When you love someone, the best thing you can offer is your presence. How can you love if you are not there?

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Oanh2
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 3
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1588 / 58
Cập nhật: 2015-11-27 19:13:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Sài Gòn - Subic Bay
gày N + 20, 5 giờ 30 sáng.
Ghe lớn cập tại Hòn Tre, còn cách bờ, cách Kiên Giang một khoảng nước nữa. Chỗ này nước thấp, đáy biển có những luồng cát bất ngờ, ghe lớn hay mắc cạn, tôi chuyển xuống một ghe nhỏ, nhỏ như chiếc ghe tôi đã cưỡng bách ra biển ở Tuy Hoà. Trời vẫn còn tối, chỉ có tiếng máy nổ của cái máy đuôi tôm, và tiếng đập của quả tim. Rồi một thoáng bâng khuâng tới Nha Trang, Cam Ranh, không biết giờ này vợ con tôi đang làm gì? Những gì đã xẩy ra ở nơi có những người thân yêu nhất? Ba ngày nay, tôi như bị bỏ quên, bị gạt hẳn ra khỏi cái thế giới kinh hoàng của cuối mùa trận chiến. Tôi tránh hẳn cả việc nghe tin thời sự của đài BBC, VOA. Tôi như một người khác, ngu ngơ, đần độn, ngớ ngẩn. Tôi oán trời, trách đất, nguyền rủa con người. Tôi cáu giận chính tôi, khinh miệt chính tôi, và cũng chẳng tin một mảy may vào Phật, Chúa. Đã đến lúc bách điểu chia ly, trăm hoa tàn tạ, vũ trụ chìm trong cảnh tĩnh mịch. Những tia sáng đầu tiên lan nhanh trên mặt biển. Cảnh bình minh trên mặt biển bao la, bát ngát. Tôi đã nhiều lần nhìn mặt trời lên, mặt trời lặn ngoài biển, đã từng chờ trăng nhô cao khỏi mặt nước. Mỗi lần mỗi khác, tùy thuộc chỗ mình ngắm là núi, đồi, biển khơi hay rừng rậm, nhưng nó cũng tùy thuộc nơi lòng mình vui buồn. Có một điều chắc chắn những lúc bắt đầu và chấm dứt của một ngày, những lúc khởi đầu của bóng trăng bao giờ cũng đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên thay đổi với cảm nghĩ con người, có lúc nó hùng vĩ, có lúc nó lãng mạn, và đôi lúc thê lương, ảm đạm.
Buổi sáng nay, mặt trời đỏ rực rỡ vừa nhô lên khỏi mặt nước, ánh sáng nhờ nhờ biến đi, lập tức mầu chu sa choán đầy mặt biển, nước đổi mầu trong một sát na, biển trở thành một biển máu. Đẹp như cảnh tượng phim kinh di, đẹp lạ thường, hôm nay tôi nhìn mặt trời mọc không phải với tâm trạng của thi sĩ, cũng không phải tâm trạng của tráng sĩ, hôm nay tôi ngắm nó với tấm lòng của kẻ bại trận, thê lương, ảm đạm biết chừng nào.
Xuống bến như một kẻ mộng du, tôi đi giữa những phố trệt còn ngái ngủ. Cái nhộn nhịp trên bến dưới thuyền của bẩy năm trước còn đâu? Tôi nhớ những lần tôi tới rong chơi đây một ngày, cũng không hẳn rong chơi, đến để xả những dồn nén sinh lý trong một căn nhà nào đó, trên một thân thể nào đó. Đến bằng những chiếc P.C.F. (khinh tốc đỉnh) đầu tiên của vùng IV duyên hải, những chiếc tầu chạy như ngựa tế một mạch Phú Quốc - Rạch Giá chỉ trong hai giờ đồng hồ, cả bọn xuống phố chợ kiếm vài chai bia, vài cút rượu, tọng vô họng, rồi chui tọt vào một xó nào đó, kiếm một căn nhà nào đó, một cô gái làng chơi nào đó rồi để cho cái thú tính, không phải... để cái phần người nhất làm việc. Tất cả gồm trong bốn, năm giờ đồng hồ, rồi lững thững xuống tầu, tế một mạch về đảo, về với những hàng kẽm gai nghiêng ngả, với những bộ áo nâu của tù, xanh của lính. Về với nỗi phiền muộn đã được gói ghém trong câu thơ sau này nhiều binh sĩ Quân cảnh thỉnh thoảng còn đọc cho nhau nghe với nụ cười hồn hậu. Hồn hậu bởi họ không cảm nhận nổi nỗi buồn của tôi:
Ngàn năm Phú Quốc nhớ hoài.
Tù trong là giặc, tù ngoài là ta...
Hôm nay tôi xuống bến Rạch Giá với cõi lòng bùi ngùi của kẻ tử tù, mà cái gông thì chập chờn trước mắt.
o O o
Ngày N + 20, 3 giờ chiều
Xe đậu ở đầu cầu Bến Lức, chốn này đây tôi đã qua chơi mười bẩy năm trước, khi vừa đậu Trung học, được ông anh Cả dắt theo công tác giáo dục cộng đồng. Trong quán ăn, tôi đã được thưởng thức lần đầu canh cải bẹ xanh mà người ta đập vào hai trái trứng, đó là một trong những món canh ngon nhất với khẩu vị tôi. Chẳng những ngon mà còn là một hòa hợp mầu sắc tuyệt hảo. Giữa mầu xanh của cải bẹ, hồng của thịt nạc, trắng của lòng trắng và mầu vàng của lòng đỏ. Dường như tôi đã yêu Bến Lức, Long An qua tô canh này. Mười bẩy năm đã qua, tôi không được làm việc ngày nào ở đây, nhưng mỗi lần đi qua là một lần nao nao trong dạ.
Hôm nay, nhường chỗ cho sự nôn nao thương nhớ, là những xót xa, trắc ẩn. Xót xa chở đầy trên những ghe, thuyền đậu chi chít trong lòng sông. Cả đến những cái ghe này hôm nay cũng khẽ dập dìu trên nước, cũng neo chặt một chỗ, cũng ngơ ngác vô hồn. Những trẻ em bán mía ghim, những cô gái bán khóm, trái cây, bán chim đều biến mất. Thay vào đó là những chướng ngại vật trên đường, những phuy săng sơn trắng, sơn đỏ, đổ đầy đất nằm giữa quốc lộ, tạo thành những lối đi zic zac, cùng với những con ngựa gai chằng chịt, những ụ súng đầy bao cát, và những người lính có vẻ lo âu của những con chim bị cháy rừng, bị động ổ.
Suốt từ sáng tới giờ hầu như đối với tôi, sông rạch của vùng IV, ruộng đồng của vùng III, tất cả như đang chờ một điều gì đó sắp bùng ra. Tất cả như co mình cho nhỏ lại, chờ đợi một tai họa sắp sửa chụp xuống. Dường như tất cả mọi người đều biết tai họa đó là gì, điều mà họ bồn chồn lo lắng chính là tai họa đó sẽ lớn cỡ nào?
o O o
Ngày N + 20, 5 giờ chiều
Con đường của hai mươi năm trước, mười hai năm trước, năm năm trước xuất hiện trước mặt. Hai cây trứng cá cha tôi trồng mười lăm năm trước đang đầy hoa và trái. Lớp trẻ con cũ trong xóm đã lớn, đã đội nón đỏ, nón xanh và đang ngu ngơ đâu đó trong cơn bão lửa. Lớp trẻ hôm nay là những đứa đã chào đời khi tôi vừa nhập ngũ, tuy nhiên người thì có khác hơn câu: "Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi". Tôi có xa nhà nhưng không phải ly hương, biệt vô âm tín như tâm sự của thi sĩ. Và hôm nay trở về cũng chưa là lão đại về tuổi tác, nhưng tâm hồn tôi "lão đại" hơn cả "lão đại" thi sĩ. Bởi khi ông về thì chiến tranh đã dứt, có cái bâng khuâng, bùi ngùi của cuộc chiến tàn. Nhưng vẫn có một chút hy vọng qua cái cười của lũ nhỏ hỏi ông ở đâu tới. Cái không khí của thơ Đường trong bài thơ đó kết thúc bằng hy vọng sẽ không còn chết chóc, không còn ly hương, chiến tranh thật sự sẽ không còn ngự trị nữa. Nhà sẽ không còn cháy, người sẽ không còn ngã. Chiến tranh thời xưa khác. Dứt là dứt hẳn, không còn tù đày, không còn chết chóc. Nhưng chiến tranh hiện tại khác hẳn. Dứt là có một bên bại. Kẻ thắng cười ngạo nghễ, định đoạt số phần của kẻ bại. Phe thắng trận sẽ nhân danh hàng trăm thứ để cưỡng đoạt tài sản, bắt bớ, tù đày, hành hạ, loại trừ phe thua. Chỉ một vài câu hỏi của những đứa trẻ đã làm "Hạ Tri Chương" xúc động, xuất thần trong một phút, và hậu thế chúng ta có được một bài thơ tứ tuyệt "Hồi Hương Ngẫu Thư" tuyệt vời.
Lũ trẻ trong xóm hôm nay, không có đứa nào hỏi tôi từ đâu tới, chúng vẫn chơi đùa hồn nhiên. Nhưng cái xóm cũ, nơi mà tôi đã dàn trải suốt cuộc đời niên thiếu, nơi tôi đã nghịch ngợm, leo trèo, chạy nhảy, đá bóng. Nơi mà tôi nhớ từng viên gạch, từng cái cống, từng căn nhà, từng đống rác đó đang run lên. Cả cái cư xá đó như muốn thay mặt cho đám trẻ con hỏi han tôi, an ủi tôi nên vì đó mà hai cây trứng cá cha tôi trồng ngày cũ, đã nương một cơn gió nhẹ, thả những cánh hoa nhỏ mầu trắng, thả những chiếc lá khô, trước khi nghiêng cả cái thân hình xum xuê hoa lá đó đón chào chủ cũ mệt mỏi trở về.
Không có gì thay đổi dưới mái nhà tôi càng ngày càng quạnh quẽ. Cha tôi vẫn nằm trong cái võng kết bằng dây dù tôi mang từ đảo Phú Quốc về. Giờ này là giờ ngủ buổi chiều trước khi ông dậy đi làm tối, cái kính lão xệ xuống sống mũi, tờ báo úp trên ngực, dưới sàn nhà một quyển Tiếu Ngạo Giang Hồ nằm tênh hênh trên nền gạch bông. Có một linh cảm nào đó giữa cha và con, nên ngay khi tôi sắp bước chân qua ngưỡng cửa, ông đã choàng dậy. Ông bỏ hẳn kính xuống, nhìn tôi một cái nhìn sâu thẳm, trước khi hỏi dịu dàng từ tốn:
"Anh mới về hả? Chị với các cháu đâu?"
"Nhà con và các cháu kẹt ở Cam Ranh rồi."
"Anh tắm rửa, thay quần áo rồi ra đây cho cậu hỏi. Tội nghiệp các cháu tôi, chúng còn bé bỏng quá."
Mẹ tôi từ hàng xóm về, mới thấy bóng tôi trong nhà đã khóc nức nở. Cha tôi gắt một cách bực tức.
"Bà làm cái gì vậy? Con nó đã chết đâu? Chỉ sợ ít hôm nữa rồi không còn nước mắt mà khóc thôi."
Đây là một trong thật ít lần hiếm có cha tôi nói những điều từ ái với tôi. Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm lêu lổng, bỏ học ngang chừng. Tôi đã làm bao nhiêu hy vọng của cha tôi tiêu tan, nên ông nghiêm khắc với tôi hơn với các anh tôi. Tôi biết cha tôi gắt mẹ tôi vì chính ông, ông cũng linh cảm sẽ còn rất ít thì giờ để nói với tôi những lời từ ái.
o O o
Ngày N + 20, 7 giờ 30 tối.
Tất cả các anh chị tôi đều có mặt, cả vợ chồng cô em gái tôi, người em rể vốn là bạn cùng lớp với tôi từ mười lăm năm trước. Đã ba năm nay, ngay cả ngày giỗ tết, gia đình tôi cũng không thể nào họp mặt đầy đủ, những người vắng mặt hôm nay là vợ con tôi. Chiều nay, tình cờ cháu con anh Hai tôi ghé thăm ông nội, thấy tôi về, nó tự động đi loan báo cho tất cả các anh chị tôi. Các anh mừng tôi với vẻ mặt rầu rĩ, các chị có người đã muốn khóc khi không thấy các con tôi. Phải mất hơn ba tiếng đồng hồ để kể tóm tắt những cuộc hành trình của tôi Pleiku Tuy Hoà, Qui Nhơn, Phú Quốc. Tôi nghe giọng tôi cũng giống hệt giọng của gã xướng ngôn viên đài BBC, đài Đông kinh. Nó giống như giọng người ta kể chuyện về đia ngục. Điều mà tôi buồn bã nhất, bực dọc nhất với chính tôi, là cả gia đình không ai trách tôi một câu về việc vợ con kẹt lại Cam Ranh. Mẹ tôi, các anh chị tôi khen tôi tháo vát, nhanh nhẹn, quyết định sáng suốt. Những câu khen ngợi này cay đắng biết chừng nào. Sau cùng cha tôi nói với các anh em tôi với một giọng nghiêm nghị:
"Cậu già rồi, trên lục tuần gần bẩy mươi so với các cụ, các bác trong họ kể là đã thọ. Gia đình mình cũng không còn lạ gì với cách hành xử của Cộng sản. Bọn chúng vào đây, sống được thì cậu sống thêm vài năm nữa, nếu không thì chỉ một cái tặc lưỡi là xong. Anh Cả ở trong ngành sư phạm chắc cũng không đến nỗi gì. Anh Ba là hạ sĩ quan quân y có tù đày cũng không lâu, chỗ đâu mà nhốt cả triệu người. Anh Hai, anh Tư và anh Năm rán mà tìm cách ra ngoại quốc. Riêng anh Năm thì giữ lấy một khẩu súng lục phòng thân, chúng vô đây, đi không được thì nên tự xử lấy. Cái tính của anh không thể ở tù Cộng sản được một tháng đâu. Đằng nào chị ấy với các cháu cũng kẹt ở Cam Ranh rồi, có một thân thì dễ xoay trở. Cậu mong các anh chị thoát thân được cả, nhưng tình hình này so với năm 54 khó gấp mười, gấp trăm. Ngày đó cậu cho anh Cả về quê thử sống với chúng vài tháng, thế mà ngay trong 300 ngày đình chiến đó, chúng chưa thò cái móng vuốt ra mà mình còn chịu không nổi, còn bỏ sản nghiệp, mồ mả tổ tiên vô Nam này. Bây giờ đâu có ngày nào đình chiến. Thua là kể như xong.
o O o
Ngày N + 21, 8 giờ 30 sáng.
Buổi sáng tôi đi trình diện Bộ chỉ huy. Tôi phải làm một phúc trình tổng quát cho đơn vị sau khi di chuyển. Sau đó phải tới Tiểu đoàn 5 Quân cảnh, ngay trước cửa phở Tầu bay, đó là nơi tập trung tất cả các quân nhân Quân cảnh thuộc quân khu I và II về được tới Sài Gòn, chúng tôi sẽ được phân phối tới các đơn vị khác. Cả Tiểu đoàn 2 Quân cảnh tập họp được hơn năm mươi người, con số về được Sài Gòn có thể nhiều hơn, nhưng có lẽ nhiều người không trình diện. Tiểu đoàn 1 Quân cảnh còn thê lương hơn nữa, hiện diện vỏn vẹn ông Trung tá Tiểu đoàn trưởng, và lèo tèo một dúm người không đầy một trung đội. Trại giam Đà Nẵng được bốn, năm người. Trại giam Pleiku một mình Đại úy Nguyễn Cao Thịnh và bẩy, tám binh sĩ. Và sau cùng đơn vị của tôi, trại giam Qui Nhơn hiện diện được đúng một tiểu đội không hơn kém.
Thân nhân các binh sĩ ùa tới các đơn vị trưởng hỏi thăm tin tức người nhà. Tôi muốn biến đi, chạy trốn trước hàng trăm câu hỏi. Tôi đáo nhậm đơn vị có ba ngày, ngay cả các sĩ quan còn chưa nhớ hết tên, chưa quen hết mặt, làm sao có thể trả lời những câu hỏi kèm theo những tiếng nấc não lòng. Một bà cụ trông phúc hậu, hiền lành đi cùng một cô gái đến hỏi thăm tin tức của Phúc. Tôi làm sao dám trả lời sự thật. Bà cụ dường như có được một người nào cho biết những ngày cuối cùng Phúc lái xe cho tôi, nên cứ đeo riết lấy tôi hỏi tới tấp. Sau cùng tôi phải nói dối là tôi thấy Phúc bơi qua sông chạy trước tôi, rồi từ đó tôi không gặp. Tôi muốn độn thổ bởi cái nhìn của cô gái không biết liên hệ thế nào với Phúc, cái nhìn dò xét, đo lường câu trả lời của tôi.
"Đại úy cứ nói thật đi, phải anh Phúc chết đuối rồi không?"
"Ai cho cô biết vậy?"
"Thì mấy người ở Qui Nhơn vào đó."
"Thế thì cô cứ tin mấy người đó đi. Hỏi tôi làm chi?"
"Đại úy là người lớn nhất. Tôi muốn Đại úy trả lời cho rõ."
"Tôi trả lời rồi. Tôi thấy Phúc bơi qua sông, rồi từ đó tôi với Phúc thất lạc."
"Mình về đi má, mấy người càng lớn càng lo cái mạng, ổng nói vậy thì biết vậy."
"Tội nghiệp nó hiền lành phúc hậu, ông trời sao mà ác quá, bắt nó chết không còn thây.
Trời ơi là trời, nhà tôi hồi nào tới giờ tu nhân tích đức. Sao mà chung cuộc thảm quá vậy?"
"Đại úy cho má tôi biết ngày nào anh Phúc rời Tuy Hoà."
"Tụi tôi rời Tuy Hoà ngày 2-4 hồi 11 giờ 30 sáng."
"Thôi mình về đi má, nếu ảnh không về thì mình cũng có ngày cúng kiếng ảnh rồi."
Tôi nhìn theo bóng hai người, bà cụ mặc áo dài mầu đen, áo cô gái mầu trắng. Hai cái mầu tang tóc đó nổi bật giữa sân cờ của Tiểu đoàn 5 Quân cảnh.
o O o
Ngày N + 21, 4 giờ 30 chiều.
Ra khỏi doanh trại Tiểu đoàn 5 Quân cảnh, tôi như trở thành một người khác, hết còn bận bịu với công vụ, phần của tôi đã xong, đơn vị tôi cũng như hàng vài chục đơn vị khác nhỏ hơn đã đóng quyển "Nhật ký đơn vị" lại. Tất cả quân nhân binh chủng tôi ở vùng I và vùng II bây giờ nhập lại thành một tiểu đoàn duy nhất, quân số cũng không đủ một tiểu đoàn, chờ trang bị lại. Phần tôi có một chức vụ "buồn cười" là sĩ quan đại diện Bộ chỉ huy Quân cảnh tại Quân vụ Thị trấn Sài Gòn. Dĩ nhiên là chẳng có việc gì để làm, vì ở Biệt khu thủ đô, có tới nguyên một tiểu đoàn Quân cảnh hoạt động. Càng tốt, đỡ phải vào Bộ chỉ huy hàng ngày là đủ vui rồi.
Cưỡi một chiếc Honda đi mượn, tôi chạy khắp Sài Gòn, và nghiệm thấy một điều cho tới bây giờ, ngày 8 tháng 4 năm 75, dường như Sài Gòn vẫn chưa có gì thay đổi, dân chúng có vẻ lo lắng nhưng không thái quá. Những chỗ ăn chơi vẫn đông như hội, kẻ có tiền vẫn vung qua cửa sổ mua lấy một nụ cười. Dường như họ cố tin rằng có một giải pháp trái độn, Mặt trận Giải phóng miền Nam sẽ có một khoảnh đất từ vĩ tuyến 14 trở ra, và tại vùng trái độn này sẽ theo đường lối trung lập. Có những người tỏ ra am tường hơn, và lập luận rằng Mỹ không thể nào bỏ được Việt Nam, nếu có bỏ cũng còn vài năm nữa, bằng một phương thức ôn hòa, nghĩa là sau cùng cả miền Nam sẽ trung lập trước khi bị xích hóa hoàn toàn. Có hàng trăm kiểu tin đồn, những tin đồn này làm điên đầu những kẻ muốn suy nghĩ, vì tin đồn nào cũng có một vài bằng cớ, một vài dấu hiệu đủ để bảo đảm cho những ai đa nghi nhất. Tôi được nghe hàng chục giải pháp, nào là Bảo Đại sẽ về nước, nào là đảo chánh để đưa thành phần thứ ba ra cầm quyền, rồi thì hàng chục nhân vật lăm le thành lập chính phủ.
Các tay tổ hoạt động chính trị sa lông xoay như chong chóng, các chính khách tên tuổi ngược xuôi như đèn kéo quân. Về phía quân đội, một số tỉnh trưởng nổi danh tham nhũng, bất tài bị thuyên chuyển, các sĩ quan tương đối có khả năng chỉ huy được bổ nhiệm thay thế. Không phải vì tình thế đã làm sáng mắt các ông Tướng của miền Nam, nhưng thật ra những kẻ có tiền đã chạy được khỏi chỗ chết, tránh xa được những vùng lửa cháy, đạn bay. Đến bây giờ tôi mới thấy thấm thía cái hoạt cảnh của thời Chiến quốc: Quan liêm nên làm mà không nên làm, quan tham không nên làm mà nên làm của Ưu Mạnh, khi diễn tả cảnh con cái của ông quan liêm Tôn Thúc Ngao.
Báo chí loan tin một Đại tá pháo binh trên đường rút lui về phía nam, thấy Nha Trang bỏ ngỏ hai ngày, mà chưa thấy một đơn vị Cộng Sản nào xuất hiện ngoài ngưỡng cửa thị xã. Quốc lộ 1 bi kẹt, ông Đại tá pháo binh này kéo quân vào Nha Trang, vãn hồi trật tự trong thành phố và tổ chức phòng thủ. Bây giờ tuyến đầu là Phan Rang, đây chính là nơi ông Thiệu ra đời, đây chính là nơi mà mọi tin đồn quy tụ vào chỗ giải pháp trái độn từ Phan Rang trở ra, lại cộng thêm với việc Nha Trang bỏ ngỏ hai ngày mà không có Cộng sản xuất hiện, cùng với việc ông Thiệu chỉ định Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III (quân đoàn I, II đã giải tán, những phần đất còn lại của quân đoàn II sát nhập vào quân đoàn III) Cùng đi với tướng Nghi còn tướng Nguyễn văn Sang thuộc Không quân, Bộ Tư lệnh Tiền phương được đặt ở Phan Rang, quê hương bản quán của ông Thiệu. Những sự kiện này làm cho luận cứ của giải pháp trái độn chắc chắn hơn, nhiều người thở ra nhẹ nhõm.
o O o
Ngày N + 22, 10 giờ sáng.
