Nguyên tác: Moshe Dayan
Số lần đọc/download: 1084 / 29
Cập nhật: 2016-11-25 07:57:11 +0700
Cuộc Chiến Yom Kippur Năm 1973
________________________________________
Cuộc chiến Yom Kippur năm 1973
Đây là bài viết nhằm tôn vinh Moshe Dayan một vị tướng bất bại!
Chiều 6/10/1973, những tiếng cầu nguyện trong ngày lễ Sám hối (Yom Kippur) lặng lẽ và thiêng liêng nhất của năm đột ngột bị ngắt quãng bởi tiếng còi hú dồn dập. Trên đường, xe tải, xe buýt và xe jeep quân sự phóng như điên. Toàn thể Israel bàng hoàng trước tin quân Ai Cập và Syria đã vượt biên giới.
Tình thế quả thực vô cùng nguy ngập. Liên quân Ảrập tấn công đúng vào ngày lễ trọng khi mà toàn dân Do Thái hầu như ngừng làm việc. Tất cả các viên chức đều nghỉ và đến giáo đường cầu nguyện. Đài phát thanh im tiếng. Hệ thống giao thông liên lạc giảm hoạt động đến mức tối thiểu. An ninh quốc phòng hết sức lơi lỏng.
Chiến sự nổ ra ở biên giới, Bộ Quốc phòng Israel đột ngột sôi lên như đàn ong vỡ tổ. Tin từ mặt trận báo về tới tấp. Vào đúng 1h55' (giờ địa phương), Syria điều 1.400 xe tăng và hơn 1.000 khẩu pháo tấn công lên cao nguyên Golan. Trong khi đó ở đây, Israel chỉ để gần 180 xe tăng và 50 pháo. Chênh lệch lực lượng quá lớn (tỷ lệ 12:1, lợi thế nghiêng về Syria), cộng với sự bất ngờ khiến quân Do Thái phải lùi liên tục. Cùng lúc, ở phía nam Israel, quân Ai Cập vượt kênh Suez, dễ dàng vượt qua phòng tuyến Do Thái lỏng lẻo, nhanh chóng lập ra một đầu cầu khoảng 10 km xuyên sâu vào bán đảo Sinai.
Với người Do Thái, tháng 10 năm 1973 thực sự là những ngày đen tối. Chiến tranh Yom Kippur xảy ra bất ngờ và khủng khiếp, đột ngột đe dọa an ninh, thậm chí cả sự sống còn của Israel. Mặc dù vào cuối cuộc xung đột, Tel Aviv lật ngược tình thế, kề dao vào cổ cả Cairo lẫn Damascus, nhưng điều này chẳng thể loại bỏ được nỗi choáng váng khiến cả đất nước Do Thái chao đảo rất lâu sau đó. Người ta đặt câu hỏi: Làm thế nào mà một thảm họa như vậy lại xảy ra? Tại sao tình báo Israel - được đánh giá là mạnh nhất vùng - lại không đánh hơi được việc hai nước láng giềng chuẩn bị chiến tranh?
Thực tế, để giành được ưu thế bất ngờ, tổng thống Ai Cập Anwar Sadat - nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo liên quân Ảrập - đã tính kỹ từng đường đi nước bước.
Khi Sadat lên nắm quyền năm 1970, Ai Cập ở trong tình trạng rất xấu: Xã hội bất ổn, kinh tế vô cùng khó khăn. Kênh Suez, mối lợi 1,5 triệu USD mỗi tuần, vẫn phải đóng cửa suốt kể từ cuộc chiến 6 ngày với Israel. Người Do Thái lại chiếm mất bán đảo Sinai giàu dầu mỏ. Vì vậy, suốt từ năm 1970 đến đầu năm 1973, Cairo không ngừng thương lượng với Tel Aviv, hy vọng thu lại được đất đai để cải thiện tình hình. Tuy nhiên, quan điểm của hai bên rất xa nhau. Ai Cập chấp nhận ký hiệp ước hòa bình với điều kiện Israel rút hết quân khỏi những vùng đất chiếm đóng trái phép. Israel kiên quyết bác bỏ yêu cầu này. Sau thắng lợi quá giòn giã năm 1967, Tel Aviv xem quân Do Thái gần như vô địch trong khu vực và tin rằng người Ảrập còn lâu mới dám đối đầu một lần nữa. Đàm phán hoàn toàn bế tắc. Tổng thống Sadat nhận định, chiến tranh là không thể tránh khỏi. Người đứng đầu Syria Hafez Assad cũng đồng tình. Ông muốn giành lại cao nguyên Golan.
