Số lần đọc/download: 1661 / 23
Cập nhật: 2017-05-20 08:35:07 +0700
Chương 3
C
hiều xuống chầm chậm. Mặt trời đỏ ối nằm lơ lửng trên mặt nước xanh. Tựa lưng vào thân cây dương già cỗi, Nhẫn ngồi im ngắm cảnh hoàng hôn trên biển. Thật đẹp mà cũng thật buồn. Chung quanh anh vắng lặng. Bãi cát trắng mịn, ẩm ướt và sạch trơn. Những khúc củi mục nằm trơ vơ. Sóng vỗ ì ầm hòa với tiếng dương reo. Đó là thứ âm thanh duy nhất của bãi biển mà người dân ở đây gọi là Mũi Ông Bốn. Đời lính ở hòn đảo này thật an nhàn. Sau những giờ huấn luyện anh cũng chẳng biết làm gì hơn ngoài dạo phố chán rồi uống cà phê với Ba, thụt bi da với Đực và mấy người lính của toán xung kích, ngắm cảnh, về trại đọc sách và ngủ. Phố An Thới chỉ có mỗi khúc đường chính là rộn rịp nhất. Nó bắt đầu từ cổng căn cứ hải quân cho tới khi đụng khu làm nước mắm. Nói tới Phú Quốc là nói tới nước mắm và khô cá thiều. Mới đầu anh còn khó chịu sau rồi cũng quen dần cái mùi thum thủm hòa tan trong gió bay khắp cùng làng xóm thành ra không muốn ngửi cũng không được. Khô cá thiều ngon tuyệt. Mấy người lính của toán xung kích chỉ cho anh cách phân biệt khô cá thiều thứ giả và thứ thiệt. Giả có nghĩa là người ta pha trộn cá thiều hay còn gọi cá đường với một vài loại cá khác gần giống như thịt cá thiều khi xẻ ra làm khô. Dĩ nhiên họ lừa được khách hàng xa lạ song không thể qua mặt được dân địa phương. Khô cá thiều mà nhậu với bia thời ngon song cũng không ngon bằng nước mắt quê hương. Thứ rượu đế, nhất là rượu đế Đường Xuồng cất bằng nếp nguyên chất, chảy tới đâu nóng tới đó. Vị cay cay và ngòn ngọt của cá thiều được dân nhậu ở đây gọi là đưa cay. Miếng khô cá thiều chấm với nước mắm Phú Quốc nguyên chất giằm với me sẽ làm rượu thêm đậm đà và ngọt lịm rồi cơn say tới lúc nào không biết. Chỉ cần một tháng, Nhẫn đã quen mặt hầu hết các hàng quán ở đây. Quán cô Kim, cô gái mẹ gốc Rạch Giá, ba bắc kỳ 54, người mảnh khảnh, khuôn mặt trái xoan, ít nói ít cười. Chị ba Thơm, chủ quán cà phê không có tên nằm sát bãi biển dưới gốc cây dừa lão có những trái dừa nhỏ như trái bưởi. Người đàn bà có chồng đi lính hải thuyền, cả gia đình sống nhờ vào cái quán có đủ thứ như bàn bi da, cơm tháng cho lính, cơm dĩa cơm phần và cà phê dợt. Từ khi hạ sĩ Ba giới thiệu, Nhẫn trở thành khách hàng quen thuộc và được chị ưu ái dành cho bữa ăn đặc biệt do chính tay chị làm. Lý do anh được chị săn sóc đặc biệt thật giản dị. Chị có đứa em trai đi biệt động tử trận cách đây ba năm. Bởi thế chị xem Nhẫn như đứa em trai xấu số của mình.
Ngồi hoài mỏi lưng, Nhẫn đứng dậy bước dài theo bãi biển. Xa đằng kia là mũi Đất Đỏ. Vì đường bộ bị gián đoạn nên từ An Thới lên Dương Đông phải đi bằng ghe. Hai nơi chỉ cách nhau mươi cây số mà lại xa cách vô cùng. Cũng như từ mũi Đất Đỏ đi qua Hàm Ninh chừng chục cây số mà dân ở vùng này ít khi gặp mặt dân ở vùng kia. Mấy anh du kích của mặt trận thật sự thành công trong việc làm gián đoạn lưu thông, cô lập làng xã đúng với sách lược '' lấy nông thôn bao vây thành thị '' mà giới lãnh đạo chính trị và quân sự miền bắc đã đề ra. Chỉ có điều làm dân quê bị thiệt hại thôi bởi vì họ không được thụ hưởng nền giáo dục căn bản để hiểu thế nào là tự do dân chủ cũng như ánh sáng văn minh của thị thành.
