toát mồ hôi lạnh khi nghe tiếng xuỵt chết người của mảnh đạn sau khi đạn pháo nổ; tóm lại, ngay cả trong những buổi sáng yên bình, rực nắng nhất, những âm thanh lũchim phát ra cũng không thể không làm hắn nghĩ đến cái chết.
Ngày hôm đó, trời ở Champagne đẹp đến mức người ta ngỡ đó là một thiên đàng nơi hạ giới. Adolf, Neumann, Bernstein và một vài người khác được nghỉ ngơi đôi chút. Họ đi ra đồng cỏ, men theo một con suối và ở lại đó.
Mọi người nhảy ào xuống tắm, trần truồng, giữa làn nước trong mát. Lấy cớ là đi tắm nhưng sự thật là họ cần tìm lại được một thân xác dùng được vào một việc gì đó khác ngoài việc bắn giết. Khi đã trút bỏ bộ quân phục, áo khoác, ghệt, bao đầu gối, đãy hai túi, vũ khí, họ mới gầy làm sao! Làm thế nào mà người ta có thể đeo từng ấy thứ trên người nhỉ?
Adolf thả mình theo dòng nước, hơi xa chỗ những người khác đang bơi. Chỉ mỗi Bernstein là không xuống tắm. Anh ngồi im trên bờ, mặc nguyên quần áo, nhá nhá những cọng cỏ. Con mèo nham nhở sẹo đang âu yếm cọ cọ vào đôi bốt của anh. Adolf đưa mắt nhìn thân thể những chàng trai quanh mình. Ngay cả sự trần truồng giờ đây cũng trở thành một kiểu đồng phục. Ngay cả những làn da trắng, những đường cong gân guốc vùng thắt lưng, ngay cả những vùng cơ hai đầu săn chắc, những bàn chân to lớn, vụng dại, ngay cả cái bộ phận nam tính vùi trong vùng lông hình tam giác, ngay cả cái bọng dưới đung đưa, vô ích, lạc loài cũng trở thành đồng phục. Những con thú. Ban đêm, ta không chiến đấu như một người Áo chống lại người Pháp, ta thậm chí không chiến đấu như một con người chống lại những con người khác; ta chiến đấu như một con thú chống lại cái chết. Ta cứu cái mạng của mình. Ta bắn vào cái chết, ta ném lựu đạn vào cái chết, không phải vào kẻ thù. Ban ngày, ta cũng là một con thú. Ta chỉ mong tiêu hóa được. Ăn. Ngồi một tiếng trong nhà xí, chổng mông phụt ra một bãi lỏng lỏng. Rồi ăn. Ngủ một chút. Ăn. Cuộc sống bị bó gọn lại thành sự sống. Thành cuộc đấu tranh sinh tồn.
Hắn ra khỏi nước và châm một điếu thuốc. À, có chứ! Mình còn hơn cả một con vật vì mình hút thuốc. Theo mình biết thì một con chuột hay một con hươu cao cổ thì không bao giờ hút thuốc. Cảm ơn quân đội nhé. Ngày ngày, người ta phân phát cái gì đó để cải thiện phần người trong họ, để họ đặt mình cao hơn cái dã man. Năm điếu xì gà. Mười điếu thuốc lá. Một củ cà rốt để gặm. Trao đổi sau đó ra sao là tùy họ. À đúng rồi, cả cái này nữa, hàng đổi hàng, đó là dấu hiệu của sự tiến hóa. Mình đánh giá thấp bọn mình mất rồi. Xin lỗi nhé. Hắn ngồi xuống, trần truồng, bên cạnh Bernstein. Theo phản xạ, con mèo cọ mình vào đùi hắn nhưng nó chợt nhảy dựng lên, khiếp sợ, khi nhận thấy người Adolf ướt đẫm.
Con mèo nhăn nhó làm họ bật cười.
- Cái giống mèo bao giờ cũng khiếp nước.
- Xem ra chúng cũng giống cậu đấy, Adolf nói với Bernstein.
- Ôi tớ thì, với tớ thì mọi chuyện phức tạp hơn một chút.
Bernstein ngoảnh mặt ra chỗ khác để Adolf không hỏi nữa.
Neumann lộn nhào rồi nhảy nhót tiến lại gần các bạn, nhí nhảnh đến mức trông như một đứa trẻ nghịch ngợm đang cởi truồng. Một lần nữa Adolf chiêm ngưỡng sự tương phản giữa làn da bủng beo và bộ râu quá đen, quá bóng, bao lấy cái mũi hếch tự hào và phập phồng của Neumann: trông anh như được vẽ bằng mực tàu.
- Tớ muốn các cậu nói xem lúc bốn mươi tuổi các cậu sẽ ra sao, Bernstein hào hứng nói, tay gãi gãi cái bụng êm ái của con mèo.
- Cậu bảo sao? Trước tiên hãy nói xem tại sao cậu không tắm?
- Ôi, cậu cũng đừng dính mũi vào chuyện đó nữa, Neumann. Hiện nay đang có một thứ dịch truyền nhiễm. Tất cả mọi người đều phải làm cùng một chuyện như nhau. Tất cả đều phải ra trận. Tất cả phải bị giết trên chiến trường. Tất cả cùng phải ăn một thứ đồ ăn chán như cứt. Sau đó, tất cả đều không thể ỉa ra cứt, cứt thật ấy. Tất cả đều phải tắm. Tất...
- Thôi thôi. Tớ hiểu rồi. Tớ thôi đây. Chúng ta phải kể gì đây?
- Kể cái mà mình sẽ làm từ hôm nay đến lúc chúng ta bốn mươi tuổi. Vì không chắc sáng mai có còn sống hay không, tớ thấy tưởng tượng sẽ là một cái thú. Tại sao lại phải nhịn tưởng tượng nhỉ? Các cậu đồng ý không?
- Đồng ý, Neumann nói.
- Đồng ý, Adolf nói.
- Ai nói trước đây?
Thật khó có thể suy nghĩ vào lúc này. Nếu gặp câu hỏi này vài tháng trước đây, họ đã trả lời không khó khăn gì nhưng chiến tranh đã áp đặt sự hiện diện mãnh liệt của nó, họ không còn liên hệ cả với quá khứ lẫn tương lai. Mỗi người phải cố gắng mới có thể nhớ lại được con người trước kia của mình và cái mình trông đợi trong một cuộc sống tốt hơn sự sống sót thuần túy hiện nay.
- Tớ nhé? Adolf nói khi chắc chắn rằng mình không cắt ngang mạch suy tư của các bạn.
- Nói đi.
- Nói đi.
- Nếu ngày mai không còn chiến tranh, tớ muốn quay lại Viên với các cậu, dành hẳn vài ngày để nấu những món ăn ngon nhất trên đời cho cả bọn, sau đó tớ lại vẽ. Tớ chưa tìm được phong cách của riêng mình. Tớ vẫn đang luôn luôn bắt chước ai đó. Tớ có quá nhiều thần tượng, cả Bernstein trong đó nữa. Tớ ngưỡng mộ thần tượng đến mức tranh của tớ chẳng có chút phong cách cá nhân nào. Tớ muốn vượt qua được giai đoạn làm kỳ nhông của mình.
- Thế năm bốn mươi tuổi cậu sẽ ra sao? Bernstein hỏi.
- Tớ sẽ trở thành một họa sĩ vững tay, kiếm được nhiều tiền, có tranh khổ nhỏ được một số nhà sưu tập tinh tế bỏ tiền mua và họ hy vọng mua được những tấm khổ lớn của tớ.
- Thế còn đời tư của cậu?
- Hoan lạc. Chỉ toàn hoan lạc. Có nhiều người đàn bà bám lấy tớ. Có thể sẽ trẻ hơn tớ một chút, chủ yếu là để đổi vị so với hiện nay. Đàn bà. Đúng vậy, tớ cần thật nhiều đàn bà.
- Đến lượt cậu, Neumann.
- Tớ thì đơn giản thôi các cậu ạ: ở tuổi bốn mươi, tớ trở thành họa sĩ sân khấu nổi tiếng nhất nước Áo và nước Đức thống nhất. Người ta không thể dựng một vở của Wedekind, của Debussy hay của Richard Strauss mà không có tớ. Còn một điều nữa là tớ lấy tiền công rất cao.
- Thế còn đời tư?
- Chẳng tư riêng gì hết. Tớ muốn có một người vợ chung thủy. Nàng tôn thờ, sùng bái tớ, đẻ cho tớ sáu đứa con, tự tay rửa đít và nuôi dạy chúng. Một vài nhân tình giàu có, những người không cưỡng lại được sức cuốn hút từ tài năng của tớ. Phần lớn họ là những nữ diễn viên. Và một mối tình lớn qua thư với một người đàn bà huyền bí, xa xăm, chỉ nghĩ đến việc bảo vệ thiên tài của tớ.
- Chỉ thế thôi ư?
- Tớ mới phác những nét thô thôi.
Cả bọn phá lên cười. Neumann đã miêu tả cái hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của anh bây giờ. Duy có mỗi chi tiết anh say mê thiết kế trang trí sân khấu là đúng.
Adolf quay sang Bernstein.
- Thế còn cậu.
- Tớ ấy à? Tớ hy vọng mình sẽ hoàn thành được một bức vẽ đáng nhìn.
- Nhưng cậu đã vẽ được rồi đấy chứ! Hai mươi bức rồi! Adolf phản đối.
- Không được cắt ngang, đã quy định rồi cơ mà. Tiền bạc ư? Chắc chắn tớ sẽ kiếm được.
- Nhưng cậu đã kiếm được rồi mà. Trên thực tế, cậu có tất cả rồi.
- Có thể. Dù gì thì khi tớ bốn mươi tuổi điều tớ hy vọng nhất là không phải nói dối các cậu nữa.
Adolf và Neumann đau đớn nhìn Bernstein. Lần này, Bernstein không đùa. Môi anh run lên.
- Cậu nói dối bọn tớ, cậu ấy à?
- Các cậu là bạn thân nhất của tớ và tớ vẫn chưa thể trần truồng trước mặt các cậu.
- Trần truồng? Ôi trời! Cậu đùa đấy à! Trần truồng thì có ích gì? Cậu là người hay ngượng ngùng, vậy thôi.
- Thậm chí là kín đáo quá đáng nữa.
- Nhưng điều đó không quan trọng!
Mặc cho Adolf và Neumann phản đối, Bernstein vẫn cụp mắt xuống. Anh không giấu được những giọt nướcmắt đang làm xót mi mắt đỏ lựng của mình.
- Tớ không thể để cho các cậu thấy con người thật của mình. Không thể nói với các cậu rằng khi nói chuyện về đàn bà thì tớ toàn giả vờ vậy thôi.
- Giả vờ gì cơ? Cậu không cùng gu với bọn mình, vậy thôi. Cậu thích các cô gầy gầy.
- Không, Bernstein nói. Tớ giả vờ là mình có gu giống bọn cậu. Tớ thích đàn ông cơ.
Adolf và Neumann im lặng.
Bernstein sợ hãi ngẩng đầu lên, nghĩ rằng các bạn vẫn chưa hiểu.
- Tớ thích cái ấy của đàn ông.
Adolf và Neumann ra hiệu để trấn an bạn rằng họ đã hiểu rồi, không cần phải nói thêm nữa.
Một cặp gà lôi bay vụt lên từ một bụi cây rậm rạp. Trên dòng sông, đám lính càu nhàu vì không có súng trong tay. Họ vừa nhìn thấy hai suất gà rô ti bay vòng vòng về phía Nam.
Adolf và Neumann tiếp tục im lặng. Giữa khung cảnh điền viên trữ tình ấy, nơi ngay ngoài rìa kia, chiến trường đang gầm gừ đe dọa, lời thú nhận của Bernstein vừa là chuyện động trời vừa chẳng có gì hệ trọng. Đành rằng họ có hơi rùng mình vì là bạn thân của một con người đã che giấu một góc tối trong mình như thế, nhưng ở đây, trên cánh đồng này, nơi sáng sáng người ta lại xếp xác những thanh niên đã chết thành từng hàng, bị sốc vì điều đó là chuyện nực cười! Chuyện đụng chạm xác thịt mới vô nghĩa làm sao khi mỗi ngày người ta phải nhặt nhạnh những thân xác bị xé toang, khi người ta ngả lêncáng những con người sắp bị hoại thư hay cưa cắt một phần cơ thể! Làm sao có thể xếp loại người này hơn người khác dựa trên một thứ tầm phào, riêng tư và chẳng ảnh hưởng đến ai như thế? Làm sao Adolf vàNeumann có một giây nào đó dám nghĩ là mình tôn quý hơn Bernstein, người thầy, đứa trẻ, thần tượng của họ chỉ vì họ thích được hưởng cái cảm giác sung sướng giữa hai đùi người đàn bà còn Bernstein thì không?
Adolf chấm dứt sự căng thẳng bằng cách ôm hôn Bernstein.
- Cậu là bạn của bọn mình. Cậu đã làm đúng khi thổ lộ điều ấy với bọn mình. Chẳng có gì phải xấu hổ cả.
Neumann cũng làm như vậy.
Bernstein vẫn còn run, vừa sung sướng vừa e ngại.
- Các cậu nói thật chứ?
- Thật đấy.
- Các cậu không kinh tởm mình ư?
- Không. Nhưng bọn mình cũng muốn cậu tắm táp một chút. Nói đùa thôi.
Bernstein cúi đầu như thể bị bắt lỗi.
- Tớ phải đợi mọi người đi đã. Họ gây “hiệu ứng” lên tớ. Tớ sợ là...
- ...sợ mọi người sẽ nhận ra “hiệu ứng” hả?
Cả ba cùng phá lên cười. Mọi chuyện đã chấm dứt. Họ không còn bị chia rẽ nữa. Cả chuyện đó nữa, họ có thể đùa với nhau được rồi.
o O o
- Con chó này của ai?
- Thưa thượng sĩ, của lính liên lạc Hitler ạ.
- Hãy nói với anh ta lên gặp tôi.
Thượng sĩ Hugo Gutmann vừa gãi gãi cái đầu hạ sĩ quan đẹp trai của mình vừa bước vào sở chỉ huy.
Lính liên lạc Hitler rõ ràng là người cuối cùng mà ông nghĩ tới có khả năng nhận nuôi một con chó hoang. Ông thấy anh lính này không có gì để chê trách cả, ngược lại, con người này luôn tỏ ra kiên cường, phục tùng mệnh lệnh, dũng cảm. Hitler cư xử như một người lính hoàn hảo, hoàn thành nhiệm vụ liên lạc một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn bất kỳ một người lính liên lạc nào khác, luôn luôn nguyên vẹn trở về bộ tham mưu, thông tin được chuyển tới nơi. Ông chẳng đã đề bạt anh ta lên cấp hạ sĩ rồi sao. Nhưng chính sự hoàn hảo ấy lại làm ông có đôi phần lo lắng. Hugo Gutmann có cảm giác là lòng yêu nước đã bóp nghẹt tất cả các tình cảm khác trong Hitler. Cô độc, không thư từ, không có nhu cầu nói chuyện tiếu lâm - cái giúp người ta chịu đựng được sự khủng khiếp của chiến trường, anh lính liên lạc này lên án mọi sự bông đùa, những câu chuyện nhả nhớt. Hugo Gutmann, người rất yêu đàn bà - và đàn bà làm ông thấy thoải mái - đã vô tình nghe được đoạn đối thoại làm ông sửng sốt:
- Thế nào Adi, cậu chắc là không muốn đi cùng bọn mình đến chỗ mấy em gái vui vẻ hả?
- Thật nhơ bẩn! Không thể chấp nhận được! Các cậu đi ngủ với mấy con người Pháp hay người Bỉ ư! Thế cái danh dự người Đức của các cậu để đâu?
- Không phải ở chỗ đó. Chúng tớ ngứa ngáy lắm rồi. Thôi nào Adi, đi với bọn tớ đi. Dù gì thì cũng có những cô gái người Đức ngon nghẻ trong nhà chứa.
- Không, tôi không có thời gian để mất vào những chuyện như thế.
- Thôi đi. Cậu đừng khiến chúng tôi tin là cậu lại sẽ tiếp tục đọc cái ông Schob... gì đó của cậu.
- Schopenhauer! Có chứ!
- Nói xem nào Adi, vậy thì người ta nói đúng ư? Rằng cậu chưa bao giờ yêu một cô gái nào?
- Tôi không có thời gian để mất cho những việc tương tự và không phải ngay ngày mai tôi sẽ làm chuyện đó.
Câu chuyện làm Hugo Gutmann ngớ người, ngạc nhiên quá đỗi. Tay lính liên lạc Hitler không nhận ra rằng mình là người lố bịch. Ngược lại, anh ta cảm thấy tự mãn, không chỉ nghĩ mình làm đúng, anh ta còn cho mình ưu việt hơn người. Đứng trên sự trinh nguyên của mình, anh ta đè bẹp các đồng đội. Gutmann đã rùng mình khi nghĩ rằng may mà cấp trên của mình không như thế. Nếu điều đó xảy ra, ông sẽ e ngại mệnh lệnh của họ. Làm thế nào để có thể chỉ huy người ta nếu chính anh không thuộc về loài người? Với ông, Hugo Gutmann, thì dường như việc ông xứng đáng với chức vụ của mình là vì ông giống những người lính dưới quyền mình, không dũng cảm hơn, cũng không hèn nhát hơn, cùng có những ham muốn như nhau, cùng có những lúc tục tĩu như nhau, giống những người khác, tầm thường, nhưng ông chỉ hiểu nhiều hơn họ một chút.
Tiến lại gần cửa sổ, ông nhìn thấy con chó đang rối rít lao về phía chủ, dường như nó đang bị lây sự kích động ấy. Anh ta ngồi xuống, mỉm cười và âu yếm vỗ vỗ vào đầu con vật. Sau đó, anh ta cho nó chơi bằng cách ném một cành cây ra xa. Cuối cùng, khi anh ta đang dạy con chó đứng trên hai chân sau thì có lệnh gọi.
Hugo Gutmann vê vê bộ ria, vẻ nghi hoặc. Rốt cuộc, ông đã nhầm. Tay Hitler cũng có cái gì đấy con người. Càng tốt. Nhưng điều này không thuận lợi cho ông chút nào. Về mặt nguyên tắc, ông không muốn có con vật nào hiện diện trong trại. Tuy nhiên, nếu tay Hitler này cần phải yêu cái gì đó và được yêu thì... Quỷ thật! Để rồi xem sao!
- Thưa thượng sĩ.
Gutmann nhìn hạ sĩ Hitler đang giơ tay chào, bơi trong bộ quần áo thùng thình vì quá gầy, da mặt bủng như chì, mắt lõm vào, ria mép bù xù, một gã tội nghiệp. Liệu ông có nên tước bỏ niềm vui duy nhất của gã hay không?
- Hạ sĩ Hitler, tôi cho triệu tập anh để... thông báo với anh là... tôi đã đề nghị tặng thưởng cho anh huân chương Thập tự sắt.
Nét mặt người lính liên lạc sáng lên, da căng lên vì xúc động. Mi mắt hắn nháy nháy vì không tin.
- Huân chương Thập tự sắt hạng hai, tất nhiên rồi. Với huân chương hạng nhất thì còn phải... chờ sau này.
Gutmann ngoảnh mặt đi, gần như thấy ngại ngùng vì sự xúc động mãnh liệt mà mình vừa gây ra.
- Anh có thể về được rồi.
- Cảm ơn thượng sĩ. Ngày nhận được huân chương sẽ là ngày đẹp nhất đời tôi.
- Tôi không nghi ngờ điều đó. Anh xứng đáng được tặng thưởng như vậy, Hitler, anh xứng đáng với phần thưởng ấy. À mà con chó ở đằng kia là của anh đấy hả?
- Vâng, thưa thượng sĩ. Tôi đã tìm thấy nó trong chiến hào, nó bị lạc. Tôi đang huấn luyện nó.
- Rất tốt, rất tốt.
- Tôi đặt tên cho nó là Foxl.
- Rất tốt. Rất tốt. Nếu nó không làm vướng chân đại đội thì tôi nghĩ là... tôi có thể chấp nhận... người bạn đồng hành của hạ sĩ.
- Tôi yêu nó. Nó chỉ nghe lệnh của tôi.
Gutmann ngồi xuống. Ông đặt ngón trỏ lên ria, giả bộ đang vân vê để giấu sự bối rối, vừa thương hại vừa muốn phá lên cười. “Tôi yêu nó. Nó chỉ nghe lệnh của tôi”. Con quỷ tội nghiệp, do phải tuân theo quá nhiều mệnh lệnh, đến lượt mình nó cần phải ra lệnh cho người khác. Hitler diễn vai thượng sĩ, con chó làm lính. Làm sao ông không nghĩ ra điều ấy sớm hơn nhỉ? Một sự bù trừ... Không phải là tình yêu mà là một sự bù trừ.
Gutmann biết rằng tính hay giễu cợt của mình sắp làm ông mất vẻ nghiêm túc. Hai giây nữa thôi ông sẽ phá lên cười... Ông rút khăn mùi soa khỏi túi và giả vờ hắt hơi.
- Chúc thượng sĩ như ý_.(12)
Tay Hitler này thực sự có tài nói những câu ngớ ngẩn: “Chúc thượng sĩ như ý.” Vì thế, Gutmann hắt hơi thêm một lần nữa.
- Cảm ơn hạ sĩ Hitler. Anh đi được rồi.
- Thượng sĩ làm rơi cái này.
Hitler cúi xuống nhặt mẩu vải rơi từ túi thượng sĩ xuống sàn nhà. Hắn nhận ra đó là một cái kippa(13).
Gutmann bối rối chộp lấy cái mũ chỏm rồi vội vàng đút ngay vào người. Ông không muốn thuộc cấp biết nguồn gốc của mình. Ông đang chỉ huy với tư cách là một người Đức, không phải với tư cách người Do Thái. Trong các tầng lớp bình dân đã có quá đủ những biểu hiện phân biệt chủng tộc bột phát đe dọa tới sự uy nghiêm của ông.
