A good book is always on tap; it may be decanted and drunk a hundred times, and it is still there for further imbibement.

Holbrook Jackson

 
 
 
 
 
Tác giả: Tô Hoài
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1778 / 36
Cập nhật: 2017-08-29 15:43:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Kỷ Niệm Ấn Ðộ
ÔI TỪ THÀNH PHỐ BOM-BAY sang miền Tây Băng-gan đến Can-cút-ta, ngang Ấn Độ rồi lên vùng núi Hy-ma-lay-a phía Bắc.
Mênh mông Ấn Độ, biết đi đến thế nào là biết được! Thế mà mới chỉ một bước chân cũng có thể hiểu mình đương ở đâu. Khi thấy một cánh tay múa lên rập rờn như sóng trong tiếng trống “tra ba la”… Khi thấy những con người hiền hậu, mơ màng... Dặm đường và bãi cỏ gió cuốn sáng trăng. Sông Hằng lấp lánh mé ánh trăng đêm. Đêm Ấn Độ hắt bóng đại dương tím man mác, trăng sao chấp chới như sắp rơi lung tung cả xuống đầu... Khách đáp máy bay, tàu hỏa cũng dùng cơm chay như bữa ăn ở trong làng. Có lẽ vì đường đương qua các vùng sông Hằng. Có lẽ những chúng sinh này đương hành hương qua đất Phật phát tích. Có lẽ cũng chẳng vì nỗi gì. Ở đây, người ăn chay, người ăn mặn đều nhiều như nhau.
Nhưng, một so sánh bâng quơ bỗng đến với tôi. Phải vì nắm cơm nếp đậu đen, miếng đậu xanh ướp lạnh tẩm mật ong hay chiếc bánh dừa đường phèn, dễ gợi hứng người ta nên ăn chay trường, mà tôi chợt nhớ nửa đêm ấy qua vùng trời I-ran đến đây.
Cái lão Ca-tơ đương làm ồn thế giới vì chuyện năm mươi người Mỹ bị cụ giáo chủ Khô-mê-ni giam cả ngót năm nay ở Tê-hê-ran. Lão cáo già này đã giở đủ ngón: cắt ngoại giao, cúp buôn bán, cướp tiền I-ran gửi ngân hàng nước ngoài, rồi hạm đội 6, hạm đội 7 xông đến cửa vịnh Ba Tư. Rồi máy bay biệt kích Mỹ đào tường khoét ngạch chui vào I-ran.
Cả đêm tôi bình yên tới sân bay Tê-hê-ran, hôm sau đọc báo mới biết đêm qua có năm chiếc Si-núc và một C.130 rơi (hay bị bắn rơi) ở sa mạc Đa E-ka-via, chết mấy trăm lính Mỹ. Đến bây giờ, những điều cay hơn ớt đó vẫn là một bí ẩn: Mỹ đi cướp tù thất bại bởi “trục trặc kỹ thuật” hay vì không quân I-ran đã phục kích trúng.
Ở đâu, có lẽ chỉ nhộn nhạo ở xung quanh lão Ca-tơ bên Mỹ. Còn sân bay quốc tế Tê-hê-ran đêm ấy vẫn một màu đèn xanh dịu. Cô phục vụ đưa khách lên xuống có quầng mắt tím huyền bí và hoang dại, nụ cười nở vàng trên cặp môi màu nghệ. Bữa ăn nhẹ trên máy bay của hành khách dường như cũng là nét cười mỉa cái công phu trò trẻ cấm chợ ngăn sông của đế quốc Mỹ: bởi ở Tê-hê-ran vẫn có cam Ma-rốc đưa lên, có giấy lau miệng nhập từ La Hây bên Hà Lan.
Đến cách Can-cút-ta trên sáu trăm ki-lô-mét mà vẫn nắng chẳng kém dưới cửa biển. Bóng cây xanh rờn mà gió nóng lùa từng đợt như hun vào mặt.
Từ Ba-đô-gra trở lên, qua những cánh đồng đầu nguồn châu thổ sông Hằng. Mỗi nơi một thời tiết, một sinh hoạt khác nhau. Ở đây thật nóng nực, nhưng váy áo những cô gái làm đồng lại đỏ gắt lẫn với màu hoa phượng. Người ta trân trọng những phong tục đáng yêu. Khách đến mùa hạ được quàng cổ một tràng hoa huệ trắng. Tay áo lại còn lồng thêm một chuỗi hoa nhài trắng nõn.
Cây cỏ sao mà hệt ở những Thái Bình, Nam Định hay An Giang quê mình. La liệt các xó xỉnh, mọc những rau rền đất, cà độc dược, lục bình, hoa vòi voi xanh. Tha hồ trẻ con chơi đồ lá thầu dầu tía, cây ké có quả gai, trẻ chăn trâu quê ta hay ngắt để ném trộm vào mái tóc những cô thợ cấy, khó mà gỡ ra. Hoa ô môi hồng, hoa bằng lăng tím, cây mít lúc lỉu quả trong vườn. Những trái xoài chín đỏ lịm như mận. Lại có hoa ô môi vàng, mỗi cánh một mảnh hình tím tỏa trong nắng vàng hơn nắng.
Có lúc dừng xe, chúng tôi vào làng uống nước.