Hôm nay mồng 9-4-75, báo chí đăng tin tình hình chiến sự đột nhiên sôi động ở vùng IV. Suốt một tháng nay, cơn bão lửa thổi theo chiều bắc nam, nó ngừng lại ở Phan Rang, dễ chừng cũng đã bốn ngày. Dường như gió đã xoay chiều, nên vì đó chiến sự ở đồng bằng sông Cửu có những biến chuyển mới. Ở vùng đất này, Cộng sản không tấn công đại đơn vị, cũng chưa chiếm hẳn một vùng đất nào, nhưng chúng xuất hiện quấy rối ở khắp nơi, những địa điểm giao tranh, chạm địch cỡ đại đội, tiểu đoàn trải rộng ra trên khắp vùng lục tỉnh. Trên trang nhất của các nhật báo, những thay đổi về chính trị của miền Nam chiếm nhiều cột lớn: ông Đại tướng Thủ tướng của miền Nam Trần Thiện Khiêm và nội các của ông giải tán, dân biểu Nguyễn Bá Cẩn, Chủ tịch Quốc hội thành lập nội các mới. Nếu sự thay đổi nhân sự này xẩy ra vài năm trước, đó là dấu hiệu tiến bộ của dân chủ. Thế nhưng nó xẩy ra giờ này, lúc nguy kịch nhất của miền Nam, lúc giao tranh thập tử nhất sinh, những nhân vật lãnh đạo cần sự am tường, hiểu biết về quân sự hơn lúc nào hết.
Tôi nhớ tới một bài phiếm luận của Sức Mấy viết vài năm trước, khi dân biểu Nguyễn Bá Cẩn thay thế dân biểu Nguyễn Bá Lương làm Chủ tịch Quốc hội. Nguyên văn đoạn chót ông Sức Mấy viết tắt trong cái phim của ông: "B.C. mà thay B.L. thì cũng thế". Chỉ vài chữ ngắn ngủi đó ông Sức Mấy đã cho người đọc thấy cái nhân cách, cái khả năng của hai ông cựu và tân Chủ tịch Quốc hội, nói chi tới các dân biểu. Tôi nhớ tới những danh từ "dân biểu gia nô", "báo gia nô". Phải chăng những thứ "gia nô" này góp phần không nhỏ vào hoàn cảnh đất nước hiện tại. Các dân biểu trong quốc hội ngoài thành tích "buôn lịch cởi truồng", ngoài thành tích "không có đàn bà ai đẻ ra đàn ông", ngoài thành tích "tiếng chuông Thiên mụ, canh gà Thọ xương", và ngay cả những ông được gọi là dân biểu đối lập, đã có biết bao người "đối lập nằm vùng", "đối lập cuội". Họ đã giúp ông Thiệu trong mùa "ứng cử độc diễn" năm 71. Cách đây vài tháng, họ giúp ông Thiệu thông qua một tu chính hiến pháp cho ông Thiệu được ứng cử kỳ ba và nhiệm kỳ là năm năm. Bây giờ với "nhân cách" đó, với 'khả năng" đó, ông Nguyễn Bá Cẩn nhẩy vào tham chính, giữ vai trò nhân vật thực sự số hai của miền Nam.
Ông vốn xuất thân là một công chức cao cấp, do sự gật đầu không thắc mắc với tất cả những gì các ông tướng, các ông tỉnh muốn, ông nhẩy vào quốc hội. Ở nhà hát lớn trong vài năm, gật lấy gật để, gật không thương tiếc, ông nhẩy vào vị trí "gia nô" hàng đầu. Bây giờ ông nhẩy ra đóng chơi vở kịch liều mình cứu chúa, để ông Đại tướng Thủ tướng yên tâm rũ áo từ quan, về nhà phụ vợ sửa soạn va li. Hạm đội Mỹ hiện đang lởn vởn ngoài khơi, ở trong nước, chợ đã về chiều, còn gì mà không thu thập của cải đi lập nghiệp phương xa cho chắc dạ.
Bà Khiêm nổi tiếng là người buôn tần, bán tảo. Những món hàng bà bán đều không sờ được, chỉ gọi được có cái tên thôi, bà buôn bán lăng nhăng, dăm cái chức vụ tỉnh trưởng, quận trưởng, trưởng ty cảnh sát. Hàng của bà đâu có nhiều nhặn gì, bà đâu có đủ mặt hàng. Đã thế bà lại hay thăm viếng các quân nhân bị thương trong các quân y viện, những lúc thăm viếng như thế, bà sợ uy tín của chồng bị sứt mẻ, nếu ăn mặc luộm thuộm, nên bà có các chuyên viên làm tóc cẩn thận, phục sức kỹ lưỡng như các tài tử điện ảnh quốc tế, đeo nữ trang như các bà hoàng thuở xưa vì chồng bà làm... thủ tướng kia mà. Đâu có giản dị được. Có dạo bà phải bán đồng nát, đến độ bà mua được hết những cái vỏ đạn đại bác bằng đồng của cả quân đội, mua hết những dư liệu chiến tranh. Cái hồi bà buôn bán ở Long An, mấy thằng đàn em ông thủ tướng lăng xăng quá, dùng cả còi hụ của xe Quân cảnh mở đường, làm cho đàn em ông số một cáu quá, bắt lãng xẹt. Rồi để củng cố lại cái tinh thần thượng tôn luật pháp, một anh đại úy Quân cảnh và mấy thượng sĩ, trung sĩ cắc ké bị ra tòa, đi Côn đảo bóc mươi quyển lịch suy nghĩ chuyện đời. Bây giờ hàng họ của bà đã hết, đồng nát không còn, tình hình này miền Nam chắc chắn mất, đâu còn đánh nhau, đâu còn dư liệu chiến tranh để bà xuất cảng sang Nhật. Ông Thủ tướng từ quan là phải, ông đâu có tham quyền cố vị, ông muốn về nhà ở đâu đó bên Mỹ, bên Pháp gì đó, ở Thụy sĩ Thụy xiếc gì đó. Nước sắp hòa bình rồi, để cho ông Nguyễn Bá Cẩn lập nội các dân sự là phải rồi. Ông Thủ tướng Khiêm vốn là người thầm lặng, ông ở quân đội leo lên tới chức Đại tướng chẳng có tai tiếng gì, ông cũng không thích tuyên bố, cứ ngậm miệng làm việc, bây giờ đã đến lúc từ quan vui thú điền viên. Ông thật là người hiền, khi đất nước cần ông nhẩy ra gánh vác, khi đất nước yên, ông cáo lão trở về thơ thới, hân hoan. Miền Nam bất hạnh quá, có ít người tri túc như ông.
Bỏ tờ báo xuống, tôi đứng dậy ra ngoài. Giữa trưa hè của miền Nam, tôi tưởng chừng đang lần mò trong đêm tối.
o O o
Ngày N + 22, 5 giờ chiều
Ghé thăm vợ chồng chú em bên cư xá ngân hàng thuộc xã Tân quy đông, Khánh hội. Đan, tên chú em tôi vốn là con ông chú áp út, chú tôi vào Nam từ những năm đầu 40, khi cha tôi di cư vào Nam chú thím tôi mất sớm. Cha tôi mang cả anh em Đan, Hòa về. Đằng nào thì nhà cũng đã nghèo từ lúc di cư vào Nam, thành thử tuy là em, nhưng lớn hơn tôi vài tuổi, lại ở trong nhà từ ngày còn niên thiếu nên tôi quen gọi bằng anh, hệt như các anh ruột tôi trong nhà.
Đan kể cho tôi nghe về huyền thoại của một nữ bộ đội cấp Tiểu đoàn trưởng của Việt cộng miền Nam, chỉ còn có một vú vì hồi đánh Tây bị Pháp bắt, tra tấn đến nỗi mất một bên ngực. Dân chúng đồn đãi người đàn bà này đã chỉ huy một cánh quân chiếm đánh Lâm đồng. Cái mụ già một vú này đang đuổi đánh miền Nam cật lực. Tôi không lạ với những tin tức loại này, tôi càng không lạ với những huyền thoại mà cả hệ thống tuyên truyền Cộng sản đã thổi vào thôn quê, thành thị. Họ rỉ tai cho những người dân chất phác hiền lành, rồi một đồn mười, mười đồn trăm, có những tin đồn hệt như truyện thần thoại. Những Kim Đồng, Sáu Đậu trong chiến tranh Pháp Việt, những Nguyễn văn Trỗi của chiến tranh hiện tại, đều láo toét hết. Có thể có Kim Đồng, Sáu Đậu, Nguyễn văn Trỗi, nhưng truyện thực không xẩy ra như thế, tất cả đã được bóp méo, đôi khi dựng đứng hẳn thành một nhân vật đầy hào quang, đầy chính khí. Nghĩ xa hơn một chút, cái giặc Cộng sản đã nguy rồi, nhưng cái giặc dốt nát cũng nguy hiểm không kém. Cứ ôn cố tri tân thì thấy, nếu dân trí thời Hồ Quý Ly sáng suốt hơn, chắc giai đoạn lịch sử đó phải viết lại. Nếu đám sĩ phu Bắc hà dưới thời Quang Trung mà hết lòng với Tây Sơn, chưa chắc gì Gia Long đã quang phục nổi. Không nói đâu xa, bài học Tết Mậu thân năm 68, rồi mùa hè năm 72, Việt cộng pháo không thương tiếc vào dân chạy loạn ở Đại lộ kinh hoàng, những bài học đó đâu có xa xôi lâu lắc cho cam, nó nóng hôi hổi, có nhà còn chưa hết đại tang, thế mà những huyền thoại kiểu bà già một vú này vẫn được loan truyền, thì đủ hiểu giặc dốt đôi khi tệ hại hơn cả Cộng sản.
Tôi không có hứng thú về những mẩu chuyện khởi đi không có thật, lại được loan truyền nhanh chóng bởi sự ngu muội nên sang nhà cô em út tôi cũng ở trong cư xá này. Nó chưa về, tôi không muốn về nhà. Tôi ghé một quán nhậu ở Cầu hàng, một cái quán nằm cạnh bờ sông. Kiếm một cái bàn sát ngay mé nước, gọi một chai bia cao, một đĩa đồ nhậu, tôi độc ẩm trong ánh nắng mỗi lúc mỗi tàn. Còn gì mà không độc ẩm, dăm thằng bạn thân, đang ngập mặt với thần chết, đang đánh chí tử ở tuyến đầu Phan Rang, Long Khánh, Bình Tuy, đang bị bỏ rơi dần dần trong những vùng đất chết.
Đại úy Đàm Quang Thức Nhẩy dù, em cô cậu với tôi bỏ xác ở Khánh dương (Cả chục năm sau này, khi đã sang Mỹ tôi nhận được tin ở nhà cho biết Thức còn sống, phải đi tù), Đại đội Trinh sát của Thức đoạn hậu cho Lữ đoàn, dường như không một ai dưới sự chỉ huy của Thức về được Sài Gòn. Cô tôi khóc sưng cả mắt. Cháu ruột tôi y sĩ Đại úy Nguyễn Đức Mạnh cũng Nhẩy dù kẹt lại đâu đó ở Phan Rang. Y sĩ Trung úy Nguyễn Hồng Đức Biệt động quân, y sĩ Trung úy Vũ Dương Hoa Biệt động quân, y sĩ Trung Úy Nguyễn Mạnh Tiến Biệt động quân, cả ba bác sĩ này áng chừng mang nặng lời thề Hypocrate vừa tròn một năm, nên cũng như y sĩ Trung úy Huấn trong đơn vị tôi, và đã không một ai có mặt cạnh tôi giờ này. Nguyễn Hồng Đức, tên em nhỏ ngày nào trong cư xá, hăm hở từ biệt vợ có chửa, bụng vượt mặt lên đường ra Phan Rang. Tôi làm sao có thể bảo Đức nên ở nhà.
Một người em khác, Cao Xuân Huy Trung úy Thủy quân Lục chiến, chưa hết thương tích đã chống gậy ra Quảng Trị cách đây hơn một tháng. Lữ đoàn của Huy tan tác ở vùng hỏa tuyến. Những bạn văn của tôi, ở rải rác đủ bốn vùng chiến thuật và những binh sĩ cũ của tôi ở các quân khu, những người bạn thiếu thời, những cô bạn gái cũ: Thu, Thanh, Sơn ở Sài Gòn đều đã yên bề gia thất trước tôi, Thanh Tài và Hường ở Ban Mê Thuột, rồi những hình bóng cũ ở khắp nơi tôi đã đi qua, cùng những người tôi yêu mến. Tôi cầu nguyện cho họ và những người thân yêu của họ qua được cơn địa chấn này. Tia nắng cuối cùng lấp lánh trên con nước, sông Sài Gòn đục ngầu và đầy phù sa, con nước buổi chiều được nắng nạm lên một mầu vàng bệnh hoạn. Dòng nước lấp lánh như hàng triệu những tấm gương nhỏ, phản chiếu lên trời những ký hiệu S.O.S. Những ký hiệu mà các tầu biển chỉ gửi đi vào giây phút cuối trước khi chìm dần.
Tôi gọi nhà hàng một cút rượu đế, tôi rót rượu xuống lòng sông, gởi những men cay đắng này cho những người vừa nằm xuống ở khắp nơi trên giải đất khốn cùng này. Dẫu cho ngã xuống ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Pleiku, Ban Mê Thuột, Khánh dương. Dẫu có chìm trong lòng biển ở Tiên Sa, Tuy Hoà, Bình Tuy, Phan thiết. Dẫu nằm xuống trên bộ hay lịm dần trên tầu, ghe, xà lan, phải chăng tất cả đều nằm xuống cho miền đất này được kéo dài hơi thở. Họ nằm xuống những mong cơn địa chấn ngừng lại. Nhưng tôi biết chắc sẽ vô ích, cũng vô ích như cút rượu tôi đã rót xuống dòng nước này, sẽ mất tăm.
Bên kia sông lác đác đã lên đèn, bóng tối phủ dần những con tầu chiến nằm im lìm trong bến. Những con tầu hàng đen đủi yếu ớt phun một lớp khói lướt đi trên mặt sông, khói tầu bị gió thổi ngã rạp trên boong. Vài chiếc đò ngang đang đi những chuyến chót. Trời tối hơn nữa, làm nhà hàng Majestic nổi bật lên. Chính cái bến đó: hai mươi năm trước, tôi một học sinh năm đầu trung học, từ thành phố nhỏ Hải dương ngoài Bắc đặt chân xuống bến tầu, đặt chân xuống miền Nam, vào một buổi trưa giữa tháng 3-1955, đã ăn bữa cơm đầu ở miền Nam, ăn một món ăn xa lạ với người Bắc là thịt kho với trứng. Đã hai mươi năm qua, tôi đã hàng ngàn lần ăn lại món ăn này. Cậu bé ngơ ngác ngày xưa, kinh ngạc khi thấy người ta xé đôi tờ giấy một đồng thành hai cái năm cắc. Đã phì cười khi thấy người ta gọi xe ngựa là xe thổ mộ, gọi bao diêm là cái hộp quẹt, gọi cái tẩy là cục gôm, gọi cái thìa là cái muỗng v.v... Ôi chao bao nhiêu là thích thú, ngạc nhiên, buồn cười. Hai mươi năm qua đi, cái hộp quẹt dần dần trở thành diêm quẹt, thìa, muỗng, chén, bát, tô gọi làm sao cũng không còn buồn cười nữa. Chơi bi cũng thế, bắn đạn cũng vậy, cậu bé ngày xưa không bao giờ nghĩ đến việc kẻ Bắc, người Nam.
Tất nhiên sự phân biệt này vẫn có trong đầu óc của các người lớn tuổi. Dường như tôi đã thoải mái hơn khi làm quen với phụ nữ miền Nam. Các phụ nữ Bắc, phụ nữ Trung có những nét đáng yêu riêng của họ, song tôi yêu vô vàn cái hồn hậu, tự nhiên của phụ nữ miền Nam. Họ ít có mặc cảm giầu, nghèo, thành kiến Nam Bắc, cho dù họ là cô Lài, cô Lý, cô Năm, cô Ba ở các vườn tược trù phú của miền Nam, trên các ghe thuyền chi chít của Lục lỉnh, hay họ là Jacqueline Phấn, Cécile Trang, Marie Hoài của Sài Gòn, Cần Thơ, Sa đéc, họ vẫn có chung một đặc tính là cởi mở, ân cần với người phương xa. Xin đừng một ai hiểu lầm sự ân cần, cởi mở này là dấu hiệu của buông thả, dễ dãi.
Chính nơi đây, băng qua con nước này, dưới chân nhà hàng Majestic, tôi bước những bước đầu tiên trên miền Nam, tôi đã dàn trải cả quãng đời thiếu niên, cái thời học sinh trung học ở thành phố Hòn ngọc Viễn đông này. Tôi đã lớn lên, đã chống đỡ cho sự thay đổi của bộ mặt thủ đô, cả cái xấu lẫn cái tốt trong mười hai năm đằng đẵng. Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ ngừng lại, tất cả rồi sẽ đổ vỡ.
Hỡi những ai vừa nằm xuống, xin nhận những giọt rượu tôi rót xuống bến sông này cùng với trái tim tôi, mà nhịp đập không còn theo cung bậc cũ.
Ngang qua một ngõ nhỏ, một em bé mặt mũi lem luốc mời gọi khách qua đường. Tôi còn biết làm gì hơn là tặc lưỡi lần theo ngõ tối.
Ngày N + 25, 1 giờ trưa
Mặt trận Xuân Lộc, Long Khánh đã khai diễn được bốn ngày, trên ba trận tuyến bao vây ba mặt tỉnh lỵ Long Khánh. Cộng quân nhẩy vọt qua tuyến đầu Phan Rang, nơi tướng Nghi, tướng Sang lập phòng tuyến mới của miền Nam. Những người tin vào giải pháp trái độn cuống cuồng lo sợ, những người có địa vị một chút, những người có máu mặt một chút, những người giầu sổi nhờ chiến tranh, những người sống bám vào những dịch vụ liên hệ tới quân đội đồng minh giống như những loài ký sinh trùng trong cơ thể con người, cũng như cả Sài Gòn chìm trong những ý nghĩ bỏ chạy, chủ bại. Tiền sụt giá kinh hoàng, vàng và đô la Mỹ leo thang như hỏa tiễn.
o O o
Ngày N + 26, 9 giờ sáng
Tướng Kỳ viếng thăm Tư lệnh quân đoàn III của tướng Toàn, ông Kỳ tuyên bố nhiều câu nẩy lửa với các phóng viên báo chí tháp tùng chuyến thăm viếng này. Ông tuyên bố sẽ biến Sài Gòn thành một Stalingrad, và sẽ dùng vùng IV như một cứ điểm chống cự cuối cùng của miền Nam, và sẽ chiến đấu đến người chót. Đây là ông tướng đa diện nhất của miền Nam, xung quanh ông có đủ các loại người. Từ những chuyên gia chính trị, đến những ông thầy bói, thầy tướng, có cả những thủ lãnh sinh viên xuống đường.
Xuất thân là một phi công vận tải, những tình cờ của lịch sử đẩy ông Kỳ vào những vị trí then chốt của miền Nam. Năm 1963, khi ông Diệm bị lật đổ, ông còn là Trung tá, năm 1966 ông thăng Thiếu tướng, đùng một cái ông là Thủ tướng. Nội các của ông được mệnh danh là nội các của dân nghèo. Ông lập pháp trường cát, bắn chơi một anh lái gạo. Ông sang thăm Đài loan, nằng nặc đòi bay biểu diễn phi cơ phản lực, làm nước bạn sợ toát mồ hôi, ông sang thăm Thái lan, được các sinh viên của nước bạn làm hàng rào danh dự thẩy confetti hoan hô, ông liệng confetti trở lại các nữ sinh viên. Ông nhường ông Thiệu ứng cử Tổng thống, ông làm phó. Rồi ông phát phẫn khi bị ngồi chơi xơi nước.