Ông nhìn Hitler, vẫn đang tươi cười không tỏ chút gì bối rối trước cái vừa phát hiện ra. “Mình gặp may! Anh ta không phải là người bài Do Thái! Hitler là một loại máy móc, không phải là con người, nhưng anh ta không bài Do Thái.”
- Cảm ơn, anh có thể đi được rồi. Đương nhiên, tất cả những gì đã nói ở đây phải được giữ bí mật. Ý tôi là việc đề nghị tặng thưởng huân chương Thập tự sắt cho anh, tất nhiên.
Khi Hitler quay về với con chó của mình, con vật hình như cũng hiểu rằng chủ của mình sắp được tặng thưởng huân chương Thập tự sắt, nó rối rít vui mừng. Hitler kể với con chó hàng mớ chi tiết về cuộc nói chuyện của mình với thượng cấp rồi hắn ca ngợi những đức tính của thượng sĩ Gutmann. Hitler yêu quân đội nên hắn yêu thượng sĩ Gutmann, biểu tượng hoàn hảo của một người sĩ quan, đẹp, thanh mảnh, mạnh mẽ, giọng nói sang sảng, ngôn từ nhã nhặn. Như thường lệ, Foxl dành cho ông chủ một sự chú ý hơi phân tán nhưng dường như nó đồng ý với chủ.
Hitler càng sung sướng hơn khi hắn vừa kết thúc ba ngày nghỉ bắt buộc dành cho những người lính liên lạc và ngay từ tối nay, hắn sẽ đi công tác ba đêm.
Để chuẩn bị cho cuộc tấn công, hắn rút quyển sổ nhỏ màu ôliu của mình ra và lẩm nhẩm tính. Từ đầu cuộc chiến, hắn đã thống kê số lượng thương vong của trung đoàn mình: hơn tám mươi phần trăm quân số đã chết. Ban đầu trung đoàn có ba nghìn sáu trăm người, hiện còn sáu trăm mười một người sống sót. Tuy có những cái chết không được tính vào số thương vong vì đó là chết do nhầm lẫn. Trung đoàn xứ Saxe và xứ Wurtemberg đã bắn vào trung đoàn Munich vì nhầm tưởng họ là quân Anh. Nhầm. Không nên giận họ hơn thế để làm gì. Vả chăng, những người đáng lẽ phải tức giận nhất - những tử thi - thì nay không còn khả năng phản đối nữa. Nhưng dù sao thì máu cũng đã chảy nhiều trong vụ này. Trong khi đó, cái làm Hitler quan tâm nhất không phải là con số thương vong mà là con số những người sống sót. Hay chính xác hơn, ai là người sống sót.
Hắn đã thoát khỏi mọi hiểm nguy. Làm thế nào mà hắn chưa bao giờ bị trúng đạn? Tại sao những quả đạn ghém luôn bay trệch khỏi người hắn? Tại sao cả đạn pháo cũng tránh hắn? Hắn buộc phải tự đặt ra cho mình đặt ra câu hỏi đó.
Hai tuần trước, giữa ban ngày, khi hắn đang đứng tương đối xa mặt trận, gần lán tham mưu Fromelles, chợt một trận oanh tạc đổ xuống, trầm đặc, nghe có vẻ êm êm, hắn đi về phía chiếc xe của đại tá List để xem xét. Tay tài xế đang nằm dài trên bãi cỏ cách chiếc xe hai chục mét gọi hắn lại giữa đường để hỏi chuyện. Hitler dừng lại và nói chuyện khoảng ba mươi giây. Một quả đạn pháo rơi xuống làm nổ tung chiếc xe. Ở chính cái chỗ mà lẽ ra Hitler sẽ đứng nếu hắn không dừng lại trả lời tay lái xe. Chỉ còn lại vài mảnh tôn, vài bộ phận của mô tơ tung tóe khắp nơi và một làn khói đen nhạt bốc lên từnhững chiếc bánh xe đang cháy.
Ngẫu nhiên chăng?
Vài phút sau, hắn chạy cùng Schmidt và Bachmann trong đường hào để truyền một mệnh lệnh, liệu có phải cũng lại là ngẫu nhiên chăng khi điều không thể tin được lại xảy ra? Cơn lốc lửa không chừa một ai. Mặt đất rung lên vì dư chấn của đạn đại bác. Trong bóng tối, các tia lửa tóe ra loẹt xoẹt. Những tiếng rít lanh lảnh xé toang không khí, cắm phầm phập những mảnh thép vào cây cối và da thịt. Ba người lính liên lạc dán mình xuống đất hồi lâu, vai và đầu chúi dưới bao cát, thu mình lại như rùa. Họ phải chịu đựng một trận bắn dồn dập, từng tràng đạn nổ trên không và đạn nổ khi chạm mục tiêu bay sát sạt. Hitler lăn sang bên phải. Một giây trước đó hắn đã hiểu rằng sau cái tiếng xoèn xoẹt mỗi lúc một thanh hơn, quả đạn pháo sẽ rơi đúng chỗ hắn. Một cú chạm đất nặng nề, mặt đất phía bàn tay phải của hắn rung lên. Đất sét văng đầy người hắn. Quả đạn không nổ.
Tại sao chính quả đạn này lại không nổ? Ngẫu nhiên chăng?
Hay có thể nói là có một sự che chở nào đó?
Đúng vậy. Một sự che chở lạ kỳ đang bao bọc Hitler bằng một tấm áo giáp không gì xuyên thủng được?
Tối hôm đó, quân Anh và quân Pháp mở màn trận đánh một cách rầm rộ và đầy uy lực, dường như họ quyết tâm tiến hành một trận đánh điên cuồng.
Hitler cột con chó của mình sau tòa nhà Fournes nơi đặt ban tham mưu và vội vã đi về phía Fromelles. Ở đó, người ta cử Hitler, Schmidt và Bachmann tới một sở chỉ huy tiền tiêu. Bao giờ người ta cũng gửi lính liên lạc đi thành nhóm để chắc chắn là mệnh lệnh được truyền đạt ngay cả khi một trong số họ bị trúng thương.
Nhọc nhằn lắm họ mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Khi đi vào tòa nhà, Hitler chợt linh tính một điều gì đó vừa mơ hồ, vừa mãnh liệt. Hắn thấy miệng có vị lạ, thấy mình như cây đèn dầu leo lét và cảm giác có tai họa đang đến. Chúa ơi, nếu chúng ta thua trận đêm nay!Hay đó là Foxl. Ai đó đã cởi dây buộc Foxl. Không, đó là chiến tranh. Tôi không biết. Hắn ra khỏi tòa nhà, hơi mất phương hướng một chút và hít thở thật sâu bầu không khí mát lành của buổi đêm để lấy lại sức.
Vụ nổ đẩy hắn ngã chúi xuống đất.
Một quả đạn pháo vừa bắn trúng sở chỉ huy. Nó vừa nổ tung trong tòa nhà. Một lò mổ. Những thi thể đẫm máu. Sọ thủng. Ngực vỡ toác. Chân bị tiện cụt. Trong đó có rất nhiều người: trực tổng đài, lính liên lạc, hai đại úy, một thiếu tá. Schmidt và Bachmann lúc đó đang ở trong và người ta không thể phân biệt được họ ở đâu trong cái đống bầy nhầy ấy. Người ta phải mất hai tiếng để mang tất cả các thi thể và mảnh sót lại ra khỏi đó. Khi ra vào vận chuyển, những người tải thương giẫm nát những cục máu đông dính đầy bụi. Vài mảng da người sót lại dính bết vào những vạt tường còn chưa đổ.
Lần này, Hitler không băn khoăn gì nữa. Hắn cả quyết. Không phải ngẫu nhiên mà hắn luôn bình an vô sự. Hắn được bảo vệ. Định mệnh đã cho hắn cái linh tính lạ kỳ xui khiến hắn đi ra ngoài tòa nhà ấy. Một loại khế ước đã được ký kết giữa Ông trời và hắn cho hắn tham gia vào cuộc chiến này. Cho hắn chiến thắng. Và sống sót ra khỏi cuộc chiến.
Khi thượng sĩ Hugo Gutmann đến nơi nhìn thấy cảnh tượng ấy, ông rụng rời chân tay.
Hitler giật nảy mình khi nhìn thấy thượng cấp. Hắn vừa nhận được thêm một lời khẳng định. Trong đầu hắn đã thoáng sợ rằng thượng cấp của mình cũng bị xé nát trong cái đống đổ nát kia. Nếu quả đạn cối đã tránh thượng sĩ Gutmann, điều ấy có nghĩa là Hitler chắc chắn sẽ có huân chương Thập tự sắt.
Số phận đã trải thảm đỏ cho hắn. Hắn tìm lại được cảm giác ngây ngất hồi còn thơ, cái cảm giác rằng không gì có thể trụ mãi được trước sức mạnh nghị lực của hắn.
Không, hắn đã có bằng chứng, một bằng chứng lặp đi lặp lại: mọi chuyện không phải là ngẫu nhiên. Trời cao đã ưu ái hắn. Sao bản mệnh luôn chỉ đường dẫn lối cho hắn. Hắn không như những người khác: số mệnh của hắn đã được định trước.
o O o
Cái rét cũng giết chết nhiều người như lửa đạn.
Những tảng đất đông cứng bị xới lên, khi rơi xuống đất cũng có khả năng sát thương ngang bằng mảnh đạn. Từ chiều muộn đến giờ, bom đạn dồn dập nã xuống mảnh đồi trơ trụi, cháy sém, phủ đầy những người lính rét cóng, người bị thương và xác chết.
Một loạt đạn nổ dồn về phía Adolf H., Neumann và Bernstein. May thay nó quá ngắn; đạn rít lên và chỉ đủ sức bắn những tảng đất sét đóng băng vào mặt họ.
- Trượt rồi! Bernstein nói.
- Uổng quá! Adolf nói.
Đó là cái nghi thức mang tính châm biếm của họ: sau mỗi lần thoát khỏi nguy hiểm, ba người bạn giả bộ thất vọng.
- Trượt rồi!
- Uổng quá!
Đó là cách họ thưởng thức chiến thắng - chiến thắng của họ chứ không phải của nước Đức - là được sống sót.
Adolf vui mừng và không hề ngạc nhiên vì điều đó. Hắn thấy những người lính khác tối tối lại tìm đến những điều phi lý: cầu khấn, làm dấu thánh, niệm chú, lần giở bùa hay những vật cầu may khác trước khi ra trận, còn hắn thì chẳng còn tin vào cái gì nữa. Tất cả phụ thuộc vào sự ngẫu nhiên. Không ai đi cầu khấn sự ngẫu nhiên bao giờ. Những cái xảy ra chỉ là chuyện ngẫu nhiên. Người ta ngẫu nhiên được phân về trung đoàn này hay trung đoàn kia. Người ta ngẫu nhiên ở cách quả đạn pháo mười mét hay hai xăng ti mét. Người ta ngẫu nhiên được sinh ra trên đời. Người ta ngẫu nhiên mà chết. Adolf chẳng tin vào cái gì, chẳng trông đợi gì. Hàng đêm, cơ thể hắn tự phản ứng với những chuyện xảy ra xung quanh, dán mình theo phản xạ xuống đất trước hiểm nguy. Adolf để mặc cơ thể mình làm việc ấy, cái thân thể này biết rõ rằng đầu óc của nó chẳng để làm gì cả. Do đó, nó chỉ còn duy nhất mộtcâu khẩu hiệu: thờ ơ.
Bernstein và Neumann đều nghĩ như vậy. Họ đang ngụp lặn trong đại dương của thuyết định mệnh. Cái gì phải đến sẽ đến, họ chẳng còn trông chờ gì nữa. Điều này lẽ ra là cái đáng tuyệt vọng nhưng trong hoàn cảnh này, chính hy vọng lại là cái làm cho người ta đau đớn. Sự tuyệt vọng lạnh lùng, linh hoạt, hợp thời này là cái duy nhất cứu giúp được họ.
- Trượt rồi!
- Uổng quá!
Hôm trước, lần đầu tiên Adolf cãi nhau với Bernstein và Neumann. Và với hắn, dù chỉ trong giây phút, đó là điều trầm trọng hơn tất cả phần còn lại của chiến tranh.
Trong một đợt tấn công chiến hào, Adolf đã bắt một tù binh. Tù binh đầu tiên của hắn. Người thanh niên mười chín tuổi ấy đã quỳ xuống và dù không hiểu tiếng Pháp Adolf vẫn hiểu rằng kẻ địch đang xin tha mạng. Adolf hoàn toàn có thể lựa chọn: hắn lẽ ra có thể hành quyết tên tù binh. Nhưng có khác biệt lớn giữa việc bắn vào những cái bóng lấp loáng xa xa và việc gí súng hành quyết một con người đang đưa mắt cầu khẩn và hơi thở dập dồn vừa chạm vào hơi thở của mình. Adolf đã đầu hàng. Một người lính khác rất có thể cũng sẽ xử sự như thế nhưng là vì một lý do khác: người ta sẽ được tặng thưởng mỗi khi bắt được tù binh. Adolf đã không bắn bởi tay lính pháo binh kia không còn nguy hiểm một chút nào với hắn và nguyên tắc nhà binh của hắn dừng lại ở đó.
Khi hắn giải anh ta về, mọi người lính khác đều xỉ vả tù binh, nhổ vào mặt anh ta, tuôn ra lòng căm thù quân địch vào cái mặt của kẻ thù mà cuối cùng họ cũng được nhìn thấy. Cái gì ở tay thanh niên này cũng đều bị lôi ra chế giễu, trở thành trò cười, bị cho là thô thiển. Chỉ trong vòng vài phút, tay thanh niên bình thường và tầm thường đã trở thành một con quái vật trong mắt mọi người.
Neumann và Bernstein đi đến và góp chung tiếng nói của mình vào mớ hỗn độn ấy.
- Các cậu đã nhìn thấy mồm nó chưa? Bé tí. Ác độc. Đó có thể là cái miệng của một con rắn nếu rắn có mồm.
- Xem cái quần của nó kìa? Đỏ chóe, được mẹ là lượt phẳng phiu. Mụ ta sẽ buồn đây, mụ mẹ của nó ấy, khi biết rằng thằng quý tử bị đám Boche(14) độc ác bắt làm tù binh.
- Các cậu đừng làm vậy! Không! Tôi van các cậu: ai cũng được nhưng các cậu thì đừng!
Adolf cắt ngang lời các bạn, cảm thấy bị xúc phạm, chân giạng ra như để bịt kín mọi lối tiếp cận với tay tù binh của mình.
- Không, cậu đừng tham gia vào việc này, Bernstein. Cả cậu nữa, Neumann. Trước hết, các cậu có thể nói tiếng Pháp với anh ta vì các cậu biết tiếng Pháp mà.
- Tớ không biết tiếng Pháp nữa. Tớ đã quên tiếng Pháp ngay từ cái ngày 28 tháng Bảy năm 1914 ấy.
Adolf sững sờ. Chiến tranh đã cướp mất các bạn của hắn khi họ còn sống.
Hắn giao tên tù binh cho viên sĩ quan phụ trách trại giam.
Khi ra khỏi lán giam, Bernstein và Neumann đợi hắn ở ngoài để thanh minh.
- Adolf, chúng tớ ở chiến trường lâu hơn cậu một chút và hãy tin bọn tớ, bọn tớ biết nhiều hơn cậu một tí.
- Chiến tranh và sự gian dối là cần thiết.
- Cần phải sống chung với người khác Adolf ạ, tuân theo luật của bầy đàn, trở nên ngu ngốc nếu không cậu sẽ bị điên hoặc đào ngũ.
- Chúng ta cũng vậy, chúng ta cần đến những ý nghĩ thấp hèn nhất, giả dối, thô lỗ nhất. Nếu không...
- Xin lỗi, Adolf trả lời. Tớ không muốn chấp nhận rằng chiến tranh đã thay đổi các cậu đến mức này.
Bernstein và Neumann cúi đầu, vẻ thảm hại, sự im lặng đầy lúng túng của họ chứng tỏ họ thấy Adolf có lý. Nhưng từ đó đến việc thú nhận thì...
Đêm đó, ba người bạn lại chiến đấu với một sự chia rẽ mong manh khiến họ kém gắn kết với nhau hơn.
Một cái xà vừa rơi xuống phía sau họ do sức ép liên tục của đạn cối. Hỏa lực địch đang tập trung vào họ. Cần phải chạy ra khỏi đoạn hào này.
Họ nhảy sang một đường hào nhánh.
Cũng bị tắc nốt.
Họ ra khỏi chiến hào rồi chạy.
Một tiếng nổ vang lên. Một luồng sáng rực lên. Một tiếng rít.
Adolf, trong một tích tắc, thoáng nhìn thấy một mảnh đạn bay về phía mình. Hắn thấy đau nhói ở dạ dày. Hắn không dám tin vào điều đó. Hắn chợt thấy một cú sốc đột ngột và dữ dội đến mức người như bị cắt làm hai. Hắn tiếp tục chạy. Hắn vẫn làm được điều đó. Hắn không dám dùng tay sờ vào vùng bụng chỗ dạ dày. Hắn quá sợ. Hắn tiếp tục chạy. Cuối cùng, hắn lấy dũng khí sờ khắp người xem mình bị thương ở đâu. Chiếc áo khoác thô ráp ướt đầm. Hắn thấy máu đang trào qua giữa các ngón tay. Hắn phải thừa nhận mình đã bị thương.
Ngay lúc ấy, một viên đạn bay tới găm vào sườn hắn. Kỳ lạ thay, hắn còn kịp nhìn thấy chính xác một túm vải dạ xanh bay lên.
Một ánh chớp lóe lên làm hắn chói mắt rồi không nhìn thấy gì nữa.
Hắn lảo đảo.
Hắn ngã xuống.
Hắn chết.
o O o
Đêm thánh vô cùng
Giây phút tưng bừng
Đất với trời
Xe chữ đồng
Dưới ánh sao khuya vang lên những tiếng hát say sưa, mỗi lúc một to dần. Run lên vì xúc động, tiếng hát của những người đàn ông vang lên, chính họ cũng ngạc nhiên không hiểu sao tiếng mình lại du dương đến thế. Nó vượt lên những tiếng hét - hét để ra lệnh, hét vì sợ hãi, hét vì đau đớn - làm cho tiếng động của kim loại - tiếng đạn, tiếng đại bác, tiếng liên thanh - phải im bặt, nó đột nhiên vượt lên trên chiến tranh, mỏng mảnh, rụt rè, nó không tin được rằng khi trở thành âm nhạc mình lại có được cái quyền năng ấy. Nó san sẻ sự hòa cảm của mình sang cả hai bên chiến tuyến. Mỗi thứ tiếng đềumang đến phần lời của cùng một bài hát nhưng nhờ vào sự thần kỳ mang tính hòa giải của âm nhạc và số đông, bài hát Holy Night, Stille NachtDouce Nuit(15) tan hòa vào nhau thành một câu duy nhất, hài hòa, xúc động, xé lòng, hát mừng đêm Chúa giáng sinh. Trời hôm ấy lạnh, đất đông cứng, nhưng những người lính lúc bấy giờ đang được sưởi ấm bằng bài hát. Một sự rạo rực ở mỗi người một khác, gần như hơi ủy mị, đang dâng lên trong những lồng ngực trai tráng, tiếng hát tròn trịa, những âm sắc say sưa bởi chính sự gợi cảm của mình, hơi thở tự nuôi dưỡng chính mình bằng một năng lượng dài hơi, đầy không khí, bồng bềnh và đằng sau những âm thanh trầm trầm, qua tiếng hát đồng thanh của những người lính lông lá và lem luốc này, người ta chợt nghe thấy một dàn đồng ca của trẻ em.
Hitler giận điên người. Lánh lại trong hầm trú ẩn cá nhân, hắn bịt tai lại. Hắn kịch liệt phản đối cuộc đình chiến bột phát trong dịp Noel này giữa những người lính Đức, Anh và Pháp. Họ tụ tập trong mảnh đất hoang vắng giữa những chiến hào của các bên để bắt tay nhau và cất tiếng hát những bài thánh ca. Hitler điên dại giậm chân xuống đất.
- Làm sao có thể để chuyện như thế xảy ra ngay lúc chiến tranh nhỉ!
Foxl, ngồi ngoan ngoãn dưới đất, gãi gãi tai và đưa mắt nhìn Hitler, vẻ không hiểu lắm.
o O o
- Đưa anh ta đi!
Adolf H. tỉnh lại đúng vào lúc những người tải thương nhấc tấm bạt mà hắn nằm trong đó, vết thương vẫn tiếp tục chảy máu. Hắn còn kịp nhìn thấy Neumann và Bernstein đang chạy bên chiếc cáng, hẳn là họ muốn đưa bạn mình đến tận xe cứu thương. Hắn muốn nói với họ một câu gì đó, muốn ra hiệu cho họ rằng hắn vẫn còn sống nhưng không một âm thanh nào thoát ra khỏi miệng hắn, tứ chi tê liệt. Adolf không hiểu tại sao, trong thâm tâm, hắn đang hét lên gọi và nắm lấy tay các bạn, thế mà không hành động nào trong số đó có vẻ đang xảy ra.
- Ê, nhìn này! Cậu ấy đã mở mắt rồi này!
Trong xe cứu thương, Bernstein và Neumann xúc động cúi xuống nhìn Adolf. Người ta thấy nước mắt long lanh trên mi mắt của họ. Liệu có nghiêm trọng đến thế không nhỉ? Trông họ có vẻ đang bàng hoàng. Liệu có phải mình đang chết đi mà không hề nhận thấy? Lạ thật, Adolf không hề thấy đau và cảm thấy thanh thản. Thậm chí từ vài tháng nay, hắn chưa bao giờ cảm thấy bình tâm như thế. Hay là họ đã tiêm cho mình một mũi? Thuốc phiện chăng?
