Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-12-04 19:22:53 +0700
Chương 3
Một cái vô hình bị thương tích.
Một cái vô hình đang được chỉnh sửa.
Rất mong manh hồi sinh.
Có tiếng máy lạnh ro ro chỗ phòng hậu phẫu. Toàn thân Mơ phủ chăn trắng. Một cái đầu, qua hai vai, được băng bó kỹ lưỡng, chừa ra hai con mắt nhắm. Hai lỗ mũi được chụp một cái gì đấy gọi là cho thở ô-xy. Vùng miệng được chặn một cái gì đấy gọi là để thương-tật-nhân khi động kinh không tự cắn đứt lưỡi. Một cái bình nước gì trong vắt treo tòn teng gọi rằng truyền nước biển.
Hình như có gãy cần cổ.
Bà mẹ ngồi cạnh giường. Buồn bã than thở khi có một người, mà bà biết có liên hệ tới những điều không tưởng của con gái mình, tới thăm. Bà nói:
“Nhà văn ơi, mong ông tha cho con nhỏ nhà tôi. Nó mơ hoang, mà gặp ông, nhà sáng tác, thì gia đình này rặt màu bị gậy. Hãy cho chúng tôi xa cách với văn chương. Hãy trả Mơ Bay về với cái thực tế dù thô bạo, đắng cay và buồn phiền này.”
Nhà văn ngồi im lặng. Ông bâng khuâng nhìn vào cái có tứ chi màu trắng, tuồng như là cái thi hài.
Thi hài miệng ngậm một cơn mơ không thành.
Một cơn Mơ trắng.
Trong khí hậu ông đang ngồi hít thở đủ kiểu cho bớt ngột ngạt, trong xã hội nhạt màu ông đang sống, mới hôm qua, cái thi hài trắng này tràn đầy hy vọng thoát ly. Mơ rằng được cất tiếng hát nơi xa kia, được viễn mộng bắt tay, OK ôm vào lòng. Mơ kia, là hiện thân của thiên thần, là cô đọng của khí thiêng, giờ đây đang hấp hối.
Hồn Mơ hòa trong hơi ê-te. Xác Mơ dưới lưỡi dao mổ phạch cái não cái tủy để soi ngắm dưới ánh đèn cấp cứu.
“Anh có thấy đường bay của con hạc vàng kia không? Anh ạ, em sẽ bay thanh thoát. Em nhẹ lướt như mây. Em sẽ tường thuật anh hay khi em nhìn về trái đất dưới kia nhỏ nhoi như một hòn bi xanh [xao]. Khi anh không còn bắt được đường truyền tín hiệu của em thì anh nên mừng là em đã thoát ra được ngoài vùng ‘phủ sóng’ của cái xã-hội-mang-nhãn-hiệu-người.”
Cha cô Mơ ngồi xa hơn. Mái đầu bạc. Đôi mắt sâu, u uẩn. Có thể cô Mơ là cái thừa kế của một cuộc đời ẩn mật này.
Người cha nhìn nhà văn. Nhìn con người đang trôi hoang giữa hai bờ, bên này Mơ, bên kia là Mơ Bay, người cha nói:
“ Anh là nhà văn. Anh có thể vẽ ra thần linh, điều động ma quỷ. Một tay viết tài tình, đa mộng tưởng của anh, như anh, mà ra. Lần này, mong anh chỉnh lại nhân vật của anh đi, trong đó có con gái tôi. Anh có thể dùng những giọt mực huyền ảo, vẽ lại được những giấc mơ của mình một cách khác kia mà. Đâu cần có Mơ Bay nhà chúng tôi anh mới thực hiện được cuộc đào thoát của anh ra khỏi cái vực thẳm siêu hình này. Tôi không phê phán rằng anh đúng sai, tốt xấu, chỉ mong cái phúc huệ của nhà tôi.”