Năm 1971, ông Kỳ định ứng cử tổng thống, hôm đi nạp đơn ứng cử tại quốc hội, ông kéo một phái đoàn nghênh ngang xuống đường y như đi tiến chiếm quốc hội. Dịp này ông đi một vòng bốn vùng chiến thuật vận động ứng cử. Tại Pleiku, trong một buổi nói chuyện với tất cả các đơn vị trưởng, ông nói với những người hiện diện: "Tôi đã trình bầy với ông Thiệu là nước mình đang ở trong tình trạng chiến tranh, cần phải tiết kiệm, Tổng thống Thiệu và tôi sẽ làm gương trước cho mọi người, ăn một ngày hai bữa cơm rau. Chỉ mười phút sau, một Đại tá thuộc Sư đoàn 6 Không quân mời ông vào phi trường Cù Hanh dự tiệc. Ở đó người ta mở sâm banh, mạc ten hàng chục két, người ta vật dê, mổ bò, bữa ăn trân quý đầy sơn hào hải vị. Ông Kỳ nổi tiếng về lời tuyên bố. "Trên ba mươi lăm tuổi là vất đi", không biết năm nay ông Kỳ bao nhiêu tuổi? Và tôi ngờ cho cái sự hiểu biết của bất cứ ai gần gũi ông Kỳ, nhất là những người định làm chuyện lớn với ông Kỳ, định đảo chánh, định cách mạng, định tử chiến.
o O o
Ngày N + 26, 3 giờ chiều
Chính phủ Lon Nol của nước bạn Kampuchia chỉ còn kiểm soát được vùng đất duy nhất là thủ đô Nam Vang. Khmer đỏ hiện đang vây cứ điểm cuối cùng này. Kiều dân Mỹ ở đây đã di tản hết, thay vào đó là một đơn vị Thủy quân Lục chiến, tăng cường an ninh cho toà đại sứ Mỹ ở Nam Vang.
o O o
Ngày N + 28, 10 giờ sáng
Áp lực của Cộng sản tại mặt trận Xuân lộc, Long Khánh ngày càng mạnh, Sư đoàn 18 Bộ binh, trực diện với ba sư đoàn địch, và đã chận được cái đà vũ bão của Bắc quân. Hiện tượng hệt như một ngọn đèn cạn dầu bừng lên phút chót trước khi tắt. Sư đoàn 18 chẳng những là một sư đoàn thành lập chưa lâu, lại do tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, một tướng rất trẻ của miền Nam, chuyên giữ những chức vụ tham mưu và hành chánh, trước khi được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn, Sư đoàn 18 đã rửa mặt cho quân lực miền Nam. Cộng sản với ba sư đoàn chính quy, không kể bọn địa phương, được tăng cường thiết giáp và đại pháo tới mức tối đa, đã tưởng sẽ quét Long Khánh trong một ngày, một giờ, nhưng đã khựng lại ở đó suốt một tuần lễ. Các đơn vị tác chiến của Sư đoàn 18, một chống ba, bốn, năm, có chỗ một chống mười. Trận chiến càng kéo dài, sức chống trả càng mãnh liệt. Sư đoàn 18 làm cho bọn phóng viên ngoại quốc vốn thiên vị phải sững sờ kinh ngạc. Những người lính Bộ binh của miền Nam không còn đất để lùi. Họ đứng lại, tựa lưng vào nhau, tựa lưng vào các thân cây trong rừng cao su, giữ từng tấc đất, giữ từng ngôi nhà, từng nấm mộ còn sót lại của miền Nam. Sư đoàn 18 không biết còn chống trả được bao lâu khi vũ khí, đạn dược và binh sĩ đều không còn để bổ sung và thay thế.
o O o
Ngày N + 29
Khmer đỏ pháo không thương tiếc vào Nam Vang. Nhân viên Tòa đại sứ Mỹ ở đây đã di tản từ ba ngày trước. Diễn biến này cho người ta thấy rõ hơn bộ mặt thật của các đại cường, và bẽ bàng cho những quốc gia nhược tiểu. Lon Nol, Tổng thống được đặt lên bởi người Mỹ, được sự hỗ trợ của Nam Việt Nam đã được Mỹ bốc đi, với một số những nhân vật hàng đầu của Nam Vang. Nhân vật số hai của Nam Vang, Thủ tướng Sirik Matak, khi được Tòa đại sứ Mỹ mời lên trực thăng di tản đã từ chối, dẫu biết rằng hành động đó giúp ông có một sợi dây treo trên cổ. Ông làm cho cả thế giới bàng hoàng, ông gửi lởi cảm ơn nước Mỹ, cảm ơn Đại sứ Mỹ bằng những lời chua chát, đắng cay. Những lời nói này biểu hiện đúng mức nhất vị trí của những người yêu nước thật sự, trong những quốc gia đang bị giằng co bởi những ảnh hưởng quốc tế. Ông trả lời cho Gunther Dan, Đại sứ Mỹ ở Nam Vang bằng một lá thư, cũng nên nhắc lại nguyên văn phần chính lá thư này:!!!"...Tôi chân thành cảm tạ ông Đại sứ đã ngỏ ý giúp tôi đi tìm tự do. Tiếc rằng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như vậy. Đối với ngài, và đối với quốc gia vĩ đại mà ngài đại diện, tôi chưa hề nghĩ quí vị có ý tưởng bỏ rơi một dân tộc biết lựa chọn tự do. Quý vị khước từ bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không thể làm gì khác hơn trước điều ấy. Ngài ra đi, chúng tôi chúc ngài và quý quốc mọi điều hạnh phúc dưới vòm trời.!!!Hãy nhớ rõ nếu tôi chết tại đây, tại xứ sở yêu dấu của tôi thì đó là một điều tồi tệ. Tôi đã mắc phải lỗi lầm, chỉ vì tôi đã tin ở người Mỹ. Xin ngài nhận nơi đây cảm nghĩ thân hữu và rất chân thành của tôi..."
o O o
Ngày N + 31, 3 giờ chiều
Mặt trận Phan Rang vỡ từ đêm hôm trước. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Tướng Nguyễn văn Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân và một Đại tá Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Nhẩy Dù bị bắt sống. Cộng quân tràn qua phòng tuyến này ào đến tăng cường cho mặt trận Bình Tuy - Long Khánh, nơi những người lính của Sư đoàn 18 Bộ binh đang tả xung hữu đột với quân số đông gấp bốn lần của Cộng quân. Khắp miền Nam rúng động.
Cả Sài Gòn hốt hoảng, điên cuồng. Lác đác những biểu ngữ hoan hô chiến thắng của Sư đoàn 18 Bộ binh đã bị tháo xuống, vài nơi người ta treo lên những khẩu hiệu mới lửng lơ dễ giải thích như:
"Chỉ có hòa hợp, hòa giải dân tộc mới giải quyết được chiến tranh."
o O o
Ngày N + 31, 5 giờ chiều
Sau cùng Nam Vang cũng đổ xuống, Khmer đỏ hoàn toàn làm chủ Kampuchia, Thủ tướng Sirik Matak bình tĩnh nạp mạng, thản nhiên đi thụ nhận sợi dây thừng Cộng sản dành cho ông.
o O o
Ngày N + 31, 6 giờ chiều
Tướng Kỳ lại nói chuyện ở nhà thờ Tân Sa Châu, trước một cử tọa đông đảo, phần lớn là những giáo dân ngoài Bắc di cư vào Nam năm 54. Ông Kỳ trấn an mọi người bằng luận cứ: "Chạy đi Mỹ làm gì, ở đó đâu có cà pháo, mắm tôm. Uống sữa tươi không tốt, bị té re hoài." Ông quả quyết sẽ ở lại chiến đấu, cùng lắm là chết dưới tay người anh em bên kia. Ông cũng nói là ông đã đi quan sát vùng IV, đã nói chuyện với tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh vùng này. Ông nói mập mờ là sẽ nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử, dường như ông muốn thay ông Thiệu lãnh đạo trận chiến cuối cùng này.
o O o
Ngày N + 32, 9 giờ 00 sáng
Một phản lực cơ của Không quân Việt Nam oanh tạc Dinh độc lập. Đài phát thanh của Mặt trận Giải phóng miền Nam rêu rao là binh sĩ miền Nam đã vùng lên chống Thiệu và bè lũ tay sai.
Buổi tối đài phát thanh Sài Gòn cho biết tin đích xác, đó là Đại úy Nguyễn Thành Trung, người được Việt cộng móc nối đã tiếp tay với Cộng sản, dùng một chiếc A37 của Không quân Việt Nam bỏ sót lại tại phi trường Phan Rang, bay về oanh kích dinh Tổng thống. Cánh trái của dinh bị một trái bom hư hại nhẹ, nhưng gia đình ông Thiệu không một ai hề hấn gì. Bà Thiệu đang ở Luân Đôn mua bán đồ cổ, các con ông Thiệu hiện đang ở Âu châu, chỉ còn mình ông Thiệu hiện diện trong cái dinh cơ lớn nhất của miền Nam. Giờ đó muốn diệt ông Thiệu thì phải cần hai chục trái bom, phải cần mười chiếc bay hàng ngang thả cùng một lúc mười, hai mươi trái bom đánh sập cả cái dinh cơ đồ sộ. Một chiếc A37 thả hai trái bom nhỏ xíu đó thì nhằm nhò gì.
o O o
Ngày N + 32, 10 giờ sáng
Sài Gòn mỗi lúc một giống Nam Vang. Các trục lộ chính dẫn đi các tỉnh đều bị địch quân quấy phá. Giao tranh lẻ tẻ xảy ra ở Biên Hoà, Long thành, Long An, Củ chi, vòng vây mỗi lúc mỗi chật lại. Tin tức ở Nam Vang qua đài phát thanh BBC kinh hoàng hơn những truyện thần thoại của Dante viết về địa ngục. Tối nay tôi ngủ ở nhà một người bạn ở đầu đường Phan Thanh Giản, gần cầu xa lộ Biên Hoà. Ngôi nhà ba tầng này có một thời đã là nơi tụ họp cuối tuần của vài chục người, tuổi từ hai mươi tới ba mươi. Chúng tôi học tập ở đây, hội thảo ở đây, vẽ những ước mơ tương lai khi hòa bình trở lại. Chúng tôi chống giữ miền Nam tận tình.
Những anh em tôi đã chết rải rác từ Cổ thành Quảng Trị tới một cánh đồng heo hút ở Cao miên, từ cao nguyên Trung phần, tới miền đồng bằng duyên hải. Máu của anh em tôi đã đổ xuống phần đất này, đã thấm vào những mạch đất ở đây, dẫu biết rằng chết cho một chính nghĩa không trọn vẹn, bởi miền Nam mỗi lúc mỗi ung thối, mỗi lúc sa chân sâu hơn trong vũng lầy tồi tệ. Làm sao tôi quên được Hùng đã chết ở Quảng Trị, chết cùng một lúc với dân chúng ở thị xã này, vì bị bao vây lâu ngày thiếu lương thực và món ăn hàng đêm là đại pháo của Bắc quân. Chết vào lúc trên trang nhất của các báo đăng hình ảnh đám cưới con gái ông Thiệu, cô dâu phải bắc một cái ghế leo lên để cắt cái bánh cưới cao hai thước rưỡi. Cảnh đã chết ở Cao miên, chết tức tưởi trên một cánh đồng hiu quạnh, trong khi ở Sài Gòn, ông Thiệu độc cử, ông Kỳ dọa đảo chánh, ông Minh đang chơi lan, và chung quanh đó những kẻ đón gió trở cờ xun xoe vâng dạ. Còn nhiều cảnh đời cay đắng thê lương hơn, nhưng chúng tôi vẫn tin vào tuổi trẻ của chúng tôi, vẫn tựa lưng vào nhau chiến đấu cho miền Nam, bởi tương lai không phải cứ chờ thời gian là có. Phải chiến đấu, phải lo kiến thiết cũng như muốn hòa bình phải sửa soạn chiến tranh.
Chính tại căn nhà này, anh em chúng tôi tụ họp quây quần, ra đi khắp bốn phương rồi lại trở về từ bốn phương. Mỗi tháng một đôi lần, anh em chúng tôi ngồi lại, có những người trận mạc ở xa như Cao Xuân Huy một năm có mặt đôi lần. Từ khi phải đổi lên vùng II, tôi cũng chỉ có mặt bất thường mỗi khi được về phép. Chính nơi đây chúng tôi bàn bạc, hoạch định, vẽ những mơ ước chờ bầu trời xanh trở lại. Những năm sau cùng, các buổi họp mỗi ngày mỗi vắng vẻ quạnh quẽ đi, trận chiến mỗi lúc mỗi khốc liệt, chúng tôi chiến đấu cho tương lai của miền Nam, và cay đắng chấp nhận hiện tại của miền Nam. Chính nơi đây khi Cảnh chết, trong không khí tưởng niệm trăm ngày, Văn hát cho anh em nghe một bài thơ phổ nhạc, kết bằng bốn câu:
Anh em chiêu hồn người vì nước
Ra đi không về muôn đời sau
Ngàn năm bóng xế với tiếng ca kinh cầu
Cùng thương xót bóng anh về trời
(Thơ và nhạc Chu Đắc Văn)
Và cũng chính Chu Đắc Văn hát cho anh em nghe một bản khác, có một đoạn:
...Ngày anh đi ánh trăng rời suốt đời hiu hắt
Từ hôm nay những cánh tay bỗng xuôi ngàn năm
Lời ca tôi xin là nơi tiếc thương mà thôi
Biết bao giờ thôi, biết bao giờ nguôi u hoài
Từ khi anh chết chim đã bay về trời
Vừng mây kéo lê nỗi buồn kiếp nào thôi
Thời gian ngóng trông xa hoài như ngày mai
Tiếng người khóc
Chìm theo bao ước mơ tuổi thơ đằm thắm
Còn đâu ánh hương nồng bây giờ đã tan
Như lòng thương nhớ cũng xa vô ngần
Ngày anh đi đến phương trời, nơi chiều biên giới
Ngày anh đi đến phương trời máu khô quê người...
Cũng chính nơi đây, trong một dịp khác, khóc một người anh em trẻ tuổi vừa tròn mười tám, chết đâu đó mất xác trong rặng Trường Sơn, Văn đã làm một bài nhạc khác: "Một bài ca cho người lính nhỏ". Tôi không thích bài hát này lắm, bởi cái không khí hơi phản chiến của nó. Nhưng làm sao có thể tránh những rung cảm nghệ sĩ, khi hiện tại đen tối như thế, khi người chết chẳng những là một chiến hữu, còn là người thân, còn có chung một chút huyết thống, dẫu không phải là anh em ruột, nhưng chia xẻ với nhau cay đắng ngọt bùi, thở với nhau một bầu khí oi nồng, sặc mùi tử khí. Vả lại, những điều Văn viết ra tuy có hơi phản chiến, nhưng cũng khó có thể trách anh, vì thật sự chúng ta có những người lính quá trẻ, chết khi mà bản thân chưa hề biết đến thân thể đàn bà, còn nói chi tới quốc gia, dân tộc, tự do, no ấm... Tuy không thích nhưng tôi vẫn nhớ lời ca này, nó gợi lên những tình cảm riêng tư của chúng tôi với một người anh em chưa kịp biết yêu người khác phái:
Con tôi người lính nhỏ
Môi khô và mắt đỏ
Tình yêu tổ quốc ngây thơ
Em tôi người lính nhỏ
Vác súng còn hững hờ
Nửa đêm buồn bắn vu vơ
Con thương mẹ muốn về
Em thương chị muốn về
Kẻo không người khóc dầm dề
Không không mẹ khóc rồi
Không không chị khóc rồi
Mẹ khóc chị khóc sớm tối
Mái tóc bạc không ngờ
Đôi mắt mẹ phai mờ
Chờ con dù chết xuống mồ
Thương con còn thương hoài
Nhớ mãi và nhớ hoài
Tình yêu mẹ lúc chào đời
(Nhạc và thơ Chu Đắc Văn)
Hôm nay, ngày 19-4-75, trên cái sân thượng căn nhà cũ, căn nhà chúng tôi đã vẽ biết bao nhiêu mơ ước cho cuộc đời mở cửa ở tương lai. Chúng tôi đề nghị ưu tiên cho ngành sư phạm, các em chúng tôi hễ xong tú tài ưu tiên thi ngành sư phạm, dẫu nghề giáo mỗi ngày mỗi mạt, nhưng chúng tôi cần những ông thầy. Chẳng những chỉ dậy chữ nghĩa, tính, toán, văn chương, khoa học, còn phải dậy cho học trò mình cái lòng yêu quê hương, do tổ tiên truyền lại. Chẳng phải chúng tôi đã đồng ý chấp nhận cái cay đắng, nghiệt ngã của hiện tại để mơ ước tới một tương lai hay sao? Các lớp người lãnh đạo ù lì, tay sai tôi tớ ngoại nhân nay đâu có sống lâu như ông Bành tổ được. Sẽ có lúc xuất hiện một lớp người mới, xây dựng lại những đổ vỡ này khi chiến cuộc tàn.
Đêm nay, cái sân thượng đột nhiên rộng mênh mông, tôi và anh bạn đứng nhìn bầu trời lấp lánh những vì sao, trăng của tháng tư sáng một mầu sữa, huyền hoặc. Dưới bóng trăng, nương theo cơn gió nhẹ, tôi gửi lời cầu nguyện cho những Nguyễn Thế Tuấn, Chu Đắc Văn, Nguyễn Hồng Đức, Vũ Dương Hoa, Cao xuân Huy, Nguyễn Tự Lập, Trần Ngọc Nguyên, Nguyễn văn Tầm, Nguyễn Mạnh Tiến... Tôi cầu nguyện cho những người anh em ở Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Cần thơ và ngay cả Sài Gòn này giữ được hơi thở trong trang lịch sử đen tối nhất của dân Việt.
o O o
Ngày N + 32, 9 giờ tối
Dời khỏi quân vụ thị trấn, tôi tạt vào Tiểu đoàn 6 Quân cảnh trong Biệt khu thủ đô, gặp đại úy Lương văn Nhật, tay thiện xạ số một của binh chủng, cũng là một bạn cũ. Nhật rủ tôi về ngủ ở Tiểu đoàn 6 với anh, anh nghĩ đến phút chót của Sài Gòn, cũng như tôi đã từng muốn múa bậy một đường gươm ở Tuy Hoà. Anh muốn tập họp một số binh sĩ sử dụng lần chót tài nghệ của anh.
Tôi đã kinh nghiệm vụ này tới hai lần, một lần lúc dời Qui Nhơn và một lần lúc bị vây đánh ở Tuy Hoà. Những dự định, toan tính đó không bao giờ thành sự thật. Đối với những đơn vị quen tác chiến, họ có thể làm được, nhưng đối với binh chủng tôi thì nhiều lắm Nhật cũng lôi theo vào phút chót được dăm người, chẳng ích gì. Tôi trả lời ừ ào cho qua. Tôi biết thêm một chút về tin tức chiến sự ven đô thành. Lẻ tẻ đó đây, Việt cộng đã xuất hiện ở Hóc môn, ở Cây da xà, ở Ngã năm Bình hòa. Sáng mai tôi muốn đi thăm những người chết. Sáng mai tôi muốn xuống nghĩa trang Gò vấp, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, và nghĩa trang quân đội trên xa lộ Biên Hoà.
o O o
Ngày N + 33, 12 giờ trưa
Tôi ngồi dưới chân pho tượng "Tiếc thương" ngay cổng nghĩa trang quân đội. Những người lính kỷ luật lúc sinh thời, vẫn giữ được cái kỷ luật lúc chết, mộ chí của họ sắp hàng ngay ngắn, như đang tập họp lúc sinh thời, mắt nhìn vào ót người đằng trước.
Dường như ở đây, họ còn thuần nhất hơn lúc sống, không có đồ đại lễ, không có huy chương, không có sự phân biệt giữa những bộ đồ được o bế kỹ lưỡng, ủi hồ thẳng tắp và những bộ đồ tác chiến, rách tơi tả. Không có sự khác biệt của giầu nghèo, chẳng những thế, họ còn thuần nhất hơn cả lúc sống ở chỗ bây giờ không còn ai cao, ai thấp. Khi sống sắp hàng, những người cao đứng trước, thấp đứng sau, bây giờ mộ chí của họ cao bằng nhau, rộng bằng nhau, ai đến trước xếp hàng trước, ai đến sau xếp sau, cứ tuần tự theo thời gian, chứ không theo cấp bực, chức vụ. Những người sống cố làm cho họ khác biệt hơn một chút, nơi những tấm bia, những bình hoa, những trang trí nơi phần mộ, nhưng đó chỉ là những tiểu dị trong cái đại đồng. Bây giờ nơi nghĩa trang này họ thật sự là huynh đệ chi binh, họ bình đẳng từ một vị tướng tới anh binh nhì. Nghĩa trang hoàn tất chưa đầy sáu năm, cũng đã mười lần tôi đến, tiễn đưa bằng hữu. Tôi đến mộ từng người, nhìn ảnh cũ, khuôn mặt xưa, thắp cho từng người không phải là những nén hương lòng tưởng nhớ, mà là những điếu thuốc lá lúc sinh thời.
Những người bạn chắc chắn đã được thân nhân cúng kiến hoa quả rượu thịt, mấy ai nghĩ đến người chết nếu linh thiêng thèm một điếu thuốc hơn một tô canh, một con gà, một mâm sôi, một nải chuối. Tiếc rằng tôi không mang được cà phê pha cho họ mỗi người một ly. Gió thổi từ bờ sông, từ ruộng đồng tạt vào mặt tôi toàn cát và bụi. Tôi đứng dậy, thắp mấy điếu thuốc còn lại cho những ngôi mộ tôi không quen biết, những đầu điếu thuốc thỉnh thoảng lóe lên. Trong năm ngày nữa, mười ngày nữa, có thể tôi sẽ cũng nằm xuống, nhưng chắc một điều tôi không có cơ hội được nằm ở đây, bên những đồng đội cũ. Và ngay chính họ đã yên nghỉ ở đây, trong một thời gian không lâu nữa, những kẻ chiến thắng sẽ nhân danh đủ thứ để lôi họ ra khỏi chỗ an nghỉ cuối cùng này.
Hẹn gặp các bạn cũ, và những bạn mới chưa từng quen. Hẹn gặp ở một nơi nào khác ngoài nghĩa trang này, có đáng gì mảnh đất linh thiêng này khi cả miền Nam sụp đổ, rồi đây pho tượng "Tiếc thương" cũng bị chúng cưỡng bách lôi đi, cũng chẳng xá gì, bởi lẽ sau cùng cả địch, cả ta đều gặp nhau ở một thế giới khác.
o O o
Ngày N + 33, 6 giờ chiều
Vừa đẩy cửa vào nhà, mẹ tôi mắng cho một chập: "Anh đi đâu mà đi biền biệt cả ngày lẫn đêm. Anh thật là một người vô tình, vợ con mất tích mà dửng dưng như không có gì, tôi không ngờ anh bạc như thế". Tôi không cãi lại một lời, làm sao mẹ tôi có thể hiểu những đớn đau, những phẫn nộ trong lòng tôi lúc này. Tôi không chỉ đau đớn cho vợ con tôi. Tôi đã lớn lên ở miền Nam, tôi đã chống đỡ cho miền Nam và không phải miền đất này chỉ có vợ con, bố mẹ, anh em mà thôi. Ngay giờ đây tôi xót thương cả những người tôi ghét. Thiên tai sắp sửa chụp xuống cả phần đất này, cũng như đã chụp xuống cả miền Bắc hai mươi năm trước. Bóng tối đã ập tới đã làm tiêu mòn nửa dân tộc, chúng tôi chống đỡ cho miền Nam những mong có ngày, xé được màn đêm, mang được chút ánh nắng ấm áp của phương Nam ra ngoài Bắc. Nào ngờ bóng tối đi nhanh hơn, mạnh hơn, nó sắp sửa bao trùm toàn thể quốc gia, trọn vẹn dân tộc. Bọn lãnh đạo của miền Nam đang tháo gỡ cho chính gia đình chúng, đang vơ vét của cải, vàng bạc và ngay cả đồ cổ của quốc gia cũng được chúng thu gọn lại, chở ra nước ngoài làm của riêng.
Cha tôi can thiệp:
"Bà làm sao biết con nó không khổ đau, trông mặt anh ấy như chết rồi. Bà mặc con làm gì thì làm có được không? Nó có nhân tình, nhân ngãi gì đâu? Ngay cả nó có vậy cũng chả sao".
Quay qua tôi, ông nói:
"Anh đi đâu thì đi, hàng ngày cũng nên tạt qua nhà một chút để mọi người yên tâm".
Mẹ tôi dọn cơm cho tôi, mắt mẹ tôi có những giọt lệ chưa ráo. Tôi không đói, nhưng cũng ráng ăn ba chén cho vừa ý mẹ tôi.
Bà cụ lần trong túi lấy ra được một tờ giấy hai chục đô la, đưa cho tôi và nói:
"Anh cầm lấy, lỡ có đi được ra nước ngoài thì cũng có cái tiêu. Mợ chỉ còn có thế".