- Mọi việc rồi sẽ ổn thôi, Adolf ạ. Cậu sẽ được chăm sóc.
- Chúng ta sẽ mau chóng gặp lại nhau thôi, cậu đừng lo lắng gì nhé.
- Hãy cố gắng chống chọi trong mấy tuần tới nhé. Nghiến răng vào và mọi việc sẽ ổn thôi.
- Bọn mình sẽ đến thăm cậu trong kỳ nghỉ phép, cậu nghe rõ chứ?
- Bọn mình sẽ đến và cả ba đứa chúng mình sẽ gặp lại nhau. Cậu rõ chứ?
- Bọn mình yêu cậu, Adolf ạ.
- Bọn mình yêu cậu. Cậu ấy có nghe thấy bọn mình nói không nhỉ?
Adolf không trả lời được. Nhưng hắn gượng hết sức cười với các bạn. Ít nhất liệu họ có nhận ra nụ cười của hắn không nhỉ? Hay là hắn vẫn nhợt nhạt, trống rỗng, không biểu lộ tình cảm gì, giống như hắn từng nhìn thấy bao nhiêu người bị thương khác như vậy? Hắn có cái vẻ cứng đơ xám xịt như những người bị thương đang nằm liệt bại không nhỉ? Trong khi đó, hình như hắn còn đang hiện diện nhiều hơn bất kỳ lúc nào khác. Với một sự nhạy cảm cao độ, các giác quan của hắn nhận biết sức nặng của cơ thể mình trên tấm vải, mùi chloforme, những nét nhăn nhó trên khuôn mặt của hai người bạn đang ở phía trên hắn.
- Xuống đi, xe chạy đây! Người tải thương hét lên.
Bernstein và Neumann biến mất khỏi mắt hắn. Vào lúc đó, Adolf chợt nhận ra rằng mình đang không ở trong một trạng thái bình thường; hắn vừa đi vào một thế giới khác, một thế giới nơi chiến tranh không còn nữa, nơi hắn không còn lo sợ gì nữa, nơi cơ bắp của hắn không bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi, một thế giới êm ái, thoải mái, êm như nhung, nơi thời gian dường như đang thiêm thiếp, vĩnh hằng. Hắn vẫn còn sống và hắn thoát ra khỏi những dãy đường hầm của cái chết. Tất cả những trạng thái khác - đau đớn hay sầu não vì phải chia tay bạn bè - đều biến mất trong một tiếng thở phào nhẹ nhõm khôn cùng.
Chiếc xe cam nhông cũ kỹ rung lên khục khục rồi lắc lư đi trên con đường nham nhở những mảng nước bị đóng băng và những hố bom, hố đạn. Những cú xóc nảy làm cơn đau quay lại. Khắp người, da thịt hắn bắt đầu đau như bị xé. Hắn run cầm cập vì lạnh. Liệu có phải là cơn sốt?
Cơn đau kéo hắn trở lại với thực tại, Adolf phát hiện ra rằng mỗi bên cáng hắn còn có ba hay bốn chiếc băng ca xếp chồng lên nhau do hai y tá trông chừng.
Người lái xe bắt đầu chửi thề mỗi khi đi qua những chỗ đường gồ ghề, nơi bánh xe xóc nảy lên, như thể anh ta chửi rủa con đường vì sự đau đớn mà nó bắt những hành khách trên chuyến xe này phải chịu đựng, sau đó khi đường đã bằng phẳng hơn, anh ta chụm môi huýt sáo một điệu valse Viên.
Sự đau đớn chìm đi rồi lại nổi lên. Adolf trở thành một con sóng. Đôi khi, những cú xóc nảy ru hắn, đôi khi chúng lại quần hắn một cách tàn bạo ở một vết thương. Hắn bồng bềnh.
Qua khe hở trên bạt xe, hắn nhìn thấy một ngôi sao, một ngôi duy nhất đang lấp lánh trên bầu trời sẫm và lạnh. Hắn có cảm giác như ngôi sao ở đó chỉ dành cho hắn mà thôi. Nó là niềm hy vọng của hắn. Ánh sáng của nó thẳng và trắng. Thản nhiên.
Người lái xe vừa đi xuyên qua đêm vừa hát oang oang. Cảm xúc ngập lòng Adolf. Hắn rơm rớm khóc, đó là hiệu ứng của điệu valse Viên: một nhịp điệu vui tươi đến se lòng bởi một nỗi buồn vô hạn.
o O o
Giờ đây Hugo Gutmann sợ hắn.
Hitler đứng ngay đơ ở cuối phòng, mặt đỏ gay, một mực cho rằng mình có lý và không chịu giữ im lặng.
- Đó là một tên đào ngũ! Tôi xin cam đoan rằng Schôndorf đã đào ngũ.
Viên thượng sĩ để yên cho lính liên lạc Hitler kịch liệt chỉ trích vì hắn sẽ trở nên hung bạo hơn nếu bị ép phải im lặng. Như thường lệ, khi buồn chán, viên thượng sĩ thường dùng tay kiểm tra độ mượt mà của bộ ria. Không gì làm ông ta an tâm hơn là việc chạm vào cơ thể mình và nhìn thấy mình, đỏm dáng, trong gương.
Chiến tranh cứ kéo dài. Từ nhiều tháng nay, các bên tham chiến giành giật cùng một dải đất, tiến lên hai mươi mét, lùi lại một trăm mét. Ở cả hai phía, sức lực đang cạn kiệt do cứ cố bám giữ mãi một vị trí, họ có cảm giác bị mắc bẫy trong một cái lồng và vĩnh viễn không thoát ra được, trừ khi chết. Bộ chỉ huy đã khẳng định lại điềm xấu này bằng một sai lầm là đưa những người bị thương, sau khi được chữa trị, về nơi chiến đấu cũ, nơi cái chết đã không chọn họ ở lần thứ nhất. Do đó, họ có cảm giác là người ta chuyển lại họ về đây để lần này, thần chết sẽ hoàn thành công việc của mình. Kết cục là tâm lý nổi loạn xuất hiện đó đây. Kết cục là ngay cả những người lính trung thành cũng thử đào ngũ.
Hugo Gutmann hiểu điều này dù vẫn phải lên án họ. Thậm chí chính ông đã chẳng mơ được thoát khỏi tất cả điều đó hay sao? Không mấy kẻ đào ngũ thoát được một cách êm thấm. Nhiều người bị bắt lại và bị bắn. Vài người đã tìm được cách trốn thoát một cách tinh tế hơn: họ tự làm mình bị thương để được chuyển về tuyến sau.
Lính liên lạc Hitler có một niềm đam mê chiến đấu vì Tổ quốc lớn đến nỗi hắn là người cuối cùng nghi ngờ những người lính khác trí trá như vậy. Khổ nỗi, một hôm, người ta đã nói cho hắn biết trò lừa bịp này và từ đó, Hitler nổi đóa và nghi ngờ tính chân thực của mọi vết thương. Sáng nào cũng vậy, hắn đến cùng những nhân viên quân y và tiến hành điều tra. Quả thực, hắn đã tìm ra một biện pháp đáng gờm để tìm ra những vết thương người ta tự gây cho mình ở khoảng cách gần dựa vào một vết thuốc súng rớt trên da hoặc vải.
Các tiêu chí này được áp đặt trong suốt nhiều tuần bất chấp sự phản đối của một số người và vì nó một vài người đã bị bỏ tù nhiều năm liền. Tuy nhiên, một số lính chiến đấu xuất sắc, gan dạ trên chiến trường, đã đến ban tham mưu phản đối vì trong những trận giáp lá cà, chiến đấu ở cự ly gần, không thể lấy chuyện vết thuốc súng làm cơ sở đánh giá một người lính giả vờ bị thương hay không được. Ban tham mưu sợ rằng lần này sẽ có những sự bất tuân mệnh lệnh nghiêm trọng hơn trong khi cuộc chiến đang kéo dài không hồi kết, đã lùi bước và bỏ các cuộc điều tra kiểu này.
Hitler tức đến phát điên. Hắn thích giải pháp của mình - hắn thích các giải pháp đơn giản - và không chịu nổi việc nó không còn được áp dụng nữa. Vì thế giờ đây hắn nghi ngờ tất cả những ai đang bày ra những vết thương phản quốc. Hắn tra hỏi những thân hình đang hấp hối, hắn cúi người, vẻ nghi hoặc, xem xét những khúc xương lộ ra trên những đống thịt bầy nhầy, hắn trở thành người khám xét giữa những nhân viên y tế. Các bác sĩ cảm thấy bị xúc phạm đã yêu cầu thượng cấp của Hitler bảo hắn tránh xa chuyện này. Hugo Gutmann vừa thực hiện xong yêu cầu đó của họ.
- Nếu để một sự lơi lỏng như thế xảy ra thì kết cục quân đội Đức sẽ mất tinh thần, Hitler cự nự.
- Lính liên lạc Hitler, người ta không úy lạo tinh thần bằng sự khủng bố.
- Thượng sĩ phê bình tôi vì sự nhiệt tình của tôi ạ?
- Tôi không phê bình gì anh cả. Anh là một hạ sĩ mà nước Đức tự hào; tấm huân chương Thập tự sắt là bằng chứng. Nếu ai cũng có đức tin vào Tổ quốc như anh thì chúng ra sẽ chẳng phải nghi ngờ ai cả. Nói vậy nhưng tôi vẫn cho anh một mệnh lệnh: cấm anh buổi sáng đi xuống dò xét các thương binh; anh cần phải để ê kíp y tế làm công việc của họ. Rõ rồi chứ? Nếu không, tôi cho anh vào tù. Anh đi được rồi.
- Tuân lệnh, thưa thượng sĩ.
Hitler chào rồi quay gót đi ra cửa.
Kiệt sức, Hugo Gutmann thả mình xuống một chiếc ghế và châm một điếu thuốc. Một tay cuồng tín hết sức! May mắn là người ta chế ngự những con người kiểu như thế này bằng sự tuân lệnh. Thử tưởng tượng nếu hắn ta là người ra lệnh thì... Hugo rùng mình thấy điếu thuốc của mình có vị của tàn thuốc.
o O o
Bệnh viện.
Cái tòa nhà to và tối này bấy lâu nay vẫn là bệnh viện ư? Đó chẳng phải là một tu viện sao? Hay trường dòng? Dù gì thì các xơ, như những con chim câu trắng thoăn thoắt, vẫn luôn bay trong đó, từ phòng này sang phòng khác, trong tiếng sột soạt của những chiếc mũ dòng, đến cứu những con người đang rên rỉ ngày đêm không ngừng, thường bất lực, cương quyết khi cần và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ.
Bệnh viện.
Adolf H. vừa hiểu ra một điều. Hắn đang nằm trong hậu trường của cuộc chiến, hắn nhìn thấy thực tế đằng sau bức phông sân khấu, những cái được che giấu sau những bức tường giả với những chiếc cửa sổ giả, đúng vậy, chính là ở chỗ này, bệnh viện là thực tế của cuộc chiến.
Những công trình này bị trưng dụng và biến thành trung tâm y tế, những bà xơ bị dứt ra khỏi giờ nguyện ngắm để trở thành y tá, tất cả cho thấy chiến tranh là nghệ sĩ đương đại lớn nhất. Là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nó lại cũng tạo ra những sáng tạo tinh tế dành cho những người mà nó không giết chết. Chiến tranh làm điêu khắc như một nghệ sĩ Ba-rốc thiên tài, lấy đi một cái chân của người này, của người khác hai cái, một cánh tay, một khuỷu tay, thay đổi kích thước của những mỏm thịt nơi bộ phận bị cắt lìa, xé rách các khuôn mặt, hủy hoại sự cân đối, làm cho da thịt người này đỏ lòm,tím ngắt, cháy sém, làm cho người khác xanh ngoét vì chảy máu trong, sợ những gì trơn nhẵn, yêu thích da thịt bị tróc lột, yêu thích những vết thương được khâu lại, những vết thương đóng vảy, những vết sẹo, những vết mưng mủ không khép miệng được, làm hết phác thảo này đến bản nháp khác, có thể hủy bỏ trong tích tắc một tác phẩm vốn đang gần hoàn thiện, nó phá cách, vô ưu, không công bằng, tham lam vô độ, với trí tưởng tượng và một năng lượng vô hạn.
Adolf H. đã phải lòng xơ Lucie. Mắt hắn dán vào nàng như bông hướng dương quay theo hướng mặt trời.Trong căn phòng lớn, xơ Lucie nét mặt rạng ngời đang tất bật hết giường này sang giường khác. Hắn yêu xơ Lucie vì sự hiện diện của nàng là một sự lầm lẫn. Trong cái nhà xác đang sôi lên với những tiếng kêu thét và rên la vì đau đớn này, nơi thần Chết xảo quyệt đến tiếp tục làm cái công việc hủy diệt của mình, xơ Lucie vẫn vui tươi. Một sự lầm lẫn. Vui tươi. Một thiên thần nơi địa ngục. Một sự lầm lẫn. Vui tươi.
Khi nàng cúi xuống bên hắn và mỉm cười, hắn có cảm giác nàng đang lung linh tỏa sáng. Thật khó tin. Một thứ ánh sáng thêm vào ánh sáng mặt trời. Và da nàng, căng lên vì nụ cười, không còn là da là thịt nữa mà là những tia lấp lánh. Adolf tin chắc rằng mọi tiếp xúc với xơ Lucie sẽ tốt cho hắn hơn bất kỳ mũi tiêm nào. Hắn thấy bối rối trước người con gái hai mươi tuổi ấy, người không tìm cách làm người khác thích nhưng lại làm ai cũng thích. Hắn đã đánh mất những đặc tính của một gã đàn ông phóng túng nhiều đến mức khi để ý đến làn lông tơ lờ mờ che môi trên của nàng, hắn cảm thấy xấu hổ vì đã làm như vậy, cứ như thể hắn vừa văng một câu chửi thề.
Hắn đã được phẫu thuật. Người ta đã lấy ra khỏi người hắn một viên đạn và một mảnh đạn cối. Các bác sĩ e là hắn bị nhiễm trùng trong, thậm chí là xuất huyết. Hắn không được cứu thoát. Thực tế còn tệ hơn thế nữa.
Do bị sốt cao hắn chỉ lờ mờ theo dõi được những gì xảy ra trong cái nhà ăn trước đây giờ được dùng làm nhà ngủ tập thể. Tuy vậy, hắn vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra hai nghi lễ đáng sợ: viết thư và căn phòng ở cuối hành lang.
Khi một thương binh hấp hối, xơ Lucie đến bên anh ta và nhẹ nhàng hỏi:
- Anh có nghĩ là nên viết vài dòng cho mẹ mình không?
Thông thường, người thương binh không hề biết rằng mình đang đọc để người khác chép những lời cuối cùng của mình. Bức thư ấy sẽ bị nhòe trong nước mắt, một bức thư sẽ được mở ra gấp lại cả trăm lần, bức thư mà mẹ anh ta sẽ mang theo mình suốt nhiều năm, như một vật báu để áp vào người bà một cái gì đó của đứa con đã hy sinh. Với sự xúc động khi nghĩ về người thân, với sự giúp đỡ của xơ Lucie luôn ân cần nhắc những từ còn thiếu, kẻ hấp hối sẽ kiệt sức sau khi hoàn thành nhiệm vụ này.
Vài giờ sau, theo một nghi thức bất di bất dịch, các nữ y tá sẽ kéo giường của người đã chết ra khỏi phòng và theo như người ta kháo nhau thì người ta sẽ đặt nó vào cái phòng ở cuối hành lang được mệnh danh là “nhà chờ chết” để không ai nghe thấy những tiếng hét lúc lâm chung.
Một ngày nào đó hắn sẽ nói với xơ Lucie rằng hắn yêu nàng? Rằng hắn yêu nàng như người ta yêu khi còn là con trẻ? Sự hiện diện của nàng làm hắn dễ chịu. Hắn thu nhận được một cái gì đó từ niềm hạnh phúc tỏa ra từ nàng. Nàng sẽ phản ứng thế nào khi hắn nói với nàng: “Tôi yêu em”? Chắc hẳn nàng sẽ thấy điều đó hết sức tự nhiên và đáp không ngần ngại: “Em cũng yêu anh.” Tại sao người ta không luôn sống với tính người cao đến mức này? Tại sao cần phải rơi xuống thấp đến thế mới lên được tới tầm cao này?
Vừa lúc đó, xơ Lucie đi về phía hắn.
Hắn định nói với nàng. Nhưng trước khi hắn kịp mở miệng, nàng đã cất lời hỏi bằng một giọng trong trẻo:
- Anh có muốn viết vài dòng cho mẹ anh không?
o O o
Hitler điên lên. Người ta buộc hắn phải nghỉ phép. Hắn đã phản đối nhưng Hugo Gutmann đã tỏ ra không thể lay chuyển được.
- Quy định là quy định, lính liên lạc Hitler! Anh có quyền được về nghỉ phép.
- Tôi muốn ở lại chiến trường.
- Anh có nghĩa vụ phải về nghỉ phép.
- Nghĩa vụ ư? Tôi sẽ có ích gì khi trở về hậu phương đây?
- Ừ thì... anh sẽ lấy lại sức.
- Tôi đang rất khỏe mạnh.
- Tôi thấy anh hơi gầy... do đó anh sẽ nghỉ để lấy lại sức và gặp lại người thân...
Nói đến đây Hugo Gutmann chợt nhớ ra rằng Hitler không bao giờ có thư từ gì và cảm thấy mình đã lỡ lời. Ông bình tâm lại và khẳng định, giọng kiên quyết:
- Anh sẽ lên tinh thần cho nhân dân Đức.
Hitler đột nhiên chú ý tới lời viên thượng sĩ. Gutmann sung sướng và hiểu ra rằng mình đã điểm đúng huyệt và bắt đầu huyên thuyên một cách vụng về.
- Ở hậu phương, nhân dân cũng đang cố gắng cho cuộc chiến, họ làm ra thức ăn, đạn dược, vũ khí, đào luyện những người lính mới. Nhân dân cần một người lính lão luyện như anh đến để chứng thực với họ rằng tất cả những cố gắng đó đều có ích, để kể lại rằng các chiến sĩ của chúng ta đã chiến đấu anh dũng như thế nào, để trực tiếp kể về những... chiến thắng mang tính quyết định của chúng ta.
Trên đà hùng biện của mình, Hugo đã đánh liều nói câu khẳng định cuối cùng này, một câu nói vừa nực cười vừa nhảm nhí, biết rằng nếu có người lính duy nhất nào đó còn có thể tin rằng nước Đức sẽ chiến thắng, đó chính là lính liên lạc Hitler.
Mắt giương to, nét mặt căng thẳng, mồm há hốc, Hitler nghiến ngấu tán đồng ý kiến ấy. Hắn chấp nhận nhiệm vụ mới này.
- Vâng thưa thượng sĩ. Tôi sẽ đi nghỉ phép.
- Tốt, anh đi được rồi. Ngày mai anh sẽ lên tàu.
Gutmann nhìn lính liên lạc Hitler đi xa dần rồi thở phào nhẹ nhõm. Ông ta sung sướng vì đã ra mệnh lệnh cuối cùng cho Hitler, vậy là ông sẽ nhẹ nhõm trong vài tuần nữa.
Dù gì thì Gutmann cũng đã chán ngấy việc ra lệnh. Ra lệnh, đó là cách phục tùng mệnh lệnh cấp trên của ông và ông cũng đã chán ngấy việc phục tùng mệnh lệnh rồi.
o O o
“Bernstein và Neumann thương mến,
hay là
Neumann và Bernstein thương mến,
Tớ không biết phải bắt đầu với tên ai trong số hai cậu, tớ là người phải ra đi vĩnh viễn.
Người ta đã bảo tớ viết cho mẹ, điều ấy có nghĩa là tớ phải sốt đến hơn bốn mươi độ và chỉ còn ít giờ nữa để sống. Thật không may phải không? Chết ở tuổi hai mươi sáu và thậm chí không có cả gia đình để gửi gắm những dòng suy nghĩ cuối cùng của đời mình. Nhưng sự kém may mắn này nay đang trở thành quá tầm thường. Tớ nghĩ thậm chí mình không có quyền than vãn nữa cơ. Dù gì thì giờ đây tớ cũng sắp chết trên một cái giường sạch sẽ, trắng tinh và phía trên tớ là khuôn mặt kiều diễm của xơ Lucie. Tớ sẽ không chết thối xác trong bùn hay giữa hai chiến hào; những người còn sống không nhìn thấy chất khí làm trương bụng tớ lên, không phải chịu đựng mùi xú uế từ cái xác đang phân hủy của tớ; vài tuần sau khi tớ chết, khi thu hồi lại vùng đất đã mất, họ không bị buộc phải rắc vôi sống lên người tớ để nó bốc mùi ít đi. Tớ được cưng chiều quá đi: tớ được chết sạch sẽ, chết ở bệnh viện.
Các cậu ơi, tớ viết vài dòng này để nói với các cậu rằng tớ yêu các cậu, rằng tớ ra đi với lòng tự hào vì đã quen biết các cậu, kiêu hãnh vì đã được các cậu chọn làm bạn và được các cậu đánh giá cao và rằng tình bạn của chúng ta chắc chắn là tác phẩm đẹp nhất của đời tớ. Tình bạn thật lạ kỳ. Khi yêu, người ta nói đến tình yêu, giữa những người bạn chân chính với nhau, người ta không nói đến tình bạn. Tình bạn, người ta kết bạn mà không cần phải gọi tên hay bình phẩm gì về nó. Mạnh mẽ và yên ắng. Nó kín đáo. Rắn rỏi. Đó là sự lãng mạn của những người đàn ông. Chắc nó phải sâu sắc và bền vững hơn tình yêu để người ta không vung vãi nó một cách ngớ ngẩn bằng ngôn từ, tuyên bố, thơ văn. Nó phảiđem lại sự thỏa mãn lớn hơn tình dục bởi nó tách bạch khỏi lạc thú và những lúc người ngứa ngáy vì thèm. Khi chết đi, tớ nghĩ đến và ngả mũ trước bí mật câm nín lớn lao này.
