Nguyên tác: Moon Palace
Số lần đọc/download: 2638 / 72
Cập nhật: 2015-09-18 01:22:47 +0700
Chương 3
T
ôi ở nhà Zimmer hơn một tháng. Cơn sốt thuyên giảm vào ngày thứ hai hoặc ba, nhưng trong một thời gian dài tôi không có chút sức lực nào, gần như không thể đứng dậy mà không mất thăng bằng. Thoạt đầu, Kitty đến thăm tôi khoảng hai lần một tuần, nhưng không bao giờ cô nói gì nhiều, và phần lớn thời gian chỉ ở lại khoảng hai mươi hay ba mươi phút. Nếu để ý đến mọi chuyện hơn, hẳn là tôi đã tự đặt câu hỏi cho mình về việc ấy, nhất là sau khi Zimmer kể cho tôi biết tôi được cứu sống như thế nào. Dù sao đi nữa, cũng hơi lạ khi một người đã khuấy động trời đất trong vòng ba tuần để tìm thấy tôi lại đột nhiên cư xử một cách thật e dè khi tôi đã ở đó. Nhưng đúng là như thế đấy, tôi không ngạc nhiên. Khi đó tôi quá yếu để có thể ngạc nhiên vì bất kỳ điều gì, và tôi chấp nhận những lần đến và đi của cô như thể mọi chuyện phải vậy. Đó là những sự kiện tự nhiên, chúng có cùng chung một lực tác động, chung một tính chất không thể tránh khỏi giống như thời tiết, như chuyển động của các hành tinh, hoặc ánh sáng lọt qua cửa sổ vào khoảng ba giờ mỗi buổi chiều.
Zimmer là người chăm sóc tôi trong thời gian tôi lành bệnh. Căn hộ mới của anh nằm ở tầng ba một tòa nhà cũ ở phía Tây Village, một cái hang xám xịt chật cứng sách vở và đĩa hát: hai phòng nhỏ không có cửa ngăn, một cái bếp trang bị sơ sài, một phòng tắm không có cửa sổ. Tôi hiểu rằng với anh cho tôi ở nhờ là cả một sự hy sinh lớn, nhưng mỗi lần tôi định cảm ơn anh, Zimmer lại phác một cử chỉ ra vẻ chuyện đó không có gì quan trọng. Anh nuôi tôi bằng tiền của anh, cho tôi ngủ trong giường của anh, không đòi hỏi điều gì đổi lại. Cùng lúc, anh điên tiết vì tôi, và không hề lảng tránh nói huỵch toẹt với tôi anh chán tôi đến thế nào. Tôi không chỉ cư xử như một thằng ngu, mà tôi còn suýt nữa vì thế mà tự giết tôi. Một lối hành xử như vậy là không thể tha thứ với một người có trí tuệ như tôi, anh nói. Thật là kệch cỡm, thật là ngu đần, thật là điên rồ. Nếu tôi gặp khó khăn, tại sao không đề nghị anh giúp đỡ? Tôi không biết là anh sẵn sàng làm bất kỳ việc gì vì tôi à? Tôi không mấy khi đáp lời những đợt tấn công ấy. Tôi hiểu Zimmer bị tổn thương, và tôi xấu hổ vì đã gây cho anh điều đó. Với thời gian, tôi thấy ngày càng khó khăn để tìm ra một ý nghĩa cho thảm họa mà tôi gây ra. Tôi đã nghĩ mình cư xử một cách dũng cảm, nhưng hóa ra tôi chỉ cung cấp bằng chứng về hình thức hạ đẳng nhất của sự hèn nhát: tôi đã tự hài lòng với sự khinh bỉ dành cho thế giới bằng cách từ chối không chịu nhìn thẳng vào thực tế. Tôi chỉ còn cảm thấy hối hận, cái cảm giác tê liệt vì sự ngu ngốc của chính mình. Thời gian trôi đi trong căn hộ của Zimmer, và trong khi chậm chạp hồi sức, tôi nhận ra rằng mình sẽ phải hoàn toàn bắt đầu lại cuộc đời. Tôi muốn sửa chữa những sai lầm của tôi, lấy lại hình ảnh của mình trong mắt những người còn quan tâm đến tôi. Tôi mệt mỏi với chính mình, mệt mỏi vì những suy nghĩ của chính tôi, mệt mỏi vì phải nghiền ngẫm về số phận của mình. Trên tất cả, tôi cảm thấy nhu cầu được thanh tẩy, được trút bỏ khỏi toàn bộ thói duy ngã độc tôn quá đà của mình. Sau một sự ích kỷ toàn hảo đến vậy, tôi quyết định mình phải đạt đến một trạng thái vị tha tuyệt đối. Tôi sẽ nghĩ đến những người khác trước khi nghĩ đến tôi, tôi sẽ cố gắng ý thức được là mình phải sửa chữa những thiệt hại mà tôi đã gây ra, và bằng cách ấy có thể tôi sẽ bắt đầu làm được điều gì đó trên cõi đời này. Đó là một chương trình bất khả thi, dĩ nhiên, nhưng tôi bám chặt vào đó với một sự cuồng tín gần như mang tính tôn giáo. Tôi muốn trở thành một vị thánh, một vị thánh không chúa trời đi khắp nơi để thực hiện những hành động tốt lành. Ngày nay điều đó với tôi thật phi lý, nhưng tôi nghĩ đó chính xác là điều mà tôi muốn. Tôi có một nhu cầu đến tuyệt vọng đối với sự chắc chắn, và tôi sẵn sàng làm bất kỳ điều gì để tìm được nó.
Tuy nhiên, tôi còn phải vượt qua một trở ngại nữa. Cuối cùng, vận may đã giúp tôi tránh thoát nó, nhưng chỉ cách một sợi tóc mảnh. Một hoặc hai ngày sau khi nhiệt độ của tôi trở lại bình thường, tôi ra khỏi giường để vào phòng tắm. Khi đó là buổi tối, tôi nghĩ vậy, và Zimmer đang làm việc ở bàn trong phòng bên kia. Khi lết chân quay trở lại, tôi nhận ra trên sàn nhà cái túi đựng kèn clarinet của bác Victor. Tôi đã không hề nghĩ đến nó kể từ khi được cứu thoát, và đột nhiên tôi kinh hoàng khi thấy nó ở trong tình trạng tồi tệ đến thế nào. Thứ da đen bao bọc đã biến mất một nửa, và một phần lớn những gì còn lại đã sờn rách cả. Cơn giông ở Công viên Trung tâm đã tàn hại nó, và tôi tự hỏi không biết nước mưa, khi ngấm vào bên trong, có làm hư hại cái kèn không. Tôi bèn nhặt cái túi lên mang về giường, chuẩn bị để chứng kiến điều tồi tệ nhất. Tôi bật khóa và nhấc nắp lên, nhưng chưa kịp có thời gian kiểm tra kèn thì một chiếc phong bì màu trắng đã bay xuống đất và tôi nhận ra những phiền phức của mình chỉ mới bắt đầu. Đó là giấy triệu tập từ văn phòng tuyển lính. Tôi đã không chỉ quên mất ngày phải đi khám sức khỏe, mà cả chuyện lá thư ấy đã được gửi đến cho tôi. Vào lúc đó, tất cả hiện ra trong đầu tôi. Tôi nghĩ rằng trong mắt luật pháp tôi là một kẻ phạm tội. Nếu tôi không đến khám, chính phủ hẳn đã ra lệnh bắt tôi - và điều đó có nghĩa là phải trả một cái giá, những hậu quả mà tôi không thể tưởng tượng được. Tôi xé phong bì và tìm ngày ghi trên tờ giấy: 16 tháng Chín. Con số không có ý nghĩa gì với tôi, vì tôi không còn ý niệm gì về ngày tháng hết. Tôi đã mất thói quen nhìn đồng hồ và lịch, và thậm chí tôi còn không thể đoán được chúng.
“Một câu hỏi nhỏ,” tôi hỏi Zimmer, khi đó vẫn đang chăm chú với công việc. “Có lẽ cậu biết hôm nay là ngày nào chứ?”
“Thứ Hai,” anh trả lời, “không ngẩng đầu lên.”
“Tớ muốn nói ngày nào. Ngày và tháng. Cậu không cần nói năm. Cái đó tớ nghĩ là tớ biết.”
“Ngày 15 tháng Chín,” anh nói, vẫn không buồn ngẩng đầu lên.
“Ngày 15 tháng Chín? Cậu chắc chứ?”
“Tất nhiên, tớ chắc. Không chút nghi ngờ nào.”
Tôi nhắm mắt lại và thả rơi mình xuống gối. “Thật kỳ lạ,” tôi thì thầm, “thật là vô cùng kỳ lạ.”
Cuối cùng Zimmer cũng quay đầu lại và nhìn tôi vẻ dò hỏi. “Cái quái gì kỳ lạ thế?”
“Bởi vì điều đó có nghĩa tớ không phải là một kẻ tội phạm.”
“Cái gì?”
“Bởi vì điều đó có nghĩa tớ không phải là một kẻ tội phạm.”
“Lần đầu tiên tớ đã nghe thấy rồi. Nhắc lại cũng không rõ hơn gì đâu.”
Tôi chìa bức thư lên và huơ nó trong không khí. “Khi cậu xem xong cái này,” tôi tuyên bố, “cậu sẽ hiểu tớ định nói gì.”