Đạp trên cát đi một lát Nhẫn thấy mấy cái bồn cao hiện ra trong cảnh hoàng hôn. Đó là bồn nước mắm. Mùi thum thủm càng lúc càng thêm đậm đà và nồng nặc hơn khi anh tới gần. Xương cá khô vương vải khắp nơi. Ruồi bay vù vù. Anh quẹo trái vào con đường mòn. Nó là lối đi tắt ngang qua khu nhà của dân làm nước mắm. Mấy đứa con nít thập thò nơi cửa nhìn ông lính lạ. Bóng tối đổ ập xuống thật nhanh. Vừa đi Nhẫn vừa lo ngại thầm. Tự nhiên anh đặt tay vào khẩu Colt 45 nhét trong bụng. Dù biết khẩu súng của mình chỉ là món đồ chơi so với vũ khí của địch song chất thép lạnh cũng làm cho anh an tâm. Vả lại từ hồi nào tới giờ đám du kích của mặt trận chưa bao giờ mò về tận An Thới. Anh bước như chạy khi thấy ánh đèn măng xông sáng trưng hiện ra. Đó lá quán cà phê của chị ba Thơm. Đưa tay mặt lên anh thấy chiếc đồng hồ cũ mèm của mình chỉ mập mờ gần 8 giờ tối. Nhẫn mỉm cười khi nhớ lại mấy thằng bạn cùng đơn vị thường hay diễu mình về chuyện đeo đồng hồ bên tay mặt. Có đứa bảo anh lập dị. Có đứa nói anh mê tín. Bính, chuẩn úy đại đội phó phán một câu để đời: '' Thằng Nhẫn mà mê tín. Nó mê gái thời có chứ mê tín gì cái thằng bán trời không mời thiên lôi đó...'' Ngang qua quán cà phê, xuyên qua cánh cửa còn mở he hé, anh thấy chị ba Thơm đang lui cui quét nhà. Hình ảnh của chị khiến cho anh thở dài. Hết rồi thời hoa mộng của cô nữ sinh áo dài trắng Rạch Giá. Chỉ vì thương anh lính hải thuyền tên Nhân mà chị vứt bỏ bút nghiên theo anh ra tận vùng đất xa xôi này để sống cuộc đời bình dị và mộc mạc. Cô nữ sinh tóc thề ngang vai bây giờ đã ba con, ngày ngày làm việc quần quật kiếm từng đồng bạc lẻ. Khi nghe chị kể chuyện tình, anh hỏi đùa lý do nào chị bỏ học đi lấy chồng. Câu trả lời của chị thật gọn, thật chí lý mà cũng có chút tếu. '' Tại chị mê trai... ''. Nhẫn nghĩ chị phải can đảm lắm mới dám công nhận mình mê trai. Ngẫm cho cùng, con gái mà không mê trai thời uổng lắm, cũng như con trai mà không mê con gái thời mê cái gì. Trên đời này có cái gì đáng mê đâu ngoại trừ thứ sinh vật có đường cong tuyệt mỹ, có tiếng nói ngọt ngào, có ánh mắt nhìn làm liệt tay chân và nụ cười làm tối tăm mặt mũi. Hết rồi cái thời mà thanh niên như anh mê thần tượng, thứ thần tượng văn chương, âm nhạc hoặc chính trị. Nhẫn vừa đi vừa suy nghĩ. Ngang quán cô Kim, anh liếc thật nhanh. Qua khung cửa sổ hẹp anh thấy cô ta ngồi trước ánh đèn dầu lửa lù mù. Anh đoán cô ta đang đọc tiểu thuyết tình. Cũng như chị ba Thơm, Kim là dân lạc bến. Đã hơn hai mươi mà vẫn chưa chồng, cô ta theo ba má ra Phú Quốc sống. Ba cô ta là lính quân cảnh coi trại tù. Lính quân cảnh ở đảo này đông lắm, có mấy tiểu đoàn để canh giữ mấy chục ngàn tù binh. Thế mà cô Kim không được ai ghé mắt nhìn. Cũng tội cho cô ta. Có thể cô ta không tìm thấy trong đám lính hải quân, quân cảnh một người bạn trăm năm đúng như ý của mình. Vừa đi vừa miên man suy nghĩ Nhẫn đi tới cổng của bộ chỉ huy hải quân lúc nào không hay. Tới khi nghe tiếng hỏi của người lính gác anh mới giật mình.
- Thiếu úy đi nhậu hả thiếu úy?
Người lính gác cổng quen mặt Nhẫn cười hỏi đùa.
- Tôi đi ra bãi biển nên về trễ...
Mở hé cánh cổng cho Nhẫn đi vào, người lính cười nói tiếp.
- Chúc thiếu úy ngủ ngon...