Các cậu ơi, tớ đã nhìn thấy các cậu râu ria xồm xoàm, người lấm lem, cáu bẳn, đang gãi, đánh rắm, ợ, ỉa ra những dòng phân lỏng vô tận, thế mà tớ chưa bao giờ ngừng yêu các cậu. Nếu một người đàn bà bắt tớ phải chịu cái mớ bần tiện ấy thì chắc chắn tớ sẽ giận cô ta, tớ đã bỏ cô ta, chửi bới, bỏ rơi cô ta rồi. Với các cậu thì không. Ngược lại là đằng khác. Mỗi lần thấy các cậu trở nên dễ thương tổn hơn, tớ lại càng yêu các cậu. Thật không công bằng phải không? Đàn ông và đàn bà sẽ không bao giờ yêu nhau chân thành bằng hai người bạn vì quan hệ nam nữ bị sự quyến rũ làm cho thối nát. Họ diễn kịch. Tệ hơn, mỗi người trong số họ đều tìm những vai đẹp. Sân khấu. Hài kịch. Dối trá. Trong tình yêukhông có sự an toàn vì mỗi người đều nghĩ rằng mình phải che đậy, rằng có thể anh ta không được yêu như chính con người của anh ta. Bề ngoài. Mặt tiền rởm. Một tình yêu lớn là một lời nói dối thành công và luôn luôn được đổi mới. Một tình bạn, đó là một chân lý không ai phủ nhận được. Tình bạn trần trụi còn tình yêu thì được bôi son trát phấn.
Các cậu ơi, con người các cậu như thế nào thì tớ yêu các cậu nguyên xi như thế. Quá đẹp trai, tóc quá nâu, quá thông minh, quá tài năng, bị sự ngờ vực giày vò, tớ yêu cậu Neumann ạ. Bernstein, tớ yêu cậu khi cậu dỗi, khi cậu vẽ, khi cậu lầm bầm, khi cậu làm những trò bẩn thỉu với người đàn ông khác. Đúng vậy, cả hai người, tớ yêu các cậu trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đừng mong là tớ sống qua được đêm nay. Vì nếu tớ còn được nhìn các cậu, tớ sẽ nói tất cả những điều trên một cách trực tiếp, nhìn thẳng vào mắt các cậu và các cậu sẽ cảm thấy phiền toái ra trò. Nếu trên đời có thiên đường, có một cuộc sống sau cái chết, tớ sẽ đợi các cậu ở đó; tớ muốn các cậu đến gặp tớ sau này khi các cậu rất rất già, rất rất giàu, đầy danh vọng, với các tác phẩm được trưng bày trong các bảo tàng trên toàn thế giới; cứ từ từ mà làm, tớ sẽ cực kỳ kiên nhẫn. Nếu không có gì xảy ra ngoài hư vô, tớ sẽ thoát khỏi nó bằng sức mạnh của tình cảm gắn kết chúng ta và mặc kệ cái hư vô, tớ vẫn cứ đợi các cậu.
Mãi là bạn của các cậu,
Adolf H.”
o O o
Hitler ghét cay ghét đắng chuyến nghỉ phép bắt buộc này.
Về tới Munich, hắn bị một cú sốc mạnh: chẳng ai có cùng sự phấn khích như hắn ở chiến trường cả. Họ ủ dột, suy sụp, căng tai nghe ngóng tin xấu, nghi ngờ những tin tức chiến thắng chỉ là sản phẩm tuyên truyền của chính phủ mà thôi. Cuộc sống thường nhật trở nên khó khăn vì bị cắt giảm, ai cũng chỉ mong chiến tranh sớm kết thúc.
- Không, chiến tranh không được kết thúc, nước Đức cần phải chiến thắng. Vả lại, nước Đức đang thắng đấy thôi.
Người ta nghi ngờ nghe hắn nói. Hitler có cảm giác khi thể hiện niềm tin mãnh liệt của mình, hắn bị coi như một người bệnh nặng mà người khác phải chịu đựng những thay đổi tính khí bất thường; dù gì, hắn sắp quay lại chiến trường rồi, hắn đương nhiên có quyền tin rằng làm như thế là để chiến thắng quân thù...
Trong một vài quán bia, hắn đã kéo được một vài người dân Munich ra khỏi sự dè dặt đầy nghi hoặc. Tuy nhiên, làm như thế Hitler chỉ tổ phải nghe họ tuôn lời ca thán những người lính Phổ - theo đúng truyền thống của xứ Bavaria - hoặc phàn nàn về việc dân Do Thái đang xâm chiếm khu vực hành chính và văn phòng. Vốn ngưỡng mộ thượng sĩ Hugo Gutmann của mình và đã từng chứng kiến nhiều người Do Thái đã anh dũng ngã xuống trên chiến trường như người Phổ, Hitler không chịu được cái cách vơ đũa cả nắm quá vội vã này và thà từ bỏ cuộc tranh luận còn hơn.
Hắn co mình lại trong im lặng và nóng lòng đếm từng ngày để quay lại chiến hào.
Tuy nhiên hắn cũng đã tận dụng dịp này để đưa Foxl đi thăm thành phố. Con chó tỏ ra rất vui thích.
o O o
- Hãy ở lại, nếu không tôi sẽ hét lên đấy!
Xơ Lucie làm như không nghe thấy gì, đưa tay gấp mép ga giường lần thứ ba rồi vỗ vỗ vào vai Adolf H.
- Nửa giờ nữa tôi sẽ quay lại.
- Hãy ở lại, nếu không tôi sẽ hét lên!
- Thôi nào, đừng trẻ con như thế.
- Á! Á!
Adolf không cần cố mới kêu được lên; ngược lại, hắn chỉ cần để nguyên cho cơ thể phản ứng là đủ; hắn đang đau, hắn đang sợ. Hắn quằn quại trong cơ thể bé nhỏ, trên cái giường bé nhỏ, trong căn phòng bé nhỏ, ở cuối cái hành lang bé nhỏ này. Hắn biết rõ mình sắp chết.
- Á! Á!
- Adolf, thôi đi nào.
- Hãy ở lại.
- Không. Tôi phải...
- Á! Á!
Xơ Lucie đỏ bừng mặt lên. Nàng kéo ghế và ngồi xuống bên người bệnh, phụng phịu. Adolf cố kiểm soát mình, giữ im lặng và cười với nàng.
- Cảm ơn.
- Anh phải xấu hổ mới phải, anh đã đe dọa để ép tôi.
- Vâng, vâng, tôi sắp chết nhưng trước đó tôi phải biết xấu hổ cái đã.
- Adolf, tôi không nói thế.
- Rằng tôi phải xấu hổ? Rằng tôi sắp chết?
- Thôi nào, cần phải cầu nguyện.
Adolf trân trân nhìn xơ Lucie, mắt rân rấn.
- Nhưng cầu nguyện ai? Cầu nguyện cái gì?
Lúc đó, xơ Lucie nở một nụ cười làm ấm lòng những người bệnh.
- Tôi sẽ dạy cho anh.
- Tôi còn bao nhiêu giờ nữa để sống?
- Tôi đã nói là sẽ dạy anh cầu nguyện rồi mà.
- Tôi còn bao nhiêu thời gian để học? Liệu có đủ không?
- Anh có đủ thời gian.
- Tôi muốn biết sự thật. Nếu xơ nói cho tôi biết, tôi sẽ học cầu nguyện.
- Lại ép buộc nữa ư?
- Các bác sĩ nói gì?
- Họ có thể nhầm.
- Họ nói nhầm ra sao?
- Rằng anh chắc chắn sẽ không qua khỏi đêm nay.
Nàng nói rành rọt. Adolf cảm thấy gần như yên tâm. Hắn đã nhận diện rõ ràng và định vị được kẻ thù: đêmnay.
- Xơ Lucie này, xơ có muốn ở lại với tôi đêm nay không?
- Anh không phải là người duy nhất...
- Xơ đồng ý hay không?
- Tôi không bị buộc phải...
- Xơ đồng ý hay không?
- Đành rằng điều xảy ra với anh là quan trọng nhưng...
- Xơ đồng ý hay không?
- Có lẽ tôi sẽ dạy anh cầu nguyện?
- Xơ đồng ý hay không?
- Đồng ý.
Nàng đỏ mặt như cô dâu mới cưới. Cầm hai tay hắn trên tấm ga, nàng siết mạnh.
- Tôi hạnh phúc được ở bên anh.
- Đó là lời cầu nguyện đó hả?
- Đúng vậy, cần phải tập trung vào hạnh phúc. Tránh xa bóng tối và tìm ra ánh sáng.
- Tôi đau. Tôi sợ. Tôi chẳng nhìn thấy gì cả.
- Có chứ. Lúc nào cũng có ánh sáng. Hạnh phúc là gì với anh trong lúc này?
- Là xơ.
- À, anh thấy đấy. Rồi sau đó?
- Là xơ. Bàn tay của xơ. Nụ cười của xơ.
- Anh thấy đấy. Lúc nào cũng có ánh sáng. “Hãy tập trung vào ta vì đêm nay, ta là ánh sáng của ngươi.”
- Xơ Lucie, tôi không tin vào Chúa.
- Không sao cả, Người đã dự tính tất cả.
Nàng nghiêng người sát hắn.
- Anh có cảm thấy sức mạnh tôi truyền sang anh không?
- Có chứ.
- Đó là tình yêu.
Adolf im lặng và nạp đầy năng lượng tỏa sang từ xơ Lucie. Hắn có cảm giác mình như một bông hoa được một ngọn đèn sưởi ấm, hắn cảm thấy mình đang yếu đi một cách nguy hiểm, tuy nhiên, hắn tự nhủ rằng, có thể, với ngọn lửa này, hắn có thể, nếu còn có thời gian, lấy lại sức đôi chút... nhưng liệu hắn có còn thời gian không?
- Đừng suy nghĩ gì cả. Đừng suy nghĩ gì. Hãy lấy tất cả sức mạnh này mà đừng suy nghĩ gì cả. Nào! Lấy đi! Lấy đi!
Nàng nói điều đó bằng một giọng nặng nề, dữ dội, như một người đàn bà đang làm tình. Adolf bắt đầu để sức mạnh ấy thâm nhập vào người mình.
- Nào! Lấy đi! Làm đi!
Đó không còn là xơ Lucie, xơ Lucie nhẹ nhàng, người vẫn duyên dáng bay từ giường bệnh này sang giường bệnh khác, đó là cả một người đàn bà chú tâm vào nhiệm vụ của mình, vào công việc làm mình kiệt sức. Nàng muốn cho ra đời một con người.
- Giờ thì phải cầu nguyện. Hãy xin Chúa ban cho anh sức mạnh.
- Tại sao lại phải ba người? Hai người thế này chẳng phải đang tốt sao?
- Đừng báng bổ. Hãy cầu Chúa ban cho anh sức mạnh để qua khỏi đêm nay đi. Tôi thì dù gì tôi cũng làm thế.
Adolf bắt đầu thấy căn phòng, xơ Lucie rồi chính mình đang trở nên mơ hồ. Liệu có phải dòng sức mạnh chảy dồn vào đang làm hắn rối loạn không? Hay hắn đang sắp chết như bác sĩ đã dự đoán? Ý thức của hắn đang đứt gãy, nó lảo đảo, nó đang trượt từ thế giới này sang những thế giới khác lâu đời hơn, thân mật hơn, sau đó hồi lại, tỉnh lại, rồi lại tiếp tục rơi. Adolf nhận thấy rằng giờ sự sống của mình đã chỉ còn rất mơ hồ. Hắn tận dụng lúc ý thức tỉnh táo để bấu lấy một cái phao và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, hãy cho tôi sức mạnh. Tôi không chắc là mình tin ở Ngài, nhất là tối nay, khi điều đó rất có lợi cho tôi. Có thể chính vì nó rất có lợi cho tôi. Tóm lại, lạy Chúa, đây chính là thời điểm thích hợp, nếu Ngài hiện hữu thì xin hãy cúi xuống bên tôi và giúp tôi đứng lên. Tôi không thực sự muốn chết. Tôi không biết cái chết là gì, có thể đó là cái gì rất tốt, một sự bất ngờ thú vị mà Ngài đã dành cho tôi, không, tôi không chỉ trích gì cả, nhưng vấn đề ở chỗ tôi còn chưa biết sống là gì.Tôi đã không có thời gian. Vậy đó. Chỉ có thế mà thôi. Ngài hãy cho thêm chỉ một chút cuộc sống mà Ngài đã cho tôi đến nay. Tôi sẽ sử dụng nó một cách hợp lý. Ôi, tất nhiên, đó là thứ người ta lúc nào cũng hứa hẹn trong những trường hợp như thế này. Bây giờ tôi muốn làm điều đó bao nhiêu thì ngày mai tôi sẽ nóng lòng quên đi bấy nhiêu. Tôi tưởng tượng rằng Ngài đã quen với việc, từ xưa rồi, con người ta đến với Ngài mỗi khi rơi vào cảnh cùng quẫn và rời xa Ngài khi tình hình yên ổn. Con người là như vậy đấy... Vả lại, đó là một trong những cái ngăn cản tôi tin vào Ngài: tôi không thể tin được rằng Ngài còn quan tâm đến loài người. Nhân loại quá thảm hại, không xứng với Ngài. Tại sao Ngài lạiquan tâm đến những thằng ngốc hèn nhát, bội bạc, bẩn thỉu và chém giết nhau cơ chứ? Hừm...
- Chúa là tình yêu.
Adolf giật bắn mình. Xơ Lucie đã trả lời. Hắn nói to thành lời hay nàng đã đọc được ý nghĩ của hắn?
- Chúa là tình yêu.
Nàng đã nói hay hắn đã mơ là nàng đã nói điều đó? Hay là Chúa đã nói? Adolf tội nghiệp của ta, ngươi đang hoang tưởng tột độ. Ngươi không biết cái gì đến từ ngươi cái gì từ người khác nữa. Những cơn sốt đẩy Adolf quay mòng mòng trên những con sóng của nó. Adolf bám víu lấy những câu nói này, hắn gọi đó là lời cầu nguyện của mình và hắn không biết chúng được nói lên bằng một giọng, hai giọng hay thậm chí là ba giọng nữa. Khi hấp hối người ta quay lại trạng thái của một đứa trẻ sơ sinh: tri giác u mê, không có khả năng phân biệt cái gì là mình cái gì là người khác, không có khả năng biết liệu bầu vú là của mình hay của mẹ, liệu cái miệng đang hôn khắp vũ trụ mịt mù có thuộc về nó hay không, liệu cái nếp gấp trên ga giường làm đau người được tạc vào xương sống hay ở bên ngoài nó, liệu những ngôn từ, những tình cảm và những ý nghĩ đang hiện hữu là ở trong mình, trên mình hay ngoài mình... Adolf trở lại với đại dương vô tận và náo động này, nơi ý thức nổi lên từ vật chất, chìm trong đó, phản ánh trong đó, bị nuốt chửng trong đó, kiệt sức trong đó, trải rộng trong đó, lướt trên đó, nhìn thấy ngọn hải đăng, không nhìn thấy nữa, biến mất trong vùng tối tăm của một cơn sóng ngầm, rồi thoát khỏi nó mà không hiểu vì sao...
- Adolf! Adolf!
Ai đó gọi hắn.
- Adolf!
Hắn còn phải bơi một quãng dài mới đến được chỗ giọng nói phát ra. Cuối cùng hắn cũng mở mắt và nhìn thấy xơ Lucie trong ánh sáng ban mai huy hoàng.
- Adolf. Anh đã qua được hết đêm rồi. Anh thoát rồi.
Và xơ Lucie, vẻ rạng rỡ, đẩy chiếc giường ra khỏi căn phòng dành cho người hấp hối, kêu người mở cửa phòng chung và giữa hai hàng lính danh dự gồm những con người què cụt, người bị thương vì hơi ngạt và người bị cắt cụt các chi, nàng đẩy chiếc giường trên các bánh xe của nó và đưa Adolf H. về giữa những người thương binh như người ta trao lại vương trượng và ngai vàng cho một vị vua trở về sau chuyến lưu vong.
o O o
Bom. Đạn. Pháo. Đêm rách vụn bởi muôn ngàn mảnh đạn.
Hitler chạy. Hắn truyền đi các mệnh lệnh, bắn súng. Hắn sung sướng vì được trở lại chiến trường. Trận đánh là nhà hắn, quân đội là gia đình thực sự của hắn.
Bom. Đạn. Pháo. Đêm rách vụn bởi muôn ngàn mảnh đạn.
Hitler yêu chiến tranh vì nó cởi bỏ cho hắn mọi vấn đề. Nó cho hắn ăn, uống, hút, ngủ, nghĩ, tin, yêu, ghét. Nó đã thâm nhập vào mọi ngóc ngách trong hắn, tâm hồn và thân thể. Nó đã giúp hắn cởi bỏ chính hắn, những hạn chế và những điều nghi ngờ. Nó đã cho hắn lý do để sống và thậm chí lý do để chết. Vì thế Hitler vô cùng thích chiến tranh. Nó đã trở thành tôn giáo của hắn.
Bom. Đạn. Pháo. Đêm rách vụn bởi muôn ngàn mảnh đạn.
Khả năng chiến đấu của hắn là vô tận vì nỗi căm thù quân địch của hắn là vô tận. Hắn dũng cảm bởi hắn nghĩ rằng chính người bên cạnh sẽ chết chứ không phải hắn.
Bom. Đạn. Pháo. Đêm rách vụn bởi muôn ngàn mảnh đạn.
Hitler yêu chiến tranh vì nó đã giúp hắn giác ngộ được chính mình. Hắn hạnh phúc, từ sau kỳ nghỉ phép, vì giờ đây hắn đã có lòng tin. Đúng vậy. Đêm đầu tiên, trong chiến hào, hắn đã được nhận thần khải. Một sự thần khải thật sự. Lần đầu tiên trong lịch sử ngắn ngủi của đời hắn. Hắn đã phát hiện ra rằng chiến tranh chính là bản chất của sự tồn tại trên đời.
o O o
- Chúa ư? Đúng... chắc chắn rồi... Nhưng có nên gọi cái đó như thế không?
Adolf H. tư lự ngắm mặt trời đang bắt đầu xuống dần phía chân trời. Hắn thích cái lúc thiên nhiên trở thành một nghệ sĩ đầy cảm hứng, táo bạo dùng những màu pha lệch lạc, táo bạo tô trời màu xanh vỏ táo, màu cam, màu than hồng, mạo hiểm dùng tất cả các sắc độ trên bảng màu của mình chỉ trong khoảng nửa giờ.
- Lúc nào cũng vậy, vấn đề của Chúa là...
Xơ Lucie trả lời Adolf một cách hào hứng nhưng nàng biết thừa là hắn chỉ nghe cho phải phép và chỉ suy nghĩ một cách lười nhác, quá chú tâm quan sát những hình thù kỳ dị nguệch ngoạc trên vòm trời, như bao lần họ đi dạo lần cuối cùng trước khi trời tối. Liệu nàng có thể giận hắn được không? Hắn vừa trở lại từ một nơi xa đến thế. Tình yêu nàng dành cho người thương binh này - ở nơi bí mật trong tim mình nàng gọi hắn là người thương binh “của nàng” - chứa đựng mọi sự bao dung.
- Xong rồi. Bây giờ, ông ta dùng mực tàu tô cho mặt đất đây, Adolf nói.
Quả vậy, người ta chỉ nhìn thấy cây cối, nhà cửa và tường bao ngược sáng, được rút gọn lại thành những cái bóng nhảy múa. Trời xanh đậm và đặc tạo thành một màn phông mờ mờ. Tả màu xanh này như thế nào nhỉ? Màu xanh lơ Nattier? Màu xanh của vua nước Pháp? Thật kỳ lạ khi nghĩ thế đúng không? Bầu trời không phải của Pháp mà màu xanh này thì có. Một màu xanh của Pháp thế kỷ mười bảy hay mười tám.
- Không, xơ ơi, tôi không biết điều gì đã xảy ra đêm hôm đó. Đúng là tôi đã cầu Chúa như xơ đã yêu cầu nhưng đó chẳng phải là cách để huy động mọi sức lực trong tôi để chiến đấu ư? Đó chẳng phải chỉ đơn giản là một cuộc nổi loạn của tất cả sức lực con người tôi ư? Chẳng phải là một trận chiến chống lại tử thần do ý thức và cái xác này của tôi chỉ huy ư?
- Có cả cái đó nữa.
- Và xơ gọi cái đó là Chúa ư? Đó chỉ có thể là của con người. Chỉ con người mà thôi.
- Thế còn lời cầu nguyện của tôi? Cùng lúc với lời cầu nguyện của anh? Ở bên trên lời cầu nguyện của anh?
- Có thể một nguồn năng lượng sống đã chuyển từ người này sang người kia? Xơ đã cho tôi năng lượngsống của xơ.
- Tóm lại, anh tìm cách giải thích chuyện đêm ấy là chỉ nhờ vào hành động của chúng ta, của anh và của tôi?
- Đúng vậy thưa xơ, trong mắt tôi chúng mình như một đôi.
- Đừng bông lơn nữa. Tôi chỉ thấy mỗi điều là anh là người bội ơn, đang dùng hàng tràng “có thể” với giả thiết và lý giải có điều kiện để cố tránh đối diện với Chúa và tránh thể hiện lòng biết ơn với Người.
Xơ Lucie nói điều đó không hề tức giận hay cay đắng. Nàng tin chắc tuyệt đối, trong cái đêm nguy kịch ấy, phép lạ đã xảy ra song nàng không hề nóng lòng buộc hắn phải thừa nhận điều ấy. Nàng đã biết trước rằng một ngày nào đó chân lý sẽ trở thành hiển nhiên, nhưng nó cần có thời gian để mở đường trong một cái đầu ương ngạnh như của Adolf H.