Tôi phải đến trình diện ở phố Whitehall vào sáng hôm sau. Zimmer đã đi khám sức khỏe vào tháng Bảy (anh được miễn vì bệnh hen), và chúng tôi dành hai hay ba giờ sau đó thảo luận về những gì đang chờ đợi tôi. Về cơ bản, cuộc nói chuyện của chúng tôi giống hệt như những cuộc nói chuyện của hàng triệu thanh niên ở Mỹ những năm ấy. Tuy nhiên, khác với phần lớn họ, tôi đã không làm gì để chuẩn bị cho thời điểm quyết định. Tôi không có giấy chứng nhận y tế, tôi không uống thuốc để làm giảm những phản ứng thần kinh vận động, tôi đã không luyện diễn vai người liên tục rơi vào những cơn trầm uất để tạo dựng một bệnh sử về bất ổn tâm lý. Tôi vẫn luôn nghĩ mình sẽ không đi lính, nhưng một khi sự chắc chắn đó được thiết lập, tôi lại không mấy suy nghĩ đến vấn đề. Giống như trong các lĩnh vực khác, sự trơ ì của tôi đã thắng thế và tôi đã không ngần ngại đuổi vấn đề đó đi khỏi những mối bận tâm của mình. Zimmer sửng sốt, nhưng ngay cả anh cũng buộc phải thừa nhận là đã quá muộn để có thể làm gì đó. Hoặc là tôi sẽ qua được kỳ khám, hoặc là tôi sẽ bị tống cổ về, và nếu qua được tôi phải đối mặt với hai khả năng: rời khỏi đất nước hoặc vào tù. Zimmer kể cho tôi nhiều câu chuyện về những người chạy ra nước ngoài, sang Canada, Pháp, Thụy Điển, nhưng điều đó không mấy quyến rũ tôi. Tớ không có tiền, tôi nói, và tớ cũng không muốn đi đâu cả.
“Thế thì cậu thành tội phạm mất rồi,” anh nói.
“Tù nhân chứ,” tôi đính chính. “Tù nhân vì khác biệt tư tưởng. Khác nhau đấy.”
Sự hồi phục của tôi mới chỉ bắt đầu, và khi sáng hôm sau tôi đứng dậy để mặc quần áo - quần áo của Zimmer, nhỏ mất mấy cỡ so với tôi - tôi nhận ra mình không đủ sức đi đâu hết. Tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức, và chỉ toan tính đi đến đầu bên kia căn phòng cũng đòi hỏi toàn bộ năng lượng và sự tập trung của tôi. Cho đến khi ấy, tôi mới chỉ rời khỏi giường trong vòng một hoặc hai phút, để kéo lê sự yếu ớt của tôi vào phòng vệ sinh và quay trở lại. Nếu Zimmer không có đó để đỡ, chắc chắn tôi không thể bước ra được đến cửa. Theo nghĩa đen, anh đỡ tôi đứng, đi xuống cầu thang với tôi bằng cách ôm lấy tôi, rồi để tôi dựa lên anh trong khi chúng tôi loạng choạng đi ra bến tàu điện ngầm. Tôi sợ rằng đó là một cảnh tượng hết sức đáng buồn. Zimmer đưa tôi đến cửa vào tòa nhà ở phố Whitehall và chỉ cho tôi một quán ăn ngay đối diện, đảm bảo là tôi sẽ tìm được anh tại đó khi xong việc. Anh nắm lấy cánh tay tôi thay cho lời khích lệ. “Đừng có lo,” anh nói. “Cậu có mà làm lính được khối. Fogg, điều đó rõ như ban ngày.” “Cậu có lý, mẹ nó chứ,” tôi đáp. “Thằng lính thảm hại nhất của toàn bộ cái quân đội chó chết kia. Thằng ngu nào cũng có thể nhận ra điều đó.” Tôi nhại một động tác chào với Zimmer rồi lảo đảo đi vào tòa nhà, vừa đi vừa dựa vào tường để khỏi ngã.
Đến giờ, tôi đã quên mất phần lớn những gì xảy ra sau đó. Vài đoạn vài mẩu còn sót lại, nhưng tổng cộng không thể tạo thành được một ký ức toàn vẹn, không có gì mà tôi có thể nói đến một cách chắc chắn. Việc mất khả năng nhìn lại được những gì đã diễn ra cho thấy sự yếu ớt của tôi đạt đến mức độ thảm hại nào. Tôi phải dồn tất cả năng lượng chỉ để đứng vững, cố không ngã gục xuống, và tôi cũng không thể chăm chú được như lẽ ra phải thế. Quả thực là tôi nghĩ mình đã nhắm mắt trong gần như suốt khoảng thời gian ấy, và khi tôi mở được chúng ra thì cũng hiếm khi đủ lâu để nhìn được xung quanh. Chúng tôi có cả thảy khoảng năm mươi hoặc một trăm người cùng nhau trải qua quá trình đó. Tôi nhớ đã ngồi trước một cái bàn trong căn phòng lớn nghe một viên thượng sĩ nói, nhưng tôi không nhớ ông ta đã nói gì nữa, tôi không thể nào tìm lại được dù chỉ một từ. Người ta đưa chúng tôi các mẫu giấy để điền, rồi có một bài thi viết, nhưng cũng có thể bài thi diễn ra trước rồi mới đến các mẫu giấy. Tôi nhớ mình đánh dấu vào các tổ chức đã từng tham gia và việc đó mất khá nhiều thời gian: SDS ở đại học, SANE và SNCC[13] ở trung học, và rồi tôi còn phải giải thích tại sao bị bắt giữ hồi năm trước. Tôi là người cuối cùng điền xong giấy trong phòng, và cuối cùng viên thượng sĩ đứng trước mặt tôi thì thầm điều gì đó về Bác Hồ và về lá cờ Mỹ.
Sau đó, có một khoảng trống trong nhiều phút, có thể là nửa giờ. Tôi nhìn thấy những hành lang, những ngọn đèn sáng, những nhóm thanh niên mặc quần đùi. Tôi nhớ đến sự mong manh đậm đặc mà tôi cảm thấy khi ấy, nhưng nhiều chi tiết khác đã biến mất. Chẳng hạn như nơi chúng tôi cởi quần áo, và những gì chúng tôi nói với nhau khi xếp hàng chờ đợi. Đặc biệt, tôi không thể gợi lại được hình ảnh nào về các bàn chân của chúng tôi. Phía trên đầu gối, chúng tôi không mặc gì ngoài quần đùi, nhưng phía dưới tất cả với tôi đều huyền bí. Chúng tôi có được giữ lại giày và/hoặc tất không, hay chúng tôi đi lại trên chân trần trong những căn phòng đó? về vấn đề này tôi chỉ tìm thấy hư vô, tôi không thể nhìn ra được bất kỳ ánh sáng nào.
Cuối cùng, người ta cho tôi vào một căn phòng. Một bác sĩ gõ lên ngực và lưng tôi, nhìn vào tai tôi, nắn đùi tôi và bảo tôi ho. Tất cả những cái đó không đòi hỏi nhiều cố gắng lắm, nhưng đến lúc phải lấy máu, cuộc khám bệnh liền trở nên quay cuồng hơn. Tôi bị thiếu máu và gầy gò đến mức bác sĩ không tìm được ven ở cánh tay tôi. Ông ta chọc kim vào hai hay ba chỗ, châm vào, đâm thủng da tôi, nhưng không có chút máu nào chảy vào cái ống hết cả. Khi đó hẳn bộ dạng tôi phải khủng khiếp lắm - xanh nhợt và buồn nôn, như một người sắp lìa cõi đời - nên sau một lúc ông ta nhanh chóng đầu hàng và bảo tôi ngồi xuống một cái ghế. Ông ta có vẻ dễ chịu, tôi thấy thế, hay ít nhất là thờ ơ. “Nếu anh vẫn còn chóng mặt,” ông nói, “thì cứ ngồi xuống đất chờ đến khi nó qua. Chúng ta không muốn anh ngã đập đầu xuống đất, phải không nào?”
Tôi nhớ rõ mình đã ngồi trên chiếc ghế đó, nhưng sau đó tôi lại thấy mình nằm trên một cái bàn trong một căn phòng khác. Không thể biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua giữa hai cảnh tượng ấy. Tôi không nghĩ mình bị ngất, nhưng có khả năng là trong một toan tính lấy máu mới, người ta đã muốn giảm thiểu rủi ro. Một cái ống cao su được buộc chặt vào quanh bắp tay tôi để làm ven nổi rõ lên, và khi bác sĩ cuối cùng cũng cắm được kim vào đó - tôi không còn nhớ vẫn là ông bác sĩ ấy hay người khác - ông ta nêu một nhận xét về sự gầy gò của tôi và hỏi tôi đã ăn sáng chưa. Trong một lúc, hẳn là thời khắc sáng suốt nhất trong ngày của tôi, tôi quay về phía ông để trả lời một cách đơn giản nhất, theo cách thành thật nhất mà tâm trí tôi có được. “Thưa bác sĩ,” tôi nói, “tôi có vẻ gì là một kẻ có thể bỏ không ăn sáng không?”