Nhà văn từ tốn:
“Đa tạ. Tôi sẽ sửa lại bản thảo. Nhưng nhặt Mơ ra khỏi trang chữ thì tôi còn gì để viết. Bóng tối chính là nền. Âm bản là phản chiếu kỳ ẩn. Đôi khi mồ-hôi-nước-mắt-luống-cày-tiếng-chim-núi-non-suối-nguồn, chúng từ trang viết biến ảo đi ra. Cõi đời, cuộc sống có thật đã biến hình thay dạng qua ngọn bút. Tôi chỉ là phần hồn của Mơ. Đúng ra Mơ là ngọn đèn, tôi ánh sáng. Đèn tắt, chẳng còn tôi.”
Cha cô Mơ tâm sự:
“Nhà văn có thể nhặt ánh sáng từ vô cùng chỗ tối tăm kia mà. Văn chương nghệ thuật hóa biến thực hư cả rồi. Con gái tôi bây giờ không là con của chúng tôi nữa. Anh ạ, nó là nhân vật của anh. Nó là ảo khi chúng tôi đã từng nuôi nó bằng sữa tươi, tình thương và hy vọng.
“Xưa kia, trước khi Mơ ra đời, tôi trói thân trong thân phận một người tù trong sâu núi rừng. Ngày trở về, cũng như anh, thay vì ra đi, chúng ta một lòng ở lại xứ sở này. Chúng ta hiểu ra thử thách, yêu quê hương nên không đi tìm thiên đường bất cứ nơi đâu.
“Chúng ta chấp nhận một cuộc sống trong thân phận đã định, vì yêu cánh đồng, mái tranh, nội cỏ này. Yêu cả cái linh hồn đã không bỏ ta đi, chúng hãy còn sớm tối trong nhau.
“Vợ tôi mang thai những ngày hoang mang. Mơ ra đời, được ông bà ngoại nuôi dưỡng. Một đứa trẻ ngày ngày chạm mặt với những Nỗi-Già, tóc trắng của ngoại. Ngày ngày, với Mơ, xã hội càng lạ lẫm. Cái bất hạnh của Mơ Bay là quá thông minh, giàu mộng tưởng, và dị ứng với sự trì độn chính mình. Sự đáng kính của tuổi trẻ hôm nay là chống lại sự đồng lõa, đồng hóa.”
Bà mẹ khui một chai nước suối đặt trước mặt nhà văn. Ông ta đã từng bao phen chết hụt vì những tai nạn đỏ màu. Như con mèo bị tưới nước sôi, sợ cả nước lạnh. Bây giờ ông ớn cả màu trắng, ngay cả màu nước suối.
Màu trắng là nơi chứa chấp, ẩn mình của vạn màu sắc. Là nơi để sắc màu trá hình. Cũng là nơi chốn lưu đày, để sắc màu tự hủy.
Nhà văn tự nhủ.
“Giả dụ dùng một phương tiện chiết lọc tốc độ ánh sáng để chúng, những sắc màu ẩn mình trong màu trắng trở về sơ nguyên, thì giấc Mơ trắng của Mơ Bay sẽ là màu gì? Mơ Bay không thể trả lời. Nhưng thể thái ấy chắc sẽ hiện ra bảy màu cầu vồng.
“Trong những chiều mưa xưa, nắng quái đã lọc màn mưa, hóa ra cái mống cầu vồng nơi chân trời. Thưở nhỏ, tôi hay chạy về phía ấy, phía cái hào quang sắc màu trong màn mưa thưa. Thấy bảy sắc cầu vồng rất gần, thật gần, mà chạy mãi chẳng bao giờ bắt gặp. Càng chạy tìm, cái mống, nhịp cầu huyền ảo kia càng lùi xa mãi…
“Đó chính là cái khoảng cách cố định để ánh sáng đủ thời-không lọc màu đưa vào đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta không đủ thần thông thu ngắn khoảng cách để bắt được cầu vồng. Với lịch sử, đó cũng là cái khoảng cách mang tính hố thẳm để xương máu người biết rõ sự thử thách, sự tồn vong. Trong cái khoảng cách định mệnh đó bao nhiêu đứa trẻ trốn tìm, bao nhiêu tuổi trẻ hóa thân.”
Nhà văn ngồi hơi cúi xuống. Ông hiểu đôi chân mình đang trên mặt đất. Nhưng não thùy đã lìa xa cái nơi cần cắm rễ sinh tồn.