Nhẫn cười khi nghĩ tới cái bông mai màu vàng trên cổ áo của mình mà đại úy Hậu đã đưa kèm theo với lệnh công tác biệt phái. Nhờ chức thiếu úy giả này mà việc huấn luyện cho toán xung kích trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. Chỉ cần hai tuần lễ nữa thôi, anh có thể đem toán lính xung kích ra tham dự chiến trận để thử thách sự học hỏi của họ. Kinh nghiệm chiến trường là thứ kinh nghiệm xương máu chứ không thể thu lượm từ sách vở hoặc tại bãi tập bắn. Ngước nhìn về phía căn phòng sĩ quan độc thân thấy còn sáng, Nhẫn bước chậm hơn. Dường như anh không muốn hoặc cảm thấy không thoải mái khi có mặt trong căn phòng đó. Sự hiện diện của anh làm cho mấy ông thiếu úy, trung úy khó chịu mặc dù họ không nói ra hoặc tỏ lộ bằng cử chỉ hay thái độ. Họ có thừa lịch sự để không làm mất sĩ diện của một sĩ quan hải quân. Tuy nhiên đôi lần, xuyên qua lời nói bóng gió xa xôi của vài ba người, anh biết họ không thích sự hiện diện của một người lính lạ khác binh chủng dù người đó là sĩ quan. Cũng giống như bầy gà không muốn có sự hiện diện của một con vịt vậy mà. Hiểu được điều đó anh chỉ trở về phòng khi bị bắt buộc như tắm rửa, thay quần áo và leo lên giường ngủ. Ngoài giờ huấn luyện anh lang thang ở quán cà phê, bãi biển, lội bộ lên trại tù để nhậu với Hiệp, một sĩ quan quân cảnh. Trung úy song Hiệp rất bình dân, vui vẻ và cởi mở. Mỗi lần có món ngon vật lạ, Hiệp đều xách xe jeep xuống căn cứ hải quân đón anh lên trại tù để hai đứa bù khú với nhau. Món ngon vật lạ đây là thú rừng như rắn rùa, heo rừng hoặc may mắn lắm mới săn được nai. Anh nhớ có lần lính coi tù bắt được con nưa đem về làm thịt. Gỏi nưa, nưa nướng vỉ, nưa xào lăn, nưa um, nưa nấu cháo, đủ thứ món bày ra trên bàn bốc mùi thơm phức cộng thêm rượu đế đầy thùng đại liên. Tuy nhiên ông thượng sĩ già thình lình phang một câu cho biết là thịt nưa độc lắm, ăn thịt con nưa sẽ bị tan thành nước. Ông ta nói tùm lum tà la. Thế là cả bọn nhậu suông vì không ai dám phá mồi sợ mình sẽ tan thành nước lẫn trong rượu. Uống vài chung đế sần sần thêm đói bụng, anh bèn lên tiếng '' Ăn thịt con nưa mà tan thành nước tôi cũng ăn. Sợ quái gì... Cùng lắm là chết...'' Thấy ông lính biệt động tà tà vừa ăn vừa nhậu một cách ngon lành mà vẫn chưa tan thành nước lại còn ngồi rung đùi phì phèo thuốc lá Pall Mall thế là mọi người tuần tự quất sạch con nưa. Sau này cả bọn mới biết ra đó là con trăn chứ hổng phải nưa. Trăn có hình dáng từa tựa nưa, chỉ khác nhau ở chỗ nưa có chín lỗ mũi. Thật ra thì trăn hay nưa gì cũng chỉ có hai lỗ mũi thôi, nhưng con nưa lại có tới bảy chỗ lõm vào nằm dọc theo lỗ mũi nên người ta gọi trại thành lỗ mũi. Từ đó hể có món độc hổng ai dám xực, Hiệp đều lái xe xuống căn cứ hải quân xách ông lính cọp vằn lên để thử trước coi ổng có bị tan thành nước hay lăn đùng ra chết.
Đang ngủ Nhẫn giật mình tỉnh dậy khi nghe tiếng còi báo động. Chỉ mặc có chiếc quần đùi anh chạy ra sân. Tiếng mọt chê 82 ly nổ rời rạc về hướng tây nam.
- Nó nổ ở đâu thiếu úy biết không?
Bằng, ông trung úy hải quân ở cùng phòng hỏi nhỏ. Nhẫn trả lời không do dự.
- Tôi nghe tiếng đạn 82 nổ vọng từ hướng tây nam...
Bằng gật đầu.
- Vậy là căn cứ của Duyên Đoàn 46...
Vừa lúc trung úy Đan bước tới. Nghe câu chuyện giữa hai người, ông ta xen vào bằng câu nói.
- Mình phải làm câm họng không thôi có ngày mình ăn miểng của nó...
Hiểu ý Đan, Nhẫn thong thả lên tiếng.
- Để sáng mai tôi đi tìm nơi tụi nó đặt súng...
Thấy Đan nhìn mình, Nhẫn cười nhẹ tiếp.
- Biết chỗ tụi nó đặt súng xong mình nằm lại chờ nó vác súng ra là...
Đan mỉm cười khi thấy Nhẫn đưa tay làm dấu bóp cò súng.
- Tôi giao cho ông... Ông làm được tôi mở tiệc ăn mừng liền...
Đứng trò chuyện hồi lâu không thấy địch bắn tiếp mọi người lục tục trở vào ngủ tiếp.
Nhẫn thức dậy sớm hơn thường lệ. Đánh răng rửa mặt và thay quân phục xong anh tất tả đi ra cổng. Tự nhiên anh thèm ly cà phê buổi sáng. Mới hơn sáu giờ song nhằm cuối tháng 5 nên trời đã sáng rõ. Hàng quán dọc hai bên con đường đã mở cửa từ lâu. Mùi thức ăn theo gió quyện vào mũi làm cho anh đói bụng song ráng bước thêm chừng vài chục bước nữa để tới quán của chị ba Thơm. Anh đoán giờ này vợ chồng chị đã mở cửa. Nhất là Nhân, giờ này chắc vừa uống cà phê vừa lăng xăng phụ vợ nấu ăn. Nhưng khi tới nơi anh thấy cửa đóng im ỉm và đèn tắt tối thui.
- Chị ba ơi... chị ba... Anh Nhân ơi...
Không có tiếng trả lời. Nhẫn cau mày khi nghe tiếng đàn bà khóc văng vẳng.
- Chắc ông bả lại gây lộn rồi...
Nhẫn nghĩ thầm. Đoán hai vợ chồng đêm qua gây lộn với nhau nên thức dậy trễ, Nhẫn lại kêu lớn hơn.