Còn có những điều khác nữa, hẳn là phải có rất nhiều điều khác nữa, nhưng tôi không sao tìm lại được. Người ta cho chúng tôi ăn ở đâu đó (trong tòa nhà? tại một quán ăn gần tòa nhà?), nhưng ký ức duy nhất của tôi về việc ấy là không ai muốn ngồi cạnh tôi. Buổi chiều, quay lại những hành lang tầng trên đó, cuối cùng người ta cũng cân và đo chiều cao chúng tôi. Cái cân chỉ cho tôi một con số thấp đến lố bịch - 112 pound, tôi nghĩ vậy, hoặc có thể là 115, khoảng đó - và kể từ lúc ấy tôi bị tách ra khỏi nhóm. Người ta gửi tôi đến chỗ bác sĩ tâm thần, một người đàn ông béo lùn, với những ngón tay ngắn ngủn và to bè, tôi còn nhớ đã nghĩ rằng chúng giống ngón tay của một đô vật hơn là của một bác sĩ. Không thể có chuyện nói dối được. Tôi đã bắt đầu bước vào giai đoạn nhiều tiềm năng được phong thánh và điều tôi hoàn toàn không hề muốn là cư xử theo cách để rồi sau này sẽ phải hối tiếc. Bác sĩ tâm thần thở dài hai hay ba lần trong cuộc nói chuyện, nhưng ngoài đó ra ông không hề tỏ ra rối trí bởi những lời của tôi cũng như bởi vẻ ngoài của tôi. Tôi nghĩ ông đã có rất nhiều kinh nghiệm với các cuộc phỏng vấn như thế này, và không còn nhiều điều có thể làm ông kinh ngạc được nữa. Về phần mình, tôi khá ngạc nhiên về những câu hỏi mơ hồ của ông. Ông hỏi tôi có hút thuốc phiện không, và khi tôi nói là không, ông nhương lông mày và hỏi lại tôi, nhưng tôi nhắc lại câu trả lời và ông không hỏi thêm nữa. Những câu hỏi theo dạng chuẩn tiếp nối: các cơ quan nội tạng của tôi hoạt động như thế nào, tôi có bị di mộng tinh không, tôi có thường xuyên nghĩ đến việc tự tử không. Tôi trả lời đơn giản hết mức có thể được, không chút màu mè và cũng không một lời bình luận. Trong khi tôi nói, ông điền vào những cái ô nhỏ trên một tờ giấy, không nhìn tôi. Có điều gì đó thật yên tâm khi nói về những chủ đề thầm kín nhất theo cách ấy - như thể tôi đang ngồi trước một nhân viên kế toán hay một người thợ sửa ôtô. Nhưng khi đã xuống đến hết trang giấy, bác sĩ ngước mắt lên và nhìn tôi chằm chằm ít nhất trong bốn hoặc năm giây.
“Cậu đang ở một tình trạng rất tồi tệ, cậu bé ạ,” cuối cùng ông tuyên bố.
“Tôi biết,” tôi nói. “Tôi không được khỏe lắm. Nhưng tôi nghĩ bây giờ đã khá hơn rồi.”
“Cậu muốn bàn về chuyện đó không?”
“Nếu ông muốn.”
“Cậu có thể bắt đầu bằng cách nói về cân nặng của cậu.”
“Tôi bị cúm. Tôi bị đau gì đó ở dạ dày, cách đây vài tuần, và tôi không thể ăn được gì cả.”
“Cậu mất bao nhiêu trọng lượng?”
“Tôi không biết. Bốn mươi hoặc năm mươi pound, tôi nghĩ vậy.”
“Trong hai tuần?”
“Không, trong khoảng hai năm. Nhưng tôi mất nhiều nhất trong mùa hè vừa rồi.”
“Tại sao lại thế?”
“Tiền, xét theo một khía cạnh. Tôi không có đủ tiền để mua đồ ăn.”
“Cậu không có việc làm à?”
“Không.”
“Cậu đã tìm chứ?”
“Không.”
“Phải giải thích cho tôi chuyện đó, cậu bé.”
“Đó là một chuyện khá phức tạp. Tôi không biết ông có thể hiểu được không.”
“Để tôi tự đánh giá chuyện đó đi. Kể cho tôi những gì đã xảy ra và đừng quan tâm gì đến hiệu ứng mà chúng gây ra. Chúng ta không bận gì cả.”
Vì một lý do nào đó, tôi cảm thấy một ham muốn không thể cưỡng lại được mở tung toàn bộ câu chuyện của mình trước người lạ này. Không hề nên như vậy, nhưng trước khi có cơ hội dừng lại, từ ngữ đã bắt đầu tuôn trào khỏi miệng tôi. Tôi cảm thấy môi mình chuyển động, nhưng cùng lúc đó như thể tôi đang nghe một ai đó khác đang nói. Tôi nghe thấy giọng mình gióng lên huyên thuyên đủ thứ về mẹ tôi, về bác Victor, về Công viên Trung tâm và về Kitty Wu. Bác sĩ gật đầu lịch sự, nhưng rõ ràng ông không hiểu gì về những chuyện tôi đang kể hết. Khi bắt đầu miêu tả cuộc sống đã trải qua trong hai năm vừa rồi, tôi nhận ra rằng quả thực mỗi lúc ông một thêm khó ở. Tôi cảm thấy mình tức giận vì điều ấy, và việc ông không hiểu càng lộ rõ hơn, tôi lại càng tuyệt vọng tìm cách diễn đạt mọi việc thật rõ ràng. Tôi thấy như thể, theo cách nào đó, tính người của tôi đang bị đặt thành vấn đề. Quan trọng gì việc ông là một bác sĩ của quân đội; đó cũng là một con người, và không có gì quan trọng hơn là nói sao cho ông hiểu. “Cuộc đời của chúng ta được quy định bởi vô vàn sự tình cờ,” tôi tuyên bố, cố sức ngắn gọn hết mức có thể, “và mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại những cú sốc đó, những tai nạn đó, để giữ được sự cân bằng của chúng ta. Cách đây hai năm, vì những lý do cá nhân và những lý do triết học, tôi đã quyết định ngừng không chiến đấu nữa. Đó không phải là một ý định tự sát - ông đừng nghĩ thế - mà bởi vì tôi thấy như thể nếu tôi buông mình vào sự hỗn độn của vũ trụ, có thể vũ trụ sẽ hé lộ cho tôi vào thời điểm cuối cùng một sự hài hòa bí mật nào đó, một hình thái, một sơ đồ, những cái có thể giúp tôi xâm nhập chính tôi. Điều kiện là phải chấp nhận mọi thứ như chúng diễn ra, để mặc cho mình trôi nổi trong dòng chảy của vũ trụ. Tôi không vờ tỏ ra mình đã rất thành công trong chuyện này. Quả thực, tôi đã thất bại một cách thảm hại. Nhưng thất bại không che mờ được sự thành thật trong ý định. Ngay cả khi suýt chết, tôi tin rằng điều đó cũng giúp cho tôi trở nên tốt hơn.”
Đó là một sự vụng về kinh khủng. Ngôn ngữ của tôi mỗi lúc một thêm lủng củng và trừu tượng, và cuối cùng tôi cũng nhận ra ông bác sĩ đã không còn nghe nữa. Mắt mờ đi vì bối rối và thương hại trộn lẫn với nhau, ông nhìn chăm chăm vào một điểm vô hình phía trên đầu tôi. Tôi không còn ý niệm gì về thời gian trôi qua kể từ khi cuộc độc thoại của tôi bắt đầu, nhưng hẳn là cũng đủ để ông kết luận được tôi là một ca tuyệt vọng - một ca tuyệt vọng thực thụ, không phải những trò giả điên mà ông đã được đào tạo để nhận dạng. “Đủ rồi, cậu bé,” cuối cùng ông lên tiếng, cắt ngang một câu nói của tôi. “Tôi nghĩ tôi bắt đầu hiểu rồi.” Tôi ngồi đó trên ghế không nói gì trong một hoặc hai phút, run lên và toát mồ hôi, trong khi ông viết gì đó lên một tờ giấy in tiêu đề kiểu hành chính. Ông gập đôi nó lại và đưa cho tôi qua cái bàn. “Đưa cái này cho người sĩ quan phụ trách ở cuối hành lang,” ông nói, “và bảo người ngồi ngoài vào khi cậu đi ra.”
Tôi nhớ mình đã đi dọc hành lang với bức thư của ông trên tay, chiến đấu dữ dội với ham muốn mở nó ra đọc. Tôi không thể ngăn mình có cảm giác đang bị theo dõi, rằng tòa nhà này đầy những người có khả năng đọc được suy nghĩ của tôi. Viên sĩ quan là một người to lớn, quân phục chỉnh tề, ngực đeo một dãy huy hiệu và huân chương. Ông ta ngẩng đầu khỏi một chồng giấy tờ đặt trên bàn làm việc và lơ đãng ra hiệu cho tôi bước vào. Tôi đưa cho ông ta tờ giấy của bác sĩ tâm thần. Vừa liếc qua nó khuôn mặt ông ta giãn ra thành một nụ cười rộng. “Tốt rồi,” ông ta nói, “cậu vừa giải thoát cho tôi khỏi vài ngày làm việc.” Không giải thích gì thêm, ông ta xé những thứ giấy tờ nằm trên bàn rồi ném vào thùng rác. Ông có vẻ rất hài lòng. “Tôi rất mừng vì cậu được miễn. Lẽ ra chúng tôi sẽ phải tiến hành một cuộc điều tra kỹ càng về cậu, nhưng vì cậu không được nhận vào quân đội, nên khỏi phải làm nữa.”