Tôi nuốt cơm, nuốt luôn cả những giọt nước mắt mằn mặn của chính mình.
o O o
Ngày N + 34, 9 giờ sáng
Báo chí loan tin một buổi nói chuyện với quốc dân trên truyền hình của Tổng thống Thiệu hồi 7 giờ 30 tối nay. Hiện diện trong buổi nói chuyện này sẽ có Chủ tịch Lưỡng viện, Thủ tướng Chính phủ, Nghị sĩ, Dân biểu...
o O o
Ngày N + 34, 2 giờ chiều
Mỹ kim tăng giá từ một ngàn một đô la lên tới mười ngàn một đô la trong vòng một tuần lễ. Vàng cũng tăng giá tới nửa triệu một lượng. Xe hơi xuống với giá rẻ mạt.
o O o
Ngày N + 34, 5 giờ chiều
Phan Nhật Nam ngồi uống bia, chửi đổng ở nhà hàng Thanh bạch. Định ghé vào ngồi với Nam một lúc rồi lại thôi. Ông nội Nam này cứ có vài chai bia là nhớ bạn cũ khóc mùi mẫn, tận tình. Bữa nay chai không xếp đầy mặt bàn, mà quái lạ không thấy bạn ta khóc. Mắt Nam long lên, đỏ ngầu, mấy người bạn ngồi cùng bàn với Nam lầm lì không nói, nón đỏ dắt ở cầu vai áo trên.
o O o
Ngày N + 34, 7 giờ tối
Cha tôi và tôi ngồi ở quán cà phê Năm Đường, đối diện với nhà tôi qua đường Trần Quốc Toán. Mọi khi giờ này quán không có một chỗ ngồi, những bác tài taxi, những bác phu xe phải đứng chờ tại quầy nhận ly cà phê, rồi đem thức uống của mình ra xe nhấm nháp. Hôm nay quán chỉ có lác đác vài người và cha con tôi. Ông cụ rủ tôi ra uống ly cà phê, cha tôi tuyệt không nói một câu nào về việc chạy ra nước ngoài hay ở lại. Những gì định nói, ông cụ đã nói hôm tôi mới về tới Sài Gòn. Đã mười ngày nay ông cụ câm nín, lặng lẽ ra vào, săn sóc tôi một cách kín đáo. Con đường Trần Quốc Toản hôm nay cũng vắng vẻ lạ thường. Tiếng cha tôi vang lên:
"Ngày đó phải để anh ở Cô nhi viện gần một năm, khi đón anh về cậu có một điều sai là chiều anh quá để bù lại những ngày anh phải thiệt thòi, khi sống xa nhà với những trẻ mồ côi khác. Đến khi anh đậu Trung học, bắt đầu đua đòi, cậu lại sai một lần nữa là nghiêm khắc quá đối với anh, cậu chỉ lo anh hư hỏng, lêu lổng. Cậu biết anh thông minh nhất trong năm anh em, đáng lẽ cậu phải hướng dẫn anh hơn là trừng phạt mỗi khi anh có lỗi. Năm anh học đệ nhị, có lần cậu xích chân anh vào chân bàn, có lần cậu cạo trọc đầu anh bắt quỳ ở cửa. Các anh hôm nay có được chút học hành vốn liếng là do mợ. Ngày cậu đi kháng chiến, nếu mẹ các anh như người ta thì bây giờ các anh đi đạp xích lô hết. Do đó, ít khi cậu tranh cãi với mợ những chuyện trong nhà. Cậu chỉ muốn anh hoàn tất đại học, cứ đậu cử nhân, kỹ sư đi rồi muốn yêu nước, thương nòi gì cũng được, muốn văn chương, cách mạng gì cũng không sao. Đâu phải cậu không thích chuyện thay đổi, nhưng anh chưa có đầy đủ cái vốn liếng học thức thì chỉ lót đường cho người mà thôi."
"Ngày anh bỏ học đăng lính, cũng là ngày cậu buồn bã nhất, kể từ khi gia đình di cư vào Nam, vì cậu mong anh có được một tương lai rực rỡ hơn các anh Phong, Lưu, Hoạt, Điệu. Anh thông minh, học một hiểu hai, muốn phục vụ xứ sở có nhiều cách hữu hiệu hơn hà tất cứ phải đi lính."
"Rồi cậu lại sai lầm một lần nữa, đáng lẽ cứ để anh ở Biệt động quân, hay vận động cho anh về Nhẩy dù cho hợp với ước mong của anh, thì cậu lại vận động cho anh về Quân cảnh, muốn anh có chút điều kiện để hoàn tất cái học vấn nửa vời của anh. Chỉ vì bao nhiêu người cũng muốn như cậu, muốn con mình an thân, mà bây giờ kết cuộc thê thảm thế này."
"Anh tìm cách xuất ngoại đi, nếu không đi được thì nhớ những điều cậu đã nói hôm trước. Ai cũng chỉ một lần chết thôi. Chúng bắt được, anh sẽ chết nhục nhã, cay đắng. Phần chị ấy và các cháu cứ yên tâm, cậu sẽ tìm về đây. Nhớ kỹ những gì cậu vừa nói."
o O o
Ngày N + 34, 7 giờ 30 tối
"Đù mẹ thằng chả, muốn chạy làng hả? Đù mẹ thằng chó đẻ"
Cha tôi quay lại, một bác tài xế taxi, mắt hướng về cái TV của tiệm cà phê Năm Đường: ông Thiệu đã bắt đầu nói chuyện với quốc dân trên làn sóng truyền hình. Tôi đứng dậy đi trả tiền xongtrở về chỗ ngồi.
"Đi về xem ông Thiệu nói gì đi anh".
o O o
Ngày N + 34, 8 giờ 00 tối
Bữa nay ông Thiệu trông đẹp trai hơn mọi khi, trên làn sóng truyền hình, suốt một tiếng đồng hồ liền, ông Thiệu công kích thái độ của người Mỹ, ông lên án Mỹ phản bội, xé bỏ mọi cam kết với Việt Nam Cộng hòa, dồn quân đội và nhân dân miền Nam vào chỗ chết trước cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc việt. Trong phần lên án thái độ của người Mỹ, loáng thoáng tôi nghe được những câu:
"Tôi đã nói với người Mỹ là máu xương thì Nam Việt Nam không thiếu, chúng tôi chỉ thiếu quân viện, vũ khí, đạn dược... Trong lúc Bắc việt nhận hai tỷ Mỹ kim của Nga và Trung cộng, thì Nam Việt Nam bị bó tay bởi ba trăm triệu viện trợ nhân đạo và viện trợ kinh tế.
Ông Thiệu khóc khi xin từ chức, ông xác định ông xin từ chức thì quân đội có thêm một người nữa.
"Tiên sư thằng chó đẻ".
Cả đời tôi chưa bao giờ nghe cha tôi chửi thề, văng tục trước mặt con cái. Đây hẳn là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi nghe một lời thô tục từ cha tôi, ông tiếp:
"Đúng là một bọn phường tuồng, một bầy chó đẻ".
o O o
Ngày N + 34, 11 giờ 30 tối
Tối nay tôi ngủ ở nhà, trên cái chỗ tôi đã nằm mười lăm, hai mươi năm trước. Vẫn là cái giường sắt bệnh viện của quân đội Pháp để lại, cha tôi đã mua ở đâu đó trong đống đồ lạc xoong khi mới vào Nam. Đây là mái nhà tôi từ khi tôi còn là một cậu học sinh nghịch ngợm phá phách nhất của cái cư xá công chức này.
Chính cái giường này tôi đã nằm xấp nhận cả ngàn roi đòn vào đít, hai cây trứng cá ngoài kia là lối ra duy nhất của tôi hàng đêm, cứ mười giờ tối khi lên giường cha tôi khóa cửa lại, ông muốn ngăn tôi đi chơi đêm, và cứ mười giờ rưỡi khi cha tôi đã ngáy đều, tôi leo lên mái nhà sau, truyền ra cây trứng cá đằng trước, êm như một con mèo. Tôi vốn là thủ lãnh của mấy tên sàn sàn một lứa với tôi trong cư xá, những Nguyễn Tiến Linh, Nguyễn Tự Lập, Nguyễn Hồng Đức, Nguyễn Thành Quan, Nguyễn Ngọc Huân... đang chờ tôi đi trừng phạt những nhà nào đã chửi bới chúng tôi vì lỡ đá banh vào nhà họ, chơi u lỡ đụng vào con cái họ. Chúng tôi lớn lên như thế, tuần tự năm một chúng tôi rời trung học, trở thành những người hữu dụng của miền Nam. Có người đã thành bác sĩ như Đức, tốt nghiệp Quốc gia Hành chánh như Lập, Huân và dở nhất như tôi, Linh, Quan đều trở thành những sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa. Đây là mái nhà tôi mà sao hôm nay xa lạ dị thường. Tôi không thể nào ngủ nổi, âm hưởng bài diễn văn của ông Thiệu làm tôi bàng hoàng. Có thể nào như thế được chăng?
"Tôi đã nói với người Mỹ là máu xương miền Nam chúng tôi không thiếu, chúng tôi chỉ thiếu quân viện, thiếu vũ khí đạn dược… "
Hãy hỏi ông Thiệu, ông Khiêm, ông Kỳ, ông Viên, khi các ông chưa lãnh đạo miền Nam, gia sản các ông có những gì? Và bây giờ các ông có những gì? Chúng ta đâu có thiếu quân viện nếu chúng ta biết sử dụng quân viện đúng mức, thì bây giờ chúng ta cũng vẫn cầm cự được một thời gian. Lãnh đạo một quốc gia đâu có phải là việc làm của từng ngày. Ngay từ lúc phải vào hội nghị ở Paris, ngay từ lúc phải cãi cọ về vụ bàn tròn, bàn vuông, về vị trí của từng phái đoàn, về cách phát biểu của mỗi phe là đã phải tính đến lúc mình phải đơn độc chống trả với đối phương. Lời của ông Thiệu mỗi lúc mỗi làm buốt giá đầu óc. Phải, chúng tôi đâu có thiếu máu xương, chúng tôi có nhiều máu xương nữa là khác, và ông Thiệu chẳng bao giờ tiếc món hàng rẻ mạt này. Ông Thiệu, ông Kỳ, ông Khiêm, ông Viên và nhiều "danh tướng" nữa, đã đem máu của người miền Nam rải đầy trên đồi núi, trên ruộng đồng, trên sông rạch. Máu mà tiết kiệm làm gì? Phải bắn cho hết đạn đại bác 105 ly để bà Khiêm có vỏ đạn bằng đồng bán cho Nhật bản, phải giữ cho được những lăng tẩm cũ của miền Nam, để cho bà Thiệu thu thập được các đồ cổ của tiền nhân, máu phải đổ ra chan hòa cho xứng tài danh tướng vừa có văn vừa có võ của ông Viên, ông ở trên chóp của cái thang quân đội, ông đứng giữa những tranh chấp chính trị, ông Viên là người thanh liêm, nhưng bà Viên thì sao? Bà có đỡ đầu cho đàn em cật ruột của bà không? Có đứa nào thậm thụt cửa sau tư dinh không?
Cả thành phố Sài Gòn như muốn co nhỏ lại. Tôi mở cửa, ra ngồi dưới tàn cây trứng cá như ngày nào thơ ấu, nghe những tiếng đại bác bắn đi từ Phú lâm ầm ĩ vọng về. Tôi nhìn những con chuột thành phố, những con chó vô chủ, những con mèo hoang thơ thẩn ăn đêm. Năm nay tôi ba mươi hai tuổi, đúng hai mươi năm có mặt ở phần đất này, có mười hai năm phí hoài tuổi trẻ, mười hai năm đóng góp rất nhiều mồ hôi, rất nhiều tâm trí. Có thể tôi chưa hề làm cho quân đội được đẹp thêm, nhưng chắc chắn tôi không bao giờ làm cho nó xấu đi. Những năm lận đận với gần hai mươi ngàn tù binh ở Phú Quốc, rồi gần một năm lao đao ở trại tù binh Biên Hoà, ở đây tôi không lao đao với tù binh mà lao đao với anh Chỉ huy trưởng được binh sĩ gọi trại cái tên tiếng Hán có nghĩa là "Ngựa sanh Rùa", thành tiếng Việt là Ma Sanh Quỉ. Kiểm điểm lại mười hai năm quân ngũ, đủ bốn vùng chiến thuật, mười bốn thành phố, một hải đảo, ở đâu đâu tôi cũng chỉ gặp những phiền muộn não nề, cay đắng, ê chề, nhục nhã. Làm sao mà không ra nông nỗi này khi suốt mười hai năm, tôi chưa bao giờ gặp một cấp chỉ huy tôi tâm phục, khẩu phục.
Quân đội là một tập thể vĩ đại, thế mà trong binh chủng tôi, cái binh chủng lo về quân phong, quân kỷ và tư pháp cho quân đội, giềng mối cho sức mạnh của toàn quân, cũng không thiếu gì những con ngưòi ăn bẩn. Đầu mối kỷ luật là sức mạnh của quân đội nằm trong tay binh chủng tôi, tôi đau buồn và nhận rằng trong mười hai năm vừa qua, tôi gặp được đúng ba vị có đức độ xứng đáng là cấp chỉ huy tốt. Tiếc thay đức độ không chưa đủ trong trận chiến này.
Do đó máu thì chúng tôi không thiếu. Hỡi những "danh tướng" của miền Nam, các ông Thiệu, Khiêm, Kỳ, Viên, Quang, Toàn... và nhiều danh tướng khác nữa. Các ông có bao giờ biết đến câu: "Nhất tướng công thành vạn cốt khô". Các ông để ý đến chuyện vặt này làm gì? Vả lại các ông đâu có... công thành, các ông thủ thành thôi. Bởi vì thủ thành nên mười năm qua triệu cốt khô rồi. Và thành vỡ các ông chỉ cốt giữ mạng mình, nhà cửa, dinh thự... Mồ mả ông cha không thể mang đi, các ông bỏ lại. Các ông đã có nhà cửa ở nơi khác đẹp đẽ hơn, hành lý các ông gọn lắm, cũng chẳng thèm đóng tuồng mang theo một cục đất quê hương như tướng Khánh ngày nào. Ông Thiệu tuyên bố từ chức và quân đội sẽ có thêm một tay súng nữa, một "danh tướng" nữa. Còn những "danh tướng" khác thì sao? Những ông được báo chí một thời ca tụng là tướng sạch như ông Thắng, ông Chinh, ông Trưởng đâu? Đàn em tướng Toàn đã giúp tướng Hiếu, một trong vài tướng sạch thật sự của miền Nam đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tướng Phú hiện nằm bệnh viện, nhưng các ông Thắng, Chinh, Khang, Trưởng đâu? Phải xuất hiện vào lúc này để cứu vãn phần nào sự tan vỡ của quân đội. Các ông đâu có phải là úy là tá, các ông là những ông tướng, quân đội dẫu có bạc đãi cũng đã là tướng. Bạc đãi gì, ông Khang là trung tá năm 63, năm 67 dẫu có bớt quyền uy cũng là trung tướng, sao để cho mình ông Kỳ bôn ba quá thể. Ông Kỳ là ông tướng nói chứ không làm, đâu có lì bằng ông Thiệu, đâu có tham bằng ông Quang, đâu có nhũng bằng ông Toàn.
Tôi thiếp đi, máu xương thì miền Nam đâu có thiếu, máu xương thì miền Nam đâu có thiếu, tôi thiếp đi và trong giấc ngủ, tôi biết là tôi mơ thấy ông Thủ tướng Sirik Matak của Cao miên bị treo cổ. Ông đã thản nhiên thụ nhận sợi dây oan nghiệt cho lỗi lầm tin vào người Mỹ của ông.
o O o
Ngày N + 35, 10 giờ sáng
Gặp Hải quân Thiếu tá Nguyễn Trường Yên, một bạn học thuở xưa, anh là hạm trưởng chiếc HQ8, tầu của anh hiện đang neo ở Sài Gòn. Tôi hỏi Yên trong trường hợp cuối cùng có xuất ngoại không? Yên cười buồn bã, anh cho tôi biết, dĩ nhiên anh muốn đi và sẽ đi, vấn đề ở chỗ không biết lúc nào. Tôi ngỏ ý với anh về cảnh ngộ tôi. Yên cho tôi biết tầu có thể chở vài trăm người, nhưng lúc này chưa thể làm gì, ngay cả toàn gia nhà anh, ông cụ, bà cụ cũng không thể lên tầu lúc này. Yên vẫn giữ được cung cách chỉ huy của anh khi nói:
"Hễ cứ còn chỉ huy, còn lệnh lạc, còn người chiến đấu thì tao còn ở lại. Tao nói thật với mày, mấy ông anh tao ông nào cũng đòi đưa vợ con lên tầu trước, mày biết tao mười anh em, tám người đã yên bề gia thất. Tao đâu có thể đưa cả đại đội toàn gia lên tầu. Mà nào phải chỉ có vợ con các ông ấy không mà thôi? Ông nào cũng có cả một hệ thống nhà vợ nữa. Tao có tầu trong tay, đủ chỗ để đưa cả đại gia đình, nhưng không phải là lúc này, hễ còn người trước mặt, còn đánh, còn bắn, tao còn ở lại.
Tao đã đón mấy ông ở Sư đoàn 3 chạy về, nhục không thể tưởng được. Mày nhớ ông tướng Nguyễn Duy Hinh không? Hồi ổng còn thiếu tá ở gần nhà thằng Hải đó, bây giờ ổng làm Tư lệnh Sư đoàn 3. Lúc miền Trung tan hàng, ổng dọt được lên tầu tao với một số tòng vong. Trông ổng như người hết hồn, thờ thẫn. Mẹ kiếp không biết lúc ổng đi duyệt hàng quân ra sao, chứ lúc lên tầu tao trông phát nản. Mày chạy đường bộ mấy quả như thế mà mò về được tới đây, chắc mày cũng phải tởm lắm. Có bỏ lính chạy lấy mạng không? Nói chơi thôi, lính của mày mà đánh chác cái gì, lính của tao cũng vậy. Tao gặp thằng Hải chồng con Hợi em mày, nó thuật lại chuyện mày chạy từ Pleiku về Tuy Hoà, rồi lại ngược ra Qui Nhơn chạy tới Phú Quốc, đôn đáo, nhanh nhẹn thế mà còn mất cả vợ con. Yên tâm đi ma gà, tao có tầu trong tay. Mỗi chiều về nhà ăn cơm để vợ con yên trí. Mày gặp tao mỗi ngày, sáu giờ chiều, có gì thì dọt theo tao..."
"Này mày có con đào nào ở đây không? Đi từ giã nó đi, vui thú với nhau đi, nếu không có thì xuống xóm đi. Leo được lên tầu tao rồi thì bước chân đi cấm kỳ trở lại. Ông đi Mỹ rồi, chán lắm, nản lắm. Đù mẹ đánh nhau thục mạng mấy chục năm, anh dũng như thế, hùng tráng như thế, đùng một cái đíu đánh chác gì, chỉ có chạy thục mạng, lệnh lạc cái con c..."
"Nói thật mày nghe hôm anh Thiệu lên TV từ chức, tao ở trên tầu, ngay lúc đó tao cáu quá. Giá có cái bản đồ thủ đô Sài Gòn, ông điên lên, ông quay đại bác bắn lên bờ, căn tọa độ kỹ càng, ông nã mẹ nó vài phát rồi ông chạy. Nhưng nghĩ lại, còn vợ con, còn bố mẹ, vả lại thằng pilot chó đẻ nằm vùng Nguyễn Thành Trung đó để hai quả bom, chắc vừa bay vừa run nên bỏ trúng sân thôi. Lại nữa vợ con nó dọt trước, đang bán đồ cổ ở Luân đôn, đang du hí ở Âu châu, ông muốn bắn một phát chết cả nhà nó. Cái dinh to quá, phải cần chục khẩu đại bác, khai hỏa một lần, tầu của ông có mỗi khẩu, bắn được hai phát là nó muốn khuỵu rồi, tầu cũ phế thải của Mỹ mà, làm ăn gì được. Nói tóm lại là cậu Thiệu cao số. Đù mẹ thằng đó chắc trước kia tổ tiên nó là Chàm, nên bây giờ nó báo oán dân Việt."
o O o
Ngày N + 35, 4 giờ chiều
Tòa đại sứ Mỹ, phi trường Tân Sơn Nhất đầy người xin đi tị nạn. Trên trang nhất các nhật báo, hình ảnh của các Camp city ở Guam, ở Wake, cũng như hình ảnh của những người chầu chực chen lấn ở các cơ sở Mỹ. Giá có thi sĩ Trần Dần ở đây, ông sẽ làm được bài thơ cả ngàn câu về cảnh này. Nó thê lương, ảm đạm hơn cả trăm lần dạo di cư 54. Dẫu sao năm 54, có bỏ xứ Bắc mà đi vào trong Nam vẫn còn trong đất nước của mình. Bây giờ là biệt xứ.
Nhớ tới một đoạn thơ xuôi tôi làm mười năm trước:
...Trời thu đất Bắc dâng sầu.
Anh mười tuổi nhỏ, cắp bị xuống tầu thật to hoan hỉ. Lại thắc mắc: mắt người lớn sao bỗng dưng đổ lệ?
Sao bỗng dưng đương vui mừng hớn hở, tiếng còi tầu rẽ sóng ra khơi, mắt nhỏ anh dâng triệu triệu lớp buồn.
Ngày trở lại, chắc không còn mùa thu sầu úa, chắc không phải ngày đông tàn lụi, nắng hạ cháy da.
Ngày đó hẳn là mùa xuân có hoa lá thắm màu chim chóc hót líu lo ngoài nội..
(Mặt trời lên, nhà xuất bản "Đại Nam văn hiến 1967")
Khi tôi làm bài thơ này, tôi đã ở quân đội hai năm, mơ một ngày trở lại đất Bắc vào một mùa xuân dân tộc, có hoa lá chim chóc vang lừng. Nào ngờ mười năm sau, kết quả trái ngược, Bắc quân vào đây, và cả dân tộc chìm trong mùa đông tang tóc.
o O o
Ngày N + 35, 6 giờ chiều
Yên nói đúng, tôi đã thăm người sống, đã viếng người chết rồi, bây giờ phải xuống xóm. Phải đi thăm các chị em ta. Một mai khi phần đất này đổi chủ, hàng vạn chị em ta sẽ như chim vỡ tổ.