Đâu cũng vườn ruộng, làng mạc, sông nước, đi suốt ngày vẫn thế. Bang Tây Băng-gan hơn hai trăm triệu người châu thổ sông Hằng sinh sống trên 35 vạn ki-lô-mét vuông - đồng bằng to hơn tất cả những đồng bằng trên thế giới.
Ngày mai, ngày kia ra sông Hằng thì rồi sao. Vùng sông Hằng có người đến sớm vào thời kỳ đầu tiên trên trái đất, người a-ri-an với truyền thuyết chạy nạn hồng thủy tới định cư từ giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên - nguyên một vùng đất lành ấy đã sinh sôi biết bao nhiêu ông thánh, ông Phật đạo Bà-la-môn, đạo Phật, đạo Hồi. Triết lý đã từ cuộc sống con người rồi mới thành đạo - có người mới có thánh. Như nước ta, từ cổ xưa, biết bao ông Thành hoàng làng được hương khói thờ phụng không phải chỉ là những ông tướng của vua Hùng hay thời Bà Trưng, thời Lý, Trần... Vô khối người bình thường, những người lội ao bắt cá, người đi cày, người ăn mày, người nghèo đi ăn trộm bị đánh chết, gặp giờ linh đã hiển thánh. Đạo nào được sinh ra cũng bởi lòng mong muốn và niềm tin của con người. Triệu triệu ông Thánh, ông Phật đã ở lẫn với người rồi hóa qua các đời như thế.
Mỗi ông Phật sinh ra ở hai bên sông Hằng đã thành một đạo, một đời rồi. Phải như câu tục ngữ Việt Nam hằng hà sa số đầu tiên có ngụ ý này chăng. Mới chỉ nghỉ chân uống nước ở ngoại ô Ba-đô-gra mà đã được nghe sự tích những mấy ông Phật.
Trung tâm đạo Bà-la-môn ở Vác-xi-ni trên bờ sông Hằng đây. Biết bao người đã nhờ cách sống của mình được nhiều người bắt chước mà thành đạo. Phật không ở trong chùa, Phật ở bụng người, tay người, nghĩ điều lành chưa đủ mà phải làm điều lành. Ở Vác-xi-ni có ông Phật Nam-đơ lái đò, ông Phật thợ dệt Ka-bu, ông Phật Sa-da-na bán thịt, ông Phật Xinh làm nghề cạo râu, ông Phật Ra-vi-đát thì đi chữa giày.
Chúng tôi ngồi trong bóng vườn dừa trông ra thành phố xôn xao người đi trong nắng trưa. Một bác thợ cởi trần ngồi xổm cạo râu cho một người ngồi xếp bằng trên mặt đất. Những người ngủ trên tấm ghế bố dưới gốc cây. Hai cô hát xẩm, bập bùng tiếng trống cơm. Một chiếc xe buýt sơn xanh mới, trên kính cửa viết một câu đùa hóm hỉnh: “Xe này không dừng lại ở Luân Đôn”. Và những chiếc xe kéo bánh gỗ chở khách vừa đủng đỉnh vừa bối rối giữa đám ô tô hiện đại sang trọng. Châu Á chúng ta ở quãng này hầu như còn triền miên kỷ niệm quá khứ và nét mặt người đi đường vẫn thoáng mơ màng như còn có cuộc sống ở đâu ngoài hành tinh cũng nên.
Người trong làng kể chuyện xưa có ông thợ Ra-vi-đát, sau thành Phật, ngày đêm tay dao, tay da, với các thợ bạn, cặm cụi chữa giày, đóng giày. Thiếu thốn, khổ cực. Nhưng chữa giày cho người nghèo ông không bao giờ lấy tiền. Một hôm, có ông phật giả làm người đi đường vào chữa giày. Ra-vi-đát thấy khách mặc áo rách, bèn không lấy tiền chữa. Ông khách cho Ra-vi-đát một hòn đá. Nói đá ấy có phép làm nên nhà cửa, vàng bạc. Ra-vi-đát ngồi nghe khách dặn dò, tay vẫn khâu giày. Ít lâu sau, ông Phật trở lại. Ngỡ Ra-vi-đát đã có nhà đẹp, quần áo lành và người hầu hạ. Nhưng vẫn thấy Ra-vi-đát và các thợ bạn ngồi chữa giày trong lều như dạo trước. Hỏi đến hòn đá có phép lạ, Ra-vi-đát nói hòn đá ấy vẫn ở chỗ mái lều mà khách đã gài lên đấy.
Những người làng mời chúng tôi nước dừa và tặng tràng hoa nhài rồi hát bài hát ca tụng ông Phật chữa giày Ra-vi-đát cho chúng tôi nghe:
Có một nơi tên là Be-gum-pa-ra
Ở đấy không biết cái gì là đau khổ
Ở đấy không ai phải lo không có công việc
Không sợ, không có điều gì hối hận, không có cái chết.
Ai cũng là bạn
Trời biết người và người cũng biết trời
Hãy tìm đến Be-gum-pa-ra
Ở đấy có niềm vui mãi mãi
Sự trung thực mãi mãi
Hãy tìm đến Be-gum-pa-ra
Ai có hỏi thì nói
Tôi là bạn thợ giày Ra-vi-đát...