- Tuy nhiên, Adolf à, nếu mọi chuyện xảy ra chỉ nhờ vào nỗ lực của con người trong cái đêm ấy thì anh sẽ giải thích thế nào về sự thành công của nó? Nói thế thì đêm nào cũng vậy, cái ham muốn được sống và cái năng lượng ấy lẽ ra đã phải giành phần thắng trên tất cả các giường bệnh ở đây chứ.
- Xơ Lucie, với xơ thì tất cả các thành công là nhờ thần thánh còn thất bại là do con người.
Xơ Lucie cười. Trong sâu thẳm, nàng thích sự chống đối này của Adolf, điều đó làm nên sức mạnh vô hạn của các cuộc đối thoại giữa họ. Liệu họ có nói với nhau nhiều điều như thế không nếu hai người đồng ý với nhau?
- Anh không muốn tin vào Chúa vì anh quá kiêu ngạo để có thể cảm thấy biết ơn.
- Tôi mà kiêu ngạo? Ngược lại. Tôi không nghĩ là tôi đủ quan trọng để Chúa phải đi lại vì tôi.
- Trong mắt Người ai cũng quan trọng như ai. Người chăm sóc tất cả mọi sinh linh.
- Thế ư? Vậy thì ông ta phải đến chiến trường thường xuyên hơn một chút. Đôi khi những người lính hấp hối cả mấy ngày trước khi cái chết hay một anh tải thương thu lượm họ. Chúa của xơ, xơ Lucie ạ, tôi khó có thể tin vào ông ta trong cuộc chiến này. Trong trí tưởng tượng của tôi, ông ta không phải là người thích cảnh tàn sát đến thế.
- Chính con người đã làm nên chiến tranh giữa họ. Chỉ có họ mà thôi. Xin anh đừng lôi Chúa vào chuyện này.
Nàng có lý, Adolf biết điều đó và không ngừng nghĩ đến việc này.
Các con vật ăn thịt nhau nhưng không gây chiến tranh với nhau. Từ đầu cuộc chiến, hắn đã thống kê những cái làm con người khác con vật; hiện tại hắn thấy có thuốc lá, rượu và chiến tranh. Ba cách tự sát nhanh nhất. Xét cho cùng, con người khác con vật ở chỗ con người nóng lòng muốn chết. Một hôm, xơ Lucie đã nhắc lại cho hắn một đặc điểm khác nữa của con người: tiếng cười. Đây là lần đầu tiên Adolf đồng ý với nàng. Chỉ con người mới cảm nhận được cái nhu cầu không gì cưỡng lại được là chế giễu lẫn nhau.
- Anh đi tốt hơn rồi đấy.
- Đúng vậy. Sắp tới tôi sẽ khỏe đến mức được người ta gửi lại ra chiến trường. Nhờ có xơ, xơ Lucie, tôi sẽ lại có thể dùng được và sẽ chết một cách tươm tất.
Xơ Lucie cắn tay mình.
- Anh đừng nói thế. Tôi muốn được giữ anh lại biết bao.
Adolf trìu mến nhìn nàng.
- Hãy đẩy tôi xuống cầu thang... quẳng tôi từ trên tháp cao xuống.
Nàng cười, như thể đã được những đề nghị phi lý của Adolf làm cho yên tâm.
- Anh đừng có thách.
Hắn cười. Nàng cũng thế.
Hắn dựa mạnh hơn vào tay nàng.
- Xơ có biết là khi ra đi, tôi sẽ buồn vì phải ra chiến trường, nhưng trước hết là buồn vì phải xa xơ không?
- Đó là số phận của những người y tá và bệnh nhân hồi sức. Sống những giờ phút tươi đẹp bên nhau để rồi không bao giờ gặp lại, nàng nói và gượng gạo tỏ ra bình thường.
- Sống những giờ phút tươi đẹp bên nhau để rồi không bao giờ quên, Adolf sửa lại.
Mắt xơ Lucie nhòe đi. Môi nàng run lên.
- Không bao giờ. Tôi cũng thế, tôi sẽ không bao giờ quên, Adolf.
- Chúa, đó là vấn đề tên gọi mà thôi. Liệu đó có phải là cái tên cần đặt cho việc được chữa khỏi? Tôi nghi ngờ điều này. Ngược lại, tôi biết rất rõ phải gọi thế nào cái mà xơ đã trao cho tôi, từ ngày đầu đến ngày cuối, và trong cái đêm khủng khiếp ấy: đó là tình yêu.
Xơ Lucie quay mặt đi để giấu nỗi xúc động.
- Nghĩa vụ của tôi là phải yêu.
- Cái đó thì tôi đã hiểu rõ và ghi tạc trong lòng. Tôi yêu xơ, xơ Lucie ạ.
Xơ Lucie giật nảy mình.
- Tôi yêu anh, Adolf.
Họ để cho những lời nói đó đi vào lòng mình. Họ cảm thấy bớt cô độc trên cõi đời này. Màn đêm dường như ít bao la hơn với họ và ít dày đặc hơn quanh họ.
Tiếng chuông phòng ăn vang lên lanh lảnh.
- Ta về thôi. Hãy dựa vào tôi.
Họ bước đi người tựa vào nhau, gắn kết, hòa hợp đến mức họ ngỡ là trong giây phút này đây, như trong sự im lặng trước đó, thân thể của họ đã nhập vào thành một.
Khi qua bậc tam cấp, gặp lại cái ánh sáng màu vàng làm họ trở lại với mình và chia rẽ họ, xơ Lucie thì thầm vào tai Adolf, trước khi biến mất:
- May quá, lúc nãy anh nói “Tôi yêu xơ, xơ Lucie ạ,” nếu không có chữ “xơ” em không biết là mình sẽ làm gìnữa.
o O o
Cuộc chiến đang sa lầy.
Hàng đêm, nó tiếp tục sản xuất ra vẫn chừng ấy tử thi, nhưng tất cả những cái chết này chẳng để làm gì cả. Mặt trận xê dịch được vài mét rồi một tuần sau lại giật lùi, những người lính kiệt sức để bảo vệ dải đất mà họ chưa biết đến trước cuộc chiến và giờ đây họ phải giao nộp mạng sống của mình cho nó. Tình trạng phi lý này đè nặng thêm vào sự chán nản và dưới bầu trời thấp tịt, u ám nơi ánh sáng ủ dột của miền Bắc đang rỉ ra, tất cả sự hăng hái đã biến mất. Chỉ còn lại nỗi khủng khiếp thường trực.
Về phần mình, sự hăng hái của Hitler và Foxl không hề suy giảm. Chúng đã phát hiện ra một niềm đam mê mới của cả hai: săn chuột.
Không chỉ một lần, giữa đêm, chúng đã bị một đàn chuột tập kích. Bọn gặm nhấm đến, nhảy nhót, kêu chin chít, ào ra từ chỗ ẩn nấp với số lượng đông không thể tưởng, đến mức mặt đất trở thành một cái áo lông sống, lúc nhúc, không có hình dạng, kêu rin rít, đó đây nổi lên một cái hàm nhỏ rắn chắc hay một cái mắt vàng như axít thấm đẫm căm thù, một tấm thảm bóng láng và chuyển động phăng hết trên đường đi của mình tất cả những cái gì ăn được, bánh mì, túi, đồ hộp, nội tạng hoặc chân, tay rơi rụng của các tử thi. Cánh lính càng ghét cay ghét đắng bọn chuột còn vì biết rằng khi bị thương chí mạng, những con vật ăn xác này sẽ là những gã phường đòn đầu tiên của họ và sẽ lao vào xé xác họ với bộ răng của chúng.
Vậy là lúc rảnh rỗi ngoài giờ làm liên lạc, Hitler và Foxl dành thời gian săn chuột, mỗi kẻ làm theo cách của mình. Foxl dùng các kỹ thuật cổ điển của giống chó phốc sục hang, Hitler thì dùng đến những kỹ thuật tinh xảo. Hắn để một mẩu bánh mì làm mồi rồi ngồi không xa đó, dùng báng súng đập và giã nát con vật khi nó đến gần bẫy. Cái làm hắn sung sướng hơn nữa là chiến thuật số hai theo đó hắn rải thuốc súng quanh miếng mồi, lấy từ những quả đạn cối tịt, và châm lửa đốt khi các con vật đến gần: khi đó hắn được hưởng cảm giác được nhìn chúng bị thiêu sống. Từ một trò tiêu khiển đơn giản, săn chuột đã trở thành một nỗi ám ảnh và Hitler tự hứa với mình sẽ hết sức kiên trì để bằng mọi giá, đạt đến giải pháp cuối cùng: tận diệt vĩnh viễn tất cả chuột trên chiến trường.
Hôm đó, Hitler đang sửa soạn làm nhiệm vụ. Hắn và Foxl, sau một cuộc săn thắng lợi vào buổi chiều, chạy trong chiến hào dẫn đến ban chỉ huy số 1, bỗng có tiếng vỏ đồ hộp leng keng, cả hai dừng lại.
Một con chuột nhảy lên từ bờ chiến hào, kéo theo nó là một cái bẫy thép, thứ đó chỉ làm nó bị thương mà không chết. Nó chạy về phía trận địa của đối phương gây ra tiếng ồn ĩ hoảng loạn. Foxl nhảy khỏi đường hầm và đuổi theo con mồi.
- Foxl, lại đây! Foxl quay lại!
Con chuột, điên dại đến mức không biết gì nữa và đau đớn, chạy lung tung kéo theo Foxl trong cơn điên loạn.
- Foxl, quay lại! Foxl, lại đây!
Một tiếng súng vang lên. Foxl đột nhiên kêu ăng ẳng và ngã vật sang một bên.
Con chuột tiếp tục chạy cuống cuồng giữa hai chiến tuyến Pháp và Đức.
- Foxl!
Hitler thò đầu lên trên chiến hào để xem chuyện gì đã xảy ra với con chó của mình. Đúng lúc đó hai viên đạn bay đến bắn tung bao đất ngay cạnh hắn, chỉ cách đầu hắn trong gang tấc. Kẻ địch vừa bắn về phía hắn.
- Khốn kiếp! Khốn kiếp!
Hắn co quắp trong hào. Hắn nghe thấy tiếng con chó đang rên. Foxl đã bị thương. Không thể chịu được. Cần phải làm một cái gì đó. Nhưng làm gì đây? Đêm xuống. Hắn treo cái mũ lên trên khẩu súng dò xem kẻ địch có còn rình rập không và thò nó lên trên hào. Chỉ nháy mắt, một viên đạn đã bay đến găm vào chiếc mũ kim loại.
- Khốn kiếp!
Trời tối đen. Quả pháo sáng đầu tiên đã tỏa sáng trên trời và cái dù bằng lụa của nó phát ra một thứ ánh sáng xanh lục, dấu hiệu cho thấy cuộc chiến lại tiếp tục.
Bom đạn bắt đầu trút xuống.
Màn đêm đen ngòm trở nên điên loạn. Một sự bùng vỡ. Một sự nhiệt cuồng.
Hitler không cử động.
Tất cả pháo binh Đức đã triển khai quanh hắn. Kẻ bắn. Kẻ quạt liên thanh. Kẻ rú hét. Kẻ ngã xuống. Hitler cảm thấy mình không thể quay lại công sự của mình được nữa. Những khi ngơi tiếng súng, hắn nghe thấy tiếng rên của Foxl. Hắn tê tái trước sự đau đớn mà con chó đang phải chịu.
- Khốn kiếp, lũ khốn kiếp, hắn rít lên qua kẽ răng.
Đến nửa đêm, tiếng kêu của Foxl thay đổi. Nó tru lên hấp hối. Nó hiểu rằng mình sắp chết, một mình, vào đêm nay, dưới bầu trời bị thép và lửa xé rách tơi tả.
Hitler khóc. Hắn thậm chí không dám gọi con chó của mình, hắn muốn Foxl nghĩ rằng nó đang ở một mình, hắn thà để cho con chó không biết là chủ nó, bất lực, đang ở cách nó có vài mét, dán mình dưới một cái hố.
Buổi sáng, tiếng rên nghe mảnh hơn, chói hơn, xót xa hơn. Foxl sắp chết đến nơi nhưng vẫn tiếp tục gọi. Hitler lấy hai tay bịt tai lại.
- Khốn kiếp! Không được giết động vật! Chúng mày muốn giết bao nhiêu người tùy ý nhưng không được giết động vật!
Khi tiếng súng ngưng hẳn vào sáng sớm, hắn còn nghe thấy con chó thở thoi thóp. Xung quanh hắn, những người tải thương đang chạy đi chạy lại mang theo hàng đống người chết và bị thương.
Hắn gượng đứng dậy được, cầm súng, thò đầu khỏi hố để tìm Foxl và bắn.
Cuối cùng tiếng rên cũng im bặt. Foxl đã chết. Lòng căm thù bùng phát trong Hitler thế chỗ sự ảo não. Hắn tuôn ra hàng tràng chửi rủa kẻ thù:
- Lũ khốn kiếp! Chúng mày sẽ không bao giờ thắng được, chúng mày nghe rõ chứ, không bao giờ! NướcĐức sẽ đến uống máu chúng mày, chúng mày sẽ quỳ gối trước nước Đức, chúng mày sẽ trở thành nô lệ củachúng tao, Paris sẽ thuộc về nước Đức! Tao căm thù chúng mày! Tao căm thù chúng mày. Tao sẽ trả thù và không gì đủ mạnh để thỏa mối thù này. Tao căm thù chúng mày! Lũ khốn kiếp!
Rồi hắn quay súng bắn bừa bãi về phía quân Pháp, hy vọng sẽ trúng kẻ đã giết Foxl, không nghĩ ngợi một giây rằng hắn đã có thể chết rồi.
Phải bốn người y tá mới giữ được hắn và bác sĩ trưởng phải cho hắn một mũi an thần.
o O o
Bernstein, Neumann và Adolf ngồi sưởi dưới ánh mặt trời uể oải cạnh lán tham mưu. Không gian bốc mùi nhựa đường, mùi giấc ngủ trưa và mồ hôi chân.
- Chúng ta sẽ thua.
Neumann vừa đọc tất cả các tờ báo tìm được trong sọt rác của những sĩ quan.
- Chúng ta ư? Bernstein kêu lên. Tớ không còn thuộc về bất cứ cái “chúng ta” nào khác ngoài ”ba chúng ta”. Với tớ, còn sống sau cuộc chiến đã có nghĩa là chiến thắng. Nếu tớ sống sót trở về từ chiến trường thì tớ cũng báo luôn cho các cậu biết là tớ sẽ không còn là công dân Áo, thậm chí không còn là công dân của bất cứ đất nước nào. Là một người vô quốc tịch và yêu hòa bình, sau cuộc chiến tớ sẽ trở về thế đấy.
- Cũng còn phải giữ được mạng trong mấy tuần nữa, Adolf thêm vào, vẻ lo lắng.
Từ khi quay lại chiến trường và được hưởng niềm vui gặp lại bạn bè và họ vẫn còn sống, không giây phút nào Adolf không sợ một điều gì đó xảy ra với họ. Nhóm của họ đã tái hợp, gắn bó hơn vì đã trải qua biết bao nguy hiểm cùng nhau, họ vẫn không bao giờ nói gì về những tình cảm gắn kết họ lại với nhau, mảnh nhân tính duy nhất còn lại trong cái thế giới đã mất đi trái tim và lý trí này.
- Cuộc chiến này không còn là của con người, Adolf tiếp tục nói. Đó là cuộc chiến của kim loại, của hơi ngạt và thép, một cuộc chiến của những nhà hóa học và những tay thợ rèn, một cuộc chiến của những nhà công nghiệp, cuộc chiến trong đó chúng ta, những đống thịt tội nghiệp không còn được dùng để chiến đấu mà dùng để kiểm tra xem sản phẩm của chúng giết người có hiệu quả không.
- Cậu có lý, Bernstein nói. Đó là cuộc chiến của các nhà máy, không còn là cuộc chiến của con người. Người chiến thắng sẽ là người khạc ra nhiều sắt thép nhất. Còn chúng ta, chúng ta chẳng có ý nghĩa gì. Khi tớ nhìn thấy những chiếc xe tăng đầu tiên đến, cái đống thép nặng hàng tấn ấy tung hoành khắp nơi và nghiến nát mọi thứ, tớ đã hiểu ra rằng chúng ta chẳng để làm gì cả. Dũng cảm và khéo léo để làm gì trước một cái máy mà trong mọi trường hợp cậu chẳng thể làm gì được nó và bị nó tiêu diệt?
- Các cậu nói cái gì vậy? Neumann thốt lên. Nghe các cậu nói thì các cậu chỉ tham gia chiến tranh khi được giết nhau sát sạt, mặt đối mặt, phải vậy không?
- Đúng vậy.
- Riêng tớ, tớ sung sướng vì không biết mình bắn vào cái gì, quét liên thanh vào cái xa xa, ném lựu đạn về hướng người ta chỉ. Nếu có người trước mặt tớ, tớ không biết mình có thể làm được những việc đó hay không.
- Nói gì đi nữa, Bernstein nói, tớ không muốn chiến tranh. Tớ không còn muốn mình thuộc về bất cứ quốc gia nào nữa.
- Nhưng cậu cũng cần phải sống ở đâu đó chứ, Adolf phản đối.
- Ở đâu đó, đúng vậy, nhưng là ở trong một đất nước chứ không phải trong một quốc gia.
- Có gì khác nhau?
- Một đất nước trở thành một quốc gia khi nó ghét tất cả các nước khác. Chính hận thù là cơ sở tạo nên một quốc gia.
- Tớ không đồng ý, Neumann nói. Một quốc gia, đó là một đất nước được tổ chức để đảm bảo cho cậu sống trong hòa bình.
- Thế à? Liệu có chiến tranh không nếu không có các quốc gia? Chúng ta đang làm gì ở đây nào? Chỉ vì một tay người Serbia đã giết một tay người Áo, người Đức và người Áo đã gây chiến tranh với người Pháp, người Anh, người Ý, người Mỹ, người Nga. Cậu có thể giải thích điều đó bằng một lô gích khác ngoài lô gích hận thù được không? Chủ nghĩa quốc gia là một chứng loạn thần kinh nguy hiểm chết người, Neumann thân mến của tôi ạ, và nói như bác sĩ Freud thì nó trở thành chứng loạn tâm thần không thể đảo ngược khi được biến thành lòng yêu nước. Nếu cậu thừa nhận nguyên tắc quốc gia có nghĩa là cậu thừa nhận nguyên tắc của tình trạng chiến tranh thường trực.
Họ lắng nghe tiếng gầm gừ của chiến trường từ xa vẳng lại. Cảnh vật xung quanh như rình rập. Như thường lệ, sắt thép sẽ phát cuồng lên vào ban đêm.
- Sau chiến tranh, tớ sẽ đến sống ở Paris, Bernstein tuyên bố.
- Paris à? Tại sao?
- Vì chính là ở đó mà người ta sáng tạo hội họa hiện đại từ ba mươi năm nay.
- Ở khu Montmartre á?
- Không. Chỗ đó xưa rồi. Ở Montparnasse cơ. Tớ sẽ thuê một cái xưởng thật lớn ở phố Campagne-Première và lập nghiệp ở đó.
- Nói xem nào, cậu có vẻ biết rõ tất cả những cái đó nhỉ.
- Tớ có người quen ở đó.
Bernstein im lặng một cách bí hiểm. Adolf và Neumann không nài hỏi vì biết bạn mình hay e thẹn quá đáng khi nói đến quan hệ yêu đương của mình.
Bernstein ngẩng đầu lên và nhe răng cười.
- Ai yêu tớ thì theo tớ! Đến ở Montparnasse nhé?
- Ở Montparnasse!
- Ở Montparnasse!
Và ba người bạn cùng cười, hạnh phúc với ý nghĩ tươi đẹp rằng tương lai của họ đã được hoàn trả cho họ.
“Trong lúc chờ đợi còn phải giữ được mạng sống cái đã,” Adolf thầm nghĩ, lòng bất ổn.
o O o
- Lùi lại phía sau nhanh!
Cả đơn vị lùi lại. Quân Anh đã xâm nhập vào hai đầu chiến hào, quân Đức quyết định không cố thủ và chạy sang trú trong những nhánh hào bên cạnh.
- Bên trái! Cái này cũng bị chiếm rồi. Bên trái! Nhanh!
Họ lại chạy sang bên trái.
Trong đêm tháng Mười năm 1918 này, trung đoàn của lính liên lạc Hitler lại ở trên vùng đất đầy bùn này lần thứ ba kể từ năm 1914. Sau khi trở thành nơi nghỉ mát cho họ, ngôi làng Comines đã trở thành trận địa. Quân Anh tiến lên, giành giật từng thước đất.
Trừ Hitler, mọi người đều biết rằng chiến tranh, sau bốn năm mang bệnh kinh niên, đang tiến gần đến những ngày cuối cùng. Nước Đức đang lùi bước. Trong vòng vài tháng, nó vừa mất đi một triệu người, dốc cạn dự trữ lương thực, đạn dược và tinh thần của mình.
Hitler nhất định không tính đến khả năng nước Đức bị thất bại vì hắn đã nhập mình vào nước Đức. Hắn, Hitler, người bất khả chiến bại, quả cảm, kiên cường, luôn được phép màu bảo vệ không bao giờ ngã xuống, nước Đức sẽ chiến thắng. Để nhận định tình hình, hắn chỉ giữ lại những tin tức giúp củng cố niềm tin của mình: chiến trường Nga sụp đổ, thất bại của người Ý và cuối cùng là huân chương Thập tự sắt hạng nhất, do trung úy Hugo Gutmann trao ngày 4 tháng Tám vừa rồi, một tặng thưởng đặc cách cho một viên hạ sĩ quèn. Vậy thì sao? Đó chẳng phải là bằng chứng rằng chiến tranh đang tiến triển theo chiều hướng tốt hay sao?
- Chạy vào bụi cây, nhanh! Nấp đi!