Ông Diệm thật sai lầm khi quyết định bài trừ nạn mãi dâm. Vấn đề không phải là bài trừ, bởi vì không thể nào bài trừ được, chỉ có thể kiểm soát để bảo đảm, ngăn ngừa bệnh tật. Có tới một triệu quân dưới cờ, trong đó phải có vài trăm ngàn trự chưa có vợ hoặc xa nhà. Cấm mãi dâm thì sẽ có hiếp dâm. Mẹ kiếp, có cậu Đại tá Tỉnh trưởng còn bị tố cáo là hiếp dâm vợ con binh sĩ, mấy cô giáo cô thế. Thật là tên làm sao thì bào hao làm vậy, đúng là loại ngựa đẻ ra ngưòi thì mới có thể hành động như thế đối với thuộc hạ của mình. Làm sao mà không mất nước, làm sao mà không tan nhà, có phải không ông "Quế tướng công"? Có phải không người "anh cả Trường Sơn", người đã lập một "trung tâm dưỡng quân" ngày nào trên đất Pleiku. Không biết ai đặt cho cái "sở điếm" của Quân đoàn 2 bằng một cái tên hay ho như thế, văn chương tao nhã như thế. Tôi nghĩ ông Vĩnh Lộc có lý trong ý định thành lập "trung tâm dưỡng quân", nhưng sai lầm khi bắt Quân cảnh của đơn vị tôi canh gác trung tâm này. Đi giải quyết vụ đó, mà có mấy anh Quân cảnh dòm lom lom thì "lên" thế nào nổi. Rõ ràng là đơn vị tôi bị ép, nhất là tôi chưa vợ mà đi giải quyết vụ đó, gặp mấy cậu lính trong đơn vị chạy ra chào, cười cười thì... Trung úy đành nhịn.
o O o
Ngày N + 36, 7 giờ tối
Có tin đồn ông Thiệu muốn tẩu tán toàn thể số vàng dự trữ của quốc gia. Chuyến bay bị hủy bỏ, nghe đâu tới 16 tấn vàng, không lấy ra khỏi ngân hàng được, vì bị phó thủ tướng đặc trách kinh tế Nguyễn văn Hảo chặn lại. E rằng lời hứa của ông Thiệu: "Tôi từ chức thì quân đội có thêm một người nữa" lại cũng cuội mà thôi. Bà Thiệu đã tẩu tán được bao nhiêu đồ cổ rồi, bây giờ ông Thiệu muốn gom một mớ nữa. Cú này ông chơi trội, ông mang vàng của cả nước đi, ông bán máu suốt tám năm làm Tổng thống, bà Thiệu lại phúc hậu, đâu có biết buôn bán như bà Khiêm.
Ông bận làm Tổng thống, giao cái vụ vàng trắng, vàng đen cho tướng Quang, giao vụ gạo, thuốc trụ sinh cho tướng Nghi, bà Thiệu thì chỉ được các anh Tỉnh trưởng đàn em, biếu cái gì cầm cái ấy, đâu có kế hoạch như bà Khiêm, đâu có giang sơn một cõi như bà Viên. Ông bán máu xương, vàng đen, vàng trắng vất vả mãi mới có số vàng gửi trong ngân khố, đó là tài sản của công ty "danh tướng Nguyễn văn Thiệu, Đặng văn Quang", bây giờ ông mang đi. Nhiều ngày nay loan truyền trong dân chúng một bài diễn văn đọc nhại theo giọng ông Thiệu: "Đất nước còn tôi ở Sài Gòn, đất nước lâm nguy tôi ra Phước tuy, đất nước mất tôi lên đệ thất hạm đội. Máu là của đồng bào, xương là của chiến sĩ, nhưng Đù mẹ vàng là của tôi..."
Hèn nào, mấy năm ngồi chơi xơi nước, ông Kỳ cáu kỉnh đến thế.
o O o
Ngày N + 38, 10 giờ sáng
Lập trường của Cộng sản là không chiu nói chuyện với ông Thiệu. Ông Thiệu đã từ chức, đã cút thì bọn chúng cũng lại trở mặt, không chịu đối thoại với ông Hương. Chúng tuyên bố trên đài phát thanh: ông Hương với ông Thiệu không khác gì nhau. Chúng muốn nói chuyện với thành phần thứ ba như ông Minh Cồ chẳng hạn. Những người tự nhận là thành phần ở giữa nhặng xị cả lên, mặt mũi tự nhiên quan trọng hẳn ra. Nhà hát lớn, chỗ trước kia các đại diện của dân miền Nam, nhộn nhịp ra vào, các dân biểu "gia nô" và "đối lập cuội" trước kia gật đầu trước tất cả mọi điều ông Thiệu và ông Khiêm muốn, bây giờ lẹ làng đón gió gật đầu trước tất cả cái gì Việt cộng muốn. Chưa chi đã có chủ mới ngay được, tài thật. Tất nhiên một số cậu đã cao bay xa chạy, đã chuồn từ cả tháng trước. Chính cái bọn vận động cho ông Thiệu qua mùa độc cử năm 71, chính cái bọn a tòng sửa hiến pháp bằng một tu chính án, cho ông Thiệu được thêm một nhiệm kỳ nữa, chính cái bọn đó đang vận động ép ông Hương trao quyền cho ông "Minh Cồ"
o O o
Ngày N + 38, 3 giờ chiều
Cộng quân mở một mặt trận mới tấn công vào Long Thành và Phước tuy. Nhờ sự chiến đấu dữ dội của Nhẩy dù, Thủy quân Lục chiến và Thiết giáp, đường Sài Gòn Vũng tàu vẫn còn giao thông được. Họ sẽ giữ được trục lộ này tới bao giờ?
o O o
Ngày N + 38, 7 giờ tối
Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt đã dời về Long Thành. Lễ mãn khóa diễn ra trong một bầu không khí u uất, ở một doanh trại điêu tàn của Mỹ để lại. Những sinh viên sĩ quan của hai khóa chót ra trường cùng một lúc. Họ giống như những trái cây bị ép non, có một lớp vỏ ngoài đẹp đẽ của những trái chín, nhưng lớp ruột bên trong còn sượng, chưa đủ già. Họ đã mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận. Mặt trận đâu có xa xôi gì, nó lởn vởn ngay ngưỡng cửa Long Thành, và cách cổng quân trường chưa đầy một cây số.
o O o
Ngày N + 38, 8 giờ 30 tối
Không biết phải làm gì cho hết những giây phút ngột ngạt, khó chịu, hết ra lại vào, ngay cả ba đứa nhỏ con anh Tư tôi dường như cũng bị lây sự lo sợ của người lớn, ra vào khép nép. Cha tôi bình thản lạ thường, mẹ tôi bồn chồn, nóng nẩy, bà cụ lấy cỗ bài tổ tôm ra, bầy trận phá hoài, lần nào cũng bí.
Tôi thưa với cha tôi về việc có tầu Hải quân do Yên chỉ huy đậu bến Sài Gòn, tôi có thể đi vào phút chót với Yên. Tôi nói với cha tôi:
"Các anh chị con, ai cũng đông con. Anh Phong bốn, anh Lưu sáu, anh Hoạt tám, anh Điệu bốn, chị Hiền ba, cô Hợi một, cô Nga ba, kể cả người lớn, nhân số toàn gia gần năm mươi người, vả lại, con không biết ý kiến các anh chị đi hay ở thế nào. Nhà con đã kẹt ở Cam Ranh, hay cậu mợ đi với con".
"Cậu mợ già rồi, chỉ quẩn chân anh thôi. Vả lại chắc gì đi được. Hơn thế nữa, bỏ con cháu ở đây, phiêu lưu tới một xứ sở xa lạ không ích gì. Anh đi một mình, bàn với anh Điệu coi. Anh ấy là sĩ quan Cảnh Sát, cũng cần thoát hiểm như anh. Cậu muốn ở lại đây, chôn ở đây. Anh không cần bận tâm. Anh liên lạc với anh Yên chặt chẽ, đừng ham chơi, chán nản. Nếu ra được nước ngoài anh rán học hành lại, cậu chết cũng mãn nguyện. Biết đâu trời còn thương, có ngày quay về sử dụng được cái sở học nơi xứ người".
"Con làm nhà trên Đà Lạt, những mong có ngày vợ con hầu hạ cậu mợ khi tuổi hạc đã cao, con biết đã làm cậu thất vọng nhiều. Cơ sự như thế này, con định mời cậu mợ đi sang Mỹ với con".
"Anh lẫn rồi, cậu đi làm gì? Cậu biết lòng anh là đủ. Ngày vợ chồng anh làm nhà trên Đà Lạt, tuy anh chưa nói ra, cậu cũng biết bụng anh muốn phụng dưỡng cậu mợ. Trời đã an bài, số cậu vất vả lúc già, không được hưởng chút an nhàn. Cưỡng lại vô ích. Sang Mỹ rồi cũng chết vì nhớ thương con cháu, có khi lại còn chết sớm hơn là đằng khác. Vả lại đa thọ là đa nhục. Bọn chúng vô đây, nếu sống được cậu hưởng thêm tuổi trời vài năm nữa. Cậu đã sáu lăm gần thất thập cổ lai hy rồi. Còn nếu không thể sống được với chúng thì chỉ một cái tặc lưỡi là xong. Anh đi một mình. Cần nhất là phải tiếp tục việc học bỏ dở của anh. Cậu tiếc cho anh lắm, cậu tiếc cái thông minh của anh, anh không có được cái chí của anh Phong, của chú Bẩy. Anh mà có chí bằng nửa chú Bẩy thôi, anh sẽ hơn người".
"Hay là con mai danh ẩn tích ở lại đây. Sài Gòn đông tới hai, ba triệu người, chúng không thể kiểm soát hết được. Con cũng không muốn bỏ nhà con với hai đứa nhỏ ở lại bơ vơ".
"Anh lại nghĩ quẩn rồi. Anh phải đi, nếu sau này bọn chúng có tử tế, mình vẫn tìm cách để xum họp được. Miễn là còn người và có lòng chung thủy thôi. Anh Yên là bạn như thế nào với anh? Sao cậu chưa bao giờ nghe anh nhắc tới tên?"
"Dạ, Yên bạn học với Hải chồng của cô Hợi, anh ấy mơ làm hạm trưởng Hải quân từ ngày còn học trung học. Mộng của Yên như vậy kể như đạt được một nửa. Thỉnh thoảng hắn mới đi chơi với con. Chắc cậu không biết Yên đâu, ông cụ của Yên hồi xưa có dạo làm Trưởng ty công an ở Hải Phòng".
"Như vậy cậu biết ông cụ anh ấy. Dường như ông cụ tên là Nguyễn Trường Cửu thì phải? Nếu đi được thì liên lạc với thằng Nguyên con anh Lưu ở bên Úc, hai chú cháu anh ở chung được với nhau thì càng tốt. Thằng bé ở bên ấy chắc cũng đang sốt ruột lo cho gia đình. Nếu không được qua Úc với cháu, cũng chịu khó liên lạc với nhau. Nó lớn nhất nhà, song tính nết hơi yếu đuối, không được như mấy thằng em nó, hay thằng Sĩ con anh Phong. Thằng đó tính hiếu thảo, cả nể, không biết sau này có bị vợ ăn hiếp không? Anh có điều gì căn dặn cậu không?"
"Con xa nhà đã lâu, lần này chắc là biệt vô âm tín, lang thang nơi quê người. Con cầu xin ông bà tổ tiên phù trợ cậu mợ lúc nào cũng mạnh khỏe, bọn chúng vô đây, chắc không một ai có thể nhàn nhã được. Con chỉ cầu mong cậu mợ khỏe mạnh, vui vẻ. Con chỉ mong có bấy nhiêu thôi. Cậu có nhắn gì cháu Nguyên không."
"Anh nói cho cháu biết, ông nội lúc nào cũng thương nhớ đứa cháu du học phương xa. Dặn nó nhớ những điều ông nội nhắn nhủ trước khi lên phi cơ xuất ngoại. Thế là đủ."
o O o
Ngày N + 39, 10 giờ sáng
Giải pháp Dương Văn Minh mỗi lúc mỗi rõ nét. Cựu Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, đương kim Thượng nghị sĩ, tiếp xúc nhiều nhân vật để thành lập nội các. Ông Mẫu chú trọng rất nhiều đến những chính khách trong thành phần thứ ba. Thành phần này được dân chúng gọi đùa là thành phần lủng lẳng ở giữa.
Mặt khác, tướng Kỳ hướng dẫn một phái đoàn tướng lãnh yết kiến Tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Kỳ muốn nắm quân đội, muốn tử chiến. Cũng nên ghi nhận trong lần tiếp xúc này, luận điệu của ông Kỳ bớt quá khích, bớt hăng như lần ông xuất hiện ở nhà thờ Tân Sa Châu vài ngày trước. Một nguồn tin khác được loan truyền khá rộng trong dân chúng, trong trường hợp Mỹ bỏ Sài Gòn như bỏ Nam Vang, ông Kỳ và các tướng lãnh khác cùng với một số đảng phái chánh trị sẽ bắt cóc ông đại sứ Mỹ Graham Martin cùng toàn thể nhân viên tòa đại sứ Mỹ ớ Sài Gòn. Nhóm của ông Kỳ định dùng những con tin này ép chính phủ Mỹ tôn trọng những cam kết với Việt Nam Cộng hòa, viện trợ cấp bách vũ khí, đạn dược để miền Nam có đủ phương tiện chống trả Cộng sản.
Tôi suy gẫm về nguồn tin này thấy có hai điểm đáng ngờ đây chỉ là những tin vịt:
Một kế hoạch như thế không thể phổ cập rộng rãi, bộ bọn CIA đàn em của Polgar mù và điếc hết cả sao? Cả tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ, với những vũ khí tối tân nhất, chắc là những người gỗ hay sao? Quan trọng nhất là tướng Kỳ. Ông có phải là loại người dám làm những việc trọng đại như thế chăng? Tôi ngờ rằng không. Ông Kỳ là người thích nói, có cái phổi to và sốp, người ta quen gọi là phổi bò. Ngay cả ông Kỳ làm thật, tóm cổ được ông đại sứ Graham Martin thật, cũng không đi đến đâu, chỉ tổ làm tình hình nát thêm, sẽ đổ máu thêm vô ích. Những người làm chính sách của Mỹ cũng đã tiên liệu những việc có thể xảy ra, chắc chắn họ đã tính đến việc này. Chắc chắn họ sẽ có biện pháp của họ. Vả lại, lòng dân đã nát rồi. Số phận của Nam Việt Nam đã tận, không một ai có thể gỡ nổi.
Thứ hai, những tin đồn loại này sẽ làm cho tình hình rối loạn hơn lên, nó làm cho dân chúng không biết đường nào mà xoay trở. Nó có thể được loan truyền từ phía Cộng sản, nó có thể được loan truyền bởi những người thiếu ý thức, chỉ muốn mọi người tin rằng họ là những nhân vật quan trọng, am tường tình thế, nó cũng có thể được loan truyền từ CIA để chặn trước, vô hiệu hóa bớt những phản ứng của những người xốc nổi như tướng Kỳ.
o O o
Ngày N + 39
Áp lực của Cộng sản trên trục lộ Sài Gòn Vũng Tầu mỗi lúc mỗi nặng nề. Từ nửa tháng nay, những người có tiền mà không có điều kiện di tản bằng đường hàng không, đi Vũng Tầu tìm phương tiện tự túc. Rất nhiều nhóm trông cậy vào những ghe đánh cá lớn ở Vũng Tầu có thể mang họ ra thoát được Việt Nam. Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, chưa bao giờ dân Việt muốn bỏ nước đi nhiều như bây giờ. Ngay cả cách đây hơn một thế kỷ, lúc triều đình Huế dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ban dụ cấm đạo gay gắt nhất, một số dân công giáo băng rừng tới Thái lan lập nghiệp. Con cháu số giáo dân này, hiện vẫn còn là một lực lượng Việt kiều đáng kể ở Thái lan, nhưng con số di dân hồi đó đâu có thấm gì với hiện tại. Hơn một thế kỷ trước, dưới triều đại phong kiến, vi phạm tới luật triều đình bị xử trảm như chơi, thế mà số giáo dân còn ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ cao hơn những giáo dân muốn tị nạn gấp mười. Bây giờ Cộng sản mới ló mặt ra, chẳng có đạo dụ gì cả, chưa ban bố một hiệu lệnh nào, thế mà dân chúng đã co vòi lại, bỏ của chạy lấy người, thờ Phật cũng chạy, thờ Chúa chạy còn lẹ nữa. Đủ hiểu bọn chúng không khá được. Trục lộ Sài Gòn Vũng Tầu từ một tuần nay là lối thoát duy nhất cho những ai không đủ điều kiện chui lọt vào tòa đại sứ Mỹ, vào phi trường Tân Sơn Nhất. Giữ lâu được chừng nào, sẽ có nhiều người đi thoát chừng nấy. Các đơn vị một thời của quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày nào, các anh Nhẩy dù nón đỏ, Thủy quân Lục chiến nón xanh và Thiết giáp nón đen đang đền ơn dân chúng miền Nam bằng cách cố giữ cho được lối thoát này.
o O o
Ngày N + 40
Tổng thống Trần Văn Hương, ông giáo già của miền Nam, của hội Liên trường, mới tuyên thệ nhậm chức được vài ngày đã bị các dân biểu "đón gió" trở cờ ép thoái vị. Ông khóc trước quốc dân, ông đọc diễn văn trước lưỡng viện, và nêu một câu hỏi lớn: "Người ta coi chủ quyền quốc gia, coi hiến pháp như món hàng đem bán."
Cụ giáo Tổng thống ơi, cụ lầm rồi, để hậu sinh chúng cháu nhắc cụ một việc: Hơn hai ngàn năm trước dây, vào cái hồi thịnh nhất của Khổng học, cái bóng của Khổng Khâu còn in rõ nét nhất trên vòm trời Trung hoa, rõ đến độ ép cái hình ảnh an nhiên tự tại của Lão, Trang lu mờ, nhường chỗ cho đám môn hạ của Khổng Khâu như Tử Cống, Tử Lộ, Tử Tích... xôn xao xe ngựa, quyền uy ở khắp các triều đình. Vào lúc mà cái học của Khổng Khâu, cái đạo đức chính trị của các nhà lãnh đạo được đề cao tới mức tối đa, ở nước Tầu của cụ Khổng nẩy ra một anh Lã Bất Vi. Anh này vốn là con buôn, một hôm hỏi bố:
"Buôn bán hàng hóa lời lãi như thế nào?"
"Lãi gấp đôi."
"Buôn bán vàng bạc, châu ngọc lãi gấp mấy?"
"Lãi gấp mười."
"Buôn vua thì sao?"
"Lãi không biết đến đâu mà kể."
Thế là cậu Lã Bất Vi lân la làm quen với Tử Sở, một anh con không có gì xuất sắc của vua Tần, lúc đó đang làm con tin ở nước Triệu. Họ Lã dùng mánh khóe con buôn, sau cùng cũng mang được Tử Sở về Tần được làm vua, họ Lã còn mang cả vợ lẽ đã có thai gả cho anh vua cù lần này. Cái thai sau này trở thành Tần Thủy Hoàng, bạo chúa số một của Trung hoa. Thời phong kiến ông vua là trên hết trong sự sắp xếp tôn ti trật tự xã hội: quân, sư, phụ. Có ông vua trong tay là có cả nước trong tay, xử anh nào chết phải chết, cho ai sống được sống. Lã Bất Vi buôn được món hàng vạn thặng này, xoay cả nước Tần trong tay, rốt cuộc cũng chết bởi chính anh con Tần Thủy Hoàng.
Hai ngàn năm trước, người ta đã mua bán được cả nước, huống hồ bọn lái buôn trong thời đại nguyên tử ngồi một chỗ, bấm những cái nút, mọi sự kiện của tất cả thế giới đều hiện lên màn ảnh TV. Bọn buôn nước đã tinh khôn gấp vạn lần họ Lã, bọn bán nước còn ngu độn, cù lần gấp trăm lần Tử Sở, Tử Sở chẳng những không bán nước, lại còn được chọn làm vua, ngồi làm cha người ta, có tam cung lục viện, việc nước thì giao quách cho họ Lã còn muốn gì nữa. Nhưng bọn bán nước ngày nay, mỗi đứa bán một chút, mỗi đứa bán một mảnh. Bán mảnh lớn thì vồ nhiều tiền như cậu Thiệu, cậu Khiêm, cậu Quang, cậu Toàn, còn bán mấy mảnh vụn thì cũng vồ được xe hơi, nhà lầu, cơm ngon vợ đẹp.
Cụ giáo Tổng thống ơi, bọn hậu sinh chúng cháu xin trả lời câu hỏi của cụ: "... Người ta coi chủ quyền quốc gia, coi hiến pháp như một món hàng để bán sao?..." Thưa cụ đúng vậy. Không tin, cụ hỏi mấy anh học trò của cụ coi, có anh còn thuộc sách của họ Lã hơn bài học cụ dạy nhiều. Cháu cũng xin thưa với cụ giáo Tổng thống một điều nữa: "Cháu không dám coi Lã Bất Vi như một anh bán nước, anh đó buôn nước Tần, dĩ nhiên đã đem vợ mình đổi lấy món hàng, thì món hàng đó phải ghê gớm cỡ nào. Họ Lã, xét cho cùng, có công với nước Tần, có công với Trung hoa, nội việc gồm thâu lục quốc đã tiết kiệm biết bao xương máu cho dân Trung hoa hơn hai ngàn năm trước. Thời Xuân thu Chiến quốc kéo dài cả ngàn năm. Thất quốc tranh hùng, đánh nhau trời sầu đất thảm thế mà đến tay họ Lã, rồi Tần Thủy Hoàng kế tục thu về một mối. Người như họ Lã, bây giờ người ta gọi là Chính trị gia.
Các chính trị gia khôn ngoan giỏi giang thì có lợi cho đất nước, còn ngu muội thì chỉ có bán nước đi mà thôi. Tiếc thay, phần đông những người hoạt động chính trị của miền Nam có rất ít người khôn ngoan giỏi giang, họ mới nhìn thấy cái ghế Tổng, Bộ trưởng là đã sướng run lên rồi, họ cần ngồi vào chỗ đó, ngồi để mà hưởng lợi. Còn họ Lã dĩ nhiên là lời to, nhưng họ Lã đã nhọc công gây dựng nước Tần, đã lao tâm tổn trí đến độ sau này, anh con ruột là Tần Thủy Hoàng ngứa mắt, ban cho một chén thuốc độc. Họ Lã còn đáng yêu một điểm là để lại cho hậu thế chúng ta một bộ sách Lã thị Xuân thu. Họ Lã đâu có tài văn chương, nhưng đã gom hết mấy anh nhà văn cỡ nhỏ, gom góp tài liệu, sách vở hoàn tất bộ sách để đời này. Khi bộ sách xong, đem treo ngoài chợ và rao ai sửa được một chữ thưởng ngàn lượng vàng. Chẳng có ai được lãnh giải văn học nghệ thuật của họ Lã cả. Mấy chính trị gia cỡ Tổng Bộ trưởng của miền Nam, và cả những chính trị gia độc lập nữa, có anh nào làm được cái gì hay ho đâu mà dám coi thường họ Lã.