- Chị ba mở cửa... Tôi là Nhẫn đây... Có cà phê chưa...
Vừa kêu lớn Nhẫn vừa gõ cửa mạnh. Lát sau anh nghe có tiếng người khóc lớn hơn rồi sau đó tiếng bước chân vang lên. Cánh cửa mở ra he hé cho anh thấy khuôn mặt ràn rụa nước mắt của chị ba Thơm.
- Có chuyện gì vậy? Anh Nhân đánh chị hả?
- Anh Nhân chết rồi em ơi...
Tiếng khóc của Thơm òa vỡ sau câu nói. Nhẫn lặng người.
- Làm sao mà ảnh chết...
- Bị pháo kích...
Dù Thơm không nói nhiều song Nhẫn cũng đoán ra cái chết của chồng chị. Đêm qua du kích của mặt trận rót mấy trái 82 vào căn cứ của Duyên Đoàn 46 mà Nhân lại có phiên trực ở đó. Giản dị như vậy. Anh thở dài thầm lặng khi nhìn khuôn mặt đẫm nước mắt của chị ba Thơm. Người đàn bà chưa tới ba mươi tuổi này sẽ sống ra sao, sẽ phải làm gì để nuôi ba đứa con. Lương tử tuất 12 tháng không đủ. Rồi đây một mình chị phải cáng đáng cái quán cà phê. Nhẫn ước gì mình có thể giúp cho người quả phụ đáng thương này. Anh là lính, sống chết chưa biết, tiền bạc cũng không có thời giúp được gì.
- Chị cần gì không tôi cố gắng giúp...
Thơm lắc đầu. Không nói lời nào thêm Nhẫn lặng lẽ ra về. Anh hết đói bụng cũng như hết thèm ly cà phê nóng cho buổi sáng. Anh cảm thấy mình có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Nhân. Đó là trách nhiệm của một người lính không thể bảo vệ chiến hữu của mình. Mình phải làm gì? Câu hỏi lởn vởn trong trí của Nhẫn trên suốt đoạn đường về tới cổng của bộ chỉ huy vùng 4 duyên hải.
Đan tỏ vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy Nhẫn gõ cửa nhà riêng của mình trong cư xá hải quân.
- Tôi có chuyện muốn bàn với trung úy...
Tuy không hiểu chuyện gì song Đan cũng vui vẻ mời Nhẫn vào nhà. Ông ta im lặng nghe vị sĩ quan biệt phái trình bày cách thức khóa họng khẩu 82 của địch. Sáng nay ông ta đã được đọc báo cáo của duyên đoàn 46 về thiệt hại nhân mạng và tiếp liệu của đơn vị này.
- Thiếu úy nghĩ là anh em sẵn sàng để đánh giặc?
Nhẫn cười nhẹ khi nghe câu hỏi của vị sĩ quan hải quân.
- Đánh trận lớn thời tôi nghĩ họ chưa đủ sức song rình nắm đầu mấy thằng du kích miệt vườn thời tôi nghĩ họ làm được. Tôi sẽ đi với họ...
Đan gật đầu. Anh biết Nhẫn có kinh nghiệm tác chiến hơn mình. Vả lại tuy mới gặp nhau hơn tháng song anh lại có sự tín nhiệm vào vị sĩ quan biệt phái.
- Nếu thiếu úy muốn thời thiếu úy được toàn quyền điều động toán xung kích. Chỉ huy trưởng của tôi cũng hối thúc hoài về vụ pháo kích. Ổng sợ binh sĩ mất tinh thần...
Đứng dậy Nhẫn cười buông gọn.
- Đêm nay hai người sẽ đi với tôi...
Đan bật kêu sửng sốt.
- Hai người... Thiếu úy...
Hiểu được sự ngạc nhiên của Đan, Nhẫn cười bình tịnh.
- Mình đột kích nên không thể đi đông. Gọn êm cộng thêm yếu tố bất ngờ sẽ khiến địch không kịp trở tay...
Đan gật đầu tỏ ý hiểu. Dù không phải sĩ quan tác chiến, ông ta cũng đã tự mình nghiên cứu về kỹ thuật đánh giặc nhất là du kích chiến.
- Trung úy an tâm... Tôi sẽ chọn hai tay súng giỏi, lì và chịu chơi nhất của toán xung kích để đi với tôi...
Đan gật đầu tiễn Nhẫn ra cửa. Nhìn theo dáng đi của người sĩ quan biệt động ông ta lẩm bẩm điều gì.
Trời chập choạng tối. Chiếc jeep dừng lại trên con đường nối liền An Thới với trại tù Đất Đỏ. Nhẫn cùng hai người lính mặc quân phục ngụy trang nhảy xuống đất. Chiếc jeep quay đầu chạy trở về hướng An Thới. Đứng nhìn theo cho tới khi chiếc xe khuất bóng, anh mới thì thầm.
- Anh Ba đi trước... Tôi đi sau, còn Đực chính giữa...