Hắn bắt đầu thấy việc mình chỉ là một trong số tám triệu người là chuyện bất bình thường. Hắn có ở đúng chỗ của mình không? Liệu có công bằng không khi hắn, người có thể làm được chừng ấy việc cho Tổ quốc, chỉ là một tay hạ sĩ quèn trên chiến trường, bị trưng ra trước hành động ngẫu nhiên của bất cứ một gã nào đối diện?
- Bò ra phía bìa rừng! Nhanh!
Hắn không định thay Foxl bằng một con chó khác vì không muốn lại trao cho kẻ thù cơ hội để hành hạ hắn nhiều như lần trước.
- Cẩn thận: khí độc!
Báo động có khí độc truyền từ người lính này sang người lính khác. Khí độc. Khí độc. Khí độc. Mỗi người đều có một cái mặt nạ để bảo vệ mình.
Số lượng những cuộc tấn công bằng khí độc đang gia tăng. Trong quân đội Đức, người ta nói rằng quân Anh cho vào trong đạn cối một loại sản phẩm mới, hơi mù tạt, một loại hóa chất tác động ngầm, có độ phát tác tùy theo từng nạn nhân. Mỗi người chỉ biết được tác động của loại chất độc này vào cơ thể mình như thế nào khi bị nó hành hạ. Một vũ khí tinh vi gây khiếp sợ.
Hitler thấy khó thở trong chỗ phình chật hẹp của cái mặt nạ. Hắn thấy khó thở và phát ốm khi nghĩ đến việc mình chỉ có lượng dự trữ không khí đủ cho hơn mười phút.
Phía trước, Hugo Gutmann, nhân cơ hội có pháo sáng, ra hiệu cho quân của mình giữ nguyên mặt nạ.
Họ bị vây trong một cơn mưa đạn cối chứa đầy khí độc, trời lặng không một chút gió, làn khí độc cứ luẩn quẩn không chịu tan đi. Những cái mũ nhọn nổi lên trên đại dương khói nhờ nhờ trắng trông như những con cá đang bay.
Hitler không chịu được nữa. Ngay cả khi ép mình thở tằn tiện nhất có thể được, hắn vẫn thấy cơ thể mình thiếu ô xy và yếu đi một cách nguy hiểm. Hắn có thể làm gì đây? Giờ hắn có hai lựa chọn: hoặc là chết ngạt trong cái mặt nạ của mình hoặc chết vì nhiễm khí độc.
Trước mặt hắn, nhiều người đã đứng lên và giật mặt nạ bảo hộ ra.
- Chạy thôi! Trốn khí độc đi! Nhanh!
Hugo Gutmann, khi thấy đồng đội đang trở nên hoảng loạn, cũng bỏ mặt nạ của mình ra để ra lệnh cho họ chạy khỏi vùng đất chết người này.
Hitler bắt đầu lao mình về phía trước, vẫn đeo nguyên mặt nạ, khi cảm thấy ngạt thở, hắn quẳng nó đi và rảo cẳng chạy nhanh hơn nữa.
Ta là người vô địch. Ta thoát khỏi đạn lửa. Khỏi đạn cối. Khỏi khí độc. Ta thoát khỏi mọi thứ. Sao hộ mệnh của ta tiếp tục bảo vệ ta ngang với tầm vóc của ta. Ta sẽ thoát khỏi chuyện này.
Chạy nhanh khoảng vài trăm mét và thấy nhiều người ngã xuống quanh mình, thêm một lần nữa hắn kết luận rằng tấm giáp vô địch của hắn đã làm tròn vai trò của mình.
Cuối cùng hắn cũng đến được chỗ trung úy Gutmann trong một cái hố được pháo binh của họ bảo vệ.
- Anh sao rồi, hạ sĩ Hitler?
- Rất khỏe, thưa trung úy.
Thoắt một cái Hitler đã thoát xuống phía hậu cứ, tránh xa nơi bom đạn đang điên cuồng trút xuống.
Sáu giờ sáng, hắn thấy mắt mình nóng lên.
Sáu giờ ba mươi, mắt bỏng rát.
Bảy giờ, mắt hắn nóng như than cháy rực.
Bảy giờ ba mươi, Hitler nghi là mình có thể đã hít phải khí độc.
Tám giờ, trời sáng bảnh nhưng bao quanh Adolf Hitler là một màn đêm đen kịt. Hắn hiểu rằng mình đã bị mù.
Hắn ngã phệt tại chỗ. Ở đâu đây? Hắn không còn nhìn thấy gì nữa và kêu gào:
- Mắt của tôi! Khí độc! Mắt của tôi!
Hốc mắt hắn như có lửa đốt trong khi cả phần còn lại của cơ thể như tê liệt trong băng giá. Người hắn vừa sốt cao vừa run lên bần bật. Hắn thấy mình được đưa lên một cái cáng.
Một bàn tay nắm lấy tay hắn.
- Tôi nghĩ là chiến tranh đã chấm dứt với anh, Hitler ạ.
Hắn nhận ra giọng nói của trung úy Gutmann.
Câu nói này làm hắn tê liệt; chiến tranh kết thúc với hắn rồi ư? Cuộc chiến sẽ thế nào nếu không có hắn? Và chiến trường không có hỏa lực của hắn sẽ như thế nào? Và nước Đức sẽ ra sao không có niềm tin của hắn? Hắn muốn phản đối, phủ nhận sự mù lòa của mình, yêu cầu người ta để hắn ở đó, nhưng sức mạnh của hắn đã không trả lời hắn.
“Người sẽ chết ở nơi người mắc tội...”
Vượt lên trên những cái xóc của chiếc xe cam nhông nhỏ, những tiếng rít của tàu hỏa, câu nói mà hắn đã nghe khi còn nhỏ vẳng bên tai hắn cùng những cơn sốt tăng và giảm liên tục.
“Người sẽ chết ở nơi người mắc tội.”
Hắn là một họa sĩ. Hắn vừa mất đi đôi mắt của mình. Hắn không vẽ nữa và sự tàn tật loại hắn ra khỏi chiến trường. Nếu không chết đi thì hắn sẽ trở thành cái gì?
o O o
Adolf H., Neumann và Bernstein biết chắc rằng họ đang chiến đấu trận cuối cùng. Họ chiến đấu mà không chiến đấu, bắn cầm chừng cho có, như trong một buổi tập chứ không phải là đêm diễn thật sự.
Có lẽ họ muốn chiến đấu cầm chừng nhưng hỏa lực mãnh liệt của quân địch không cho phép họ làm thế. Có lẽ họ chỉ muốn tự bảo vệ mình nhưng bạo lực đã cuốn họ đi và buộc họ phải chiến đấu. Có lẽ họ muốn được coi là bệnh binh nhưng, như những kẻ tôn sùng cái đẹp, họ đã bị sự huy hoàng vô ích của trận chiến cuối cùng thu hút một lần cuối.
Đêm nay trăng tròn nên máy bay hoạt động dễ dàng hơn. Đạn pháo rơi ào ạt như mưa, mỗi lần lại chứng tỏ sức mạnh khí tài vượt trội của quân địch.
- Giữ cho đến sáng, Adolf lẩm bẩm.
Bộ binh Pháp tràn đến từ khắp nơi. Phải rút lui. Ba người bạn bị tách ra theo mệnh lệnh của cấp trên và theo hoàn cảnh.
Adolf đi qua đêm nay như kẻ mộng du. Là chiến binh lão luyện, hắn có những động tác thuần thục, những phản xạ tuyệt vời, nhưng tâm trí hắn đã để ở nơi khác, ở ngày mai, ở ngày kia, ở hòa bình.
- Giữ cho đến sáng.
Đã nhiều lần, hắn thờ ơ nhận thấy mình suýt chết. Những viên đạn bắn sát người hắn. Những quả đạnghém xả khói vào người hắn. Hắn coi thường chuyện đó.
- Giữ cho đến sáng.
Hắn sợ rằng việc mình sớm tách khỏi đội hình sẽ đem lại điều không may. Hắn cố ép mình sợ hãi. Vô ích.
- Giữ cho đến sáng.
Bình minh rốt cuộc cũng đến, đầy hứa hẹn. Tiếng súng đạn thưa dần, trời cũng sáng dần lên.
Adolf đi bộ rất lâu để đến được lán tham mưu cuối cùng ở hậu cứ.
Khi đến gần, nhìn vẻ mặt xám xịt của các sĩ quan, hắn biết mình đã đoán đúng. Người ta vừa thông báo chính thức: nước Đức đã thua trận.
Hắn ngồi lên một chiếc ghế băng bằng gỗ và thả mình vào ánh sáng mặt trời. Hắn tắm nắng. Những ngọn lửa nhợt nhạt của mùa đông chầm chậm sưởi ấm, làm cho hắn thư giãn như được tắm một lúc lâu, gột rửa hắn khỏi bốn năm đầy mồ hôi, canh cánh, khỏi những nỗi sợ chết người. Cuối cùng, bình minh hôm nay đã là một bình minh thực sự, bình minh quyết định một ngày mới bắt đầu. Cuộc sống và tương lai đã được trả lại cho hắn.
Neumann nhanh chóng gặp lại Adolf. Anh ngồi xuống không nói một lời. Một sức mạnh duy nhất truyền qua người họ. Họ biết rằng mình đang hạnh phúc.
Những người bị thương trong đêm đang được chuyển đến.
Những người lành lặn giúp những người liệt bại. Hai người tải thương khiêng đến một đống thịt đang rên rỉ trên cáng.
- Tiêm, người y tá hét lên hãi hùng.
Bác sĩ tiến lại gần và thoáng chững lại trước cảnh tượng ghê rợn. Ông ta quay mặt đi, cầm tay người đàn ông bị thương và tiêm thuốc giảm đau. Adolf và Neumann tiến lại gần. Mặt người lính ấy đã bị lột da. Anh ta không còn mắt, không còn mũi, không còn miệng. Ấy thế mà anh vẫn còn sống. Trong cái đống thịt bầy nhầy, máu chảy ròng ròng, vẫn còn một cái miệng muốn nói, một cái cằm động đậy theo thói quen, một chàng trai tìm cách gọi đồng đội, nhưng từ cái đống thịt tơi tả ấy chỉ còn phát ra một mớ âm thanh hỗn độn, rời rạc.
- Nhìn tay kìa, Adolf nói.
Người lính ấy đeo một cái nhẫn bạc ở ngón đeo nhẫn. Đó chính là Bernstein.
o O o
- Anh bị nhiễm độc hơi ngạt. Dần dần anh sẽ lấy lại thị lực.
Bác sĩ Forster trấn an người bị thương trong phòng lớn giữa bệnh viện đầy ắp tiếng rên la.
- Trái với điều anh nghĩ, mắt anh không hề bị hỏng và anh không bị mù vĩnh viễn. Đó là một ca viêm kết mạc cấp cộng với việc mí mắt bị phồng lên.
Hitler nghe bác sĩ nói nhưng thấy khó mà tin vào những gì anh ta nói. Hắn vẫn bị đóng đinh vào bóng tối. Hắn biết rằng mình đang ở bệnh viện Pasewalk nhưng hắn không nhìn thấy gì xung quanh, hắn biết rằng bác sĩ Forster đang chữa trị cho mình nhưng không thể nói anh ta tóc màu nâu, vàng hoe hay hung đỏ, hắn biết tất cả những người cùng phòng qua tên, qua giọng nói và những câu chuyện của họ và với hắn, việc nằm giữa chừng ấy thân thể và khuôn mặt không quen biết là một sự thân mật không thể tha thứ được.
- Có thể giờ đây anh đã lấy lại thị lực rồi. Thậm chí điều này là chắc chắn. Song để cẩn thận, tôi vẫn buộc anh phải đeo băng kín mắt.
- Nhưng còn tay tôi thưa bác sĩ, tại sao anh lại buộc tay tôi vào giường thế này?
- Tôi không muốn anh dụi mắt. Nếu làm vậy anh có nguy cơ làm viêm nhãn cầu và mi mắt đến mức làm anh mù thực sự.
- Tôi thề với bác sĩ là...
- Đó là để tốt cho anh thôi, hạ sĩ Hitler ạ. Anh nghĩ là tôi muốn còng tay một người anh hùng đã được tặng thưởng huân chương Thập tự sắt hạng nhất hay sao? Tôi muốn chữa khỏi cho anh vì anh xứng đáng với điều ấy.
Hitler im lặng và đồng ý. Bác sĩ Forster biết rằng Hitler sẽ ngoan ngoãn nghe lời khi người ta nịnh hắn một cách hợp lý. “Một con người kỳ lạ, anh nghĩ, có thể chịu đựng tất cả nếu người ta thừa nhận anh ta là một người xuất sắc. Một sự dũng cảm lạ thường dựa trên sự tự đánh giá cao một cách lệch lạc về mình. Hiếm khi gặp một người có cái Tôi mạnh như vậy và yếu như vậy. Mạnh vì anh ta cho rằng mình là trung tâm tuyệt đối của thế giới, một cái đầu nhồi nhét đầy những điều chắc chắn không gì lay chuyển nổi, tin chắc rằng mình luôn luôn nghĩ đúng. Yếu vì anh ta có một nhu cầu ghê gớm được người khác công nhận chiến công của mình, được người khác trấn an rằng mình là người có giá trị. Đó làcái vòng luẩn quẩn của những người có thói coi mình là trung tâm: cái Tôi của họ đòi hỏi nhiều đến mức cuối cùng họ bao giờ cũng cần đến người khác. Điều này có lẽ sẽ làm cho người ta kiệt sức mất. Chỉ là một người ích kỷ bình thường có lẽ sẽ tốt hơn.“
Bác sĩ Forster rời phòng bệnh để đến gặp ê kíp bác sĩ mà anh đang cố thuyết phục mọi người chuyển sang áp dụng những phương pháp nghiên cứu chữa trị mới mà bác sĩ Freud ở Viên đưa ra.
Bên cạnh Hitler, một tay Bruch nào đó nói giọng the thé:
- Không may rồi anh bạn ơi! Nếu anh được chữa khỏi, anh sẽ thậm chí không được nhận trợ cấp thương tật. Tiếc quá! Với một họa sĩ, lại bị mù nữa, thì đó có thể là một chút tiền bỏ ống nho nhỏ đến cuối đời.
Hitler không trả lời. Hắn không biết cái gì làm hắn chán nản nhất vào lúc này: mất thị lực hay phải nghe những ý nghĩ của đám thỏ đế đục nước béo cò này.
- Các đồng chí ơi, cách mạng sắp đến rồi, Goldschmidt bắt đầu nói.
Hitler thở dài, sốt ruột. Goldschmidt Đỏ sẽ làm ô nhiễm cả buổi chiều nay với cái mớ diễn văn mác xít của hắn. Tất cả sẽ được kể ra trong bài nói ấy: thắng lợi của cuộc cách mạng Nga, kỷ nguyên mới của tự do và bình đẳng, sự năng động của người lao động cuối cùng cũng được nắm vận mệnh của mình trong tay, tố cáo bọn tư bản, những kẻ giết người và làm người khác chết đói... Hitler có những tình cảm mơ hồ đối với ý thức hệ mới này; hắn còn chưa quyết định ngả theo hướng nào vì thiếu một bản tổng hợp. Một vài điểm làm hắn thích, một vài điểm khác thì không. Hắn đánh giá cao việc tố cáo giới tư sản ở các thành phố, những lời lẽ chống lại bọn cơ hội, thị trường chứng khoán, nền tài chính thế giới. Nhưng hắn đã bị sốc vì cuộc đình công cung cấp đạn dược cho mặt trận do các nghiệp đoàn khởi phát để có hòa bình sớm hơn và hắn quyết liệt chống chủ nghĩa quốc tế. Cái học thuyết gốc Do Thái và Slavơ này muốn xóa bỏ sự khác biệt giữa các quốc gia và thành lập một trật tự thượng đẳng không đếm xỉa đến khái niệm Tổ quốc nữa. Vậy thì, Hitler nghĩ, cuộc chiến này có ích gì? Vậy thì việc là người Đức không còn là một sự ưu việt ư? Người ta có bỏ chế độ quân chủ đi không? Hai hay ba lần, hắn đã muốn tham gia vào cuộc tranh luận cuốn hút tất cả thương binh ở Pasewalk nhưng vẫn như mọi khi, vụng về, lộn xộn, không có uy, hắn không làm cho người khác phải chú ý nghe mình được và nhanh chóng chọn việc bó mình lại trong sự im lặng.
Ngày hôm sau, hắn thấy ai đó nhẹ nhàng ấn lên tay hắn.
- Hạ sĩ Hitler, chúng tôi sẽ kiểm tra xem thị lực của anh phục hồi chưa. Tôi sẽ bỏ băng ra cho anh. Chú ý, nghiến răng vào, có thể sẽ đau đấy.
Hitler sợ kết quả đến mức hắn suýt yêu cầu người ta để nguyên gạc và vải băng cho hắn. Nhỡ đâu hắn không nhìn thấy gì nữa thì sao?
Nhưng khuôn mặt của bác sĩ Forster hiện lên trong một thế giới mờ đục đầy chấm đỏ. Khuôn mặt của người bác sĩ to một cách lạ kỳ, trẻ và hồng hồng; anh ta để một vòng râu cằm và đeo kính vào để trông già hơn nhưng những sợi râu tơ màu hung và cặp kính tròn một cách đáng ngạc nhiên lại góp phần làm anh ta trẻ đi, cho anh ta dáng vẻ của một đứa trẻ sơ sinh hóa trang thành sinh viên.
- Tôi nhìn thấy rồi, Adolf nói.
- Tôi có bao nhiêu ngón tay đây? Bác sĩ Forster hỏi và chìa ba ngón ra.
- Ba ngón, Hitler thì thầm và nghĩ rằng người ta đang thực sự coi mình là một thằng ngốc.
- Nhìn theo ngón trỏ của tôi đây.
Hitler nhìn theo bàn tay đang di chuyển từ phải qua trái, từ trên xuống dưới. Điều này làm mặt hắn cau lại vì đau. Hắn nhăn mặt lại.
- Dần dần rồi mọi chuyện sẽ ổn, anh đừng lo lắng gì.
- Liệu tôi được phát báo không?
- Được, nhưng tôi không nghĩ là anh có thể đọc được.
- Tôi cần phải có báo. Ở đây, rặt toàn tin vô căn cứ về tình hình của nước Đức. Tôi cần phải có thông tin.
Bác sĩ Forster đặt hai tờ nhật báo lên giường hắn rồi đi ra xa. Hitler cay đắng nhìn những dòng chữ tạo thành một đường liền, chữ nọ dính vào chữ kia mà hắn không tài nào giải mã được. Hắn thở dài ngao ngán.
- Các đồng chí ơi, Goldschmidt hét tướng lên, những người cách mạng vừa đến bệnh viện này. Đó là những người lính thủy đã nổi dậy. Chúng ta cần phải thể hiện sự ủng hộ của mình với họ.
Hitler nhìn những người cùng phòng đang sôi sục sau những câu nói của Goldschmidt. Xem nào, trước đó, hắn chưa từng chú ý tới vẻ ngoài của Goldschmidt, Bruch và cái gã gầy nhẳng ở kia, ba người lãnh đạo đỏ trong phòng, họ đều là người Do Thái. Điều này có ý nghĩa gì không?
Một mục sư bước vào và căn phòng trở nên im lặng. Khuôn mặt ông ta rầu rĩ báo hiệu tin tức chẳng lành.
- Các con! Ông nói giọng run run, nước Đức đã đầu hàng. Chúng ta đã thua.
Một sự yên lặng kéo dài sau những lời nói này. Mỗi thương binh đều tự nhủ rằng mình đã đau đớn và chiến đấu chẳng vì cái gì cả.
- Vậy là số phận chúng ta hoàn toàn nằm trong tay kẻ chiến thắng và chúng ta cần phải cầu Chúa để trông mong vào sự hào hiệp của họ.
Điều đó còn nghiệt ngã hơn nữa: thua trận là một chuyện nhưng phục tùng kẻ thù lại là chuyện khác. Số phận nô lệ đang chờ đợi nước Đức.
- Đó chưa phải là tất cả, vị mục sư nói thêm. Nền quân chủ đã không còn. Hoàng đế Đức đã thoái vị. Nước Đức từ nay sẽ là một nước cộng hòa.
- Hu ra! Goldschmidt hô vang.
- Hu ra! Bruch phụ họa theo.
- Câm mồm đi! Một người cụt hét lên.
Nếu vị mục sư muốn nói thêm thì ông ta cũng không làm nổi vì căn phòng đã biến thành chốn nghị trường nơi các nghị viên đang chửi bới nhau thậm tệ.
Hitler, mắt giàn giụa nước, nghĩ rằng hắn sẽ chết ngay lập tức. Hắn xoay người, vùi đầu trên gối và khóc nhiều như ngày mẹ mất hay khi Foxl hấp hối. Nước Đức không thể rơi từ trên cao đến thế. Ta cũng không thể vậy.
Đột nhiên, bóng tối lại bao bọc lấy hắn. Hắn đưa tay lên trước mắt và huơ huơ, hắn không nhìn thấy gì nữa. Đó là một bóng tối màu nâu sẫm, giống như cái nền đất sét nơi hắn đã ngủ trong suốt bốn năm, đã bảo vệ trong suốt bốn năm, đã ôm mỗi khi bom đạn trút xuống. Hắn đã trở thành đất, được trả về với đất. Chắc chắn rồi, hắn phải chết.
- Mắt tôi! Mắt tôi!
Hắn hét toáng lên.
Những người y tá lao đến để ngăn hắn không tự đập vào hốc mắt. Bác sĩ Forster chạy đến tiêm cho hắn một mũi an thần và yêu cầu đưa hắn vào một phòng nhỏ cách ly.
Hitler chìm trong một trạng thái phi lý, một cơn phẫn nộ bị gián đoạn bởi những đợt hôn mê. Hắn nghe thấy, từ xa vẳng lại nhưng không hiểu gì, cuộc tranh luận của bác sĩ trẻ Forster và ông Steiner, viện trưởng bệnh viện quân sự ở Pasewalk.