“Một cuộc điều tra?” tôi hỏi.
“Tất cả những thứ tổ chức mà cậu từng tham gia ấy,” ông ta trả lời, gần như là vui vẻ. “Chúng ta không thể tiếp nhận những kẻ thích nổi loạn nhố nhăng và những kẻ gây rối vào quân đội được, phải không nào? Cái đó không tốt cho nhuệ khí chung.”
Sau đó, tôi không nhớ chính xác được chuỗi các sự kiện, nhưng tôi nhanh chóng ở trong một căn phòng cùng với những người không có khả năng và bị từ chối khác. Chúng tôi có khoảng một chục, và tôi nghĩ chưa bao giờ nhìn thấy một đám người thảm hại đến thế được tập trung lại cùng một nơi. Một người có khuôn mặt và cái lưng nổi đầy mụn xấu xí ngồi run lẩy bẩy trong một góc và nói chuyện một mình. Một người khác có cái tay bị teo. Đứng dựa vào tường, một người khác, nặng không dưới ba trăm pound, dùng miệng giả tiếng rắm và cười rộ lên sau mỗi lần phát ra tiếng động giống như một thằng nhóc bảy tuổi ngốc nghếch. Đây là những kẻ bị bỏ lại, những kẻ kém cỏi, những thanh niên không có chỗ cho mình ở bất kỳ đâu. Lúc ấy tôi gần như mệt đến mất cả ý thức, và tôi không bắt chuyện với ai hết. Tôi ngồi xuống một cái ghế gần cửa và nhắm mắt. Khi tôi mở mắt, một sĩ quan lay tay tôi lệnh cho tôi tỉnh giấc. “Cậu có thể về nhà,” ông ta nói, “xong rồi.”
Tôi đi qua phố dưới ánh mặt trời cuối buổi chiều. Như đã hứa, Zimmer vẫn đợi tôi trong quán.
Sau đó tôi nhanh chóng phục hồi cân nặng. Tôi phải lên được mười tám hoặc hai mươi pound trong vòng khoảng mười ngày, và đến cuối tháng tôi bắt đầu giống với con người mà tôi từng là. Zimmer cho tôi ăn với một chế độ dinh dưỡng nghiêm ngặt; anh nhét vào tủ lạnh đủ thứ đồ ăn, và ngay khi thấy tôi đứng vững được trên hai chân để có thể ra ngoài, anh bắt đầu tối nào cũng đưa tôi đến một quán bar gần đó, một nơi tối tăm và yên tĩnh, ít khách, để uống bia và xem các trận đấu bóng trên vô tuyến. Cỏ dường như lúc nào cũng có màu xanh nước biển trên cái vô tuyến đó, và các cầu thủ có dáng vẻ của những anh hề, nhưng chúng tôi cảm thấy thoải mái, ngồi sát nhau trong cái góc nhỏ của chúng tôi, ba hoa hàng giờ về tất cả những gì đang chờ đợi chúng tôi. Trong cuộc đời của hai chúng tôi đó là một giai đoạn yên bình tuyệt vời: một khoảng khắc bất động ngắn ngủi trước khi tiếp tục dịch chuyển.
Chính trong những cuộc trò chuyện đó mà tôi bắt đầu biết nhiều hơn về Kitty Wu. Zimmer thấy cô thật tuyệt vời, thật khó để không nhận thấy sự ngưỡng mộ trong giọng nói của anh khi nhắc đến cô. Thậm chí một hôm anh còn tuyên bố nếu không vì đã yêu một người khác thì chắc chắn anh đã yêu cô say đắm rồi. Cô gần với sự hoàn hảo hơn bất kỳ cô gái nào anh từng biết, anh tuyên bố, và nhìn toàn thể, điều duy nhất ở cô khiến anh thấy khó hiểu là tại sao cô lại có thể cảm thấy bị một sinh vật khốn khổ như tôi hấp dẫn.
“Tớ không nghĩ cô ấy bị tớ hấp dẫn,” tôi nói. “Chỉ là vì cô ấy tốt bụng thôi. Cô ấy thương hại tớ và đã hành động vì thế - cũng giống như những người khác thương hại lũ chó bị thương ấy.”
“Ngày nào tớ chẳng gặp cô ấy ạ. Tất cả mọi ngày trong vòng khoảng ba tuần. Cô ấy không ngừng nói đến cậu.” “Vô lý.”
“Tin tớ đi, tớ biết mình đang nói gì. Cô ấy yêu cậu đấy.”
“Thế thì tại sao cô ấy không đến gặp tớ?”
“Cô ấy bận. Phải đi học lại rồi, ở trường Juilliard ấy, và cô ấy còn đi làm thêm nữa.”
“Tớ có biết đâu.”
“Tất nhiên. Bởi vì cậu không biết gì hết. Ngày nào cậu cũng nằm trên giường, cậu thăm hỏi cái tủ lạnh, cậu đọc sách của tớ. Thỉnh thoảng thì rửa bát một lần. Làm thế quái nào mà cậu biết được chuyện gì cơ chứ?”
“Tớ đang hồi phục sức khỏe. Vài ngày nữa thôi, tớ sẽ trở lại bình thường.”
“Về mặt thể chất. Nhưng về tinh thần, cậu còn nhiều việc phải làm lắm.”
“Cậu muốn nói gì?”
“Nghĩa là cậu phải biết nhìn bên dưới bề mặt sự vật, M. S. ạ. Cậu phải sử dụng trí tưởng tượng.”
“Cái đó thì tớ luôn nghĩ là mình quá lạm dụng. Bây giờ tớ cố thực tế hơn, trên mặt đất hơn.”
“Đối với cậu, đúng, nhưng đối với những người khác thì cậu không thể. Cậu nghĩ tại sao Kitty lại giữ khoảng cách nào? Cậu nghĩ tại sao cô ấy không đến gặp cậu nữa nào?”
“Bởi vì cô ấy không có thời gian. Cậu vừa nói còn gì.”
“Điều đó chỉ giải thích được một phần.”
“Cậu làm tớ điên đầu quá, David.”
“Tớ đang cố chứng minh cho cậu là điều đó phức tạp hơn cậu nghĩ.”
“Được rồi, đồng ý, thế phần kia là gì?”
“Xấu hổ chứ còn gì.”
“Tớ không bao giờ nghĩ Kitty như vậy đâu. Chắc chắn cô ấy là người cởi mở nhất và nồng nhiệt nhất mà tớ từng gặp.”
“Đúng vậy. Nhưng, ở bên dưới, có cả một sự kín đáo vô cùng lớn, cả một sự tinh tế về tình cảm đích thực.”
“Cô ấy hôn tớ ngay lần đầu gặp nhau, cậu có biết không? Ngay trước lúc tớ đi khỏi đó, cô ấy đuổi theo tớ ra đến cửa, ôm lấy tớ, và hôn tớ rất nồng nhiệt lên môi. Tớ sẽ không gọi những điều đó là tinh tế hay kín đáo đâu.”
“Nụ hôn có tuyệt không?”
“Đó đúng là một nụ hôn kỳ lạ. Một trong những nụ hôn tuyệt vời nhất mà tớ từng có hạnh phúc được hưởng.”
“Cậu thấy không? Điều đó chứng tỏ là tớ có lý.”
“Nó không chứng tỏ gì hết cả. Đó chỉ là một thứ xảy đến vì cảm hứng trong một giây lát thôi.”
“Không. Kitty biết điều mà cô ấy làm. Đó là người tin vào bản năng, nhưng bản năng đó cũng là một kiểu trí khôn.”
“Cậu có vẻ rất chắc chắn đấy.”
“Thử đặt cậu vào chỗ cô ấy đi. Cô ấy yêu cậu, cô ấy hôn môi cậu, cô ấy bỏ mọi việc để đi tìm cậu. Và cậu làm gì cho cô ấy nào? Không gì hết. Một cái bóng của không có gì cũng không. Sự khác biệt giữa Kitty và những người khác là cô ấy sẵn sàng chấp nhận điều đó. Tưởng tượng đi, Fogg. Cô ấy cứu sống cậu, và cậu không nợ nần gì cô ấy cả. Cô ấy không chờ đợi ở cậu điều gì. Thậm chí cô ấy còn không chờ đợi tình bạn của cậu. Có thể là cô ấy cũng muốn, nhưng cô ấy sẽ không bao giờ đòi hỏi hết. Cô ấy quá tôn trọng người khác để mà có thể bắt họ hành động ngược với ý muốn của họ. Cô ấy cởi mở và nồng nhiệt, nhưng cùng lúc cô ấy thà chết còn hơn làm cho cậu nghĩ cô ấy đang ép buộc cậu. Đó chính là sự kín đáo của cô ấy đấy. Cô ấy đã đi khá xa rồi, giờ đây cô ấy không còn lựa chọn nào nữa: cô ấy ở lại nơi đang ở, và chờ đợi.”
“Cậu đang cố nói với tớ điều gì vậy?”
“Điều đó phụ thuộc ở cậu, Fogg. Cậu phải hành động.”