Ba là người lính già nhất của toán xung kích. Nhẫn chọn người hạ sĩ nhất già tuổi đời lẫn tuổi lính vì lý do rất dễ hiểu. Trước khi trở thành lính hải quân, Ba đã là lính bảo an rồi dân vệ và sau đó đăng vào hải thuyền. Hai thứ lính dân vệ và bảo an này khiến cho anh có nhiều kinh nghiệm để được Nhẫn chọn trong lần xuất quân đầu tiên. Còn một lý do quan trọng để Nhẫn chọn Ba là vì Ba sinh ra ở Dương Đông. Dân địa phương do đó anh quen thuộc địa hình địa vật của đảo Phú Quốc. Phần Đực lại là người lính trẻ nhất. Nhà ở Khánh Hội. 17 tuổi Đực đi biệt kích. Một năm sau bỏ về nhà rồi đăng vào hải quân và cuối cùng hiện diện trong toán xung kích. Ngay lần đầu tiên, Nhẫn đã nhận thấy khả năng của Đực. Anh cũng biết luôn cái tính ba gai và lì lợm của người lính có máu du đãng chảy trong người.
Đêm ba mươi không trăng. Sao sáng nhưng cũng không đủ làm sáng khu rừng thưa. Đom đóm bay lập lòe. Con đường mòn hiện mờ mờ. Nó là con đường dẫn tới Bãi Khem rồi lại chạy dọc theo bờ biển lên Bãi Sao qua mũi Chùa, mũi Ông Thượng, bãi Vòng và tới làng đánh cá Hàm Ninh. Phú Quốc là một hòn đảo có núi song núi không cao cũng như rừng không rậm rạp lắm. Không có ngọn núi nào cao quá năm trăm thước, còn rừng phần lớn là rừng chồi cây cối thưa thớt. Thuộc đường Ba đi thật nhanh khiến cho hai người đi sau phải cố gắng bước mới theo kịp. Dù quen lội rừng song nghĩ mình không thuộc đường nên Nhẫn để cho Ba dẫn đường. Suốt cả ngày hôm nay, với sự cho phép của phòng 2, anh đã ngồi lì để đọc các tin tức mà họ đã thu lượm được xuyên qua các tổ tình báo nhân dân. Đúc kết các hoạt động gần đây nhất của du kích địch rồi đối chiếu với bản đồ hành quân, anh ước đoán ra hai mục tiêu mà các tên du kích thường hay đặt súng để pháo vào căn cứ hải quân và trại tù. Tìm ra vị trí rồi nằm chờ cho tới khi ban đêm chúng xuất hiện để đặt khẩu 82 xong toán xung kích bất thình lình nổ súng. Anh biết nếu muốn pháo vào căn cứ hải quân, địch phải đặt súng ở địa điểm gần căn cứ vì loại mọt chê 82 không thể bắn xa được. Ngoài ra địch cũng phải đặt súng ở vị trí trống trải mới có thể pháo được. Đó là chưa kể vị trí phải ở trên cao để có thể nhìn thấy mục tiêu rồi điều chỉnh tầm bắn. Anh không nghĩ đám du kích miệt vườn này biết cách quan sát và điều chỉnh mục tiêu mà chúng chỉ nhắm hướng, bắn càn bắn đại thôi. Bắn vào các vị trí cố định và rộng lớn thì không cần phải biết hoặc điều chỉnh toạ độ một cách chính xác.
- Tới rồi thiếu úy...
Nghe Ba lên tiếng, Nhẫn ngước nhìn về phía trước mặt của mình. Biển sáng mờ mờ. Ánh đèn leo lét của thuyền đánh cá lập lòe như đèn ma.
- Bãi Khem hả anh Ba?
Nhẫn thì thầm và Ba cũng trả lời gọn.
- Dạ... Mình còn cách bãi Khem trăm thước. Thiếu úy tính làm gì?
Đưa tay lên thấy đồng hồ chỉ 9 giờ, Nhẫn ra lệnh.
- Mình kiếm chỗ ngáo chờ tới sáng. Tôi đoán tụi nó không có bắn đêm nay đâu... Đực gác ca đầu đi rồi tới phiên tôi...
Không nói gì thêm Nhẫn tựa lưng vào gốc cây lim dim ngủ. Trên đầu anh, xuyên qua lá cây sao lấp lánh sáng. Đêm trôi trong yên tịnh.
- Thiếu úy...
Nhẫn mở mắt khi nghe tiếng của Ba gọi khẽ bên tai. Trời sáng mờ mờ. Giơ đồng hồ lên xem anh thấy 5 giờ rưởi sáng.
- Làm ly cà phê cho ấm thiếu úy...
Đực chìa ra trước mặt cấp chỉ huy cái ly nhựa ngã màu.
- Đen hay sữa vậy?
Nhẫn hỏi trong lúc ngồi dậy. Đực cười mỉm.
- Đen... Muốn có cà phê sữa thời thiếu úy phải đợi về quán chị ba...
Nhẫn cười cười đưa ly cà phê lên nhấp ngụm nhỏ đoạn tặc lưỡi.
- Ngon...
Nhìn thấy Ba đang phì phèo điếu Ruby, Nhẫn buột miệng.
- Mình hút được à?
Hiểu ý Nhẫn, Ba cười gật đầu.
- Thiếu úy cứ hút đi. Hồi sáng thức sớm tôi rảo một vòng... Chẳng có thấy thằng du kích nào...
- Không có dấu vết gì à?
Nhẫn hỏi trong lúc móc gói Pall Mall. Rút một điếu xong anh chìa sang cho Đực. Thấy nó lắc đầu anh lại đưa cho Ba.
- Cám ơn thiếu úy nhưng tôi thích Ruby hơn...