Tôi đương đi trong một vùng đất trời hằng hà sa số những Phật là Phật - xứ sở của sông Hằng bủa khắp đồng bằng mà nhánh Giam-na này của con sông thần tiên chảy vào qua đến tận ngoại ô thủ đô Tân Đê-li.
Tôi gặp được sự thông cảm của hai đất nước, như từ trong tâm hồn. Cứ không dưng mà cũng thấy. Một câu giản dị đã thành tục ngữ từ lâu, mà chỉ ở Ấn Độ mới có thể có:
Tên anh, tên tôi là Việt Nam
Sự thông cảm giữa chúng ta phải có gốc tích từ bao đời mới nên được những lời lẽ phong dao tục ngữ chí tình đến như thế. Có phải như năm trước, tôi đã có lần qua các vùng Trung Ấn, làng nào cũng thấy hao hao như các làng ven kênh lạch miền Nam nước mình. Áo bà ba trắng đóng khuy nách. Đôi giày da như giày Gia Định, giày mõm nhái. Cái xà rông quấn vổng lên. Một lá xuồng sào chống rung rinh lướt qua kênh...
Không phải chỉ bây giờ. Ai nhớ được từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, đã có những nhà sư Tây Trúc sang tu ở nước ta. Các hòa thượng Ma-ha-kì-vực, Ca-ma-la-thập, Ca-li-a-na-nu-xi. Đến năm 580, nhà sư Tỳ-ni-đà-lưu-chí người Tây Thiên Trúc đến Việt Nam, lập ra phái Thiền Tông, tu tại chùa Pháp Vân huyện Gia Ninh phủ Thuận An - Hà Bắc bây giờ.
Năm trăm năm sau, Lý Thái Tông đã làm thơ viếng vị cao tăng:
Cõi Nam đầu bước tới
Nghe đã đượm mầu thiền
Tin Phật, mau thêm rộng
Nguồn tòng, khéo hợp duyên
Non già ngời bóng nguyệt
Cõi nhã nức mùi sen [1]
Sử sách cũng ghi từ nghìn năm trước, đã có các nhà sư nước ta tìm về cội gốc thiền học đạo. Ba người đánh cá và một người làm ruộng đi tu, là Từ Đạo Hạnh quê Từ Liêm, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không ở Hà Nam. Ba nhà sư đã cùng nhau lặn lội sang Ấn Độ.
Bây giờ vẫn còn truyền lại bài kệ của người chở đò đã đọc và biếu gậy, chúc các vị sư lên đường:
Đạo lý đương nhiên là con đường của mọi người
Các ông chịu khó đi học xa... [2]
o O o
Tôi vẫn trên đường từ Can-cút-ta đi vào chân núi vùng Hy-ma-lay-a.
Đường đưa tôi vào rừng thưa rồi lên núi đột ngột ngay giữa cánh đồng. Không một khoảng cách mua sim, ruộng trằm, ngổn ngang đồi trọc như trung du ta. Hy-ma-lay-a từ phía Ấn Độ lên, chân núi vòng kiềng ra hơn ba nghìn ki-lô-mét từ Ca-sơ-mia xuống Pun-giáp sang miền Tây Băng-gan. Phía bên kia, các nước Nê-pan, Xích-kim, Bu-tan, Băng-la-đét, Trung Quốc... Núi xếp so le trập trùng thành các mái nóc nhà trái đất - lại vào những núi non hằng hà sa số khác của đất nước mênh mông này.
Đi từ Đắc-di-linh đến thị trấn Pha-lút xa nhất, cũng chỉ ngoài trăm ki-lô-mét. Ở San-đa-phu, vùng giáp giới ba nước, từ Nê-pan xuống Xích-kim, sang Bu-tan toàn qua trên cao ngoài ba nghìn thước lưng Hy-ma-lay-a. Những nơi cuối cùng vẫn còn người ở. Thân cây, cả đến những bụi trúc và đám sậy núi ở đấy cũng khoác một nệm rêu đen sì.
Đắc-di-linh cũng tương tự các vùng cao nguyên nước ta. Như ở Phù Yên lên Tà Sùa, đi về Chống Chia hay Chống Pác Cừ. Buổi chiều ngồi uống rượu ngô trong làng Mông, mùi củi thông sưởi thơm vấn vương vách gỗ. Nghe xa thật xa, tiếng suối. Như vào giữa hoang vu rừng nguyên sinh, mà thật sự là hoang vu.
Nhưng bàn tay người Anh trước kia đã làm những gì ở Đắc-di-linh khác hẳn cách thực dân Pháp báo hại nước ta.
Quanh Đắc-di-linh trông ra đâu cũng lốm đốm bóng nhà. Rừng đại ngàn, mà đường ô tô vẫn thuôn qua những chỏm núi lớn có thác nước, nước bay phơ phất như buông mành. Ở Đắc-di-linh chỗ nào có người ở, chỗ ấy đều thành phố xá. Hai mươi lăm thị trấn trên núi cao - những thành phố nhỏ xinh. Từng dãy phố vắt vẻo, nhấp nhô mảnh tường, mái cột bê tông trên gờ đá cạnh đầu bờ ruộng bậc thang. Có lẽ người ở đây còn hơi hướng phong tục cũ nay ở mai đi của thời di cư, bây giờ vẫn chưa thích làm nền chỗ phẳng mà nhà thường đứng nửa sàn cắm cọc xi măng nửa đất. Nhà hai ba tầng, có đèn nê-ông và ống dẫn nước tới, nhưng tầng dưới nép vào sườn đá, cửa sổ như ló từ núi ra.