Theo những gì Kitty kể cho Zimmer, cha cô là một vị tướng Quốc dân đảng của Trung Hoa tiền cách mạng. Trong những năm ba mươi, ông giữ chức thị trưởng hoặc chỉ huy quân sự Bắc Kinh. Mặc dù là người thân cận với Tưởng Giới Thạch, nhưng có lần ông đã cứu sống Chu n Lai bằng cách đưa ông trốn an toàn khỏi thành phố nơi Tưởng đang giăng bẫy với cái cớ một cuộc gặp gỡ giữa Quốc dân đảng và cộng sản. Tuy thế vị tướng đã trung thành với lý tưởng quốc gia, và sau Cách mạng, ông đi Đài Loan cùng với những người ủng hộ Tưởng còn sót lại. Gia đình Wu rất đông đảo: một bà vợ cả, hai bà vợ lẽ, năm hay sáu đứa con, và rất nhiều gia nhân. Kitty là con người vợ lẽ thứ hai, sinh vào tháng Hai năm 1950, và mười sáu tháng sau, tướng Wu được phong làm đại sứ ở Nhật, và cả gia đình sang Tokyo. Chắc chắn đó là một thủ đoạn khôn khéo của Tưởng: bằng cái chức vụ quan trọng đó ông ta tỏ vẻ đề cao, nhưng cùng lúc lại đẩy đi xa khỏi Đài Bắc, trung tâm quyền lực, một vị sĩ quan thích nói thẳng và tính cách khó chiều. Vào thời đó, tướng Wu đã gần bảy mươi tuổi, và quãng thời gian mang tầm ảnh hưởng lớn của ông có vẻ như đã kết thúc.
Hồi nhỏ Kitty sống ở Tokyo, đi học các trường Mỹ, điều đó giải thích tại sao cô nói tiếng Anh giỏi đến vậy, và được hưởng toàn bộ những lợi thế mà vị thế của cô có thể mang lại: những lớp học múa ba lê, Giáng sinh theo kiểu Mỹ, xe ôtô có tài xế. Tuy nhiên, đó là một tuổi thơ cô độc. Cô kém cô chị cùng cha khác mẹ gần nhất mười tuổi, và một người anh trai, là chủ ngân hàng sống ở Thụy Sĩ, hơn cô đến ba mươi tuổi. Tệ hơn nữa, vị trí của mẹ cô, người vợ ba, không hơn gì một gia nhân trong đại gia đình. Bà vợ cả, đã sáu mươi tư tuổi, và người vợ hai, năm mươi hai tuổi, ghen với người mẹ trẻ và xinh đẹp của Kitty và làm tất cả những gì có thể để đày đọa bà trong nhà. Như Kitty đã nói với Zimmer, cuộc sống của họ hơi giống cuộc sống trong một triều đình phong kiến Trung Quốc, với tất cả những đối đầu, cạnh tranh, những toan tính bí mật, những âm mưu ngầm và những nụ cười xảo trá. Vị tướng ít khi có nhà. Khi không phải bận tâm với các nghĩa vụ quân sự, ông dành phần lớn thời gian để thu hút cảm tình của những người đàn bà trẻ tiếng tăm đáng ngờ. Tokyo là một thành phố đầy cám dỗ, và cơ hội cho những thú vui đó không bao giờ cạn kiệt. Cuối cùng ông có một cô nhân tình, mua cho cô ta một căn hộ đúng mốt, và tiêu hàng núi tiền: ông mua cho cô ta quần áo, đồ trang sức, và thậm chí cả một chiếc ôtô thể thao. Tuy nhiên, về dài hạn, tất cả những thứ đó vẫn không đủ, và ngay cả một sự điều trị tốn kém và đau đớn nhằm lấy lại tuổi xuân cũng không thể đảo ngược được các hậu quả của thời gian. Sự quan tâm của cô nhân tình giảm đi, và một tối khi vị tướng đến chỗ cô ta mà không báo trước, ông thấy cô ta đang ở trong vòng tay một người đàn ông trẻ hơn. Đã nổ ra một cuộc ẩu đả khủng khiếp: những tiếng la hét, móng tay cào xé, một chiếc sơ mi rách và lấm máu. Đó là ảo tưởng điên rồ cuối cùng của ông già. Vị tướng quay trở về nhà, treo lên tường phòng mình chiếc áo sơ mi rách tơi tả, và gắn lên đó một tờ giấy ghi ngày xảy ra biến cố: ngày 14 tháng Mười năm 1959. Ông để nó đấy cho đến khi chết, coi nó như nấm mồ chôn sự phù phiếm bị phá hủy của mình.
Rồi, mẹ Kitty qua đời, Zimmer không biết tại sao và cũng không biết trong hoàn cảnh nào. Vị tướng khi đó đã hơn tám mươi tuổi và sức khỏe suy sụp, nhưng trong một giây phút bất chợt quan tâm đến đứa con gái út, ông đã gửi cô sang học nội trú ở Mỹ. Kitty mới mười bốn tuổi khi cô đặt chân đến Massachusetts để vào học năm thứ nhất ở Fielding Academy. Nhìn vào tính cách của cô, cô không mất nhiều thời gian để hòa nhập và tìm cho mình một vị trí ở đó. Cô nhảy, diễn kịch, có bạn bè, học tập, đạt điểm cao. Sau bốn năm, cô biết mình sẽ không quay về Nhật. Cũng không phải về Đài Loan, và không đâu nữa cả. Nước Mỹ đã trở thành đất nước của cô, và bằng cách thu vén món tiền thừa kế ít ỏi nhận được sau khi ông bố qua đời, cô trả được món tiền nhập học ở Juilliard và đến ở New York. Cô ở đây đã được hơn một năm và đang học năm thứ hai.
“Nghe có vẻ quen quen, đúng không?” Zimmer nhận xét.
“Quen quen?” tôi hỏi. “Đó là một trong những câu chuyện lạ kỳ nhất mà tớ từng được nghe đấy.”
“Chỉ trên bề mặt thôi. Bỏ đi màu sắc địa phương, nó sẽ gần như trở thành câu chuyện của một người khác mà tớ biết. Tất nhiên là cũng có khác một chút.”
“Hừm, ừ phải, tớ hiểu cậu định nói gì. Mồ côi khốn khổ, kiểu đó chứ gì.”
“Chính xác.”
Tôi ngừng một lúc, để suy nghĩ đến những gì Zimmer vừa nói. “Tớ nghĩ là có một vài điểm giống,” cuối cùng tôi nói. “Nhưng cậu nghĩ những gì cô ấy kể là thật chứ?”
“Tớ không có cách nào để chắc chắn được về chuyện đó. Nhưng nếu dựa trên những gì tớ nhìn thấy được ở cô ấy cho đến bây giờ, tớ sẽ ngạc nhiên với điều ngược lại đấy.”
Tôi gật đầu và uống một ngụm bia. Rất lâu sau này, khi đã biết rõ về cô hơn. tôi hiểu là Kitty không bao giờ nói dối.
Càng ở nhà Zimmer lâu hơn. tôi càng cảm thấy bất tiện. Anh trả tiền cho cuộc hồi phục của tôi, và dù anh không bao giờ phàn nàn, tôi vẫn ngờ là anh không dư dả gì để có thể tiếp tục như vậy được lâu hơn nữa. Zimmer được gia đình ở New Jersey chu cấp một chút, nhưng về cơ bản anh vẫn phải tự trông chờ vào bản thân mình. Khoảng ngày hai mươi tháng đó, anh bắt đầu học ở Columbia chương trình cử nhân về văn học so sánh. Anh bị hấp dẫn với chương trình này vì trường chi một khoản học bổng - miễn phí tiền học và trả thêm hai nghìn đô la - nhưng ngay cả khi vào thời ấy một số tiền như vậy là khá lớn, thì vẫn không thể đủ sống được trong một năm. Tuy nhiên, Zimmer vẫn tiếp tục chăm sóc tôi bằng cách tiêu vô tội vạ những món tiền tiết kiệm còm cõi của anh. Rộng lượng như thế, hẳn anh phải có một động cơ khác lòng thương xót thuần túy. Từ năm đầu tiên khi chúng tôi ở chung phòng, tôi vẫn luôn có cảm giác anh có phần bị tôi áp chế, bị lấn lướt, có thể nói vậy, bởi những trò rồ dại căng thẳng của tôi. Giờ đây khi tôi đang gặp hoạn nạn, có thể anh coi đó là một cơ may để chiếm lấy ưu thế, để sửa lại cán cân bên trong của tình bạn chúng tôi. Tôi ngờ rằng anh không có ý thức về điều này, nhưng một chút trịch thượng hơi quá đà lộ ra trong giọng nói của anh khi anh nói với tôi, và thật khó để không cảm thấy sự khoái trá của anh khi trêu tức được tôi. Tuy nhiên, tôi chịu đựng được điều ấy, và không cảm thấy bị tổn thương. Mức độ tự đánh giá bản thân trong tôi giảm xuống thấp đến mức tôi đón nhận những hành hạ của anh với một sự thích thú bí mật, giống như một hình thức công lý, sự trừng phạt vô cùng xứng đáng dành cho các tội lỗi của tôi.