Cụ giáo Tổng thống ơi, cụ chơn chất như thế mà nỡ lòng nào đi làm phó cho anh Thiệu. Cháu e rằng, hậu thế khi đọc lại sách cũ, có kẻ sẽ hiểu lầm cụ. Cái đức của cụ bạc lắm, cụ ngồi chung với bọn Thiệu Khiêm làm gì, để đến nỗi bây giờ mang tiếng với đám hậu sinh.
o O o
Ngày N + 40, 3 giờ chiều
Lại xuống xóm cho qua ngày giờ. Chưa chi các chị em ta đã tan đàn xẩy nghé, biếng nhác phấn son, hành nghề... không tích cực. Tôi cũng chẳng hứng thú gì, có điều không biết làm gì cả. Từ Biệt khu Thủ đô ra, định chạy lên nhà anh cả tôi, ngang qua chỗ rạp xi nê Khải hoàn, chẳng hiểu sao khi thắng xe lại, tôi thấy mình còn cách cái villa hành nghề của chị em ta có một quãng đường ngắn. Giờ này, anh Cả tôi chắc chưa về. Tôi còn biết làm gì hơn là chui tọt vào đó.
o O o
Ngày N + 40, 5 giờ 30 chiều
Anh Cả tôi vẫn chưa về, tôi ngồi chờ ở bàn giấy làm việc của ông. Xung quanh tường, những giá sách kê cao đến tận trần, anh tôi là người mê sách. Dễ chừng một thư viện nhỏ trong căn phòng này, cả ngàn quyển đủ mọi loại, loáng thoáng thấy một vài quyển sách do các bạn văn tặng, tôi vất vương vãi ở nhà, anh tôi đem về đây giữ hộ. Trên tường, một bức sơn dầu của Nguyễn Trí Minh, bức tranh này Trương Hồng Sơn tặng cho tôi, vì Sơn là em ruột họa sĩ Trương thị Thịnh, vợ Nguyễn Trí Minh. Bức tranh vẽ mấy con ngựa rừng đang gậm cỏ trên một cánh đồng. Có cái bao la bát ngát của trời đất, có cái nghênh ngang của một con ngựa nghển cổ hí, khi tặng cho tôi, Sơn nói: Ông cũng giống như những con ngựa này, đang cố gắng chống trả lại những áp đặt trên người ông, ông cố hất những bộ yên, những sợi dây cương lủng lẳng cùng với hai miếng da che mắt. Ông vùng vẫy nhưng những yên, cương, những miếng da che mắt đó vẫn còn như bộ quân phục ông mặc trên người. Ông là con ngựa chưa được thuần nên ít có tên nài nào muốn cưỡi. Tôi mong ông giữ được cái không thuần này. Một bức tranh thiếu nữ của Thái Tăng An vẽ, và một bức khác của Hoàng Đăng Nhuận. Tranh của Nhuận là thủy thái họa. Tất cả những tranh này, trước kia tôi treo ở nhà tôi trên Đà Lạt. Khi phải đổi đơn vị, tôi mang về gửi anh Cả tôi.
Tranh của An gợi nhớ lúc tôi ở Pleiku, thơ có Kim Tuấn, Cao Thoại Châu và tôi, họa có Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An. Chúng tôi dựng quán cà phê Tay Trái, tên này do Cao Thoại Châu đặt, vì anh lập luận "Tay Trái" là nghề tay trái đó mà. Bọn văn nghệ láo lếu như mình, trong thời buổi này, mười tên thì có đến chín tên thò tay mặt đặt tay trái. Nhưng tận trong đáy lòng, anh tôi biết anh nghĩ khác. Tay trái gần với trái tim hơn. Quán dựng lên được sáu tháng, lúc đầu rất đông, sau vài buổi đọc thơ chống chế độ, khách ít người lai vãng. Rút cục còn toàn các cậu chủ và bằng hữu đọc thơ cho nhau nghe. Riết rồi thân hữu cũng sợ liên lụy, nhìn lại còn có có mươi người khách, mà thường xuyên nhất lại chính là hai ông Trưởng ty An ninh Quân đội và Trưởng ty Cảnh sát. Thế là đóng cửa.
Tranh của Nhuận gợi cho tôi thời ở Đà Lạt. Thơ có Lê văn Ngăn, Nguyễn Xuân Thiệp và tôi, họa có Hoàng Đăng Nhuận, Thái Lãng, Trần Hoài, nhạc có Lê Uyên Phương, văn có Nguyễn Quang Tuyến, Trần Hữu Lục, kịch có Lữ Kiều. Có nhiều người đứng chàng hảng như Lãng văn và họa, Lữ Kiều văn và kịch, Ngăn, Thiệp và tôi thơ và văn. Khách thập phương thì nhiều biết bao nhiêu mà kể, những bạn văn của chúng tôi ở khắp chốn thỉnh thoảng ghé chơi. Căn nhà tôi có một dạo như nhà vãng lai. Vợ tôi đã cầm nhẫn cưới, bông tai, dây chuyền không biết bao lần để tôi có thể đãi đằng bằng hữu.
Tranh của Nguyễn Trí Minh do Sơn cho gợi tôi nhớ tới những bãi biển tuyệt vời ở Phú Quốc, đến những hàng rào kẽm gai, đến những rừng cao su, đến tù binh, tôi nhớ đến một câu thơ tôi làm khi còn ở Phú Quốc, thấy mình cũng chẳng hơn tù binh là bao:
...Và vì vậy cũng như anh
Tôi chỉ là một tù binh không hơn kém
Bị vây bủa trong thời nội chiến
Bị cầm tù tuổi trẻ
Bị nghẽn lối ngày mai
Tất cả những vùng đất vừa kể, sớm hay muộn rồi cũng bị lật nhào. Máu xương đổ ra cho miền Nam suốt hai mươi năm, rút cục cũng không trổ được một nhánh hoa tự do đúng nghĩa. Thật ra cái cây của miền Nam trồng không thuần giống tự do, nó đã bị cớm, nó đã bị sâu, nó đã bị rỗng ruột. Đã đến lúc những giàn giá đổ, đã đến lúc cháy nhà ra mặt chuột, nên vì đó mà cây không trổ hoa, nó kết cho miền Nam một trái đắng. Trái đắng của tù ngục, của nhục nhằn.
Anh cả tôi đã về, tôi ăn với anh tôi một bữa đạm bạc. Một người bạn với anh tôi xoay được một danh sách tị nạn do Mỹ chọn lựa, và đã điền tên gia đình anh tôi trong cái manifeste này. Anh tôi chêm cả tên tôi vào danh sách. Anh tôi cũng không hy vọng gì nhiều. Không một cái gì chắc chắn trong lúc này. Tôi không biết anh tôi nghĩ gì? Anh đã từng du học ở Mỹ một năm, tu nghiệp về sư phạm, dường như anh tôi cũng không thích Mỹ lắm. Anh muốn đi chỉ vì tương lai của mấy đứa nhỏ mà thôi. Ăn xong, tôi thấy anh hì hục với mấy kệ sách, anh muốn thu dọn trước những sách nào còn có thể lộ diện ở miền Nam, bóng anh tôi đổ dài trên đống sách vở ngổn ngang.
o O o
Ngày N + 41
Rốt cuộc, ông Minh Cồ cũng giựt được cái cờ để phất. Sáng nay, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu trình nội các lâm thời với một danh sách vỏn vẹn có bốn người. Ông Mẫu, ngay khi nhậm chức đã tung ra một quả bom, làm cả miền Nam ngơ ngác. Ông chính thức gửi văn thư yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam, từ ông Đại sứ đến nhân viên các cấp, nhất là cơ quan D.A.O. Người Mỹ đâu có cần ông Mẫu đuổi, họ bỏ miền Nam vì miền Nam hết còn giá trị với người Mỹ. Họ đã biết chắc được mâu thuẫn giữa Trung cộng và Nga khó có thể hàn gắn được. Trung cộng mỗi lúc mỗi ngả dần theo Mỹ để được hưởng một chút tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Họ đã dùng Trung cộng để ngăn chặn Nga, họ thả miền Nam bởi vì đối với dân Việt, kẻ thù nguy hiểm nhất lúc nào cũng là Trung cộng. Nuốt được miền Nam, bọn Cộng sản ngoài Bắc sẽ phải ôm chân con gấu Nga ở xa, để chống con chó sói Trung cộng ở gần, nghĩa là Mỹ đã đẩy Việt Nam vào thế ngăn chặn Trung cộng ở phía Nam.
Kampuchia là lá bài của Trung cộng với Pol Pol và đám Khmer đỏ hiếu sát. Rồi đây, trong vài năm tới, tình hình Đông Nam Á đố có yên được. Ông Mẫu ơi, ông khỏi cần đuổi Mỹ. Họ đang kiếm cớ để đi. Giờ thì họ đã có cớ để ra đi sớm sủa. Ván bài miền Nam đã vật đến lá chót.
Ngày N + 41, 10 giờ sáng
Đài Phát thanh Quân đội đọc nhật lệnh của Tân Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi nghĩ tới văn phòng Đại tướng Cao Văn Viên trong Tổng tham mưu trống trơn, sáng nay ông đã không tới văn phòng, và tập hồ sơ trình ký còn dở dang trước bàn giấy. Trên đài phát thanh, người được bổ nhiệm chức tân Tổng Tham Mưu Trưởng là Trung tướng Vĩnh Lộc, có một thời được mệnh danh là "Anh Cả Trường Sơn". Ông cựu cũng như tân không ai có mặt ở văn phòng. Ông cựu Đại tướng Viên có lẽ đã có mặt ở tầu Mỹ.
Mấy năm sau này, khi sự tranh chấp quyền lực giữa các tướng mới nhen nhúm, ông Kỳ phổi bò, bị ông Thiệu cho vào xiếc, ngồi chơi xơi nước, thỉnh thoảng ngứa miệng tuyên bố vài câu vớ vẩn vô hại. Hai tướng còn lại là ông Thiệu và Khiêm ở trên hai cái đỉnh của quyền lực. Mỗi người có một phe nhóm riêng, vây cánh riêng. Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng đứng giữa các tranh chấp quyền lực này. Ông được ông Thiệu tin cậy, và ông Khiêm nể mặt. Những anh nhà báo, nhà văn quân đội thay phiên bốc thơm ông Tướng "văn võ song toàn này". Võ thì tôi chưa biết rõ, tôi là một đại úy, nghển cao cổ, kiễng hẳn chân lên thì tôi cũng chỉ với tới ông Đại tá xếp xòng của tôi. Khi tôi là thiếu úy, ông Viên là Thiếu tướng Tư lệnh quân đoàn III, thỉnh thoảng tôi được nhìn, chỉ đứng xa nhìn thấy ông to lớn, có dáng võ biền, chỉ có dáng võ biền thôi, còn thực sự tôi cũng không biết. Còn văn thì ông Viên ra sao? Tôi biết ông học thi cao học văn chương Pháp. Trong các tướng thối thân từ quân đội Pháp, học lực trung bình thì có Trung học hồi xưa, khá thì có Tú tài, còn dốt đi từ khố xanh khố đỏ đi lên cũng không phải là ít. Giữa đám tướng lãnh như thế, có một ông có "Cao học văn chương" đâu phải bỡn. Tôi không bao giờ dám coi thường lòng hiếu học của ông. Có điều phàm làm tướng, chỉ huy cả triệu quân dưới cờ, thì trọng trách phải giữ cho quân đội được nghiêm minh, trên dưới rõ rệt. Quân ra quân, tướng ra tướng. Những năm trước 70, quân đội còn có chút tôn ti. Từ đó trở về sau, quân đội do những thẩm thấu của chính trị, mỗi ngày mỗi nát ra. Ông làm Tổng Tư lệnh có bao giờ nghĩ đến điều này? Tệ trạng tham nhũng mỗi ngày mỗi lớn, đến độ lập ra một nha Tổng thanh tra Quân lực, rút cục cái nha này, mỗi lần đi tới đâu, là cả địa phương phục dịch, bưng bít. Những người lính chiến đấu thiếu giầy, thiếu áo, thiếu lương khô và thậm chí cả đạn dược. Nạn lính ma, linh kiểng có mặt trên cả bốn quân khu. Có bao giờ ông nghĩ đến những điều này hay ông còn bận đi học. Giả dụ như một người khác trong địa vị của ông, có đi học cũng phải kín đáo, lén lút một chút, chứ đâu có lộ liễu đến độ cả nước biết ông thi cao học văn chương. Đám sinh viên văn khoa nhiều người đã vô cùng khó chịu, trước một ông Đại úy nào đó mỗi lần đi lấy cua cho Đại tướng, mặt vênh váo như mới dự trận về. Đó là văn của ông. Võ mãi hôm nay tôi mới thấy rõ, ông cuốn gói, không một lời từ giã ngay cả những người làm việc trực tiếp dưới quyền ông, trong văn phòng của ông. Ông bỏ cả ấn tín, phù hiệu, và cái cờ nhỏ có bốn sao của ông để lại nơi bàn giấy. Thật chẳng khác nào đám tướng cuối triều Trần.
Ông quên cả những nhật lệnh ông đọc mỗi dịp Tết về gửi toàn quân, cả triệu người đứng nghe im phăng phắc. Mãi tới hôm nay, tôi mới nhìn rõ cái nhân cách "văn võ song toàn" của ông Đại tướng. Giờ này đâu đó trên tầu Mỹ, không biết họ dàn chào ông Đại tướng của miền Nam với lễ nghi quân cách như thế nào?
o O o
Ngày N + 41, 12 giờ trưa
Đường Sài Gòn Vũng Tầu bị địch chặn ngang gần cầu Cỏ May, Cộng sản pháo vào phi trường Biên Hoà. Đại tá Tỉnh trưởng Biên Hoà Lưu Yểm cùng một số thuộc hạ bỏ đơn vị chạy về Sài Gòn. Không hiểu ông "Quế Tướng Công" đang làm gì, còn có mặt ở Bộ Tư lệnh Quân đoàn III, hay ông đã tháp tùng Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng "thăm viếng" Hải quân quân lực bạn? Thế là một phần đời nữa của tôi đã trôi ra biển. Bây giờ địch không còn tiến đánh từng thành phố, quân ta bỏ chạy trên nhiều mặt trận. Tôi nhớ những ngày tháng thụ huấn ở trường Quân cảnh Vũng Tầu năm 1964, rồi sau đó năm năm đi đủ nơi, trở về làm một sĩ quan huấn luyện viên bất đắc dĩ. Tôi nhớ tới những ngày ngắn ngủi ở Biên Hoà, năm 1965, tôi bị phạt chờ Tiểu đoàn III Quân cảnh tống đi nơi khác. Dịp chờ đợi này, tôi là sĩ quan hộ tống đạn dược, mỗi ngày hộ tống hai chuyến xe bom. Một cho phi trường Biên Hoà, một cho phi trường Tân Sơn Nhất. Năm đó Bắc việt đang bị Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ oanh tạc dữ dội. Bom đạn sao mà nhiều đến thế. Nếu Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ cứ oanh tạc Bắc việt bằng gạo, có lẽ chiến tranh sẽ có những biến chuyển khác ngay từ dạo đó. Bởi Bắc việt hàng năm hạn hán mất mùa, lại dồn mọi nỗ lực cho chiến tranh, nên nạn đói luôn luôn đe dọa ngoài đó. Cứ oanh tạc bằng gạo, chắc chắn những xạ thủ phòng không ngoài Bắc sẽ bắn máy bay cách xa cả cây số, vừa đỡ tốn máu xương cả hai bên, mà có khi Bắc việt còn thua xiểng liểng. Vả lại gạo rẻ hơn bom đạn cả ngàn lần.
o O o
Ngày N + 41, 12 giờ 30
Nhiều phản lực cơ Phantom của Mỹ xuất hiện trên vòm trời Sài Gòn, sau đó hàng trăm chiếc trực thăng đủ mọi kiểu bay rợp một góc trời. Mỹ chính thức bỏ Việt Nam, quay lưng lại với người bạn đồng minh nhỏ bé mà một thời báo Mỹ ca tụng với những danh từ hoa mỹ: "Tiền đồn chống Cộng", "Pháo đài Tự do". Vài chiếc trực thăng bỏ hàng ngũ, bay đến những cao ốc có người Mỹ trú ngụ, đáp trên nóc những cao ốc này. Cả Sài Gòn nghển cổ nhìn lên trời, nhìn những chiếc máy bay lạ, đủ kiểu như những tín hiệu cuối cùng của sự sống
o O o
Ngày N + 41, 2 giờ chiều
Giao tranh giữa hai bên diễn ra khắp các nơi phụ cận Sài Gòn trong một bán kính không đầy hai mươi cây số. Sài Gòn mỗi lúc mỗi giống Nam Vang. Bên ngoài tòa Đại sứ Mỹ, dân chúng tụ tập hàng ngàn người. Những người có Pháp tịch cũ, đã trở lại Việt tịch bây giờ lại hốt hoảng xin trở lại Pháp tịch.
o O o
Ngày N + 41, 4 giờ 30
Dân Sài Gòn đập cửa phòng thông tin Hoa Kỳ. Dân chúng lũ lượt khuân đi những bàn ghế, máy đánh chữ, dụng cụ văn phòng, sách vở. Sau cùng họ chất cả tấn báo chí, tranh ảnh lại và đốt những món đồ không quý giá này.
o O o
Ngày N + 41, 6 giờ chiều
Yên cho tôi biết, toàn thể đại gia đình anh đã thuê một số phòng khách sạn gần ngay bờ sông Sài Gòn. Vợ con Yên vẫn ở tại nhà anh ở đường Chi Lăng Phú nhuận. Anh cho tôi biết là sẽ đi rất bất ngờ, anh dặn tôi đi đâu cứ cách vài tiếng là phải ghé bến tầu hoặc về nhà anh ở Phú nhuận, hoặc trên khách sạn chỗ toàn thể đại gia đình anh tập trung.
o O o
Ngày N + 41, 8 giờ tối
Địch quân tấn công quận Hốc Môn và Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sài Gòn bây giờ nằm trong tầm đại bác của Cộng sản. Chúng đã có mặt ở bốn phía. Thế mà không thấy ông Kỳ và cái plan biến Sài Gòn thành Stalingrad đâu cả?
o O o
Ngày N + 41, 2 giờ đêm
Suốt từ chập tối tới giờ, tôi nghe những tiếng nổ của súng lớn vẳng từ xa lại. Đêm nay 29-4-1975, trăng hạ tuần trông giống như một cái sừng trâu mỏng, nhọn. Tôi leo lên mái nhà, nằm dưới cái tàn cây trứng cá, ngửa mặt nhìn trời, thỉnh thoảng lao vụt qua màn đêm, những chiếc máy bay cô quạnh, đơn lẻ. Xóm đêm tĩnh mịch, tiếng những con vật ăn đêm mò mẫm trong bóng tối, và tiếng quả tim tôi đập mỗi lúc một to. Tôi chợt nghĩ tới số phận tôi qua lời tiên đoán của "Khôi cụt", một người tài hoa ngày nào trên đất Đà Lạt. Khôi xuất thân khóa 16 Đà Lạt, ra trường xong được một thời gian, gửi lại cho miền Nam một bàn tay. Cách đây sáu tháng, có lần ghé nhà tôi chơi, ngủ đêm. Khôi hỏi tôi về ngày sinh tháng đẻ của tôi, anh nổi tiếng là một người coi tử vi giỏi. Tôi gạt đi vì chẳng bao giờ tin vào "khoa học huyền bí".
"Tôi chỉ nhớ ngày tây, lại không rõ giờ nào làm sao ông hành nghề được."
"Bố khỉ, tôi biết ông không tin. Cho ông hay có nhiều thằng đặt bạc thước trước mặt tôi cũng không coi, tôi chỉ coi cho những người tôi quý thôi. Thôi được, đưa ngày sinh của hai đứa nhỏ đây. "
Chập sau, Khôi nói với tôi bằng một giọng hết sức nghiêm trọng:
"Số hai đứa nhỏ kỳ lắm, tụi nhỏ sẽ phải xa bố, xa mẹ. Cứ theo như lá số của cả hai đứa, tôi thấy việc đó sắp xẩy ra. Ông có xin du học hay chạy chọt làm Tùy viên quân sự ở đâu không?"
"Không."
"Thế thì kỳ thật, cứ như tài nghệ của tôi về tử vi, tôi quả quyết với ông, hai đứa bé này hễ có bố thì không có mẹ và ngược lại. Và thời gian xa vắng này kéo dài lâu lắm, giá chót là 15 năm đổ lên. Đưa ngày sinh tháng đẻ của ông đây."
"Đã nói với ông rằng tôi không bao giờ hỏi bà cụ tôi về vụ tôi sinh giờ nào. Có đưa cũng vô ích."
"Mẹ kiếp, nước sắp đại loạn hay sao mà tôi bấm tử vi cho mấy đám, đám nào cũng có cái vụ xa cách, chia lìa, tan tác."
Giờ đây tôi biết Khôi đã đoán đúng. Cũng như tiếng tiêu của anh Biệt động quân ngày nào báo hiệu trước, đã đến lúc bách điểu chia ly, trăm hoa tàn tạ.
o O o
Ngày N + 42, 8 giờ sáng
Đài phát thanh Quân đội từ mấy ngày nay không hề có bình luận, thông cáo hay tin tức, thay thế vào đó những bản nhạc hùng. Hôm nay thế chỗ cho những bản nhạc hùng tráng, quân hành, là những bản nhạc nặng tình quê hương, những bản nhạc có thể đúng dưới mọi chế độ.
Đài phát thanh Sài Gòn đọc hết thông cáo này đến thông cáo khác, kêu gọi dân chúng bình tĩnh, giới hạn di chuyển, và kêu gọi quân đội ở yên vi trí, tiết kiệm máu xương.
Đài phát thanh của Việt cộng loan báo tới tấp những phần đất chiếm được, và rêu rao chính sách mười điểm về cái gọi là "chủ trương hòa hợp dân tộc".
o O o
Ngày N + 42, 11 giờ trưa
Giao tranh vẫn tiếp diễn xung quanh Sài Gòn. Quân lực miền Nam bây giờ không còn một ông tướng nào, ngay cả những ông tá cũng khó kiếm. Sự chống trả của miền Nam hiện nằm trong tay những sĩ quan cấp úy cỡ đại đội trưởng. Cả quân lực tan biến hết, đọng lại còn những đơn vị nhỏ chai lì cố giữ từng tấc đất trong phạm vi trách nhiệm của những quân nhân vô danh.
o O o
Ngày N + 42
Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên làn sóng điện. Ông kêu gọi mọi quân nhân buông súng chờ các đơn vị của Cộng sản đến tiếp thu.
o O o
Ngày N + 42, 3 giờ chiều
Ghé nhà Nguyễn Trường Yên, Yên không có nhà, vợ con Yên đồ đạc sẵn sàng. Tôi có ý đinh chờ Yên về đi luôn một thể. Tôi nóng ruột muốn chạy về nhà đón anh Tư tôi, vừa ra khỏi ngõ nhà Yên, một trái đại bác nổ trên đường Chi lăng, trái nổ làm tử thương ba người dân, bị thương nhiều người khác. Người chết nằm tênh hênh trên mặt lộ. Địch pháo tới tấp vào phi trường Tân sơn nhất. Nhiều cụm khói bốc cao tại phi trường.
o O o
Ngày N + 42, 4 giờ 30 chiều
Nhà đóng cửa im lìm. Cậu mợ tôi, anh chi Tư tôi và lũ nhỏ không một ai có nhà. Vừa ra khỏi cổng gặp Tô Thế Liệu, một anh bạn dạy võ bị. Anh đến tìm tôi kiếm đường chạy ra ngoại quốc. Tôi và Liệu chạy thẳng ra khách sạn nơi toàn gia đình Yên trú ngụ, dọc dường thấy dân chúng phá nhiều căn nhà trước đây do Mỹ trú ngụ. Liệu lái xe len lỏi giữa dòng xe cộ hỗn loạn ngược xuôi. Dường như không một ai tỉnh táo, biết mình phải làm cái gì, định làm cái gì? Cảnh bến tầu làm tôi không còn tin ở mắt mình. Dân chúng bị chặn lại ở cổng Bộ Tư Lệnh Hải quân, một số xe du lịch bỏ lại đậu ngổn ngang trên bờ. Một số trẻ em bán báo, đánh giầy hôi của, đập kính xe lấy đồ đạc bên trong. Tôi gặp Yên đứng đón người nhà ngay cổng Bộ Tư Lệnh Hải quân.