Một đường xe lửa bé bỏng nhất thế giới dài trên một trăm ki-lô-mét nối các thành phố trên sườn núi. Mỗi ngày nhiều chuyến, tàu chở người đi chơi ngắm cảnh. Đầu máy chạy than, khói phọt phọt. Tới ngã ba, người trưởng tàu nhảy xuống cắm cờ đỏ cho hai phía đường biết có tàu đương qua. Đến một mỏm cao, tàu dừng lại. Chỗ ấy ngắm lên lưng trời thấy những dải núi phủ băng đỉnh Hy-ma-lay-a. Người xúm xít xem tàu chạy. Người thuê ống nhòm ngắm núi. Trẻ con ăn quà ngô rang, đậu đen tẩm ớt với đinh hương rồi reo à à trong tiếng còi inh ỏi, khi vừa trông thấy đoàn tàu nhô lên, có đầu đẩy, đầu kéo ba toa xinh xắn như tàu chạy chơi ở vườn trẻ. Bởi vì, cả bề ngang đường sắt cũng vẫn nguyên sáu mươi phân, vẫn đường sắt và con tàu năm 1860 - một trăm hai mươi năm nay như thế, người ta cố ý để thế, để làm cảnh chơi núi.
Những dãy phố đằng xa lấp dần vào sương mù. Đoàn tàu nhấp nhô lượn khúc dưới. Đoạn đường trên ngập trong khói tỏa. Tiếng máy phành phạch gõ nhịp tàu lên dốc.
Hai bên đường liền những nương chè bậc thang, xanh rì lên tận mỏm cao. Chè đen Đắc-di-linh nổi tiếng thế giới. Giống chè thấp cây, mỗi lùm tròn như những chiếc thúng úp. Đường chiều đã xuống sương, nhộn nhịp những cô gái Tây Tạng đi hái chè về. Áo đen váy điều, gò má cao đỏ rực. Chiếc giỏ mây đựng chè, quai đeo lên trán. Lên dốc, bước nặng, các cô cài ngón tay lên mang tai đỡ quai cho nhẹ.
Từ các nương chè ra, những con ngựa nhỏ chen chân bước cung cúc. Trên lưng mỗi con ngựa đeo hai chiếc thùng nhôm. Ngựa mê mải đi. Nhưng những người đuổi ngựa còn chạy nhanh hơn. Ra tới ngã ba, ngựa như đã biết lệ, dừng lại. Trên mặt đường nhựa, vệt sữa trắng như kẻ vôi xuống vòng quanh chốn thùng. Đây là những con ngựa thồ sữa tươi ra chợ chiều. Người Tạng đem sữa đi chợ bán đổi - như kiểu chợ đổi vải ở ta. Chợ sữa ngã ba đường chỉ lao xao một lúc. Trong chốc lát, những con ngựa ấy thồ về bó mướp đắng, xâu gừng, xâu ớt. Chiếc thùng nhẹ bây giờ xách tay, người trở về hẻm núi sương tuôn ra mỗi lúc một dầy. Không biết người ta vào trọ xóm trong núi đợi chợ sớm mai hay đi đêm về tận nhà.
Tất cả đã vữa ra, trắng mờ trong sương. Chiếc xe phải bật đèn vàng, vạch ra một làn sáng đục. Con đường như qua giữa dòng sông sương. Các dãy nhà hai bên đường đã tối nhá nhem lẫn với đá.
Đây vẫn đường vào Hy-ma-lay-a miền Tây Băng-gan. Thủ đô Găng-tốc nước Xích-kim ngay trước mặt, cách năm mươi ki-lô-mét. Dường như đến đây đã thấy Xích-kim. Bởi đã thấy những ngón tay, cánh tay múa điệu “khang-chen-gia-gia” uốn dẻo tuyệt vời của các cô gái Xich-kim vùng chân núi mà chợ nào cũng gặp. Ở chợ sữa ban nãy đã thoáng những ngón tay múa và tiếng trống bập bùng.
Đi vùng nghỉ mát Bun-xô-kinh nước Bu-tan, rẽ đường bên phải, đây qua lại những ngã ba biên giới. Chúng tôi ngược lên Đắc-di-linh. Vẫn loáng thoáng người về chợ đi hai bên đường. Thoạt nhìn khó biết đấy là người Tạng, người Nê-pan, người Bô-ti-át hay người Xéc-ba. Cả đến những cô gái ngồi trong cửa sổ một cánh, tối om, trông ra. Cô nào cũng nét mặt bầu bĩnh, giống nhau chiếc cằm nhọn đến xinh.
Trong sương nghe rào rào tiếng thác nước. Đã qua cả hai ngọn sông Ba-la-son, sông Ti-ta - những dòng nước đầu nguồn của sông Hằng thiêng liêng dưới kia.