Zimmer là một chàng trai nhỏ bé hay bồn chồn, với mái tóc đen quăn và một dáng vẻ cứng nhắc, chỉn chu. Anh đeo kính gọng kim loại mà thời đó người ta thường hay thấy ở sinh viên, và để râu dài, khiến cho anh có dáng vẻ của một vị rabbi trẻ. Trong số tất cả các học sinh của trường Columbia mà tôi biết, anh là người xuất sắc nhất và có ý thức nhất, và không nghi ngờ gì nữa anh có đầy đủ phẩm chất để trở thành một nhân vật văn chương lớn nếu anh chịu khó. Chúng tôi chia sẻ niềm say mê với những cuốn sách khó hiểu và bị quên lãng (Cassandra của Lycophron, những đoạn hội thoại triết học của Giordano Bruno, những cuốn sổ ghi chép của Joseph Joubert, một vài ví dụ nhỏ về các khám phá chung của chúng tôi), nhưng trong khi tôi có xu hướng điên lên vì hào hứng và hòa nhập vào các tác phẩm ấy, Zimmer lại tỉ mỉ và có hệ thống, xâm nhập chúng đến một độ sâu khiến tôi thường phải kinh ngạc. Với tất cả các phẩm chất đó, anh lại không hề nuôi dưỡng một niềm tự hào đặc biệt nào cho tài năng phê bình của mình, chỉ coi chúng là cái gì đó thuộc tầm quan trọng thứ yếu. Mối bận tâm lớn nhất trong đời Zimmer là làm thơ, và anh dành nhiều giờ làm việc cật lực cho nó, viết từng từ một như thể số phận của thế giới tùy thuộc hết vào đó - chắc chắn đó là cách thức hợp lý duy nhất để tiến hành. Xét theo nhiều khía cạnh, những bài thơ của Zimmer rất giống với con người anh: ngắn gọn, căng thẳng, gượng gạo. Các ý tưởng của anh lẫn lộn với nhau theo một mật độ lớn đến mức thường xuyên khó mà tìm được nghĩa của chúng. Tuy thế tôi ngưỡng mộ sự kỳ lạ và thứ ngôn ngữ ánh màu đá lửa của chúng. Zimmer tin tưởng vào ý kiến của tôi, và tôi luôn trung thực hết mức có thể khi được anh hỏi ý kiến; tôi khuyến khích anh hết sức, nhưng cùng lúc tôi từ chối gượng nhẹ khi không thích điều gì đó. Về phần mình tôi không có chút tham vọng văn chương nào, và điều này rõ ràng là làm cho quan hệ giữa chúng tôi trở nên dễ dàng hơn. Nếu tôi phê phán tác phẩm của anh, thì anh biết chắc được rằng đó không phải là xuất phát từ một sự cạnh tranh ngấm ngầm giữa hai chúng tôi.
Anh yêu một cô gái từ hai hay ba năm nay, Anna Bloom, hay Blume, tôi chưa bao giờ chắc được là phải viết thế nào. Cô lớn lên trước nhà Zimmer, trong cùng một phố khu ngoại ô New Jersey, và học cùng lớp với em gái anh, nghĩa là kém anh vài tuổi. Tôi chỉ gặp cô hai hay ba lần, một cô gái nhỏ bé, tóc đen, khuôn mặt xinh xắn và tính cách hướng ngoại, sôi động, và tôi ngờ là Zimmer, với bản chất cần mẫn của mình, có thể không thực sự xứng với cô. Trong mùa hè, đột nhiên cô đi đến chỗ người anh trai, William, đang làm phóng viên tại một đất nước xa xôi, và kể từ đó Zimmer không nhận được tin tức gì của cô nữa - không có thư, không có bưu ảnh, không gì hết. Tuần nối tuần trôi qua, mỗi lúc anh thêm tuyệt vọng một chút vì sự im lặng này. Mỗi ngày bắt đầu bằng nghi lễ xuống hòm thư, và mỗi lần ra khỏi nhà hoặc trở về, anh đều mở và đóng lại cái hộp rỗng với cùng nỗi ám ảnh. Có thể vào bất kỳ giờ nào, cho đến cả hai hoặc ba giờ sáng, khi không còn chút cơ may nào có thể có gì đó mới mẻ xảy đến. Nhưng Zimmer không có khả năng chống lại được cám dỗ. Thường xuyên, khi chúng tôi trở về từ quán White Horse ở góc phố, say mềm vì bia, tôi lại phải tham dự vào cảnh tượng buồn bã của bạn tôi, lục tìm chìa khóa hòm thư, rồi thò một bàn tay mù quáng về phía cái gì đó không có ở đó, sẽ không bao giờ có ở đó. Có thể đây chính là lý do khiến anh chịu đựng được sự có mặt của tôi trong nhà lâu đến vậy. Vì không có gì khác tốt hơn, tôi là người để anh trò chuyện, một sự đánh lạc hướng khỏi những mối lo của anh, một hình thức khuây khỏa hài hước kỳ cục và không thể đoán trước.
Không phải vì thế mà tôi không trở thành nguyên nhân trong việc phá tán tiền bạc của anh, và thời gian càng trôi đi mà không có sự phản đối nào từ phía anh, tôi càng cảm thấy khó ở. Tôi có dự định tìm việc ngay khi lại sức (một công việc nào đó, không quan trọng là việc gì) và bắt đầu trả lại cho anh những gì anh đã tiêu cho tôi. Đó không phải là vấn đề tìm một nơi ở khác, nhưng ít nhất tôi cũng thuyết phục được Zimmer để tôi ngủ dưới đất còn anh quay trở lại giường của mình. Những giờ học ở Columbia bắt đầu vài ngày sau khi chúng tôi đổi phòng. Trong tuần đầu tiên, một tối anh về nhà với một mớ giấy tờ và trang trọng tuyên bố với tôi rằng một cô bạn của anh ở khoa tiếng Pháp, được giao dịch nhanh một tài liệu, vừa nhận ra rằng cô không có đủ thời gian. Zimmer hỏi cô có thể thuê lại anh để làm công việc đó không, và cô đã chấp nhận. Chính vì thế mà đống giấy kia đã đến chỗ chúng tôi, một bản báo cáo nhạt nhẽo khoảng một trăm trang về việc tái cấu trúc văn phòng lãnh sự Pháp ở New York. Ngay khi Zimmer nói với tôi, tôi đã hiểu đây là một cơ may để có thể tỏ ra có ích. Tôi nói rằng tiếng Pháp của tôi cũng tốt ngang với anh và rằng, vì lúc này tôi không phải lo quá nhiều việc, không có lý do gì mà không để cho tôi làm công việc dịch thuật này. Zimmer ngần ngừ, nhưng tôi đã chờ đợi điều đó, và dần dần tôi đẩy lui được sự do dự trong anh. Tôi giải thích với anh rằng tôi muốn tái cân bằng quan hệ giữa chúng tôi, và rằng công việc đó là một cách nhanh nhất và thuận tiện nhất để làm được điều ấy. Tiền sẽ thuộc về anh, hai hoặc ba trăm đô la, và ngay khi đó chúng tôi sẽ lại được bằng vai phải lứa với nhau. Lập luận cuối cùng này rốt cuộc cũng thuyết phục được anh. Zimmer thích chơi trò tử vì đạo, nhưng ngay khi hiểu ra điều đó có lợi cho tôi là anh liền nhường bước.
“Được rồi,” anh nói, “chúng ta có thể chia nhau làm, tớ nghĩ thế, nếu nó quan trọng với cậu đến vậy.”
“Không,” tôi trả lời, “cậu sẽ không được chạm vào. Toàn bộ số tiền sẽ thuộc về cậu. Nếu không sẽ không có chút ý nghĩa nào cả. Từng xăng tim sẽ thuộc về cậu.”
Tôi có được điều mình muốn, và lần đầu tiên từ nhiều tháng tôi bắt đầu cảm thấy cuộc đời mình lại có một mục đích. Zimmer dậy sớm để đi đến Columbia, và trong khoảng thời gian còn lại của ngày, tôi được tập trung hoàn toàn, tự do ngồi trước bàn của anh và làm việc không ngừng nghỉ. Đó là một văn bản tồi tệ, đầy thứ đặc ngữ văn phòng, nhưng nó càng gây khó khăn cho tôi, tôi lại càng hăng hái nhận lấy lời thách thức, từ chối không chịu rời bỏ cho đến khi một cái gì đó có nghĩa bắt đầu hiện ra thông qua những câu văn vụng về và què cụt. Chính sự khó khăn của công việc lại là một sự cổ vũ cho tôi. Nếu công việc dịch thuật này dễ dàng hơn, tôi sẽ không có cảm giác hoàn thành được một hình thức chuộc tội tương ứng với những lỗi lầm cũ của mình. Theo một cách nào đó, chính tính vô tích sự hoàn toàn của công việc này khiến cho nó có giá trị. Tôi cảm thấy như thể bị kết án phải làm những công việc khổ sai. Việc của tôi là cầm lấy một cái búa để đập đá, và khi mà đá đã vỡ, phải đập chúng ra cho đến khi chúng trở thành những mảnh còn nhỏ hơn nữa. Không có chút ý nghĩa nào. Nhưng quả thực là tôi không quan tâm đến kết quả. Chính bản thân việc này đã có một mục đích, và tôi lao vào đó với toàn bộ lòng quyết tâm của một người tù mẫu mực.