Tôi hỏi Liệu:
"Sao ông đi hay ở?"
"Đi chứ, nhưng tao còn kẹt cái xe đi mượn của ông anh phải mang về trả"
"Giờ này còn sợ mất chiếc Honda này làm gì? Mạng còn không lo, lo gì cái xe."
"Không được, tao phải trả ông ấy cho đàng hoàng, tao sẽ quay lại."
"Tao cũng chỉ đi nhờ thôi, không một ai hứa với ai điều gì bây giờ."
"Mấy giờ tầu nhổ neo ông Yên?"
"Không biết chắc giờ nào. Nhà tao cũng còn kẹt người, kẹt cả đống người, bây giờ mới có 6 giờ, chắc cũng phải tối mới đi được."
"Tôi quay về đón ông anh tôi, ông cho tôi một giờ, tôi trở lại, ông đón tôi ở ngoài này được không?"
"Không được. Tao đâu có đưa gia đình tao vào bằng cổng Bộ Tư Lệnh. Tao đón bằng ca nô."
"Sao ông Liệu?"
"Tao phải về."
o O o
Ngày N + 43, 8 giờ sáng
Tầu đã ra tới Hải phận Quốc tế. Từ đài chỉ huy của chiếc HQ 8, tôi dùng ống nhòm quan sát tứ phía. Cả một hạm đội què quặt dìu nhau trên con đường vô định. Trên vùng biển này, hạm đội Mỹ với những tầu chiến khổng lồ xuất hiện rải rác trong tầm quan sát. Qua máy truyền tin, hạm đội Việt Nam liên lạc với nhau, sắp xếp lại đội ngũ. Chiếc HQ 8 có bốn máy liệt hai, được chiếc khác giòng dây kéo phụ.
o O o
Ngày N + 43, 10 giờ sáng
Một phi đội trực thăng của Không quân Việt Nam bay quần trên chiến hạm Mỹ, và tuần tự đáp xuống, cứ đổ hết người trực thăng bị hất xuống biển, lấy chỗ cho chiếc khác đáp. Tôi thấy một máy bay quan sát thả một vật to xuống biển, mới đầu tôi tưởng là bom, tới khi thấy ca nô Mỹ cấp cứu, tôi mới biết đó là người phi cảng bỏ máy bay nhẩy xuống nước. Anh ta nhẩy không có dù ở một độ cao cách mặt biển chừng hai, ba chục thước. Chiếc máy bay không người lái tiếp tục bay về phía trước, rồi mất hút trong khoảng tiếp giáp giữa trời và biển.
o O o
Ngày N + 44, 4 giờ chiều
Tầu tới hải phận Phi Luật Tân. Tôi nghe được trên máy truyền tin một giọng chỉ huy, ra lệnh cho hạm trưởng chiếc HQ 8 phải hạ cờ Việt Nam Cộng hòa xuống, treo cờ Mỹ lên để tiến vào hải cảng Subic.
o O o
Ngày N + 44, 5 giờ chiều
Bạn tôi, Hải quân Thiếu tá Nguyễn Trường Yên, trong vị trí chỉ huy cuối cùng của anh, trước sự chứng kiến của hơn hai trăm người "may mắn" có mặt, xếp hàng trên boong tầu. Phía đối diện là thủy thủ đoàn với quân phục đầy đủ. Chúng tôi làm lễ hạ kỳ lần chót, chúng tôi hát bài quốc ca lần chót với đúng lễ nghi quân cách. Bạn tôi co tay mặt để lên vành mũ két. Tôi thấy những giọt nước mắt lặng lẽ chấy trên khuôn mặt rám nắng của anh. Không phải chỉ riêng Yên khóc. Dường như bất cứ ai có mặt trên tầu, ý thức được chuyến hải hành lần cuối này đều hát lạc giọng. Lời ca bị gió biển át đi, và lá cờ dường như rực rỡ hơn trong nắng chiều.
Lá cờ Mỹ được kéo lên, những ngôi sao trắng nhẩy múa bay lượn dưới bầu trời xanh của miền nhiệt đới.
Tôi thấy một vài thủy thủ liệng nón của họ xuống biển, có cả một hai cái mũ két sĩ quan với cặp lon vàng chói. Cảnh hệt như đoạn cuối của phim: "Tant qu'il y aura des hommes". Có khác chăng là người. Chúng tôi bỏ lại những gì xác định vị trí của chúng tôi, vị trí của những kẻ đã làm mất quốc gia mình, để đi vào vùng trời vô định của những kẻ lang thang vô tổ quốc. Còn người thiếu phụ trong phim, liệng xuống biển một vòng hoa cuối cùng cho người tình, và cũng đồng thời giã biệt vùng đất bất ổn của chiến tranh, của bom đạn, để trở về với xứ sở thanh bình, yên vui bên những người thân yêu của bà.
o O o
Ngày N + 44, 9 giờ tối
Một đám thanh thiếu niên, gây một đống lửa nhỏ trên boong tầu. Họ tình cờ gặp nhau trong hoàn cảnh bi đát này. Họ hát với nhau những bản nhạc nói về quê hương, nói về chiến tranh, họ hát với nhau những bản nhạc tình. Gió biển thổi nhẹ làm ngọn lửa nhẩy múa trên boong. Đôi lúc tôi muốn xuống ngồi với họ, nghe những giọng hát học trò, hát bằng trái tim tinh khôi của họ. Nhưng rồi tôi vẫn ngồi yên trên đài chỉ huy, như tôi đã ngồi suốt ba ngày nay. Tôi thiếp đi giữa gió biển, giữa lời ca, giữa những ánh sáng bập bùng. Tôi thiếp đi giữa những tiếng tiêu huyền diệu của anh lính Biệt động quân ngày nào trên đập Đồng cam, trong lúc con tầu tiến dần về bến.
o O o
Thay đoạn kết
Thư gửi các em học sinh trường tiểu học Vườn Hồng
California, tháng 8, năm 1988
Thân gửi các em học sinh của trường Tiểu học Vườn Hồng
Đáng lẽ trường của các em tên là Nguyễn May, để kỷ niệm một binh sĩ Quân cảnh của Tiểu đoàn 7, chết trong lúc anh canh gác tù binh, đang triệt hạ những cây cao su, khai quang khoảnh đất để dựng lên ngôi trường đặc biệt này. Tôi phản đối cái tên này, thứ nhất nó không hay, lại cũng không may gì cả. Hạ sĩ Nguyễn May, dù đã được huấn luyện kỹ lưỡng kỹ thuật canh gác, áp tải tù binh, trong một phút lãng mạn nhớ nhà, anh bỏ cái nón sắt xuống, ngồi tựa vào gốc cây hút thuốc. Một tù binh, trong lúc đốn cây cao su, đã bất ngờ bổ một búa vào đầu Nguyễn May. Anh chết tức khắc, đám tù binh túa ra chạy trốn. Sự kiện xẩy ra đột ngột đến độ khi hai người binh sĩ cùng toán với Nguyễn May, bắn được loạt đạn chỉ thiên lên trời, thì mười bẩy người tù đã khuất trong những lùm cây tứ phía. Có ba người tù già không dám chạy ngồi lại sợ mặt cắt không còn hột máu. Tôi không muốn dùng tên trường Nguyễn May, bởi lẽ sau này, khi chiến tranh tàn, sẽ không còn lính, không còn tù, nhưng ngôi trường còn đó, vẫn là chỗ học hành của các trẻ em xã An Thới. Cái tên gợi chết chóc, lính, tù và thù hận đó không nên tồn tại với những trẻ em sẽ theo học vỡ lòng tại trường này.
Đó là việc hai mươi năm trước, cũng khoảng tháng 8, ngôi trường khai giảng lần đầu, có độ ba mươi, bốn mươi em đủ các trình độ từ lớp một đến lớp năm, chen chúc, xúm xít trong hai phòng học rộng. Hai ông thầy bất đắc dĩ là hai binh sĩ Quân cảnh có dáng thư sinh, có bằng Trung học đệ nhất cấp, bởi vì trường của các em không phải do Bộ Giáo dục dựng lên, cũng không phải do Cục Xã hội, Cục Tâm lý chiến của Tổng Cục Chiến tranh Chính trị làm ra. Đó là ý kiến của tôi, được Thiếu tá Đoàn Đức Hải Chỉ huy trưởng đời thứ ba của Trại giam Tù binh Phú Quốc chấp thuận. Trại giam được thành lập chưa được một năm mà đã đến đời Chỉ huy trưởng thứ ba, đủ hiểu những biến cố xoay quanh hơn một ngàn binh sĩ Quân cảnh, Công binh, Địa phương quân, mười cố vấn Mỹ, tám ngàn tù binh trong một khoảng đất dài năm cây số, ngang bốn cây số đó nó phức tạp, đa dạng như thế nào.
Do đó, một buổi sáng hai mươi năm trước, không có cắt băng khánh thành, ngôi trường âm thầm khai giảng với bảng tên kỳ khôi có bốn hàng chữ. Hàng chữ đầu, khổ vừa ghi "Bộ Chỉ Huy Trại Giam Tù Phiến Cộng Trung Ương Phú Quốc", hàng chữ thứ hai to hơn gồm: "Trường Tiểu học Vườn Hồng". Ngay dưới bảng tên trường có hai câu thơ với khổ chữ nhỏ nhất:
Khi sương mai long lanh trên đọt cỏ
Là lúc vườn hồng hé nở nụ tươi.
Sự kiện có hai câu thơ ngay trên cái bảng tên trường, đủ hiểu mọi người còn bận tối mặt với những sinh hoạt của một trại tù, vừa khai phá rừng, vừa thành lập trại, vừa tiếp nhận, quản trị, canh gác. Không một ai để ý đến con cái binh sĩ không có chỗ học. Nên ý kiến của tôi khi được chấp thuận, tôi muốn thực hiện ra sao chẳng ai buồn ngó ngàng, đếm xỉa. Tôi dù bận mờ người, giữ một lúc ba, bốn chức vụ, nhưng tôi vẫn thiết tha đến ngôi trường này.
Trong sân chơi, các em có cầu tuột, có xích đu, có cả những khóm hoa cúc dễ coi sóc và những cây mai rừng được bứng về trồng ngay trước cổng. Có tới gần mười ngàn tù binh thì vấn đề nhân công đâu có khó gì. Bên trong các lớp học, tôi treo một bức bản đồ Việt Nam suốt từ mũi Cà mâu tới ải Nam quan, trên tấm bản đồ này là câu châm ngôn: "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời".
Ngày đó tôi hai mươi lăm tuổi, phải làm một sĩ quan cai tù bất đắc dĩ, còn các em là con của các binh sĩ phục vụ cho miền Nam, cũng vì tai trời ách nước, nên có mặt ở nơi góc bể chân trời này, thiếu cả ánh sáng đèn điện mỗi đêm. Tôi cũng muốn nhắc tới những ngư dân Quỳnh Lưu, đã một lần đứng dậy đòi quyền làm người, phát động một cuộc nổi dậy chống bạo quyền ngoài Bắc năm 56, và phiêu dạt từ xứ Nghệ an tới chót cùng hải đảo này. Các em con của các ngư dân này chưa hề một lần thấy ánh sáng đô thị, chưa bao giờ thấy xe hỏa, chưa một lần thấy được con báo, con voi. Đó là bối cảnh chung của ngôi trường kỳ dị Vườn hồng, nó được khai sinh bởi những tình cờ của cuộc nội chiến nồi da xáo thịt. Nếu muốn chính danh hơn nữa, thì đây là cuộc chiến ủy nhiệm của hai khối quyền lực Tư bản và Cộng sản, mà ở đó, những kẻ lãnh đạo của hai miền Nam và Bắc, đã đẩy hai nửa phần dân tộc vào một cuộc chiến tranh mà cả hai đều rêu rao giương cao ngọn cờ dân tộc, nhưng sự thật, cả hai guồng máy lãnh đạo đều không một bên nào đích thực đại diện dân tộc.
Chính nơi đây, tôi đau buồn thấy cái vô lý của đời người, cái vô nghĩa của cuộc chiến. Chính nơi đây, tôi thấy người anh là lính Công binh, góp phần kiến thiết trại giam để nhốt người em ruột của mình. Chính nơi đây, Nguyễn May trong lúc nhớ nhà, châm điếu thuốc, không có khói buồn bay lên cây, mà nhận một nhát búa bổ đôi sọ. Chính nơi đây, tôi thấy tù binh Nguyễn Mạnh cũng chỉ vì nhớ nhà, muốn xin hồi chánh, đã được các bạn đồng tù của Mạnh tặng một cái đinh đóng xuyên qua màng tang. Rồi những em bé con của các ngư dân An Thới, cứ sàn sàn năm một, cứ mỗi ngày hai lần giải trí bằng cơm, và việc học ngừng lại ở hai năm đầu của bậc tiểu học.
Tôi nghĩ tới cụ Phan Bội Châu cả đời bôn tẩu, những mong dành được quyền tự quyết cho dân tộc Việt, và tôi nghĩ tới cụ Phan Chu Trinh cũng cả đời lặn lội với ý tưởng phải cải tiến dân sinh trước, để làm bàn đạp cho các cuộc vận động lớn của dân tộc. Tôi hiểu rằng cả hai cụ Phan đã thất bại, bởi quan điểm của hai cụ đều có chỗ cực đoan, quan điểm của hai cụ phải được dung hòa, bồi bổ lẫn cho nhau. Nên tôi yêu ngôi trường đó biết dường nào, nên tôi treo ở các phòng học bản đồ nguyên vẹn của nước ta, bởi vì Nam hay Bắc nếu còn chấp nhận di động trong quỹ đạo của đế quốc đỏ hay đế quốc trắng, thì tâm nguyện của cụ Phan Sào Nam sẽ chẳng bao giờ thực hiện được. Tôi treo câu châm ngôn: "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời" để tưởng nhớ cụ Phan Tây Hồ. Ngày nào còn giặc dốt, ngày đó chúng ta còn khó thực hiện được chuyện thống nhất xứ sở.
Thời của chúng tôi và các em quả là khó hơn thời của hai cụ. Hai cụ chỉ cần chống một lực lượng ngoại bang, còn chúng ta phải cố gắng thoát ra khỏi ảnh hưởng của cả hai khối Tư bản, Cộng sản. Họ đâu có tử tế gì hơn Thực dân Pháp, nếu không muốn nói họ tệ hại hơn. Bởi lẽ thời của các cụ, nước ta chỉ có một kẻ thù rõ rệt trước mặt. Bây giờ cùng một lúc chúng ta có hai kẻ thù, lộ dạng dưới hình thức hai người bạn, giúp chúng ta thật nhiều bom, đạn, súng ống, và máu của cha anh, bằng hữu chúng ta đổ ra từ Nam quan tới mũi Cà mâu, chỉ để cho những tập đoàn lãnh đạo tại Nga, Mỹ chia chác những quyền lợi, những tài nguyên trên khắp địa cầu.
Các em thân mến,
Ngày đó, các em tuổi từ năm đến mười, tôi hai mươi lăm tuổi, mỗi lúc mỗi xót xa cho thân phận những kẻ trong hàng rào. Họ là những thí dụ tuyệt hảo của phản ứng Pavlov. Họ gật đầu và lắc đầu y hệt nhau trước một sự việc. Họ tuyệt thực, biểu tình phản đối không nhận quần áo cũ của lính "ngụy", bởi vì quần áo họ còn lành, rồi chỉ vài tháng sau, họ lại biểu tình đòi phát quần áo cũ của lính "ngụy" vì quần áo họ đã rách. Họ là những con người khác nhau về vóc dáng, nhân dạng, nhưng bên trong họ là những cái máy phản ứng như nhau với những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau. Những xót xa của tôi không dừng ở đó, đối với những người ngoài hàng rào như ba của các em, như tôi, tôi đau buồn thấy hàng ngũ của chúng ta rời rạc quá, những bất công không phải chỉ lẩn quất ở Sài Gòn, ở Cần thơ, ở Nha Trang. Chính ngay nơi đây, tôi thấy khoảng cách của giầu, nghèo quá xa, tôi thấy những binh sĩ của tôi phục vụ tổ quốc qua hai thái độ: Kẻ thì du lịch đủ năm trở về nhận một chỗ tốt hơn, người thì mong cho chóng hết hạn đi đầy, trở về nguyên quán. Chúng ta vạch ra một con voi, khi nặn xong, nó... không phải là con chuột, nó là con mèo cũng chẳng to hơn con chuột là mấy. Tôi bất lực trong hiện tại bao nhiêu, tôi càng để tâm tới ngôi trường của các em nhiều hơn. Bởi lẽ đó, nhiều hôm rảnh rỗi, tôi lái xe tới quan sát các em, nghe tiếng cười đùa hồn nhiên của các em. Mỗi lần như vậy, tôi như có đủ sức chịu đựng thêm một ngày hay một tuần, những công việc bên hàng rào kẽm gai trùng điệp, cùng với những phản ứng đồng bộ của tù binh mỗi ngày mỗi nhiều.
Tôi không được dự ngày khai trường thứ hai của các em, trước đó một tháng, tôi đổi về đất liền. Hôm ra phi trường giã từ nơi đây, tôi ngừng xe tại cổng trường, nhìn các em chơi đùa hồn nhiên nơi cầu tuột, nơi xích đu. Cửa lớp đóng trong những tháng hè, nên tôi không nhìn được một lần chót bản đồ nguyên vẹn đất nước ta, và câu "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời", vốn ám ảnh tôi từ ngày còn là một cậu bé học trường Tiểu học Hải dương. Vả lại bất cứ căn phòng nào, lớp học nào đóng kín cửa ra vào, cửa sổ, đều là những căn nhà buồn bã. Tôi lên phi cơ với tấm lòng của lớp học đóng cửa trong những ngày hè.
Các em thân mến,
Năm nay tôi bốn lăm tuổi, xa nhà mười ba năm. Các em, từ những bé năm đến mười tuổi, ngày nay đã trở thành những thanh niên từ hai mươi đến ba mươi. Ngôi trường xưa nếu còn, chắc cũng mang tên khác. Cái bản đồ chắc đã được tô mầu đỏ và dĩ nhiên cái câu "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời" đã được thay bằng những câu khác như "Yêu nước là yêu Chủ nghĩa xã hội". Những người mặc áo nâu trước kia bây giờ mặc áo xanh, còn những người trước mặc áo xanh như ba các em và tôi, giờ đây có lẽ chỉ mặc trần trụi một chiếu quần đùi trong ban ngày, ban đêm dùng cái áo mỏng để thay chăn. Chiến tranh đã tàn, nhưng khoảnh đất cũ vẫn đầy thù hận, máu vẫn đổ ra, bởi vì những con người phản ứng đồng bộ trước kia, đột nhiên chạm mặt chiến thắng, chạm mặt sự thật: Họ mất hoàn cảnh chung, điều kiện chung, họ mất luôn cả điểm tựa chung là chiến tranh, do đó họ mất luôn cả sự đồng bộ về phản ứng. Mỗi cá nhân phản ứng một khác. Mỗi một tỉnh ủy, đảng ủy, chính ủy chạm mặt với một thực tế khác, lại có một sự hiểu biết khác, nhưng tựu trung những sự hiểu biết của họ đều quá lỗi thời, vì đã từ lâu họ được tôi luyện trong chiến tranh, và hầu như họ đã quên hết tất cả thế giới bên ngoài.
Do đó họ lạc hậu so với nhân loại, họ quản trị toàn bộ quốc gia mười ba năm nay, họ có được một kỳ công khác là kéo quốc gia thụt lùi lại nửa thế kỷ so với toàn nhân loại. Tôi không có gì để viết cho các em còn ở lại quê nhà, vì tôi không có đủ can đảm nói về những khổ đau mà bản thân tôi không có mặt. Điều tôi biết chắc là những em còn ở lại mỗi ngày mỗi chịu những khó khăn hơn. Vả lại không có gì vô lý cho bằng ngồi an toàn ở xa quê hương nửa vòng trái đất, lại muốn những người ở lại làm điều này, làm điều khác. Chỉ có những kẻ vô sỉ mới có thể ngoạc mồm ra rao giảng về những điều họ không hoàn toàn biết, lại càng vô sỉ hơn nữa khi rao giảng về những điều không có thật.
Vả chăng nữa, những dòng chữ này không thể chắp cánh bay qua đại dương được. Tôi chỉ biết gửi tới các em còn ở lại lòng khâm phục của tôi đối với những khó khăn, những bất trắc mà các em đang hứng chịu, đang đương đầu.
Chắc hẳn một số em đã theo cha mẹ tị nạn ngay khi miền Nam sụp đổ, đôi kẻ chậm chân hơn là những thuyền nhân đến rải rác trong những năm phong trào vượt biên lên cao, nhiều kẻ bây giờ đã nằm im đâu đó trong lòng đất, dưới đáy biển. Tôi mong gửi những dòng chữ tâm sự này đến với các em hiện đang "may mắn" có mặt ở ngoài phần đất quê nhà.
Đã mười ba năm nay, những kẻ ly hương như chúng ta, cứ đến tháng tư lại tổ chức thật nhiều lễ lạc. Mấy năm xa nhà đầu tiên, tôi rất hăng tham dự những buổi lễ này, những đoàn thể mọc lên như nấm, những tổ chức được khai sinh nhiều như những tổ hợp tác xã nơi quê nhà. Thế hệ của tôi, bốn mươi đến năm mươi tuổi hiện đang nắm giữ "diễn đàn" chống Cộng ở ngoại quốc, thế hệ của tôi đang hô hào trên "diễn đàn" bảo tồn văn hóa, thế hệ của tôi hiện nay đang đứng ở đầu ngọn sóng ly hương, thế hệ của tôi hiện đang chống đỡ với sức hút của hội nhập, đồng hóa nơi xứ người. Do nhu cầu thực tế, thế hệ của tôi đã lập nên hàng ngàn tổ chức, đoàn thể ở khắp bốn biển năm châu. Điều đau buồn nhất là dường như những hoạt động ồ ạt của thế hệ chúng tôi phóng vào khoảng không, bởi vì nó không hữu hiệu. Bởi vì chính chúng tôi chưa bao giờ sống thực, bới vì chính chúng tôi chỉ là những con người giả do nhu cầu xã hội tạo thành. Năm 1963, khi có cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, chúng tôi tưởng chừng đã đóng góp rất nhiều cho lịch sử, và rồi chúng tôi dừng lại ở đó, đóng góp tuổi trẻ của chúng tôi cho một chế độ còn tồi tệ hơn cả cái chế độ mà người ta gọi là "gia đình trị". Đôi kẻ hài lòng với cái danh vọng nhất thời, trở thành những lãnh tụ sinh viên, chuyên xuống đường hoan hô đả đảo. Đôi kẻ trở thành dân biểu, những công cán ủy viên, những thứ trưởng rất trẻ trong một bầu không khí hỗn loạn của chính trị.