Người cha nhìn Mơ, cái chừng-như-một-thi-hài-trắng, nói với nhà văn:
“Mộng tưởng của nhà văn đó. Bây giờ nó là cái hiện thực thương tích kia. Nghệ thuật vẽ ra những định mệnh, tạo ra bao ước vọng. Nhưng nghệ thuật cũng đánh lừa chúng ta.
“Giờ đây tôi đã rất phân vân. Chúng tôi nên thương Mơ xương thịt gia đình tôi hay nên yêu cô Mơ sáng tạo của nhà văn, một cô Mơ đẹp hơn cả những giấc mộng bình thường. Chúng tôi nên yêu quý Mơ tầm thường trong đời thực, hay nên trân trọng cô Mơ Bay giàu lý tưởng, yêu tự do, muốn ra khỏi Cõi tầm thường, như Mơ trong trang viết của anh.”
Nhà văn nói:
“Thưa ông, là mong manh bọt nước cả.”
Người cha thân mật hơn:
“Nhưng không có cái bao la sóng vỗ trong tâm linh anh làm sao có chút bọt bèo này. Nhà văn ạ, anh đã rất tài tình. Nhưng trong tài tình nó có cái hững hờ, cái ác.”
Có mây mù giăng ngoài xa khung cửa kính bệnh viện. Người cha lại hỏi:
“Anh viết văn bằng gì?”
Nhà văn cẩn trọng và trầm tĩnh. Vì câu hỏi, trong suy nghĩ của nhà văn, nó không gợi ra hình tượng của viết và mực, của máy đánh chữ, hay cái laptop. Không phải là viết, mà là tra vấn cái Viết Văn. Không là cái phương tiện hành động mà truy tìm cái uyên nguyên, cái ngẫu nghĩ tương phùng giữa Mộng và Thực. Nghĩ vậy, nên câu trả lời của ông sẽ có khi treo móc vào khoảng trống. Nhà văn nói:
“Bằng thế giới ảo.”
Người cha lại hỏi nhà văn:
“Vậy hôm nay là ngày mồng tám Tết, có bọn trẻ nhỏ áo mới đùa vui, có cơn mưa Xuân đổ ở xa xa kia ngoài khung cửa kia, có là ảo?”
Nhà văn có vẻ sầu mộng trả lời:
“Do nơi mỗi tâm thức. Con người ngoài nhục nhãn hãy còn tâm nhãn, tuệ nhãn. Có thể đó là cái có thực trong một Mặt Đất luôn Mùa Đông. Mặt Đất ấy không muốn chuyển mình.”
Người cha cười nhẹ, giọng ấm áp:
“Chúng tôi là những con người tầm thường giữa tục lụy, có một lằn mức nhất định khó thể vượt qua. Đó là độ hiểu biết, thẩm thấu tâm hồn cao vượt của những nghệ sĩ. Nhưng nhà văn ạ, băng bó, cứu chữa xong, tôi sẽ mang Mơ của tôi về bằng một chuyến xe có thật. Nó có thể bay bằng Đôi Cánh Ảo của nhà văn, nhưng nó sẽ trở về trong sự âu yếm chúng tôi bằng một đôi chân có thật.”
Nhà văn buồn bã đứng dậy đi về phía khung cửa kính soi nắng. Quả là có thật xa kia một cơn mưa bụi giữa lòng mùa Xuân.
Ông nhắm mắt và thấy Mơ Bay đang bay lơ lửng trong không. Trời vừa nắng vừa mưa trong mưa bụi. Mây liêu trai, và gió cỏ lau. Nàng bay, thơ mộng lãng đãng như giấc mơ nghệ thuật trong thế giới Chagall. Mái tóc nàng tung về sau như một làn khói đẩy nàng lên cao. Tự dưng ông cảm thấy một nỗi nhớ mơ hồ. Một đám khói của tâm linh nhắc nhở.
“Anh ạ, em có một đôi cánh vô hình, một lực siêu nhiên sẽ đưa em Ra Ngoài…” Ông hiểu: “Mơ của tôi vẫn còn Bay.”
Cung Tích Biền
Đồng Ông Cộ – 2009
Nguồn: https://sangtao.org/