Tiếng nước chảy hay mưa nhỏ, hay sương nặng trong khuya, không biết. Có lúc tất cả lặng im giữa rừng thông. Mây mù lẫn ánh trăng sáng bạc đã kéo các đỉnh núi lên ngang nhau.
o O o
Sáng sớm, con khướu mun không biết sợ người vào đậu vắt vẻo thành cửa sổ. Tiếng thánh thót, nhẹ như hơi núi, như không. Các dãy phố, chỗ chen khít, chỗ lưa thưa nhà tựa lưng đá. Những mái tôn trắng lẫn lộn những chỏm nhà vàng, nhô lên một cây phướn dài vải xám. Đấy là chùa của người Tạng.
Phố núi buổi sáng vắng lạnh, người đi co ro trong tấm áo bông nâu già. Ở một ngã tư, lại gặp người đánh ngựa tới chợ sữa, cởi xuống những chiếc thùng nhôm đặt giữa đường. Con ngựa đứng chong chỏng bên cô chủ người Tạng gò má cao đỏ mọng.
Trong vườn hoa giữa phố, nhiều người ngồi xúm xít hơn. Đây là những người ra muộn không kịp lên mỏm núi Hổ xem mặt trời mọc trên đỉnh Ka-chen-giôn-ga, bây giờ đến đây. Ở đây, chốc nữa cũng thấy ánh nắng trên đỉnh núi cao nhất thế giới.
Ở những tàu ngựa phía trong, các tay dắt ngựa thuê đương thắng yên cương cho những con ngựa thấp nhỏ đã được dắt ra dưới gốc thông. Trên đường quanh núi sương phủ, nghe tiếng cười nói, tiếng móng ngựa gõ mặt đường.
Đầu ngã ba, một người còm nhỏm đội mũ phớt, mặc áo bông xanh dài, vạt trước nhờn kệp vết dầu mỡ. Người ấy ngồi trước hai chiếc khay gỗ bày trước mặt. Ông thợ chữa giày và đóng móng ngựa người Tạng ra ngồi hàng sớm thế. Và ở đầu dốc, những bà già người Tạng đã treo lên vách đá bày bán váy áo, khăn quàng lông cừu, da cừu. Trời chợt hé nắng, từng mảng nắng thấp thoáng mỗi màu khác nhau. Nương chè xanh rờn. Nóc chùa vàng nghệ. Trên vách đá đỏ ối tấm len của bà già bán quần áo.
Mấy cửa hàng ăn ở một phố hẻm gác tấm bảng gỗ mộc, chữ viết phẩm xanh: Hàng ăn Tây Tạng, hàng ăn Nê-pa-li... Khói um trong tiếng băm thịt hay băm rau. Cứ bục bục như tiếng bật bông... Hàng quán của người Nê-pan vui lúc chặp tối. Hàng người Tạng thì đông khách buổi trưa.
Những chiếc cải bắp treo. Thùng gỗ đựng hành lăn lóc. Một mẹt ướt tươi, quả quắt queo. Những bó củ cà rốt, cà tím. Những quán ăn nhậu khác của người ở núi ra chợ.
Một ông cụ râu tóc bạc mờ, run rẩy đặt trước mặt chiếc âu đồng. Rồi thì lần luợt bỏ ra những bình vôi, lọ mật ong, khay đinh hương, những xếp lá trầu và cau tươi, cây vỏ với những khẩu trầu vuông vắn đã têm sẵn. Các hàng bán trầu ăn ở đây nhiều như quán nước vỉa hè và đầu làng ở ta. Người nào đi chợ sớm cũng ghé vào mua miếng trầu có mật ong đinh hương nhai cho ấm miệng.
Những phố hẹp chen chúc hàng quán cho người về chợ. Như vào một ngõ hẻm ngốt người ở Can-cút-ta. Khói bếp lùa ra với tiếng trẻ con vừa tắm vừa đùa ở vòi máy nước. Đến khi thấy có nhiều hiệu ảnh, mới nhớ đương trên đường đi lên các đỉnh núi. Những hiệu ảnh treo bán các tấm hình núi băng có chữ ký kỉ niệm của các đoàn thám hiểm. Ngọn Ê-vơ-rét 8.848 mét, ngọn Lốt 8.513 mét, ngọn Ma-ka-lu 8.483 mét.
Trời đã hửng nắng. Giữa phố, càng đông người đứng xúm từng đám nhìn lên đỉnh núi có những vùng băng lấp ánh nắng vạc thành một vệt đen thẫm. Anh hàng ống nhòm đã đến từ lúc nào. Chiếc ống nhòm dài như cái sào nứa nghiêng đầu lên. Người xúm xít ghé mắt.
Phố rộn ràng hẳn lên trong ánh nắng. Một đám rước Phật có múa đeo mặt nạ và các nhà sư che lọng đi qua. Những chú bé người Tạng đầu cá trê trọc lốc, cánh tay trần trong tấm áo cà sa nâu, xếp hàng đi hát đồng ca, tiếng ê a trầm trầm.
Lại những quán ăn cột nhà đen nhẫy mồ hôi và bồ hóng. Giữa chợ, chất đống những quả xoài đỏ hồng như đào chín. Những cụm phong lan mọc cả trong khe đá trước cửa. Giống lan núi, lá cứng như cánh quả thông, hoa vàng rực - lan Ta-dát chân núi Hy-ma-lay-a giống hệt phong lan trên núi đá Vằn Chải ở cao nguyên Đồng Văn.