Không nói gì Nhẫn quẹt diêm đốt thuốc. Rừng thưa bắt đầu sáng hơn. Ba người lính im lặng uống cà phê và hút thuốc xong thong thả ăn sáng. Cũng chẳng có gì. Chỉ là ration C mà cố vấn Mỹ dành riêng cho toán đi kích. Một hộp thịt ba lát vì có đúng ba miếng thịt. Một hộp bánh lạt. Một lon trái cây và một gói thuốc lá có năm điếu. Ăn xong Đực lãnh phần chôn giấu thực phẩm để ngụy trang. Ba đi trước dẫn đường khi Nhẫn thấy mặt trời đỏ ối từ từ nhô lên sau hàng cây thưa. Đi tới bìa rừng Ba dừng lại. Bãi biển sạch trơn. Cát vàng mút mắt. Nước xanh gợn chút bọt trắng. Không có âm thanh nào khác hơn ngoài tiếng sóng vỗ vào bờ và gió lùa cây rừng.
- Quẹo phải hả anh ba?
Nhẫn lên tiếng hỏi. Ba gật đầu thay cho câu trả lời. Lát sau anh mới từ từ lên tiếng.
- Mình quét một đường từ đây về tới Mũi Ông Đội. Tôi nghi mấy thằng du kích đặt súng quanh quẩn trong vùng này...
Đực phụ họa lời của Ba.
- Tôi cũng đoán như anh Ba. Phải đặt súng gần nên tụi nó mới bắn trúng mình...
Chầm chậm gật đầu Nhẫn nói với hai người lính dưới quyền chỉ huy của mình.
- Bây giờ mình đi theo thế cài răng lược...
Ba với Đực nhìn Nhẫn như thắc mắc. Hiểu ý anh cười tiếp.
- Ba chúng ta, lấy bãi biển làm chuẩn, đi cách nhau chừng ba mươi thước, dài từ đây tới Mũi Ông Đội. Nếu không tìm ra được chỗ địch giấu đạn hoặc đặt súng thời chúng ta đi ngược lại, bắt từ ngoài bãi biển kéo vào tới tận con lộ đi trại tù...
Hiểu ý của Nhẫn, Ba cười hỏi.
- Mình đi chưa thiếu úy?
Anh ta cất bước liền không đợi câu trả lời của cấp chỉ huy. Nhẫn đi chính giữa còn Đực bên trái. Vì không có máy truyền tin để liên lạc nên Nhẫn ra lệnh cho hai người lính dưới quyền cố gắng giữ khoảng cách gần tới độ người này thấy được bóng của người kia. Khu rừng không tối lắm nhờ ánh nắng của mặt trời xuyên qua lá cây. Nhẫn đi chậm. Dù biết nếu đụng thời chỉ là du kích làng song anh vẫn cẩn thận. Khẩu M2 kèm bên hông, tay đặt hờ lên cơ bẩm, anh liếc ngang liếc dọc với hi vọng tìm gặp dấu chân, tàn thuốc lá, thức ăn mà địch bỏ lại. Tuy nhiên khu rừng hoang vắng không bóng người. 12 giờ trưa. Thấy Ba đang đi tới gần anh làm dấu hiệu nghỉ để ăn cơm trưa. Lát sau Đực cũng tham gia. Mỗi người đều có phần ration C riêng của mình. Nhìn Nhẫn lôi trong ba lô ra khúc bánh mì thịt, Đực cười nói nhỏ.
- Thiếu úy thích bánh mì à… Tôi thấy ông ăn cơm tay cầm hoài…
Cắn một miếng bánh mì, Nhẫn nói trong lúc nhai chầm chậm.
- Cái này dễ nuốt hơn đồ hộp Mỹ…
- Thiếu úy đoán chừng nào tụi nó mới pháo?
Nhẫn im lặng không trả lời câu hỏi của Ba. Anh hiểu anh ta muốn nói điều gì. Phải đốn gục ổ 82 thời họ mới thôi lội trong rừng để tìm kiếm mấy tên du kích. Ngủ ở nhà bên cạnh vợ con dĩ nhiên là sướng hơn ngủ bờ ngủ bụi, ăn đồ hộp và uống nước lã.
- Tôi không biết. Mình phải tìm ra chỗ tụi nó đặt súng rồi nằm chờ…
Đưa tay áo lên lau miệng Đực xen vào bằng câu hỏi.
- Thiếu úy đoán tụi nó có mấy cây 82?
- Tôi nghĩ có một. Bởi vậy tụi nó không thể bắn mỗi đêm vì phải mang tới chỗ này chỗ nọ. Ít nhất tụi nó cũng có hai địa điểm để đặt súng…
Nhẫn đưa bi đông lên uống liền một lúc hai hớp nước xong mới tiếp tục ăn. Ba nhận thấy dù đang ngồi ăn trưa cấp chỉ huy vẫn không rời khẩu súng. Thay vì để nó dựa vào gốc cây như Đực hay anh vẫn thường làm, Nhẫn lại đặt khẩu M2 nằm ngang qua đùi với tư thế sẵn sàng khai hỏa.
- Anh đi lính bao lâu rồi anh Ba?
Nhẫn lên tiếng hỏi. Gói phần cơm thừa của mình lại một cách cẩn thận, Ba cười trả lời.