Khi trời đẹp, thỉnh thoảng tôi ra khỏi nhà đi dạo một chút trong khu phố để đầu óc thoải mái hơn. Khi đó là tháng Mười, tháng đẹp nhất trong năm ở New York, và tôi thích thú được ngắm nhìn ánh nắng mùa thu, quan sát thứ ánh sáng trông như đầy mới mẻ khi nó đập vào những tòa nhà bằng gạch. Mùa hè đã kết thúc, nhưng mùa đông vẫn còn xa, và tôi tận hưởng sự cân bằng giữa nóng và lạnh đó. Những ngày ấy, trên đường phố, nơi nào tôi đến người ta cũng chỉ nói về đội Mets. Đó là một trong những thời khắc đồng thuận hiếm hoi khi mọi người có cùng một ý nghĩ trong đầu. Người ta đi dạo với một cái đài đang tường thuật trận đấu, hàng đoàn người tập trung trước cửa kính các cửa hàng bán đồ điện gia dụng để xem trận đấu trên các màn hình không phát tiếng, những đợt nâng cốc chúc mừng đột nhiên nổ ra trong các quán bar góc phố, ở cửa sổ những căn hộ, trên những khoảng sân thượng vô hình. Trước hết có Atlanta ở bán kết, rồi Baltimore trong trận chung kết. Trong tám trận tháng Mười, Mets chỉ thua duy nhất một lần, và khi cuộc phiêu lưu kết thúc, New York dành cho họ một cuộc diễu hành đầy confetti vượt xa cả kỷ lục của cuộc diễu hành để chào đón các phi hành gia hai tháng trước. Hơn năm trăm tấn giấy đã rơi xuống đường ngày hôm đó, một kỷ lục kể từ đó chưa hề bị phá.
Tôi có thói quen ăn trưa ở Abindon Square, một công viên nhỏ cách căn hộ của Zimmer một khối nhà rưỡi về phía Đông. Ở đó có một bãi đất cho trẻ con chơi, và tôi rất thích sự tương phản giữa thứ từ ngữ của bản báo cáo tôi đang phải dịch và cái năng lượng sôi trào mạnh mẽ ở những đứa trẻ hò hét chạy xung quanh. Tôi nhận ra điều này giúp tôi tập trung, và nhiều lần tôi mang bản dịch của mình đến đó để làm, ở giữa đám hỗn loạn ấy. Chính trong một buổi chiều giữa tháng Mười đó cuối cùng tôi gặp lại Kitty Wu. Tôi đang vật lộn với một đoạn rất khó, và chỉ đến khi cô đã ngồi xuống ghế bên cạnh tôi mới nhận ra. Đó là cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi sau khi Zimmer lên lớp cho tôi trong quán bar, và sự kinh ngạc khiến tôi đờ người ra. Trong nhiều tuần tôi đã tưởng tượng tất cả những thứ xuất sắc mà tôi sẽ nói với cô khi gặp lại, nhưng hiện tại khi cô đã ở đây bằng xương bằng thịt, tôi lại chỉ có thể nói lúng búng vài câu.
“Chào ông nhà văn,” cô nói. “Thật vui vì được thấy ông đứng vững trở lại.”
Hôm đó cô mang kính râm, môi đánh son đỏ chói. Bởi mắt cô bị che sau cặp kính sẫm màu, tôi gặp những khó khăn vô hạn mới có thể rời được mắt khỏi môi cô.
“Thật ra không phải hoàn toàn là tôi viết,” tôi nói. “Đây là một bản dịch. Một công việc để kiếm chút tiền.”
“Em biết rồi. Hôm qua em gặp David, anh ấy kể cho em rồi.”
Dần dần, tôi bắt nhịp được với cuộc nói chuyện. Kitty có một tài năng tự nhiên buộc được người khác nói, và thật dễ để nói theo cô, cảm thấy thoải mái khi có cô ở đó. Như một ngày xa xôi bác Victor đã giải thích cho tôi, một cuộc nói chuyện giống như một trận đánh bóng. Một đồng đội tốt ném bóng thẳng vào găng cho anh, đến mức gần như anh không thể bắt trượt được; khi anh ta là người bắt, anh ta bắt được mọi đường bóng, ngay cả những đường lệch nhất và kém cỏi nhất. Kitty là người như vậy. Cô không ngừng ném bóng vào thẳng tay tôi, và khi tôi trả lại bóng, cô làm mọi cách để bắt được chúng: nhảy lên bắt những quả bay qua đầu, khéo léo bay sang phải hoặc sang trái, tăng tốc để bắt được bóng ở những tư thế rất khó. Hơn thế nữa, cô còn có tài đến mức làm tôi luôn cảm thấy rằng tôi đã cố tình ném thật dở, như thể mục đích duy nhất của tôi là làm cho trận đấu trở nên hào hứng hơn. Cô làm cho tôi tỏ ra mình giỏi hơn thực chất và điều đó mang lại cho tôi sự tự tin, sau đó giúp tôi ném lại cho cô những quả bóng dễ bắt hơn. Nói cách khác, tôi bắt đầu nói chuyện được với cô, chứ không phải với chính tôi, và sự thích thú trong việc này lớn hơn mọi thích thú mà tôi từng cảm thấy lâu nay.
Cuộc nói chuyện của chúng tôi tiếp tục trong ánh sáng tháng Mười, và tôi bắt đầu tìm cách kéo dài nó hơn nữa. Tôi quá cảm động và sung sướng để chấp nhận được rằng nó sẽ kết thúc, và việc Kitty đeo trên vai một cái túi to bên trong thò ra những thứ của người học múa - một tay áo nịt, cổ một chiếc áo ngắn tay, một góc khăn tắm - gây cho tôi niềm sợ hãi là cô sắp sửa đứng dậy và lao đến một cuộc hẹn khác. Trong không khí bắt đầu nhuốm hơi lạnh, và sau khoảng hai mươi phút ba hoa trên ghế, tôi nhận ra Kitty đang hơi run lên. Thu hết can đảm trong người, tôi nêu nhận xét về cái lạnh đang đến, và đề nghị chúng tôi về nhà Zimmer, nơi tôi có thể pha cà phê nóng cho cả hai. Thật kỳ diệu, cô đồng ý và trả lời cô thấy ý kiến của tôi rất hay.
Tôi bắt đầu chuẩn bị cà phê. Phòng khách cách biệt với bếp bằng phòng ngủ, và thay vì chờ tôi trong phòng khách Kitty ngồi lên giường để chúng tôi có thể tiếp tục nói chuyện. Việc chuyển vào bên trong nhà đã thay đổi âm sắc cuộc trò chuyện của chúng tôi, cả hai chúng tôi trở nên bình tĩnh hơn, và rụt rè hơn, như thể đang tìm cách diễn đạt tốt nhất vai trò mới của mình. Lơ lửng một làn không khí gấp gáp kỳ lạ, tôi sung sướng vì được đi đun cà phê và có thể bằng cách ấy che giấu sự bối rối đang đột nhiên xâm chiếm tôi. Một điều gì đó sẽ diễn ra, nhưng tôi quá xúc động để có thể nghĩ thêm về cảm giác ấy, và tôi nghĩ nếu mình tự cho phép một hy vọng dù chỉ nhỏ nhất, thì điều đó sẽ bị phá hủy ngay cả trước khi thành hình. Kitty trở nên trầm lặng, trong hai mươi hay ba mươi giây cô không nói gì nữa. Tôi tiếp tục loay hoay trong bếp, mở và đóng tủ lạnh, lấy tách và thìa, đổ sữa vào một cái lọ, và cứ thế mãi. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi quay lưng lại Kitty và, trước khi tôi có thời gian biết được đó là điều gì, cô không còn ngồi trên giường mà đã đứng trong bếp. Không nói một lời, cô đi ra sau lưng tôi, ôm lấy tôi và dựa đầu lên lưng tôi.
“Ai thế?” tôi hỏi, vờ như không biết.
“Hoàng hậu Rồng đây,” Kitty đáp. “Bà ấy đến để bắt anh.”
Tôi cầm lấy tay cô, cố không run lên khi cảm thấy làn da mềm mại của cô. “Tôi nghĩ bà ấy bắt được tôi rồi”, tôi thì thầm.
Im lặng một chút, rồi Kitty ôm chặt tôi hơn. “Nói cho em đi, anh có yêu em một tí xíu không?”
“Hơn một tí xíu. Em biết mà. Hơn một tí xíu rất nhiều.”
“Em không biết gì hết. Em đã chờ đợi quá lâu rồi.”
Toàn bộ câu chuyện có gì đó như thể tưởng tượng. Tôi ý thức được là cô có thật, nhưng cùng lúc còn hơn cả thật, gần với một sự phóng chiếu điều gì đó mà tôi chờ đợi từ thực tế hơn tất cả những gì từng xảy đến với tôi trước đây. Những ham muốn của tôi rất mạnh, thậm chí còn đầy thôi thúc, nhưng phải nhờ đến Kitty chúng mới có thể diễn đạt được. Tất cả lên tiếng theo các phản ứng của cô, sự tinh tế trong những khích lệ của cô, nghệ thuật trong những động tác của cô, sự kiên quyết của cô. Kitty không sợ hãi chính mình, cô sống một cách thoải mái không vướng mắc với cơ thể mình. Điều đó hẳn là có liên quan với nghề vũ công của cô, nhưng đúng hơn là ngược lại. Vì thoải mái trong cơ thể mình, nên cô có thể nhảy múa.