Từ năm 1970 tới nửa đầu năm 1973, phe Ảrập liên tục đe dọa chiến tranh. Cứ vài tháng, tổng thống Ai Cập Sadat lại làm báo chí sục sôi khi công khai tuyên bố ý định tấn công Israel. Ông gọi 1971 là "năm quyết định", nhưng 1971 đến và đi mà không có sự kiện gì xảy ra. Năm 1972, Sadat lại hằm hè với Tel Aviv, tuy nhiên quân Ai Cập vẫn án binh bất động. Đến trước năm 1973, Israel và cả thế giới đã quá mệt mỏi, khi nghe Cairo tuyên bố tấn công, chẳng mấy ai còn tin nữa. Những đợt chuyển quân lớn của Ai Cập và Syria lên vùng biên giới vào tháng 9/1973 để chuẩn bị cho chiến tranh thực sự cũng không làm Tel Aviv cảm thấy cần cẩn thận hơn trong bố phòng biên giới.
Kế hoạch tác chiến của phe Ảrập được tuyệt đối giữ kín. Ở Ai Cập, trước ngày 1/10/1973, chỉ có tổng thống và bộ trưởng quốc phòng nắm được bí mật này. Về phần Syria, chỉ một số nhân vật trong nội các (dưới 10 người) biết rằng chiến tranh chắc chắn sẽ nổ ra. Dè chừng hệ thống nghe trộm điện tử tinh vi của Israel, lãnh đạo Ảrập hạn chế tối đa liên lạc qua điện thoại và điện tín.
Ngay cả khi ngày khai chiến đã gần kề, các nhà ngoại giao Ai Cập vẫn không ngừng "bày tỏ thiện chí hòa bình" với các chính phủ phương Tây. Cairo còn tung hỏa mù bằng cách yêu cầu các học viên sĩ quan trở lại trường vào ngày 9/10 và cho tướng tá quân đội đi hành hương ở Mecca. Vào 4/10, đài Ai Cập cũng loan báo 20.000 lính dự bị đã được phục viên...
Tình báo Israel bối rối vô cùng. Những thông tin họ thu được cực kỳ mâu thuẫn. Ngay từ cuối tháng 4, mật vụ Do Thái đã có trong tay kế hoạch hành quân chi tiết của Cairo và Damascus. Israel biết rằng đội quân thứ 2 và thứ 3 của Ai Cập sẽ vượt kênh và thọc sâu 10 km vào bán đảo Sinai. Sau đó, bộ binh và thiết giáp sẽ đổ quân đánh úp đèo Mitla và Gidi - điểm giao chiến lược. Trong lúc đó, hải quân và lính dù tấn công Sharm el-Sheikh ở cực nam Sinai, v.v. Tuy nhiên, các chính trị gia Israel, sau nhiều lần bị báo động giả, không tin rằng người Ảrập có ý định gây chiến nghiêm túc. Chỉ một thiếu úy tình báo quân đội có tên Binyamin Siman-Tov là không bị lừa. Anh viết liền 2 bản báo cáo dài về nguy cơ chiến tranh vào mồng 1 và 3/10. Lời cảnh báo bị cấp trên của Siman-Tov bỏ qua.
Vào ngày 4/10, Zvi Zamir, giám đốc cơ quan tình báo Mossad, bắt đầu cảm thấy lo lắng. Hôm đó, toàn bộ cố vấn Xô Viết và gia đình của họ đột ngột rời Ai Cập và Syria mà không đưa ra lời giải thích chính thức nào. Trong khi đó, máy bay vận tải chở nhiều vũ khí và quân trang lại nối đuôi nhau bay từ Matxcơva tới Damacus.
Đêm 5/10, ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy quân Ảrập tập trung nhiều xe tăng, bộ binh gần cao nguyên Golan và trên bờ tây kênh Suez. Hệ thống phòng không dùng tên lửa đất đối không (SAM) do Liên Xô cung cấp cũng ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, chính quyền trung ương Do Thái vẫn không có phản ứng gì.
Chiều 5/10, Zamir nhận được điện khẩn từ một điệp viên kỳ cựu khẳng định Ai Cập và Syria sẽ tấn công Israel, tuy không biết rõ ngày giờ cụ thể. Giám đốc Mossad liền bay sang châu Âu trực tiếp xác minh tin trên. 3h45' sáng 6/10, Zamir gọi điện về báo "chiến tranh sẽ xảy ra vào lúc mặt trời lặn" - một sự nhầm lẫn bởi Cairo và Damascus quyết định tấn công sớm hơn mốc này vài tiếng.