- Tôi đã nói với viện trưởng rằng đó là một phản ứng tâm lý.
- Anh thôi ngay cái việc lúc nào cũng trương tâm lý học ra đi, Forster. Xem tình trạng viêm kết niêm mạc vừa rồi của anh ta nặng thế nào thì biết, chỉ cần một cơn rối loạn nước mắt là đủ để bệnh tái phát. Đây là cùng một dạng mù giống lần trước.
- Tôi đảm bảo với ông là không. Lần này, đây là một dạng mù lòa khác hẳn. Bệnh nhân từ chối nhìn thấy mọi vật. Anh ta muốn phủ nhận rằng chúng ta đã thua trong cuộc chiến. Đó là một ca mù có nguồn gốc từ chứng hysteria. Giáo sư Steiner, tôi đề nghị ông cho phép tôi thôi miên bệnh nhân này.
- Tôi cấm anh.
- Nhưng tại sao?
- Tôi không tin vào những phương pháp lang băm của anh.
- Nếu ông không tin có nghĩa ông coi chúng là vô hại. Vậy hãy cứ để tôi thử xem.
- Không. Bệnh viện của tôi không bao giờ biến thành ổ chứa lũ thầy bói, lang băm. Anh hãy để bệnh nhân tự tìm lại thị lực.
Giáo sư Steiner sập cửa đi ra, tin chắc rằng lời nói của mình sẽ được tuân theo.
- Lão già ngu ngốc, Forster thì thầm qua kẽ răng.
Với bác sĩ Forster, đó là một cuộc xung đột giữa các thế hệ: thế hệ bác sĩ già không chịu đựng được những tiến bộ công nghệ và thẳng thừng từ chối tất cả. Anh ta tiến đến gần Hitler đang rên rỉ, tay đập đập xuống giường.
- Quá thú vị.
Đúng vậy, thực vậy, ai có thể ngăn anh ta làm cái mà anh ta muốn với người bệnh nhân này? Chắn chắnkhông phải cái lão rậm râu hủ lậu Steiner, giờ này hẳn đã về nhà và đang nhấm nháp cốc rượu mạnh của lão, để anh ta phụ trách toàn bộ bệnh viện, như mọi đêm.
- Mặc kệ. Ta cứ làm. Một ngày nào đó, ông ta sẽ buộc lòng phải công nhận rằng ta đã đúng.
Bác sĩ Forster rút quyển sổ tay có ghi chép bí mật số lượng những bệnh nhân mà anh ta đã chữa trị theo phương pháp của mình là thôi miên ám thị. Trong bốn năm chiến tranh, có ba mươi lăm ca được anh ta ghi nhận, cho là đã được chữa khỏi bằng phương pháp này. Hạ sĩ Hitler chắc chắn sẽ là người cuối cùng trước khi bác sĩ Forster mở phòng mạch riêng tại Berlin.
Bác sĩ Forster khóa trái cửa rồi cúi xuống hỏi Hitler. Thực hiện thôi miên một bệnh nhân mù không phải dễ. Forster gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng, sau hai mươi phút, anh ta cảm thấy mình đã thu hút được sự chú ý của bệnh nhân và người này bắt đầu nghe lệnh anh ta.
- Giơ tay trái lên.
Hitler giơ tay trái lên.
- Xoa tai phải.
Bàn tay trái của Hitler từ từ đưa lên tìm tai phải rồi xoa nó.
- Rất tốt. Bây giờ, anh hãy ghi khắc vào trí nhớ của mình tất cả những gì tôi nói. Đây sẽ là Thánh kinh(16)của anh trong những năm tới. Nếu anh đồng ý, hãy gật nhẹ đầu.
Hitler gật đầu. Forster cảm nhận thấy mối liên hệ thôi miên đã được thành lập.
- Adolf Hitler, nước Đức cần đến anh. Nước Đức đang bị ốm, cũng như anh. Nó cần được chữa khỏi, cũng như anh. Anh không nên giấu mình sự thật nữa, anh không nên làm mờ mắt mình nữa, anh phải trở nên minh mẫn. Hãy tin vào số mệnh của mình, Adolf Hitler, hãy thôi làm kẻ mù lòa và anh sẽ lấy lại thị lực. Hãy tìm lại lòng tin, Adolf Hitler, hãy tin ở chính mình. Những điều trọng đại đang chờ anh, một thế giới cần xây dựng lại, một cuộc sống cần hoàn thành. Đừng bao giờ do dự nữa. Đừng bao giờ để mình lung lay vì các sự kiện. Hãy đi theo con đường của anh. Không nghi ngờ gì cả. Tương lai thuộc về anh. Sáng mai, tôi muốn khi tỉnh giấc, anh sẽ nhìn lại được như xưa. Nước Đức muốn điều đó. Anh phải làm điều đó vì nước Đức.
Bác sĩ Forster cúi xuống gần người thương binh.
- Hãy ra hiệu cho tôi rằng anh đã hiểu. Hãy ngẩng đầu lên.
Hitler ngẩng đầu lên.
- Tôi để anh nghỉ, Adolf Hitler. Tôi sẽ quay lại kiểm tra vào buổi sáng xem anh có nghe lời tôi không.
Anh ta mở cửa và để bệnh nhân lại trong bóng tối.
Sau nửa giờ, Hitler đột nhiên tỉnh giấc trên giường. Hắn cứ ngồi, choáng ngợp bởi sức mạnh của những suy nghĩ trong đầu. Các ý nghĩ xáo trộn dập dồn trong tâm trí hắn nhưng dòng thác ấy làm hắn cảm thấy thoải mái; hắn có cảm giác rằng mọi việc đột nhiên trở nên sáng tỏ.
- Gutmann, Bruch, Goldschmidt... tất cả đều là người Do Thái. Chúng ta đã thua trận vì lũ người Do Thái. Làm thế nào mà ta không nhận ra điều ấy sớm hơn nhỉ? A, Gutmann, ta nhìn thấy lại vẻ lúng túng của ngươi khi ta nhặt cái mũ kippa rơi ra từ túi áo ngươi; và ta, một thằng ngốc, đã không hiểu sự phản trắc của ngươi. Chúng ta đã thua trận vì trong ban tham mưu có đầy người Do Thái như ngươi và người ta không thể nào vừa là người Đức vừa là người Do Thái. Chúng ta đã bị một lũ phản trắc chỉ huy. Chúng có mặt ở tất cả các bên, ở tất cả các nước, chúng không tin vào gì cả vì chúng là Do Thái. Máng nào chúng cũng ăn vì chúng là người Do Thái. Chúng làm nhiễm trùng máu và quốc tịch của chúng ta. Những tên Do Thái ở chiến trường, ở hậu phương - tấn công vào khu vực hành chính và chính trị, tổ chức những cuộc đình công để ngưng cung cấp đạn dược. Thế ngành tài chính, rồi nền kinh tế chẳng phải nằm trong tay bọn Do Thái ư? Có đất đai trong tay mới là cao quý. Thế mà chúng đã thay thế bằng thị trường chứng khoán và các nhóm cổ đông. Ngoạn mục làm sao! Chúng đã ngấm ngầm phá hoại và gặm nhấm thế giới của chúng ta mà chúng ta không biết. Bậc thầy giả tạo. Những kẻ đóng kịch bậc thầy. Ôi Schopenhauer, thứ lỗi cho tôi. Tôi đã không hiểu vì sao ngài viết rằng đám Do Thái là “những bậc thầy về nói dối“. Chúng là quân hai mặt, bề ngoài là người Đức, bên trong là Do Thái. Xin lỗi Nietzsche, xin lỗi Wagner! Tôi đã không nắm bắt được tầm vóc sự minh mẫn của các vị... Các vị đã có thể khai sáng cho tôi bằng quan điểm bài Do Thái của các vị. Thay vào đó, tôi đã lảng tránh lòng hận thù của các vị, tôi thấy nó lủng củng. Xin thứ lỗi! Chính bản thân tôi đã bị nhiễm văn hóa Do Thái, nhiễm tình cảm thế giới đại đồng, nhiễm thói quen nhìn nhận mọi chuyện với tinh thần phê phán. Chúng đã làm mất đi sinh lực của trí tuệ Đức bằng cách biến dân tộc chúng ta thành những vị giáo sư tỉ mẩn, những nhà thông thái mà người ta thờ phụng khắp thế giới. Giả tạo làm sao! Cái bẫy mới tinh vi làm sao! Sự giáo dục thực sự phải là giáo dục của sức mạnh và ý chí! A, đại tá Repington, ngươi là một sĩ quan Anh cũng chẳng sao, ngươi đã không sai khi tuyên bố trên báo chí: “Cứ ba người Đức có một kẻ phản bội”. Ngươi đã có lý. Một tên phản bội và hai thằng ngu. Một tên Do Thái và hai kẻ ngây thơ bị lợi dụng, lừa bịp, bị phết văn hóa Do Thái đến tận mõm. Nhưng từ nay đã có ta. Ta tin ở ta. Ta sẽ chỉ ra conđường. Ta sẽ giương cao ngọn đuốc của ta trong các chiến hào lúc nhúc chuột, ta sẽ chỉ ra hệ thống ngầm sẽ nuốt chửng chúng ta nếu chúng ta không hành động. Dù gì, thất bại này sẽ là một điều tốt cho nước Đức. Một cuộc khủng hoảng thực sự sẽ bóc trần ra ánh sáng con vi rút cho đến nay vẫn còn chưa lộ diện. Xin lỗi Nietzsche! Xin lỗi Wagner! Xin lỗi Schopenhauer! Các vị đã nói với ta cả trăm lần cái điều mà ta tiếp nhận tối nay như một sự giác ngộ. Một sự thần khải. Các bác sĩ cứ dự báo trước chẳng ích gì, người ta sợ dịch hạch hơn sợ bệnh lao. Bởi dịch hạch làm người ta choáng ngợp, tàn phá nhanh chóng trong khi bệnh lao lại âm thầm và dai dẳng. Do đó, con người chế ngự bệnh dịch hạch nhưng bệnh lao lại chế ngự con người. Thảm kịch này cần cho chúng ta. Nay các con vi trùng đã lộ mặt. Cần phải tổ chức chữa chạy. Ta sẽ là bác sĩ của nước Đức. Ta sẽ tận diệt loài Do Thái. Ta sẽ tố cáo chúng, ngăn cản chúng sinh sản và sẽ đưa chúng đi chỗ khác. Chúng cứ việc làm ô uế những gì không phải là nước Đức. Ta sẽ không yếu lòng. Ta tin vào sứ mệnh của mình. Kể từ tối nay, ta vĩnh biệt với sự bàng quan. Bàng quan, kiềm chế, đó là những trò bịp của bọn Do Thái. Ta sẽ làm một cách có hệ thống, trên diện rộng và không khoan nhượng. Hãy nhìn vũ trụ xem: liệu ở đó có chỗ cho tinh thần phê phán không? Không. Tất cả đều được chi phối bởi sức mạnh. Mặt trăng quay quanh trái đất vì trái đất là mạnh nhất. Trái đất quay quanh mặt trời vì mặt trời là mạnh nhất. Lực hấp dẫn, đó chính là sức mạnh đang ngự trị. Con người không thể tách rời khỏi vũ trụ. Ta sẽ thẳng tiến và không thất bại. Ta đã hiểu sứ mệnh của mình rồi.
Tám giờ, bác sĩ Forster bước vào phòng, kéo ri đô ra và đánh thức người đang ngủ. Hitler mở mắt. Hắn nhìn theo những tia nắng mặt trời đang chảy tràn qua cửa sổ mái xuống giường. Hắn mỉm cười với bác sĩ Forster. Hắn đã nhìn thấy.
Vị bác sĩ ra khỏi phòng, tựa lưng vào tường hành lang, rút quyển sổ bí mật của mình ra và hài lòng viết bốn chữ nhỏ sau: “Adolf Hitler: khỏi bệnh.”
o O o
“Lucie thương mến,
Làm sao tôi có thể tưởng tượng được ngày về sau chiến tranh lại đáng thất vọng đến thế? Suốt bốn năm, dưới lửa đạn chiến hào, ở bệnh viện gần Lucie, tôi đã lên lại dây cót tinh thần của mình khi nghĩ đến sau này. Sau này đến sau tất cả những nỗi ghê sợ của chiến tranh, cáisau này vì nó mà chúng ta đã chống chọi vì tất cả và với tất cả. Cái sau này rốt cuộc cũng đến. Trống không. Rỗng tuếch. Đớn đau.
Sau khi chôn cất Bernstein, chúng tôi đã quay lại Viên, Neumann và tôi. Không thể chịu đựng được, chúng tôi có cảm giác bị đóng đinh vào ký ức của mình khi vẫn còn sống. Nhìn đâu cũng thấy Bernstein, trong xưởng vẽ mà chúng tôi đã lấy lại, trong những bức tranh của anh ấy mà chúng tôi lại có dịp chiêm ngưỡng, trong những quán cà phê nơi chúng tôi đã ghé cùng nhau, ở trường Mỹ thuật nơi người ta đã đề nghị chúng tôi đọc bài ca ngợi “người đồng chí can trường đã ngã xuống trong trận đánh” của chúng ta, cứ như thể chúng tôi muốn tôn vinh người lính Bernstein lắm ấy... Chúng tôi đã tìm lại được thế giới của mình nhưng nó đã biến dạng khi trở về với chúng tôi. Tất cả mọi điều ở cái thành Viên năm 1919 này đều làm chúng tôi thương tổn: sự phồn hoa của nó - cứ như thể nó chưa từng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh - thế hệ trẻ của nó - tôi vừa nhận ra rằng mình đã ba mươi - thói bài ngoại sâu sắc của nó, khiến cho nguy cơ của những cuộc chiến mới lại lởn vởn quanh đây, những cuộc tranh luận trí thức không có hồi kết mà tôi không còn đủ sức để theo dõi sau bốn năm sống trong man rợ.
Neumann làm tôi lo lắng ngay sau khi Bernstein mất đi. Cái chết của bạn chúng tôi làm anh ấy đau đớn đến nỗi trí óc đảo lộn, không thể chịu được cú sốc lớn như thế, đã biến sầu não thành thù hận. Từ đầu, anh ấy đã chửi rủa chiến tranh, bộ chỉ huy, đám bác sĩ bất lực. Khi về đây, anh ấy quay sang thù ghét những người ở hậu phương, những kẻ được thuyên chuyển về một vị trí không phải chiến đấu và ở lại hậu phương, những kẻ lợi dụng, những kẻ đã cả gan làm việc và làm giàu trong khi Bernstein bị biến thành bia đỡ đạn. Khi chúng tôi vào xưởng vẽ hay đến nhà những người buôn tranh, lúc nào anh ấy cũng gay gắt chỉ trích những bức tranh dở “không sánh kịp một bức phác họa của Bernstein”. Có hôm, tôi đã phải giữ anh ấy lại khi anh ấy định đấm chết một tay sưu tầm đã chẳng may thú nhận là mình chẳng biết Bernstein là ai cả. Chính anh ấy cũng ngạc nhiên khi thấy đã tự để cho mình trở nên hung hăng quá đáng đến vậy, anh ấy đã thỏa thuận với tôi rằng sẽ không để chuyện này tiếp diễn mãi như vậy được. Từ đó, anh ấy tạo cho tôi cảm giác rằng anh ấy đã bình tĩnh lại cho đến khi tôi phát hiện ra rằng anh ấy đã dùng sự hung hãn của mình vào một việc khác và rằng... nhưng điều đó, tôi sẽ kể cho Lucie nghe sau.
Có một điều lạ lùng đã đến với tôi. Tôi đã trải qua một đêm diệu kỳ như cái đêm với Lucie trong căn phòng nhỏ của những người chờ chết.
Quay lại xưởng vẽ, tôi nhận ra rằng tay mình, mắt mình, đầu óc mình và cả những gì nữa tôi không biết đã bị mòn gỉ. Như một người nghệ sĩ dương cầm trở về sau kỳ nghỉ, tôi chạy gam bằng những bức ký họa nhanh, tĩnh vật, chép tranh của các danh họa. Tôi đã phung phí giấy và toan để tìm lại được kỹ thuật vẽ của mình. Từ đáy lòng, tôi tương đối hạnh phúc khi vẽ những thứ chắc chắn sẽ đi thẳng vào sọt rác vì nó giúp tôi tránh phải nghĩ đến hai vấn đề cơ bản của một họa sĩ: phong cách và chủ đề.
Như tôi đã nói với xơ, xơ Lucie ạ, tôi là một họa sĩ có tài nhưng không phải là một thiên tài. Ở tôi còn thiếu cái độc đáo. Đó là vấn đề mà tôi đã vấp phải trước cuộc chiến: tôi đã trui rèn được một kỹ thuật vẽ khéo léo đồng thời không biết phải làm gì với nó. Một nhà tỷ phú không ham muốn tiêu pha. Một quyển từ điển tám nghìn trang không có gì để nói. Chắc chắn là đôi khi tôi cũng thể hiện được cảm xúc trong tranh của mình nhưng đó là những tình cảm được quy chuẩn trong một hình thức quy chuẩn.
Một đêm, chán nản vì điêu luyện kỹ thuật nhưng vô sinh trong sáng tác, tôi thả mình vẽ lăng nhăng không suy nghĩ. Tôi vẽ bừa bằng bút chì, chắp những yếu tố kỳ quặc vào với nhau như óc tưởng tượng của chúng ta vẫn làm trong những giấc mơ. Tôi vẽ để chơi, để thể hiện sự điên cuồng, điên cuồng đoạn tuyệt với cái hoàn mỹ kinh điển. Tôi vẽ một nữ tu - có lẽ đó chính là xơ đấy, xơ Lucie ạ - đang bay giữa một đám mây chim mòng biển. Những con mòng biển trắng hình tam giác đang tấn công một đám đạn pháo đen sì và đầy hăm dọa bay song song. Bên dưới là một bãi biển lớn màu sâm banh lúc triều xuống. Tôi đã đặt những ngôi sao biển lên bầu trời và đặt những ngôi sao trời trên cát. Tôi thêm vài mỏm đá trên bãi sỏi, những mỏm đá mềm mại và óng ánh dầu mà dưới nét vẽ của tôi, một vài mỏm biến thànhnhững người phụ nữ khỏa thân, lả lơi, gọi mời, một vài mỏm biến thành những đôi uyên ương đang tình tự. Tôi không hiểu mình đang làm gì nhưng tôi hoan hỉ như một thằng bé đang nghịch dại. Sau đó, tôi cho chui ra từ đá, những con hải cẩu nhỏ, những con hải cẩu non mở to đôi mắt biểu cảm, những sinh vật trắng nhỏ bé, mũm mĩm dễ khiến người ta mềm lòng mà tôi không có từ nào khác để định nghĩa là “xinh xinh”. Ngay khi vẽ cái râu cuối cùng trên bộ ria con cuối cùng, tôi cảm thấy cần phải giết bọn chúng. Đúng, xơ nghe rõ tôi nói chứ, tôi cầm khay màu và bắt đầu chọc thủng những cái tôi dành chừng ấy thời gian để hoàn thiện bằng những vết thương đỏ máu; Thậm chí tôi còn thêm vào những vũng máu. Tiếp đó, tôi vẽ một con hươu cao cổ khổng lồ. Đừng hỏi tôi tại sao, tôi sẽ không thể trả lời cho xơ được; cứ tạm nói là bức tranh cần phải có một chi tiết nằm theo phương thẳng đứng và con hươu cao cổ làmcái nhiệm vụ ấy, vả lại tôi cũng không vẽ hết con vật này; thay vào chỗ những cái chân, tôi vẽ chân tháp Eiffel. Tôi cảm thấy cần phải lấp đầy khoảng phía trên bên phải bức tranh và thay vì vẽ một thiên thể tôi vẽ một cái đồng hồ-mặt trời, một tạo vật khủng khiếp và lai tạp đang sưởi ấm và báo giờ nhờ vào những trục, vít, ròng rọc, bánh răng, một bộ máy mà cấu tạo của nó hút tôi như thể nó là một cơ thể sống.
Tôi thực hiện tất cả những điều ấy bằng những chiếc bút vẽ nét mảnh nhất, với một sự chăm chút tỉ mỉ, y như người ta chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi chơi ai đó một vố. Cuối cùng, tôi đặt tên cho bức tranh là Một ly nữa? hay tiếng động làm tôi mất ngủ. Vào lúc đó, cái tên nực cười ngu xuẩn của bức tranh làm tôi buồn cười nhiều đến mức tôi quyết định ghi nó vào bằng chữ hoa ở phía dưới bức tranh. Kiệt sức nhưng hài lòng, thậm chí không đủ sức trèo lên giường đi ngủ, tôi đã ngủ quên trên ghế băng trước kia là chỗ cho người mẫu.
Khi thức giấc, tôi thấy Neumann đang xem xét bức tranh trong ánh sáng ban ngày. Tôi thấy xấu hổ và giả vờ còn ngủ. Nhưng Neumann không đi. Anh ấy đứng trước bức tranh, xem xét, nghiên cứu nó.
- Tớ biết, trông thật lố bịch! Tôi nói với từ xa.
Anh ấy không trả lời.
- Nó đã hút lấy tớ như vậy, tôi giải thích. Tớ vẽ không suy nghĩ, để xả hơi. Tớ sẽ vứt nó vào sọt rác như tất cả các thứ còn lại. Neumann đặt bức tranh xuống và đừng nhạo tớ nữa.
- Cậu có biết bức vẽ thật tuyệt vời không?
Tôi sẽ không kể cho xơ, xơ Lucie ạ, cuộc cãi vã giữa chúng tôi hôm đó. Chúng tôi đã hét vào mặt nhau trong hàng giờ liền vì tôi không thể thừa nhận việc anh ấy coi tấm vẽ phác trong một đêm chán chường là chuyện nghiêm túc; tôi cũng không chịu được anh ấy ngưỡng mộ cái tôi vẽ ngoáy cho vui và rằng, qua đó, anh ấy coi thường tất cả những cố gắng của tôi từ trước mà đôi khi tôi cảm thấy tự hào biết bao. Về phần mình, anh ấy phẫn nộ trước sự mù quáng của tôi.