- Mười hai năm rồi thiếu úy… Tôi đi lính lúc mười bảy… Thấy tôi lớn mà nhỏng nhỏng chơi với phá làng phá xóm, ông già bắt tôi đi lính bảo an. Được thời gian chán tôi nhảy qua hải thuyền rồi sau đó nhập vào hải quân luôn. Đi hải quân nhàn và thọ hơn. Nhất là ở Phú Quốc này thì nhậu mút chỉ cà tha. Đi lính hải quân ở Phú Quốc thì chỉ có nước bị sét đánh mới chết…
Không nhịn được Đực bật lên tiếng cười. Tới chừng nhớ ra anh ta vội ngậm miệng lại thật nhanh. Nhẫn thở dài nói.
- Vậy mà anh Nhân lại chết…
Nhìn khu rừng thưa đầy bóng nắng, Ba cũng thở dài nhè nhẹ.
- Mỗi người đều có cái số thiếu úy. Hễ tới số chết thì nằm trên bụng vợ cũng chết…
Đực lại đưa tay lên bụm miêng để tiếng cười của mình không phát ra lớn. Riêng Nhẫn vừa lắc đầu vừa mỉm cười vì câu nói có vẻ tiếu lâm của ông hạ sĩ.
- Tôi biết ai cũng có số… Chỉ tội cho chị Thơm…
Nhẫn nói nhỏ rồi im lặng. Ba cũng không nói gì thêm. Anh ta đang mân mê điếu thuốc lá trong tay trước đi đốt. Đực lên tiếng phá tan bầu không khí man mát vì gió từ ngoài biển lùa vào.
- Mình phải chôm được khẩu 82 của tụi nó không thôi biết đâu lại tới phiên mình…
- Mày đừng có nói tầm bậy tầm bạ…
Ba lên tiếng rầy Đực. Chỏi tay đứng dậy, cầm lấy khẩu M2, anh ta cười với Nhẫn.
- Mình đi hả thiếu úy?
Nâng khẩu súng lên bằng một tay, còn tay kia chống xuống đất lấy đà đứng lên, Nhẫn gật đầu nói bâng quơ.
- Mát quá… Trời này căng võng ngáo một giấc…
Đực cười nhỏ.
- Tôi có tật giống như thiếu úy… Ăn no là hai con mắt muốn híp lại…
Tủm tỉm cười Ba bước đi trước. Anh đi thật chậm. Con đường mòn quẹo chênh chếch về bên phải rồi đụng một con đường khác từ trại tù chạy xuống.
- Thiếu úy…
Nghe Ba kêu, Nhẫn hỏi gọn.
- Gì?
- Dấu chân… dấu chân mới lắm…
Bước thật nhanh để bắt kịp Ba đang đứng lại chờ, Nhẫn đứng im nhìn dấu chân in mờ mờ trên nền đất mịn màu vàng sậm. Nếu không chú ý người ta sẽ không nhận ra vì lá cây mục che bớt một phần và ánh nắng mặt trời không xuyên qua được.
- Cái này của tụi nó hay là mấy ông tù binh?
Đực lên tiếng hỏi. Ba gật đầu nói với giọng quả quyết.
- Lính canh không có dẫn tù đi xa đâu…
Nhẫn gật đầu. Nhậu với Hiệp nhiều lần, anh biết lính quân cảnh không được phép dẫn tù đi xa căn cứ. Vả lại nếu có dẫn tù đi ra ngoài, họ chỉ dẫn đi về hướng bắc chứ không có đi về hướng nam. Từ chỗ anh đứng đi về trại tù độ ba cây số do đó lính quân cảnh không dẫn tù đi xa như vậy. Dấu chân này chắc chắn phải là dấu chân của toán du kích đã đặt súng pháo vào An Thới ngày hôm kia.
- Anh Ba bám theo đường mòn, tôi đi bên phải còn Đực bên trái. Nhớ coi chừng…
Thấy Đực dợm bước, Nhẫn nói thật nhanh.
- Chờ Ba đi trước rồi mình theo sau. Mình bung ra…
Hiểu ý, chờ cho Ba đi chừng hai mươi thước, Đực mới bắt đầu di chuyển. Riêng Nhẫn đứng nhận định phương hướng và tính toán giây lát mới nhanh nhẹn băng rừng để bắt kịp Ba. Anh thầm tiếc nếu mỗi người trong toán được trang bị máy truyền tin thời việc điều động và chỉ huy của anh sẽ dễ dàng hơn. Sau lần này anh sẽ đề nghị với trung úy Đan cấp cho mỗi toán và nếu có thể mỗi người một máy truyền tin. Tuy nhiên muốn cho lời yêu cầu của mình được thỏa mãn thời việc trước tiên là anh phải tìm ra chỗ đặt khẩu 82 cũng như bắn hạ mấy người lính du kích. Đi được một đoạn anh gặp con đường mòn. Trên nền đất màu vàng hiện mờ mờ vài dấu chân cũ và không còn nguyên hình dạng. Ngồi xuống quan sát thật kỹ, Nhẫn đoan chắc đây chính là dấu chân của đám du kích quận Dương Đông vì một lý do dễ hiểu. Nó không phải là dấu giày mà là dấu của bàn chân trần có năm ngón chân in trên nền đất ẩm ướt. Nhất là ngón cái lại in sâu và rõ hơn hết. Men theo lối mòn anh thấy dấu chân nhiều và rõ hơn. Nhưng được một quãng lối mòn đột nhiên biến mất và dấu chân cũng không còn nữa. Hơi thắc mắc anh đứng im suy nghĩ rồi sau đó bắt đầu đi loanh quanh để tìm kiếm. Lát sau anh bật lên tiếng kêu mừng rỡ. Giữa khu rừng thưa hiện ra một khoảnh đất trống khá rộng đầy dấu chân người. Điều đó cho anh biết đã tìm ra địa điểm, có thể là nơi đặt khẩu 82, hoặc có thể là điểm tụ tập của đám du kích. Đứng im suy nghĩ thật lâu anh lẳng lặng bỏ đi tìm hai đồng đội của mình.