Chúng tôi làm tình suốt nhiều giờ liền trong ánh sáng buổi chiều nhạt dần của căn hộ Zimmer. Chắc chắn đó là một trong những điều tuyệt vời nhất mà tôi từng trải qua, và đến cuối cùng tôi nghĩ mình đã chuyển hóa một cách sâu sắc. Tôi không chỉ muốn nói về chuyện tình dục hay những biến chuyển của ham muốn, mà là một sự tan vỡ đầy ngoạn mục của những bức tường bên trong, một cơn động đất ở chính giữa nỗi cô đơn của tôi. Tôi đã quá quen với cô độc đến mức không thể tưởng tượng được việc đó lại còn có thể. Tôi đã tự buộc mình sống một lối sống, và rồi, vì những lý do hoàn toàn không thể hiểu nổi, cô gái Trung Quốc xinh đẹp này đứng trước tôi, như thể một thiên thần hạ xuống từ một vũ trụ khác. Không thể nào không đem lòng yêu cô, không thể không biến đổi vì điều giản dị là có cô hiện diện.
Sau hôm ấy, ngày của tôi trở nên bận rộn hơn. Tôi làm việc với bản dịch buổi sáng và buổi chiều, tối đến tôi tới gặp Kitty, thường là vào thành phố, khu xung quanh Columbia và Juilliard. Nếu có một khó khăn, thì đó là thật khó để một mình với nhau. Kitty ở nội trú, chung phòng với một cô bạn học, và trong căn hộ của Zimmer không có cánh cửa nào ngăn cách phòng ngủ với phòng khách. Ngay cả khi có cửa, cũng không thể nghĩ đến chuyện tôi dẫn Kitty về đó. Nhìn vào tình trạng đời sống tình cảm của Zimmer giai đoạn này, tôi không có lòng dạ nào làm việc ấy: bắt anh phải nghe những âm thanh cuộc tình ái của chúng tôi, bắt anh phải ngồi đó trong phòng bên cạnh lắng nghe những tiếng rên rỉ và thở hổn hển của chúng tôi. Thỉnh thoảng, cô sinh viên kia cũng đi chơi buổi tối, và chúng tôi lợi dụng sự vắng mặt của cô để lao lên chiếc giường nhỏ của Kitty. Những lần khác, các căn hộ không người ở là nơi chúng tôi hẹn nhau. Kitty là người phụ trách các chi tiết của cuộc dàn xếp, thông qua bạn bè, hoặc bạn của bạn, những người cô hỏi mượn một căn phòng trong vòng vài giờ. Toàn bộ câu chuyện mang một khía cạnh đáng bực bội, nhưng cùng lúc có điều gì đó gấp gáp hơn, một nguồn kích thích thêm vào niềm đam mê của chúng tôi yếu tố hiểm nguy và không chắc chắn. Chúng tôi cùng nhau trải qua các hiểm họa mà giờ đây tôi thấy khó có thể tưởng tượng, những hiểm họa vô nghĩa rất có thể khiến cho tình hình trở nên khó khăn hơn. Chẳng hạn, một hôm, chúng tôi dừng thang máy giữa hai tầng gác, và trong khi các cư dân của tòa nhà, tức điên lên vì phải chờ đợi, la hét và đập cửa, tôi tụt quần jeans của Kitty cùng chiếc quần lót nhỏ của cô và bằng lưỡi của mình, tôi làm cho cô đạt tới cơn cực khoái. Một lần khác, trong một bữa tiệc, chúng tôi làm tình trên sàn phòng vệ sinh, mà chúng tôi khóa trái cửa lại sau lưng, không buồn để ý đến những người xếp hàng trong hành lang. Đó là một thứ kỳ bí dục tình, một thứ tôn giáo bí mật chỉ dành riêng cho hai tín đồ. Trong suốt thời kỳ đầu tiên của mối quan hệ giữa chúng tôi đó, chỉ cần nhìn nhau cũng khiến chúng tôi quay cuồng đầu óc. Ngay khi Kitty lại gần, tôi đã bắt đầu nghĩ đến làm tình. Tôi không thể ngăn tay mình chạm vào cô, và cơ thể cô càng trở nên thân thuộc với tôi, tôi càng muốn được tiếp xúc với nó. Một tối, thậm chí chúng tôi còn làm tình sau giờ học múa của cô ngay giữa phòng thay quần áo, sau khi bạn của cô đã ra về. Cô sẽ phải tham gia một buổi diễn trong tháng sau và tôi tìm cách đến dự các buổi diễn tập của cô mỗi khi có thể. Ngoài việc ôm lấy cô, tôi không biết còn có cách nào tốt hơn là nhìn Kitty nhảy múa, và tôi theo dõi chuyển động của cô trên sàn diễn với một sự chăm chú gần như bệnh lý. Tôi yêu điều đó, và tuy thế tôi không hiểu được gì hết. Tôi hoàn toàn xa lạ với khiêu vũ, nó nằm bên ngoài địa hạt từ ngữ, và tôi không có cách nào khác ngoài việc ngồi im lặng ở đó, buông thả cho sự chiêm ngưỡng chuyển động thuần túy.
Tôi hoàn thành bản dịch vào khoảng cuối tháng Mười. Zimmer nhận được tiền từ cô bạn vài ngày sau, và tối hôm đó tôi và Kitty đi ăn cùng anh ở Moon Palace. Tôi là người chọn quán ăn, vì tính chất biểu tượng của nó hơn là vì chất lượng đồ ăn, tuy thế bữa ăn lại rất ngon vì Kitty nhờ nói được tiếng Quan Thoại với người phục vụ, gọi được những món không có trên thực đơn. Zimmer rất hào hứng, không ngớt nói về Trotsky, về Mao, về lý thuyết cách mạng liên tục, và tôi nhớ đến một lúc Kitty ngả đầu lên vai tôi, với một nụ cười mỏi mệt, và cả hai chúng tôi ngả ngón trên những chiếc gối nhỏ trên ghế, để mặc Zimmer tiếp tục cuộc độc thoại và biểu lộ sự đồng tình của chúng tôi bằng cách gật đầu trong khi anh giải quyết các vướng mắc trong sự tồn tại của nhân loại. Với tôi đó là một khoảnh khắc tuyệt diệu, một khoảnh khắc vui sướng và cân bằng đặc biệt, như thể những người bạn tập hợp ở đây để chào mừng sự trở về của tôi với đất nước của những người sống. Sau khi bàn đã được dọn, chúng tôi mở giấy gói những cái bánh may mắn và xem xét với vẻ nghiêm trang vờ vịt những gì có ở trong đó. Thật lạ, tôi còn nhớ rõ tờ giấy của tôi như thể vẫn đang cầm nó trên tay. Trên đó viết: “Mặt trời là quá khứ, trái đất là hiện tại, mặt trăng là tương lai.” Sau này, tôi sẽ còn gặp lại câu văn khó hiểu đó, và tôi nhìn ngược lại thời gian để cảm thấy ấn tượng rằng sự tình cờ mang lại nó cho tôi tại Moon Palace chứa đựng một sự thật mang tính tiên báo kỳ bí. Với những lý do mà tôi không nghĩ đến vào lúc ấy, tôi nhét mẩu giấy vào ví và chín tháng sau, khi đã quên mất sự tồn tại của nó, tôi vẫn luôn mang nó trên người.
Sáng hôm sau, tôi bắt đầu đi tìm việc. Không có kết quả trong ngày đầu tiên, ngày thứ hai cũng không khá hơn. Tôi nhận ra rằng với những tờ báo tôi sẽ không thu được kết quả nào hết, và quyết định đến Columbia thử vận may ở văn phòng việc làm sinh viên. Với tư cách cựu học sinh ở đây, tôi có quyền sử dụng tiện ích đó, và vì sẽ không phải trả tiền nếu họ tìm được việc cho tôi, tôi thấy thật hợp lý khi bắt đầu từ đây. Chưa đầy mười phút sau khi vào sảnh Dodge, tôi nhìn thấy câu trả lời cho vấn đề của mình, được đánh máy trên một tờ giấy treo ở góc trái phía dưới của bảng thông tin. Thông báo tìm người làm được viết như sau: “Người cao tuổi ngồi xe lăn tìm thanh niên giúp việc ở nhà. Đi dạo hàng ngày, một chút công việc thư ký. 50 đô la một tuần, bao ăn ở.” Chi tiết cuối cùng với tôi mang tính quyết định. Tôi sẽ không chỉ bắt đầu kiếm được tiền, mà cuối cùng còn có thể đi khỏi nhà Zimmer. Hơn thế nữa, tôi sẽ đến ở đại lộ West End tại đoạn giao với phố Tám mươi tư, nghĩa là gần với Kitty hơn rất nhiều. Có vẻ như là hoàn hảo. Còn về bản thân công việc, không có gì để thích thú cả, nhưng dù sao trên thực tế tôi cũng không có nơi nào để mà thích thú hết.
Tôi gọi điện ngay lập tức để xin phỏng vấn, lo lắng với ý nghĩ có ai khác đã giành được vị trí đó trước tôi. Hai giờ sau, tôi ngồi trước mặt người chủ tương lai, và tối hôm ấy, vào lúc tám giờ, ông gọi điện cho tôi ở nhà Zimmer để thông báo là tôi đã được nhận. Nghe ông nói, có thể nghĩ ông đã không dễ dàng để quyết định và tôi đã được chọn trong số nhiều ứng cử viên sáng giá khác. Xét về dài hạn, điều đó chắc chắn không thay đổi được gì, nhưng nếu khi ấy tôi biết được là ông nói dối, hẳn tôi sẽ có suy nghĩ chính xác hơn về điều đang chờ đợi tôi. Bởi vì sự thật là không có ứng cử viên nào khác. Tôi là người duy nhất đến xin được làm công việc đó.