Mới xế trưa mà mây mù đã nặng dần. Rồi trắng xóa. Rồi chỉ mình lại trông thấy mình. Tiếng chim sẻ chì chiết than vãn. Tiếng ve núi đằng đặc. Tiếng ngựa lóc cóc dưới đường cái. Nghe thế mới biết đương còn ngày.
Hàng bán hương cũng nhiều như hàng trầu cau. Các thứ hương Ấn Độ thơm nhiều mùi kì dị. Chúng tôi ghé vào một hàng hương ven đường bên cạnh tảng đá. Ông lão bán hương người Tạng, đầu bạc, mắt xếch, sâu thẳm. Ông lão thẫn thờ, ngơ ngẩn và im lặng.
Tôi đã không còn cảm tưởng lạ mắt như mấy ngày mới đầu ở đây: không đến La-sa mà được gặp nhiều người Tạng. Rồi tôi biết thêm là gặp người Tạng không phải đến Tây Tạng, là gặp những nỗi đau khổ lang thang. Những người Tạng hàng ngày tôi gặp, làm nghề dắt ngựa, người xách thùng sữa, người chữa giầy vốn không phải quê Đắc-di-linh cũng không phải là những người nghèo ở Xích-kim, ở Nê-pan lên đây. Hơn hai mươi năm nay, người Tây Tạng bỏ nước men núi chạy sang Đắc-di-linh có tới mấy chục vạn người.
Những nóc chùa Tạng mái cao, vàng chóe.
Người Tạng bày bán hương trên mặt chiếc bàn gỗ, nén hương mùi hoa nhài trên chiếc âu đồng, thoang thoảng. Cái chậu nhôm đựng trầm. Những bó củi thơm dựng tựa vào tường. Ông lão dị dạng khô khẳng, mặt đen mốc. Cũng ví được ông lão như bó củi đứng đấy. Khô hốc hác, có thể đốt cháy được...
Anh nhà thơ Đi-ốp mua một thẻ hương. Anh nói sẽ đem thẻ hương này về Đa-ca bờ Đại Tây Dương cho hàng phố được biết mùi hương Ấn Độ.
Chúng tôi ngồi thắp chơi một nén trong phòng rồi ngắm vòng khói xanh uốn éo lên. Nhưng chẳng thấy thơm. Châm một nén nữa, vẫn làn khói lơ lửng không có mùi.
Chúng tôi bàn tán trước mặt ông lão bán hương mà không có cách gì hỏi ra lẽ được. Có thể loại hương này thơm nhạt mà mình không biết, không quen nên chưa ngửi thấy, có thể như thế. Tôi nói mà tôi cũng ngờ ngợ. Tôi nói như thế chỉ vì tôi thương ông lão người Tạng nghèo quá. Hương thật nhạt, có thấy mùi đâu, có lẽ nó là những cây hương luyện bằng mạt cưa của những thứ mùn cưa gỗ tạp mà ông già đã đi vơ váo trong rừng cỏ về. Ông bán hương giả cho những người xa lạ, một đời chỉ một lần thoáng qua Đắc-di-linh thế thôi. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi cứ nhìn những kẽ tay, kẽ chân ông lão nhăn nheo đến mốc trắng ra, tôi lại không muốn nghĩ như thế.
Ông lão lọm khọm như người rũ xuống. Tay ông cầm lên một thẻ hương. Ông run run đưa thẻ hương mới ấy cho Đi-ốp. Thẻ hương này bọc giấy bóng cẩn thận, có vẽ nhãn hiệu làn khói tỏa và địa chỉ nơi sản xuất ở Bom-bay. Không như những nén hương bọc giấy báo lúc nãy.
Đi-ốp rút ra, thắp nén hương mới. Mùi hoa nhài như uốn lên theo làn khói mơ màng.
Đi-ốp gật gù:
- Phải rồi, phải rồi...
Không hiểu anh nói “phải rồi” nghĩa thế nào. Bởi vì cũng không ai đoán được những nén hương lúc nãy có mùi hay chỉ là hương mạt cưa. Đi-ốp lại còn đồng ý với tôi, cho rằng ý kiến của tôi là đúng, đấy là mùi hương lạ, mình chưa biết ngửi. Anh sẽ đem những que hương chưa thấy mùi thơm ấy về Đa-ca. Dẫu sao, chúng tôi thương ông già người Tạng, nghèo khó, tha hương.
o O o
Ở Đắc-di-linh có tục sáng sớm lên núi Hổ nhìn mặt trời mọc trên đỉnh Hy-ma-lay-a, để lấy điềm may trong ngày trong tháng.
Tôi dậy bốn giờ sáng. Phố núi còn mù mịt đẫm sương. Nhưng các bến đã lác đác xe ra. Lại đã thấy những đám hành khách co ro đầu đường - như đợi chuyến xe đi chợ sớm.