Trong một thời khoảng ngắn ngủi từ cuối 63 đến đầu 66, miền Nam chúng ta thay đổi lãnh đạo bốn lần và dễ chừng đến năm, sáu nội các góp mặt. Những năm đầu 60, chiến tranh chỉ là những hoạt động lẻ tẻ, phá rối trị an, Cộng sản ban đầu chỉ có một số rất nhỏ còn mai phục tại miền Nam sau hiệp đinh Genève 1954, thấy rõ sự suy yếu chính trị của miền Nam, nên bọn đầu sỏ ở Hà nội quyết định dựng lên tổ chức Mặt trận Giải phóng miền Nam, nhưng kỳ thực Bắc việt đã dồn hết nỗ lực vào trận chiến này. Thời điểm này, Nga và Trung hoa chỉ có những xung đột ngầm, nên cả hai hỗ trợ miền Bắc tối đa. Để có thể giữ vững vai trò của mình tại Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động với một số các quốc gia khác tham chiến. Năm 1965, khi thế hệ chúng tôi ngẩng mặt lên, phía trước đã là cả khối Cộng sản và quay sang hai bên phải trái, tám quốc gia trong khối tự do đã hiện diện ở miền Nam.
Chiến tranh, từ những hoạt động quấy phá lẻ tẻ vài năm trước, đột nhiên vươn mình lớn dậy nơi Đồng xoài, Bình giả, nơi Đỗ xá, Pleime. Trong không khí chính trị, chúng tôi bị nhào nặn thành những con người giả, bây giờ trong chiến tranh, chúng tôi bị cuốn đi bởi bom, đạn và xác người, nên không còn có dịp để nhìn kỹ lại con người đích thực của thế hệ chúng tôi, cũng như những đóng góp đích thực của chúng tôi. Chúng tôi có những ngộ nhận đáng tiếc, hệt như một cậu bé nhìn bóng mình trong vách tường, và tưởng chừng như mình vụt to lớn như Phù Đổng. Chúng tôi tham dự một đêm hát cho quê hương trong khuôn viên đại học, và tưởng chừng như chúng tôi đã sống và thở cho quê hương. Chúng tôi làm vài bài thơ, dăm bản nhạc tranh đấu, đã tưởng chừng như chúng tôi đang phản kháng. Chúng tôi làm một vài bài thơ, viết một vài bài văn thơ đả kích chế độ, đã tưởng chừng như chúng tôi đang đối lập. Chúng tôi tham dự vài buổi xuống đường đã tưởng chừng chúng tôi đang làm cách mạng...
Các em thân mến,
Tôi không hề chối cãi sự bất phục nơi các em dành cho thế hệ chúng tôi, bởi vì miền Nam mất không hoàn toàn do lỗi của những người lãnh đạo miền Nam, càng không phải do lỗi của người Mỹ đã bỏ rơi chúng ta. Chính "thế hệ chúng tôi" đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự thất bại ê chề nhục nhã này. Phải mang các em từ đường phố vào trường học, một số "giáo sư" trong thế hệ chúng tôi lại mang những em đang ở trong lớp xuống đường. Phải nói tiếng nói bất khuất của tuổi trẻ trong diễn đàn quốc hội, nhiều dân biểu trẻ tuổi "gật" trước những yêu sách của chính quyền, của nhà thờ, của chùa chiền. Phải nói tiếng nói chí công của pháp luật, nhiều thẩm phán của thế hệ chúng tói nói tiếng nói của cường quyền. Phải nói lên những thống khổ của dân chúng, nhiều ký giả của thế hệ chúng tôi nói lên tiếng nói của tiền bạc. Phải viết những tác phẩm cổ võ, hô hào cho sự chiến đấu bảo vệ tự do, nhiều nhà văn của thế hệ chúng tôi viết những tác phẩm để phục vụ thị hiếu tầm thường của con người. Phải tố cáo những bất công, những nhũng lạm trong quân đội, nhiều người trong thế hệ chúng tôi làm ngơ trước tệ trạng làm suy yếu quân đội, chạy chọt lấy một chỗ an nhàn. Nếu những người lãnh đạo quốc gia là cột trụ của căn nhà, những cơ quan trung ương là những cái đà chính, thế hệ chúng tôi chính là những cái đà phụ, những tấm ván. Căn nhà của chúng ta có những cột trụ bị mối đục luỗng, những đà chính bị mọt ăn, những đà phụ rời rạc, gẫy vụn. Một căn nhà như thế không thể nào đứng vững trước trận bão của chiến tranh.
Đã mười ba năm nay, mỗi lúc tôi một thấy "thế hệ chúng tôi" đang dựng lại ngày cũ. Những năm ngơ ngác ban đầu trên xứ người qua đi, những con người ngụy tín cũ dần dần hồi phục. Nên vì vậy mà mười ba năm nay, cho dù "thế hệ chúng tôi" thành lập cả ngàn đoàn thể, tổ chức, chúng tôi lăn xả vào chống Cộng, nhưng bọn Cộng sản vẫn mạnh khỏe ở bên kia bờ biển. Chúng tôi còn bận giành quyền lãnh đạo lẫn nhau, chúng tôi còn bận đổ tội lẫn cho nhau, chúng tôi còn bận chống lẫn nhau, trước khi có dịp chống Cộng.
Hãy nhìn kỹ những vết xe chúng tôi để lại, hãy nhìn kỹ những con đường chúng tôi đi, dấu vết xấu xí nham nhớ chúng tôi để lại khắp miền Nam và giờ đây chúng tôi mang sang xứ người những ví dụ tuyệt hảo của lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ, giả trá. Xưa kia, chúng tôi được xã hội nặn thành những con người giả, bây giờ tồi tệ hơn, chúng tôi tự phết thêm một lớp sơn lên những con người giả hình cũ, những mong lớp sơn mỏng biến chúng tôi thành con người mới không vết tích.
Hãy nhìn kỹ những gì thế hệ chúng tôi làm, tôi không muốn vạch cái áo vá víu trên lưng chúng tôi cho các em xem, đầy những nhọt bọc, tôi viết những dòng chữ này cũng hệt như nghiến răng bóp vỡ một cái ngòi. Trên lưng chúng tôi có cả trăm cái nhọt bọc này, và dường như nó đã lây sang các em. Có rất nhiều dấu hiệu của sự truyền nhiễm tính xấu. Hãy ngừng lại tự kiểm. Hãy sống đích thực, yêu ra yêu, ghét ra ghét. Muốn ăn chơi cứ ăn chơi cho thỏa, không giấu giếm, không ngụy tạo. Muốn hội nhập với đời sống nơi đây, hãy lao vào đời sống mới với hết khả năng. Nơi đây chính là nơi pha trộn mọi chủng tộc, mọi mầu da. Nước Mỹ có hình ảnh của một con bạch tuộc, nghìn cánh tay, nó ngấu nghiến mọi nền văn minh, cả cái tốt lẫn cái xấu. Nó nghiền nát mọi quá vãng con người, để cải biến thành một con người khác máy móc hơn, ít cảm tính hơn.
Các em thân mến,
Tôi cố hình dung ra các em nơi xứ sở này. Có thể tôi đã gặp các em đâu đó trong những dịp lễ lạc, hội họp. Nếu các em "may mắn" rời khỏi nước vào tháng 4-75, và được sự hướng dẫn tận tình của cha mẹ, giờ đây các em có thể là những người trung lưu trong xã hội Mỹ, một kỹ sư, một bác sĩ hay một người thợ tiện như tôi.
Các em có thể đã yên bề gia thất, có một mái nhà và đang mờ người giữa những đống "bill" đầu tháng. Chậm chân hơn và mới thoát hiểm một vài năm, các em có thể còn đang lặn lội trong các trường, đang tìm một nghề nghiệp nào đó nuôi thân. Cũng có thể các em đang hoạt động trong cộng đồng, hoạt động trên lãnh vực văn hóa, chính trị, cách mạng. Các em có thể đang mưu cầu một đường về, một ngày về. Tôi thiết tha yêu cầu các em một điều duy nhất: Hãy sống thực với chính mình, bởi lẽ chúng ta có thể dối trá với mọi người, nhưng không thể dối trá chính mình, và dối trá chính là khởi đầu của sự hèn hạ.
Không một ai có thể cưỡng bách các em về, nếu lòng các em đã chọn nơi đây là đất lành. Các em có thể cư xử như một người Do thái đối với quốc gia họ, người Do thái đã lưu vong hơn hai ngàn năm, họ lập lại quốc gia với dân số chưa đầy ba triệu người, nhưng ba mươi triệu người Do thái ở khắp nơi trên trái đất đã đóng góp tích cực cho quốc gia họ đứng vững trước làn sóng thù nghịch, của hơn một trăm triệu người Á Rập vây quanh khoảnh đất quê hương của họ. Chuyện về hay ở là chuyện của mai hậu, đó không phải là việc làm của một người, của một nhóm người, đó cũng không phải là việc làm của một năm, hai năm, năm năm. Đó là việc của nhiều thế hệ, đó là việc làm của mọi người, làm với lòng thành của mình tin vào tương lai của quốc gia chúng ta. Tôi không bao giờ lo sợ nước Việt bị mất đi trên bản đồ thế giới. Tiền nhân chúng ta đã đứng vững được suốt mười thế kỷ đô hộ của Bắc phương, cha ông chúng ta cũng đã đuổi được người Tây phương ra khỏi bờ cõi. Người Mỹ, Nga, Nhật, Pháp, Anh, Đức... có thể sau này sẽ thiết lập những cộng đồng con người trên những hành tinh xa xôi. Song trên mặt địa cầu, này tôi vẫn vững tin quốc gia chúng ta sẽ còn đó mãi mãi. Điều mà tôi băn khoăn, chính là trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước hiện tại, các em và chúng tôi sẽ đóng góp, sẽ phục vụ cho quốc gia một cách hữu hiệu. Chúng ta không những chỉ chống Cộng, mà phải chống lại mọi chế độ đi ngược lại đại khối dân tộc. Nếu "thế hệ chúng tôi" ý thức được điều này sớm sủa hơn, nếu chúng tôi can đảm chỉ trích, vạch rõ những sai lầm của miền Nam từ hai, ba thập niên trước, có lẽ giờ này các em và chúng tôi đang ở một nơi khác, làm một công việc khác.
Dường như "chúng tôi" đang đi lại những vết xe cũ, do đó cộng đồng Việt nơi đây mỗi lúc mỗi giống như miền Nam thu nhỏ lại, hãy cứ mở những tờ báo phát hành ở khắp nơi, những con người giả hình cũ đang xuất hiện, với một lớp sơn mỏng hào nhoáng bên ngoài, họ có mặt ở mọi nơi, từ các công xưởng tới các văn phòng, từ cơ sở thương mại tới các đoàn thể. Họ ủng hộ người này, đả kích người khác, họ quyên tiền, họ gây quỹ, họ làm cho tôi có cảm tưởng một khi đại cuộc chống Cộng đã xong, các em và chúng tôi lại một lần nữa phải chống lại những sai lầm gây nên bởi lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ và giả trá. Tôi không chấp nhận chống ngoại thù trước mặt, và dung túng nội thù ngay sát nách mình. Bài học năm 75 còn đó, trong hàng ngũ chống Cộng của chúng ta đã dung dưỡng những kẻ nguy hiểm không thua gì Cộng sản. Giờ đây chúng ta phải đặt một nền móng suy nghĩ khác, không thể dễ dãi với những kẻ đội lốt chống Cộng mà mưu lợi cho cá nhân mình.
Đối với các em đã nhận nơi này là quê hương, đã quay lưng lại với phần đất cũ, các em có lý của các em, các em không có trách nhiệm gì trong việc mất miền Nam, các em không có bổn phận chuộc lại những lỗi lầm cũ, tôi chỉ xin các em một điều, hãy lương thiện và thành thật, hãy sống trung thực với những yêu, ghét của chính mình, hãy sống với quả tim chân thật, yêu đời và yêu người. Tôi cầu chúc các em bắt gặp được cái bóng hạnh phúc nơi xứ người, mặc dù tận trong thâm tâm tôi, tôi biết con đường các em chọn rồi cũng không dễ dàng.
Đối với các em nghĩ đến ngày về, nghĩ đến những trách nhiệm liên đới với cha, anh, với bằng hữu, đồng bào, chắc chắn con đường đó không phải chỉ có hoa và bướm. Các em đã chấp nhận chông gai, các em đã nhận lãnh trách nhiệm, ngoài trái tim phải có để yêu mãnh liệt con đường các em chọn, các em còn cần phải có một bộ óc đủ để phân biệt chân, giả. Đừng thấy người ta tụ họp chào cờ, hát quốc ca và nghĩ ở đó toàn là người yêu nước. Ông Thiệu và đàn em ông ngày nào mà chả chào cờ. Đừng thấy người ta họp hành chống Cộng, mà nghĩ ngay ở đó một đường về đã mở. Đã nhiều kẻ đăng đàn cổ võ chống Cộng, một thời gian ngắn sau hiện nguyên hình là một kẻ nằm vùng. Nếu họ nằm vùng vì lý tưởng, các em còn không đau, có khi chỉ vì bọn Cộng sản quăng cho chút tiền, là có thể liếm được những bãi nước miếng chính họ vừa nhổ. Tôi chưa nói tới những kẻ có máu lái buôn trong người, họ hiện diện ở khắp nơi, chỗ nào đông người là có họ, cái họ chú tâm, để ý không phải là mục đích của đám đông, không phải là chống Cộng, không phải là văn hóa... Họ cần đám đông, đó là vấn đề "business" thuần túy. Đã chọn con đường chông gai, ngay cả tính mạng các em cũng không tiếc, nhưng cần nhất đừng lầm, mỗi một lần chúng ta lầm, là một lần cái đích dang xa, là một lần chúng ta mòn mỏi. Đời người dài được là bao, chúng ta không thể đem trái tim nồng nàn của chúng ta, giao cho bất cứ tổ chức nào, đoàn thể nào chúng ta chưa biết rõ. Tôi biết chắc ngọn lửa chống Cộng vẫn âm ỷ trong lòng mọi người trong nước cũng như ngoài nước. Tôi biết chắc chắn còn rất nhiều người trước thế hệ chúng tôi, những người trong thế hệ chúng tôi và cả thế hệ các em yêu nước thật sự, đương tìm tòi một đường hướng mới hữu hiệu hơn, đang tìm cách ngồi lại với nhau trong tinh thần mới.
Các em thân mến,
Tôi vững tin vào lịch sử, tôi vững tin vào tương lai, mọi đế quốc rồi sẽ sụp đổ như băng tuyết tan dưới ánh mặt trời, càng lúc tôi càng có cảm tưởng đó. Tư bản cũng như Cộng sản hoặc nó phải biến đổi cho hợp với nguyện vọng của nhân loại, hoặc nó phải sụp đổ nếu nó cưỡng lại đà tiến chung của nhân loại. Ngày đó có thể là năm năm, có thể là mười năm, có thể là hai mươi năm, nhưng những dấu hiệu thay đổi bắt đầu ló dạng. Chúng ta không chờ ngày đó, cả nhân loại đang thúc cho ngày đó tới sớm, và chúng ta sửa soạn cho ngày đó.
Hơn nửa thế kỷ trước, khi đặt nền móng cho cuộc đấu tranh của dân Việt, hai cụ Phan vẽ ra hai con đường, một là dành lại chủ quyền cho quốc gia, hai là cải tiến dân sinh, cả hai quan niệm đó phải được thực hiện song phương. Những khó khăn của chúng ta so với các cụ đã không ít đi, lại còn nhiều hơn dẫu chúng ta không bị đô hộ bởi Nga, Tầu nhưng Nga, Tầu đã chi phối quốc gia chúng ta tới tận cỗi rễ. Cách dậy dỗ và đào tạo của người Cộng Sản đã cho thấy dân trí ngày nay so với thời các cụ cũng không hơn mấy chút. Chúng ta còn có thêm một khó khăn mới trong thời đại chúng ta, đó là khoa học kỹ thuật tiến những bước của đôi hia bẩy dặm, sự tiến bộ khoa học này đưa đến việc hình thành những đế quốc kinh tế như Nhật bản, Tây đức. Trong mai hậu, việc của chúng ta chẳng những phải đối phó với Cộng sản, Tư bản, chúng ta còn phải đối phó với những tính toán của các con buôn quốc tế, sẽ nhẩy vào khai thác đất nước chúng ta.
Với những em đã chọn được con đường, đã chọn được tổ chức, tôi cầu chúc các em đã chọn đúng, có một con đường đúng. Hãy lên đường bằng con tim quả cảm của các em và bằng trí óc sáng suốt, minh mẫn, hãy yêu mãnh liệt sự chọn lựa của các em và đủ sức đi suốt con đường các em đã chọn. Dẫu có chết, các em đã sống đích thực với những điều các em trân quý ở trong lòng. Với các em không chấp nhận nơi đây là quê hương, lại chưa tìm được cơ hội đóng góp tuổi trẻ cho đại cuộc, tôi tha thiết mong các em bình tĩnh, cùng tôi quay lại lớp học cũ đọc lại câu: "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời", dẫu ở đâu chăng nữa chúng ta cũng có một phần đời trên lưng, một xã hội trước mặt, hãy tìm tòi, hãy học hỏi. Các em hãy cùng tôi lật lại một trang sử cũ viết về phong trào Đông Du, bao xương máu đã đổ ra, bao tâm trí đã hao mòn, bao thân xác đã ngã gục và cụ Phan Bội Châu chỉ có thể mang được vỏn vẹn vài trăm người lén lút cầu học nơi xứ người. Trăm cay nghìn đắng, rốt cuộc Nhật cũng lấy lòng Pháp, cụ phải giải tán phong trào lếch thếch dìu nhau về Trung hoa, và từ đó điều động công cuộc chống Pháp để dành lại chủ quyền cho nước nhà. Cũng chính nơi đây cụ Phan và những người đồng chí đã "dưỡng hổ di họa", đã làm ngơ cho Hồ Chí Minh nưong tựa nơi xứ người, để rồi cụ bị thực dân Pháp bắt do sự chỉ điểm của những người Cộng sản.
Trong tận cùng của bất hạnh, nước mất, nhà tan, hàng triệu người chết trong lao tù, chết ở Lào, Miên, chết trong lòng biển, chúng ta có một điều an ủi nhỏ, là sự có mặt của hàng triệu người Việt lưu vong khắp địa cầu, các em cùng tôi tính nhẩm một điều, cứ một trăm người mới có một người về, thì mai này chúng ta cũng có mười ngàn người trở về từ khắp mọi nơi, đã ra đi với lòng buồn bã, nhưng sẽ trở về cùng với những điều học hỏi được nơi xứ người để đóng góp vào việc kiến thiết lại xứ sở. Cho dù cả ngàn người mới có một người về, chúng ta vẫn có hàng ngàn khoa học gia, hàng ngàn chuyên viên, trí thức. Ngay cả nước Nhật khi bắt đầu canh tân dưới thời Minh trị đâu có được nhiều chuyên viên, trí thức như thế. Ngày mà lịch sử xoay dòng chắc chắn không xa. Hãy bình tĩnh học hỏi, đừng trở về với đầu óc rỗng, e rằng chúng ta sẽ chỉ giúp đất nước chúng ta những sự khốn cùng.
Các em học sinh trường Tiểu học "Vườn Hồng"thân mến,
Tôi gửi tới các em những dòng chữ này, không cổ võ các em hội nhập đời sống nơi đây, không thúc bách các em phải nghĩ đến chuyện trở về. Chỉ tha thiết mong mỏi nơi các em một điều: Hãy trung thực với hoàn cảnh các em đang sống, như Phùng Quán đã viết: "Yêu ai cứ bảo rằng yêu, ghét ai cứ báo rằng ghét". "Thế hệ chúng tôi" đáng bị các em bầy tỏ lòng chán chường, oán ghét. Bất cứ ai dính dự vào miền Nam, đều có lỗi. Lớn có lỗi lớn, nhỏ có lỗi nhỏ. Hãy nhìn những kẻ đang vỗ ngực tự hào mình vô tội. Một là họ ngu, hai là họ tưởng mọi người ngu. Cả hai điều đó đều không chấp nhận được. Điều tôi đau buồn chính là gần đây, trên những diễn đàn nổi, sự tham gia của lứa tuổi các em mỗi lúc mỗi nhiều. Tôi bắt gặp bóng dáng "thế hệ chúng tôi" nơi các em, từ khuôn viên một trường đại học, đến một buổi nói chuyện văn nghệ, từ một đoàn thể xã hội, tới một buổi họp mặt thân hữu, những quần áo đẹp, những bắt tay xã giao, những nụ cười thớ lợ, những câu nói nước đôi, những thủ đoạn vặt vãnh, những tiểu xảo, những đãi bôi, những lừa lọc, những bon chen... Tất cả chỉ là những hư danh phù phiếm.
Hãy ngừng lại các em, cuộc đời nơi đây dẫu không hoàn toàn đẹp, nhưng vẫn có ý nghĩa của nó, vẫn có cả triệu con đường mở ra trước mặt, chọn con đường nào cũng vậy: Đời sống chỉ hoàn toàn có nghĩa khi nó được điều động bởi một khối óc minh mẫn, cởi mở và một trái tim chân thành, lương thiện. Hãy nhìn lại mới ngày nào các em năm, mười tuổi, giờ đây đã hai mươi, ba mươi, chẳng mấy chốc đợt sóng của "thế hệ chúng tôi" tan biến đi, đợt sóng của các em tiến tới. Tôi mong nó tiến tới mãnh liệt, xóa hết những dấu vết xấu xí "chúng tôi" để lại. Tôi không bao giờ mong một đợt sóng lăn tăn, èo uột, hờ hững, chưa kịp tiến vào bờ, đã tan biến mất tăm trước khi chạm đất.
Các em thân mến,
Nếu có dịp tình cờ nào đó, các em đọc lá thư này, đọc quyển sách này. Xin hãy coi đây như là một lời xin lỗi chân thành nhất của tôi gửi đến các em, bởi chính tôi đã đóng góp một phần, cho dù chỉ là một phần rất nhỏ trong trang sử u buồn này.
Sau cùng tôi xin gửi lời chúc tâm nguyện nhất tới tất cả các em, và hy vọng một ngày nào đó không xa, khi lịch sử xoay dòng, các em và tôi có dịp về thăm ngôi trường cũ để chứng nghiệm một lần trong đời câu châm ngôn: "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời".
California, tháng 10, năm 1988.
Ngày N +... Ngày N +... - Hoàng Khởi Phong Ngày N +...