- Đồ ngốc, cậu vừa hoàn thành tác phẩm độc đáo đầu tiên của mình mà lại không chịu nhận ra điều đó. Cậu vừa thực hiện một bức tranh theo kiểu Freud, một tác phẩm để vô thức được lên tiếng, một tác phẩm trông được vì các yếu tố được kết hợp tự do với nhau và thể hiện tình cảm của cậu một cách hiện đại. Mọi thứ đều thành công ở đây; sự tương phản giữa kỹ thuật vẽ - kinh điển, thậm chí “khoa trương” - và chất thơ hoang dại, kỳ dị; quan hệ giữa tên tranh và bức tranh, cái...
- Nhưng cái tiêu đề chẳng nói lên gì cả!
- Cậu nói lung tung gì thế? Một ly nữa? hay tiếng động làm tôi mất ngủ đương nhiên là câu chuyện về cuộc chiến mà cậu đã trải qua. Cậu đã chiến đấu ở Champagne, do đó có cái ly và màu của bãi biển... và cái tiếng động làm cậu mất ngủ chính là tiếng đạn pháo. Bức tranh của cậu miêu tả cảm giác ghê rợn mà chiến tranh đã gợi nên trong cậu.
Không thể tin được. Anh ấy giải thích tất cả trong khi tôi tin chắc rằng mình đã đáp lại những xung năng rời rạc. Anh ấy bình luận cái đồng hồ công nghiệp đang gặm mòn thời gian của con người, con hươu cao cổ tháp Eiffel thể hiện rõ nước Pháp cuốn hút tôi đến nhường nào, cuộc chiến ngang sức ngang tài giữa Thiện và Ác trong sự đối đầu của những con chim và đạn pháo... Tôi im lặng trong suốt quá trình anh soi tỏ những điều tôi đã làm.
Anh ấy đã kết luận như thế này:
- Cho tới nay, cậu không làm được một thằng nghệ sĩ vì cậu nghĩ rằng phải làm chủ tất cả. Đêm qua, cậu đã trở thành một họa sĩ vì đó là lần đầu tiên cậu để mặc cho cảm xúc cuốn đi. Cậu có cảm giác là mọi chuyện rời rạc trong khi cậu thể hiện một ý nghĩa vượt ra ngoài tầm hiểu biết của cậu. Với tớ, họa sĩ Adolf H. đã được sinh ra vào đêm qua.
Rúng động, tôi ngừng phản bác và quyết định thử lại một lần nữa. Sau vài tuần, tôi buộc phải thừa nhận rằng Neumann có lý. Cuối cùng, dù không nhận ra và gần như do sơ ý, tôi đã tìm ra được con đường của mình.
Vậy là đêm hôm đó đã đưa tôi về đêm nọ. Đêm của chúng ta, xơ Lucie ạ. Trong cả hai trường hợp, đêmthoát chết và đêm sáng tạo, tôi không thể hiểu chuyện gì đã xảy ra. Mỗi lần có cái gì đó quan trọng đi qua đời tôi, cần phải có người ngoài - Lucie hay Neumann - chỉ cho tôi cái gì đã xảy ra. Càng được cưng chiều tôi càng bội bạc. Tôi không thể công nhận một cách dễ dàng rằng Chúa tồn tại hay cảm hứng đã đến với tôi. Đúng là tất cả chỉ là chuyện giải thích nó thế nào và rằng chúng ta có quyền tự do quyết định xem một đêm nào đó là một đêm màu nhiệm hay là một đêm chữa chạy, đầy cảm hứng hay là hoang tưởng. Tuy nhiên, vì Neumann đã thuyết phục tôi về tranh vẽ của mình, tôi đã quyết định, xơ Lucie yêu quý à, rằng trong trường hợp này, tôi sẽ để mình bị xơ thuyết phục về những cái liên quan đếnđức tin của tôi. Tôi thừa nhận vai trò của người khác trong việc cấu thành số mệnh của tôi. Tôi sẽ nghe lời hai người, xơ và Neumann. Hiện tại, đó chỉ là một ý nguyện nên nó là cái gì đó mỏng mảnh nhưng như Lucie đã nói trong thư trước, cuối cùng cái hạt cũng sẽ kết trái.
Liệu đó có phải là niềm vui khi cuối cùng cũng được trở thành người họa sĩ mà tôi vẫn hằng mong ước? Tôi trói mình trong công việc và không để ý đến xung quanh. Một tấn thảm kịch đang hình thành quanh Neumann mà tôi còn có thể ngăn chặn được, mà vì thờ ơ, tôi thậm chí không nhìn thấy. Cần phải... nhưng thôi hãy kể lại câu chuyện theo trình tự của nó.
Tuy nhiên, tôi đã có tất cả các dấu hiệu mà đáng lẽ tôi phải giải mã chúng, nối kết chúng để có thể ngăn cản điều không thể tránh khỏi. Neumann, anh ấy cũng vậy, đang trải qua một giai đoạn khó khăn về mặt nghệ thuật. Khác với tôi, anh ấy có vô số ý tưởng nhưng lại chật vật khi thực hiện chúng. Anh ấy đã bị mắc chứng lý thuyết: năng lượng của anh ấy dồn hết vào việc chuẩn bị ý tưởng nên đến khâu thực hiện thì anh ấy chẳng còn gì. Đó là cái làm anh ấy xuất sắc và cuốn hút đến thế khi tranh luận nhưng gây thất vọng nhiều đến thế khi anh ấy cho xem một trong số ít các bức vẽ của anh ấy. Trở lạiViên, anh ấy quyết định chữa cho mình khỏi chứng cạn kiệt năng lượng vì lúc nào cũng gắn liền với một học thuyết nào đó để cuối cùng cũng đánh vật với chuyện chất liệu. Anh ấy khóa mình trong xưởng.
Một hôm, khi anh ấy chấp nhận cho tôi đến đó, tôi đã quan sát được mức độ thiệt hại. Neumann đã tìm cách vẽ như Bernstein, trên thực tế đó là một kiểu tiểu-Bernstein.
- Cậu không thấy tuyệt vời à? Anh ấy hỏi tôi với một sự hào hứng đáng nghi ngờ.
- Thật... đáng ngạc nhiên.
- Xem cái chi tiết này xem, bên trái ấy. Trông gần như là Bernstein.
- Chỗ này thì cậu nói đúng, trông thực sự như là Bernstein.
Anh ấy đỏ mặt vì sung sướng. Làm thế nào để nói với anh ấy cái cả hai chúng tôi ngưỡng mộ ở Bernstein thì tôi không còn ngưỡng mộ ở Neumann nữa? Làm thế nào đủ can đảm chỉ cho anh ấy thấy cái chi tiết trong nét vẽ biến Bernstein thành thiên tài độc nhất vô nhị chỉ còn là một kiểu cách mờ nhạt trên bức vẽ của Neumann? Tôi đã không tìm cách vượt qua trở ngại này. Chắc chắn đó là một sai lầm. Khi đó tôi lẽ ra đã có thể ngăn anh ấy không rơi xuống địa ngục.
Neumann hỏi tôi liệu anh ấy có thể ở trong phòng của Bernstein không? Tôi đồng ý. Sau đó, anh ấy lôi đống quần áo cũ của Bernstein ra và mặc vào, như để chơi. Điều này làm lòng tôi chùng xuống. Rồi tối tối, anh ấy đi đến những nơi mà tôi không biết. Bất chấp những lời rì rầm và sự kín đáo của anh ấy, thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng anh ấy về với ai đó, nhưng sáng ra, lần nào cũng vậy, chẳng bao giờ thấy mặt người ấy cả.
Tôi phải vắng mặt vài ngày để đến thăm dì Angela, em gái và cháu gái tôi. Trở về sớm hơn dự định, tôi vào xưởng mà không thận trọng gõ cửa để tặng cho anh ấy chỗ mứt nhà làm và trong xưởng, tôi phát hiện ra Neumann, trần truồng, đang ve vuốt một người đàn ông, người này cũng không một mảnh vải trên người. Nhìn tư thế nằm dài của họ biết ngay họ đang làm gì...
Tôi lúng búng, thậm chí tôi nghĩ là mình đã xin lỗi, rồi đi về khóa mình trong xưởng riêng. Tất cả đã rõ: Neumann tự coi mình là Bernstein. Bất lực, không chấp nhận nổi cái chết của bạn, anh ấy đã quyết định làm Bernstein sống lại trong con người mình.
Khi chỉ còn hai đứa chúng tôi, tôi nhận thấy anh ấy thậm chí không cảm thấy ngại ngùng vì đã bị tôi bắt gặp; ngược lại, bắt quả tang anh ấy đang sống như Bernstein, tôi đã khẳng định anh ấy trong cái bản thể mới của anh ấy. Anh ấy sung sướng.
Tôi đã rất nghiêm khắc. Dù tôi đã giữ im lặng suốt vài tuần liền, nửa vì thờ ơ, nửa vì tôn trọng, giờ đây tôi ép anh ấy dồn dập.
- Bernstein chết rồi. Cậu không thể làm cậu ấy sống lại bằng cách bắt chước cậu ấy được. Cậu lầm rồi. Tranh của cậu đáng vứt đi. Và tớ chắc chắn là chuyện tình ái của cậu cũng thế bởi cậu chỉ yêu phụ nữ. Cậu đang lừa dối chính cậu một cách trầm trọng. Và cả tớ nữa. Tớ có cảm giác mất đi hai người bạn, Bernstein trong chiến tranh và Neumann khi trở về. Cả hai bọn họ đều đã biến mất.
Anh ấy không phản đối.
Anh ấy lặng người. Sau đó, sau hai giờ không nói gì, anh ấy chỉ nói mỗi một câu là tôi nói đúng.
Anh ấy quay vào xưởng của mình.
Khi nghe thấy tiếng ghế đổ, tôi hiểu ngay lập tức. Tôi phá cửa. Anh ấy vừa treo cổ.
Tôi ôm anh ấy trong tay, như xơ đã làm với tôi, xơ Lucie ạ, và tôi đã nói chuyện với anh ấy cả đêm.
Tôi đã nói với anh ấy rằng không nên để mối sầu não hành hạ mình. Rằng bây giờ, sau chuyện này, anh ấy không được sầu não nữa và phải học lại cách sống như thế nào. Tôi đã nói với anh chỉ có một cách duy nhất để sống sót trong cuộc chiến này, đó là quên nó đi. Anh ấy đã để mình bị quá khứ, bị Bernstein, bị nỗi khiếp sợ bắt kịp. Chúng ta phải đặt dấu chấm hết cho những cái đó như chúng ta đã làm ở Champagne, trên nấm mồ của bạn chúng ta và chuyển sang cái khác. Quên đi. Quên hẳn. Say sưa với cái mới. Chếnh choáng với hiện tại. Không bao giờ nhìn về phía sau. Bernstein, chúng ta mới chỉ biết anh ấy sơ sơ thôi. Chiến tranh, chúng ta không nhớ gì về nó nữa.
Sáng sớm, Neumann bật khóc và tôi biết rằng mình đã thắng. Chúng tôi đi Paris - chạy trốn chăng? - cả hai chúng tôi, ngay từ tối nay, và mãi mãi từ đây. Paris cũng lại là một ý tưởng của Bernstein nhưng đó chỉ là một ý tưởng; cả hồn ma của cậu ấy, cả kỷ niệm về cậu ấy sẽ không theo chúng tôi đến đó nữa. Neumann sẽ bình phục. Tôi sẽ gửi cho xơ địa chỉ mới của tôi ngay khi đến nơi.
Cuộc đời trớ trêu thay: sáng nay, chúng tôi vừa khắc xong tấm biển tưởng niệm mang tên các học sinh hy sinh trên chiến trường sẽ được treo trong sảnh của trường Mỹ thuật. Chúng tôi đã viết dòng chữ MÃI MÃI KHẮC GHI. Và chúng tôi ra đi tối nay với một khẩu hiệu hoàn toàn khác: Vĩnh viễn quên đi.
Adolf H. của xơ.”
o O o
Sau khi được chữa khỏi và trở về từ Pasewalk, Hitler quay lại doanh trại đơn vị cũ giờ đang được các hội đồng công nhân chỉ huy. Xứ Bavaria muốn làm cách mạng theo mô hình của Moskva. Lãnh đạo Munich Đỏ là Eisner, một người thuộc đảng Xã hội, nhà báo, gốc Do Thái. Vài tháng sau, ông ta bị một thanh niên quý tộc ám sát khiến bang này chìm trong hỗn độn và lâm vào tình trạng vô chính phủ. Vào mùa xuân, các nhóm phản cách mạng của Reichswehr và các lực lượng dân quân đã đến tái lập trật tự, tử hình những thủ phạm chính và kết án những người khác sáu mươi năm tù.
Thả mình theo dòng sự kiện, Hitler chỉ canh cánh một điều: làm tất cả để ở lại quân đội. Vì vậy, hắn lúc theo phe đỏ lúc theo phe trắng, lúc là người cách mạng, lúc phản cách mạng, cơ hội một cách nhất quán. Hắn phải chật vật để trụ lại được. Đã hai hoặc ba lần, người ta đã bắt hắn phải đứng nói trước công chúng, lên dây cót cho các nhóm vũ trang: hắn phải bảo vệ những lý tưởng dân chủ-xã hội và như thường lệ, hắn không thu hút được sự chú ý của cử tọa và nhanh chóng bị đẩy khỏi bục diễn thuyết, ê mặt. Và giờ đây, sau khi cánh hữu trở lại, cơ hội duy nhất để ở lại quân đội là trở thành “tuyêntruyền viên”. Dù chết nửa cõi lòng, hắn vẫn phải đăng ký do chỉ còn hai sự lựa chọn: hoặc làm việc đó hoặc giải ngũ, có nghĩa là ra đường.
Sau chương hồi đỏ này, quân đội, mà trực tiếp là đại úy Mayr, đã đặt ra ưu tiên là giáo dục lại cho đội vũ trang của mình, dạy cho họ một suy nghĩ đúng đắn: chủ nghĩa quốc gia và chống Bôn sê vích. Đại úy Mayr đã trưng dụng phòng ốc của đại học Munich và thử đào tạo những nhân vật sau này có khả năng tuyên truyền cho những người khác. Hiện tại, ông ta cho họ học lịch sử chính trị và kinh tế.
Tất cả đều diễn ra từ một vụ việc nhỏ.
Nhà sử học Karl Alexander von Müller, một người có thân hình gầy guộc và bộ râu cũng quý tộc ngang với tên của ông ta, đang thu dọn sách vở sau buổi dạy và chuẩn bị rời giảng đường thì chợt thấy có một sự náo động khác thường.
Một nhóm người đang quây quanh một học viên, một trong những người nhiều tuổi nhất, gầy gò và chẳng có vẻ gì đặc biệt, Müller không nhớ tên, nhưng luôn làm ông chú ý vì vẻ mặt như một con chó ngơ ngác, mệt mỏi, sẵn sàng theo người chủ đầu tiên hứa cho nó một miếng ăn.
Người đàn ông đó đột nhiên biến đổi. Bằng một giọng trầm đục và khàn, anh ta nói với một sự phẫn nộ, và tất cả mọi người lắng nghe. Alexander von Müller tiến lại gần. Không nhận ra rằng chính mình cũng đang lắng nghe.
Người đàn ông cho thấy khả năng thiên phú lạ kỳ của mình, đó là buộc cử tọa phải chú ý lắng nghe và chia sẻ cảm xúc với người nói. Anh ta đã hóa thân thực sự. Đôi mắt xanh nhợt vì nhút nhát, thường cụp xuống nay mở to và mang một màu xanh thần bí, chúng dường như giải mã được từ xa, phía chân trời, những chân lý mà chỉ có chúng mới nhìn thấy và sau đó được giọng nói chuyển tải một cách mạnh mẽ. Người đàn ông nói như một nhà tiên tri, một kẻ lên đồng. Hình như anh ta buộc phải nói điều mình cần nói, bất chấp sự mệt mỏi, buộc phải nói vì lòng trung thực, vì sự tận tâm, trong khi anh ta thíchgiữ im lặng hơn. Thân thể anh ta chịu đựng đau đớn, bị xé rách, nổi giận, bị lắc giật vì những điều thần khải hung bạo đang truyền qua anh ta; anh ta trở thành thân thể thánh, một thân thể mang dấu Chúa(17). Cổ họng anh ta cũng cho cái cảm giác là nó không nói hết được những thông điệp nó phải chuyển tải. Có bằng chứng nào của sự trung thực thuyết phục hơn thế không? Alexander von Müller suy nghĩ với con mắt của một chuyên gia. Làm thế nào thuyết phục rằng mình có lý nếu không cho người khác thấy rằng mình đang chết vì chân lý của mình? Diễn giả có cái gì đó của một người tử vì đạo. Anh ta bốc cháy. Anh ta tự thiêu mình để làm chứng. Thế nhưng, có một năng lượng liên tục, bùng nổ, sôi sục đang tỏa ra từ anh ta; thậm chí dường như anh ta càng nói năng lượng này càng tăng. Sau đó, nó được chuyển sang cử tọa.
Alexander von Müller ngạc nhiên khi thấy mình đồng tình với những gì anh ta nói giống như mọi người nghe khác. Ông cười thầm vì điều đó. “Đây là một nhà hùng biện dân gian thực sự.”
Sau đó, ông bị nhiễm bầu không khí ấy, mất đi khoảng cách cần thiết và bắt đầu gật đầu mỗi khi người đàn ông nhấn mạnh một ý kiến mới. Toàn bộ tạo thành một lời đả kích cay nghiệt chống lại dân Do Thái, dân tộc mà người đàn ông này căm ghét, cho là họ tệ hại đủ điều và muốn loại bỏ họ khỏi nước Đức.
Một ý tưởng làm Müller thấy thích thú. Học viên này đã khẳng định rằng thái độ bài Do Thái của mình, mới có gần đây, không dựa trên cảm tính mà là trên những sự kiện; do đó, anh ta phân biệt bài Do Thái cảm tính, dẫn đến những cuộc tàn sát, bạo hành chống dân Do Thái và những hành động bạo lực không hiệu quả khác, với chủ nghĩa bài Do Thái của mình, một loại hình bài Do Thái “lý tính”, nhằm vào việc tận diệt tất cả những người Do Thái trên lãnh thổ Đức. Với anh ta, người ta có cảm giác là mình được phép bài Do Thái.
Đột nhiên, Karl Alexander von Müller lắc lắc đầu để đẩy những ý nghĩ đó khỏi đầu mình: thật phi lý! Con người này đang đưa ra một cái gì đó còn tệ hơn những cuộc tàn sát, bạo hành chống dân Do Thái, anh ta kêu gọi một thứ bạo lực không thể tưởng tượng nổi và ngay chính bản thân ông, Karl Alexander von Müller, một giáo sư đại học, đã suýt bị mắc bẫy bởi bài hùng biện này. “Chắc chắn đây là một con người xuất sắc rồi.”
Ông chạy đến văn phòng chỉ huy, kéo đại úy Mayr vào phòng và cho ông ta chứng kiến cảnh tượng này.
- Tuyệt vời, ông có lý, Mayr nói trong cổ họng.
- Ai đấy? Müller nói.
- Hạ sĩ Hitler thuộc trung đoàn List.
Là người từng trải, Mayr chiêm ngưỡng việc Hitler đang làm giống như một con mèo to đang khoan khoái, mắt nửa nhắm nửa mở.
- Anh ta có tất cả. Một cái mặt. Sự hăng hái. Chúng ta sẽ sử dụng anh ta.
Khi đám đông tản ra, họ đi về phía hạ sĩ Hitler.
- Anh là một diễn giả trời sinh, Mayr nói.
- Tôi ấy à? Nhưng...
Hitler suýt phản đối khi nhớ rằng mình chưa bao giờ có khả năng nói trước công chúng, sau đó hắn kìm lại được, nhớ ra vào phút cuối rằng bát cơm của mình phụ thuộc vào việc mình có ở lại quân ngũ hay không.
- Chúc mừng anh, Karl Alexander von Müller thêm vào. Làm chủ được bài nói chuyện. Ngắt nghỉ đúng điệu. Hâm nóng cử tọa. Bùng nổ. Chia sẻ cảm xúc. Anh đã có một phẩm chất khác thường rồi đấy.
Hitler suýt một lần nữa kêu lên để cải chính lại rằng mình chỉ nói một cách tự phát khi sau buổi học, một học viên đã lên tiếng bảo vệ một người Do Thái và điều đó thì không thể chấp nhận được, rằng mình không thể chịu đựng được điều đó.
- Chúng tôi nhận anh vào làm sĩ quan tuyên huấn để chỉnh huấn lại tinh thần quân đội. Anh sẽ bắt đầu vào tuần tới. Chúc mừng anh.
- Chúc mừng.
Họ bắt tay hắn rồi bước đi.
Hitler nhìn họ đi xa dần, tim đập loạn xạ. Như vậy, cuối cùng hắn cũng đã có lý! Hắn luôn tin rằng mình biết diễn thuyết, rằng hắn có thể chia sẻ những xác tín của mình cho đám đông, nhưng có cái gì đó cho đến nay vẫn ngăn cản hắn truy nhập vào chính hắn, có cái gì đó chặn hắn lại, cản hắn lại, làm hắn trở nên lố bịch và ít tính thuyết phục. Hôm nay, sự kháng cự đó đã tiêu tan. Hắn đã trình bày sự kinh tởm của mình đối với dân Do Thái và lòng khát khao phục thù sau thất bại nhục nhã của cuộc chiến. Hôm nay, cuối cùng hắn cũng trở thành người mà hắn nghĩ. Lòng căm thù đã cho hắn tài hùng biện.
Nửa Kia Của Hitler Nửa Kia Của Hitler - Eric Emmanuel Schumitt Nửa Kia Của Hitler