Từ đây đến mỏm núi Hổ xa trên hai mươi ki-lô-mét. Không biết từ xó xỉnh nào, những chiếc xe cứ chạy ra, nối nhau lùi lũi chạy trong sương mù, ô tô tung bạt cửa, bên trong lố nhố người ngồi quấn choàng trắng. Trên mỏm núi Hổ, nhô lên một tòa nhà nhiều tầng, cửa kính bốn phía. Tòa nhà trong sương như một lâu đài cổ. Người đi nhìn mặt trời mọc đã đến đông từ bao giờ. Người đứng ngoài hiên, người vào các buồng nhà kính. Nhiều người trùm những tấm khăn trắng, những chiếc khăn mỏng, ngồi thu lu ngoài mỏm đá. Tẩu thuốc phì phèo cho ấm, khói phả lẫn vào sương mù.
Phong tục lên núi Hổ ngắm mặt trời có từ lâu hay chỉ mới có từ khi người Tạng di cư đến, vì nhớ nhà mà đi nhìn núi, tôi không biết.
Đứng đây trông thấy cả mười ba đỉnh núi tám nghìn thước trên Hy-ma-lay-a. Ngược lên vùng Đin-bô-chi quãng lưng trời ấy, các làng người Xéc-ba trồng khoai và lúa sa-pam vào mùa hạ rồi lại về làng đợi vụ lên dỡ khoai, gặt lúa.
Trở lên nữa, chỉ còn đá và băng nghìn năm, gió thổi lúc nào cũng trên một trăm năm mươi ki-lô-mét/giờ xáo động cuốn đi từng núi băng.
Trông lên không thể thấy, nhưng người ta cứ tưởng tượng ra trên ấy có những đoàn leo núi - một năm chỉ có một quãng thời gian hiếm hoi trèo được, vào khi vừa dứt gió bấc, núi có lúc yên đợi gió nồm.
Những đoàn thám hiểm lên Hy-ma-lay-a…
Công việc thể thao và khoa học thật mạo hiểm chỉ toàn dùng sức lực trực tiếp của con người. Huy hiệu hội nghiên cứu Hy-ma-lay-a ở Đắc-di-linh là chiếc cuốc chim, chiếc cuốc chim và đôi bàn chân tượng trưng sức mạnh con người dũng cảm.
Ai cũng đã biết tiếng những đoàn thám hiểm Hy-ma-lay-a. Người Anh Giôn Hin lên tới Ê-vơ-rét trên biên giới Tây Tạng Nê-pan. Người Ý Ac-đi-tô Si-ô đến đỉnh K2 cao 8.613 thước. Người Pháp Giăng Phơ-răng-cô tới Ma-ka-lu. Người Nhật Y-kô Ma-ki đến Ma-nao-sa-lu 8.159 thước. Và những ngọn trên tám nghìn thước khác, người Thụy Sĩ, người Úc, người Đức, người Mỹ đã cắm cờ.
Nhưng ít ai biết những đoàn thám hiểm lên được tới các đỉnh cao ấy bao giờ cũng phải nhờ những người vận tải đi cùng - những người Xéc-ba, dân tộc vùng núi Sđa-khum-bu giáp biên giới Nê-pan và Đắc-di-linh, những người nhỏ con mà có sức khỏe leo núi dai dẳng, ròng rã được cả tháng. Đoàn thám hiểm lên được tới đỉnh núi, cả đời được tiếng và chỉ leo lên một lần, không bao giờ leo lên đấy nữa. Nhưng những người Xéc-ba làm nghề khuân vác thuê, mùa nào năm nào cũng leo lên leo xuống, cả đời leo không biết đâu đỉnh núi cũ đỉnh núi mới, mỗi đoàn thám hiểm thuê hàng trăm người Xéc-ba đi khiêng lều bạt, máy móc, đồ đạc, lương thực và phục dịch từng trạm. Những người Xéc-ba không bao giờ được nêu tên trên báo trên sách ấy đã đi với các nhà leo núi từng chặng, tới tận chặng sau cùng. Chỉ thiếu một việc là không được đứng vào chỗ cắm cờ chụp ảnh với các ông chủ ở nơi đỉnh cao nhất.
Những đoàn thám hiểm lên Hy-ma-lay-a...
Tháng tư năm 1980 mới đây, đoàn thám hiểm ngọn An-na-puốc-na của người Pháp Mô-rit Héc-dô có một người trượt băng sa xuống vực...
“ Chúng tôi dựng bạt ở 6.200 thước - những mái lều xóm trại số 3 chúng tôi chìm nghỉm giữa lặng im, đối mặt với thiên nhiên dữ dội. Bây giờ hãy còn ban ngày. Gió vẫn gầm lên. Đo được gió dương 120 ki-lô-mét/giờ.
Đột nhiên, một tiếng rít rung chuyển từ đằng xa dội đến. Chúng tôi biết đây là núi băng đổ. Trên đỉnh An-na-puốc-na, ngày đêm lúc nào cũng có núi băng đổ thình lình, chúng tôi có thể bị chết vùi. Mọi người hấp tấp xếp ba lô đồ đạc rồi nằm úp xuống, kéo áo len trùm kín mặt. Bụi băng hết sức nguy hiểm đối với cuống họng.
Nhưng may mắn, núi băng ấy đã đổ xuống thành hai dòng thác trắng ngùn ngụt, mà trại số 3 lọt vào đúng giữa. Một vùng bụi băng trắng xóa bao phủ chúng tôi đến mười lăm phút, rồi những tiếng gầm đinh tai chợt im. Chúng tôi ngồi dậy. Có người chui ra từ trong đống tuyết ngập ngang ngực. Chúng tôi hú gọi nhau…”
(Nhật ký của Mô-rít Héc-dô)
Mù mịt trên kia đương có những đoàn thám hiểm...