Dù thế nào thì Tel Aviv vẫn trở tay không kịp. Gần trưa 6/10, lệnh động viên lực lượng dự bị mới được phát đi. Nội các Do Thái tranh cãi kịch liệt xem phải phản ứng thế nào trước cuộc xâm lược của Ai Cập và Syria. Cuối cùng, nữ Thủ tướng Golda Meir tán thành kế hoạch phản công tích cực do Bộ trưởng Quốc phòng Moshe Dayan đề xuất. Ông Dayan lập luận rằng cần thẳng tay trừng trị người Ảrập bằng cách đưa quân vào lãnh thổ của họ.
Bà thủ tướng trấn an toàn dân trên đài phát thanh. Giọng vẫn chắc nịch nhưng bà Meir tỏ ra kiềm chế hơn mọi ngày: "Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta sẽ chiến thắng". "Mặc dù tôi tin rằng Ai Cập và Syria đang hành động hết sức điên rồ", bà nói thêm. Tướng độc nhãn Moshe Dayan tỏ ra lạc quan hơn, khẳng định người Ảrập sẽ không thu được gì trước khi có lệnh đình chiến. Ông thừa nhận quân đội Do Thái đang bị dàn mỏng ra dọc kênh đào Suez. Dù vậy, bán đảo Sinai rất rộng, có thể che chắn cho các thành phố lớn của Israel. Dayan nhấn mạnh: "Quân Ai Cập sẽ bị đánh bật khỏi Sinai ngay khi lực lượng dự bị tham chiến. Về phần Syria, họ sẽ không bao giờ giành lại được cao nguyên Golan".
Theo dự đoán, trận chiến diễn ra ác liệt rất giống với những gì tướng Dayan nghĩ. Ở phía bắc, Syria tập trung 56 sư đoàn với tổng cộng 1.700.000 quân và gần 14.000 xe tăng. Phía nam, Ai Cập huy động trên 1.200.000 binh lính với sự yểm hộ của 20.000 tăng và suýt soát 700 máy bay. Trong hai ngày đầu (6-7/10), Israel tạm thoái lui. Quân Syria chiếm được cao nguyên Golan và đánh thẳng vào những khu vực đông dân cư Do Thái gần biên giới. Trên biển, Damascus cũng làm Tel Aviv bất ngờ bằng đội tàu phóng tên lửa Komar do Nga trang bị. Hải quân Syria tiến nhanh tới biển Galilee, uy hiếp các khu định cư miền bắc, tuy nhiên nơi đây không một bóng người vì người Do Thái đã kịp di tản. Ngay lập tức các tàu chiến do Liên Xô chế tạo bị phản kích bởi đội Hải Quân Do Thái đánh vô lại, toàn bộ 350 tàu chiến tối tân nhất mà Liên Xô luôn tự hào đã thành đóng sắt vụng ngay trên biển Galilee. Tên lữa Komar từ đó cũng trở thành hữu danh vô thực và trở thành một trong loại vũ khí mà Liên Xô tới giờ vẫn chưa hiểu tại sao lại thua vũ khí của quân do thái, ( phía Mỹ sau sự kiện trên đã mua phần nhiều tàu chiến của Israel phục vụ cho hải quân của mình )
Giao tranh ở kênh đào ác liệt hơn cả. Sau khi lập được một đầu cầu ở Sinai, Ai Cập thả lính dù xuống bắc bán đảo định cắt đường tiếp tế của quân Do Thái, nhưng bị biệt kích do thái do Dayan thủ sẳn đánh tan tát, toàn bộ 3 sư đoàn dù bị tiêu diệt không còn 1 mống, quân do thái tuyên bố họ không bắt tù binh mà giết ngay tại chỗ vì muốn trả thù cho những khu định cư bị quân xâm lược phá hủy (cũng từ đó Ixrael bị cộng đồng Quốc tế lên án). Cairo tuyên bố bắn rơi 27 máy bay Israel (mặc dù trên thực tế chỉ có 3 chiếc tiêm kích của Ixrael bị rơi ), thế nhưng Cairo đã phải đổi bằng 198 chiếc tiêm kích Mig 21 mới mua của Liên Xô ( trong tổng số 210 chiếc). Ở mặt trận này, độc long tướng quân Dayan mất 25 thiết giáp. Súng chống tăng Sagger do Liên Xô sản xuất tỏ ra lợi hại hơn so với nhận định của tình báo Do Thái, tuy nhiên càng về sau các khẩu này tỏ ra vô hiệu trước bộ binh và không quân Israel. Các dàn tên lửa đất đối không SAM cũng gây khó dễ không ít cho không quân Israel.