Nấp sau thân cây Ba chăm chú nhìn khoảnh đất trống đầy dấu chân người giây lát đoạn quay qua thì thầm với Nhẫn.
- Thiếu úy tính sao thiếu úy?
Nhẫn trả lời nhanh như đã có sẵn dự tính trong đầu của mình.
- Mình phải đi ra chỗ đó…
Nói tới đó anh đưa tay chỉ vào một mô đất ngay chính giữa khoảnh đất trống. Ba gật đầu nói nhỏ.
- Tụi nó đấp đất cao lên để dùng làm chỗ đặt súng 82. Hay là thằng Đực canh chừng còn tôi với thiếu úy ra đó coi…
Gật đầu đồng ý Nhẫn ra lệnh cho Đực canh chừng còn mình với Ba đi ra mô đất. Vừa đi cả hai vừa cúi nhìn dấu chân in trên mặt đất.
- Đúng là tụi nó đặt súng ở đây rồi thiếu úy ơi…
Ba kêu lên mừng rỡ khi thấy ba cái vỏ đạn nằm cạnh mô đất. Nhặt vỏ đạn lên Nhẫn gật gù.
- Vỏ đạn 81… Chôm được khẩu súng là mình phẻ re…
Miệng lẩm bẩm anh quan sát thật kỹ lưỡng mô đất cũng như vị trí xung quanh để tìm chỗ phục kích. Riêng Ba chắt lưỡi khen đám du kích đã dọn chỗ bắn một cách chu đáo. Đấp mô đất lên cao xong chúng còn ra công nện cho cứng và bằng phẳng rồi mới chịu đặt chân súng lên để bắn cho chính xác. Giơ đồng hồ lên xem thấy đã hơn hai giờ chiều, Nhẫn thì thầm với hai người lính của mình.
- Mình chờ…
Tuy cấp chỉ huy chỉ nói gọn có hai tiếng song Đực và Ba đều hiểu ý. Đưa tay chỉ con đường mòn, Nhẫn tiếp nhanh.
- Tôi nghĩ tụi nó sẽ theo đường đó để vào chỗ đặt súng... Mình nằm chờ...
Ba với Đực gật đầu hiểu ý. Ba giờ chiều họ ăn cơm thật nhanh xong tìm chỗ nấp. Nhẫn để cho Ba nằm vào vị trí số 1 và mỗi người cách nhau chừng năm thước.
- Thiếu úy...
Ba lên tiếng. Như hiểu ý Nhẫn cười giải thích.
- Tôi để cho anh Ba nằm đầu. Khi nào anh nổ thì Đực và tôi sẽ nổ. Tôi muốn cho anh Ba và Đực quen dần... Mai mốt không có tôi...
Ba gật đầu hiểu ý của Nhẫn. Ông sĩ quan biệt động sẽ không ở đây lâu, do đó ông ta muốn anh trở thành kẻ chỉ huy như toán trưởng hoặc tiểu đội trưởng của đơn vị xung kích. Ánh mặt trời le lói. Khu rừng chìm dần vào bóng tối chập choạng. Không có tiếng chim ríu rít về tổ mà chỉ có tiếng gió biển xào xạc cây rừng. Ba người lính im lặng ghìm súng chờ đợi. Đột nhiên họ nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm rồi lát sau trong rừng cây mờ mờ tối ba bóng người mặc bà ba đen xuất hiện. Quay nhìn, Ba thấy cấp chỉ huy nhẹ gật đầu ra hiệu. Hơi mỉm cười anh miết cơ bẫm.
8 giờ rưởi sáng. Đang ngồi trong phòng làm việc trung úy Đan nghe có tiếng cười nói xôn xao rồi trung sĩ nhất Linh hấp tấp bước vào. Giơ tay chào cấp chỉ huy, Linh nói nhanh.
- Trung úy... Ông Nhẫn... Ổng rinh về mấy khẩu súng trung úy...
Không nói tiếng nào, Đan hấp tấp theo chân Linh bước ra sân. Đám lính xung kích quây thành vòng tròn bao quanh Nhẫn, Ba và Đực. Trên nền cát mịn, ba khẩu súng, một bá đỏ, một AK47 và một khẩu mọt chê 82 nằm im lìm. Vừa thấy Đan, Nhẫn mỉm cười.
- Tôi có đồ chơi cho trung úy...
Cười bắt tay Nhẫn thật chặt, Đan quay sang Ba và Đực nói vài lời khen ngợi xong ngắm nghía chiến lợi phẩm rồi kéo Nhẫn đi về phía phòng hành quân để làm bản báo cáo trình lên thượng cấp.