Dễ thường ở mỏm núi Hổ dưới đây, có những bà mẹ, những người vợ người Xéc-ba đương ngồi trông lên, đợi sương tan. Trên đỉnh núi, có chồng con mình trong đoàn leo núi. Như vợ con người dân chài ngóng ra biển.
Trời tảng sáng. Người đến mỏm núi mỗi lúc một đông hơn, đợi sương tan. Nếu sáng sớm sương phủ, không thấy mặt trời mọc, đấy là điềm không vui. Phải gặp mặt trời mọc mới là gặp may.
Đã trông rõ hơn những mảnh chân khoác trắng ngoài mỏm núi. Một đám các bà, các chị người Tạng. Có lẽ họ đã ra ngồi đấy từ khuya - lặng im như tảng đá.
Bây giờ tôi nhận ra trong đám đi ngóng mặt trời mọc trên Hy-ma-lay-a có nhiều người Tạng. Có phải những người xa quê lúc nào cũng ao ước thấy được mặt trời mọc phía đất quê. Ừ như thế đấy, đứng đây có thể trông mặt trời lên trên Hy-ma-lay-a, phía dưới là Bu-tan, phía trên là Tây Tạng. Tây Tạng! Tây Tạng! Mặt trời lên từ phía quê mình. Ông lão vá giày đóng móng ngựa. Người xách thùng sữa ra chợ. Bà cụ bán quần áo lông thú cạnh vách đá ga xe lửa.
Những người đứng đợi trông mặt trời.
Trong một khoảnh khắc, sương ửng lên như một làn mây da cam. Bao nhiêu người trên núi reo lên một tiếng, tôi không thể nghe biết ra thế nào. Tất cả quay mặt về đằng ấy. Làn sương tan rất nhanh, mây và sương chen nhau loáng thoáng. Tiếng người reo không ngớt. Tiếng trống phập phình, phập phình. Tiếng tụng kinh như hát.
Giữa những làn ánh sáng tím ngắt, nẩy lên vừng mặt trời đỏ tròn xoe. Ánh nắng hắt lại bóng núi đứng thành những vạch tối vạch sáng âm thầm, uy nghi một mầu tím bao quanh mặt trời.
Vừa thấy những tia sáng tím kỳ lạ ấy, những người đúng trên mỏm núi tung chăn, tung áo, tung khăn lên nhảy múa, kêu rầm rĩ, những nhà sư áo cà sa vàng sẫm, cánh tay để trần cầm bát nước hồng hoàng đã mài sẵn, đỏ như son. Người ta chen đến. Nhà sư lấy ngón tay trỏ, thấy ai cũng chấm một chấm hồng hoàng vào giữa trán - cái chấm mừng cho gặp điều cầu được ước thấy.
Sáng nào cũng chỉ có thể hy vọng, thấy hy vọng. Những vết hồng hoàng được chấm lên trán mọi người. Hai bạn nhà thơ Xê-nê-gan và Pa-let-xtin cao hứng thế nào, trong lúc bốn phía đọc kinh xôn xao, các bạn nắm tay nhau nhảy quanh phòng kính và hát “Quốc tế ca”, giọng rất vang, rất hùng tráng. Nhà sư áo vàng cứ tiến đến, khoan thai giơ tay chấm nước hồng hoàng hạnh phúc lên trán chúng tôi.
Rồi những cô thiếu nữ người Tạng gò má đỏ hồng bưng ra những khay hạt đinh hương. Ai cũng đón tay nhặt mấy hạt nhai cho thơm miệng làm khước.
Đám vui mặt trời mọc mỗi lúc một rộn ràng. Bây giờ đã trông rõ những tảng băng trên núi. Chưa bao giờ tôi được trông núi từ xa mà ngẩng lên vẫn thấy lừng lững núi trên đầu. Những mỏm cao nhất trên mái nhà trái đất nhấp nhô như những suối băng chảy. Cả triền Hy-ma-lay-a mênh mông dài trong ánh nắng thành một nền trắng ngần.
Cuộc đón mặt trời gặp may thành một đám rước tỏa xuống chùa dưới lưng núi. Tiếng tụng kinh của đồng nam đồng nữ trong chùa nghe vang động. Lại những cô gái Tạng đứng cầm bát hồng hoàng bôi lấy khước vào trán mọi người và mời uống sữa ngựa. Ô tô đi qua cũng phải dừng lại. Các cô trèo lên xe, chấm vào trán cho mỗi người một chấm đỏ.
Chỗ nào cũng nhìn thấy cửa I-ga-cho-linh, trước cửa treo hai mươi bốn chiếc chuông đồng và quanh đấy một đám người vẫn chăm chú đứng nhìn lên phía núi mặt trời mọc, phía ấy có đất nước quê mình.
1980
[1] Ngô Tất Tố (1894 - 1953) dịch.
[2] Khuyết danh (Văn thơ Lý Trần tập II - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1979).
Ký Ức Phiên Lãng Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài Ký Ức Phiên Lãng