Tối mồng 7/10, gió bắt đầu đổi chiều ở phía bắc. Quân Do Thái xốc lại đội hình và tổ chức phản công, đánh bật lực lượng Syria khỏi cao nguyên Golan. Những ngày sau đó, Israel tiến không ngừng tới sát Damascus, thủ đô nước láng giềng, tổng thống Syria phải nhục nhã gửi thư xin lỗi Israel và yêu cầu thủ tướng Israel mở cho Syria con đường sống.
Xung đột ở biên giới phía nam kéo dài hơn. Phải tới giữa tháng 10, Tel Aviv mới giành lại được thế thượng phong. Lính của tướng Moshe Dayan đốt sạch thiết giáp của đối phương, vượt kênh, chặn đường tiếp tế của quân Ai Cập. Cairo bị dồn vào chân tường, Liên Xô bàng hoàng, người dân Ai cập mất lòng tin vào chính phủ, quân Israel tuyên bố với người dân Ai cập họ vào để giải phóng người dân nơi đây khỏi tay tên Khủng bố tổng thống Ai cập Gamal Abdel-Nasser.
Liên Xô và Mỹ vội vàng can thiệp. Hai nước lớn lập cầu hàng không tiếp viện cho "gà nhà". Matxcơva đe dọa sẽ gửi quân tới Trung Đông. Washington, muốn giữ thế hòa hoãn với khối XHCN, gây sức ép buộc Tel Aviv dừng tay. Hội đồng Bảo an LHQ ra nghị quyết 338 yêu cầu các bên lập tức ngừng xung đột. Ngày 22/10, chiến sự ở mặt trận bắc Israel chấm dứt. Đến 26/10, khu vực Sinai và kênh Suez cũng im tiếng súng. Sau xung đột, một mất mát to lớn đến với vùng Trung Đông: gần 2 triệu người Ai cập vong mạng, toàn bộ quân đội Syria (gần 3 triệu) bị xóa sổ, nhiều tổn thất cho người dân vô tội. Phía Israel có gần 900 quân bị chết, 4500 bị thương, nhiều khu định cư bị phá hủy hoàn toàn. Cơ quan tình báo Mossad mất uy tín trong nội tình Israel, nội bộ Israel chia rẽ bởi phe cực hữu đòi phải tiêu diệt hoàn toàn mầm mống chính phủ của Ai cập và Syria trong khi đó phe tả đòi phải tuân thủ hiệp ứơc của LHQ
Phe Ảrập thì được một dịp "khoe" sức mạnh nhưng không thành công. Ngoài Syria và Ai Cập trực tiếp tham chiến, một số nước như Iraq, Algeria, Ảrập Xêút, Kuwait cũng gửi quân tới nhưng bị đánh tơi tả đến nỗi chỉ còn vài chục quân phải rút về. Ảrập Xêút và Kuwait trang trải hầu hết chi phí chiến tranh. Còn Syria, trong những cuộc đàm phán sau đó, đòi được một góc cao nguyên Golan ( do bỏ hàng tỷ đô la mua lại ). Liên Xô và Mỹ cũng có cơ hội chứng tỏ ảnh hưởng của mình trong vùng. Dưới sức ép của các cường quốc, Israel và Ai Cập cùng Syria phải ngồi vào bàn thương lượng và ký kết các hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau (thoả thuận lần lượt đạt được trong những năm 1974 và 1975). Sau chiến tranh, Ai Cập và Syria phụ thuộc nhiều hơn vào Liên Xô. Israel cũng nhận thêm viện trợ quân sự kinh tế từ Mỹ.
Có lẽ một trong những kết quả quan trọng nhất của chiến tranh 1973 là việc các nước Ảrập tìm ra một vũ khí mới để gây sức ép với phương Tây đó là dầu khí. Việc cấm vận dầu mỏ đối với các nước ủng hộ Israel kéo dài suốt từ tháng 10/1973 tới tháng 3/1974 đã khiến phe Mỹ gặp không ít khó khăn.