There is always, always, always something to be thankful for.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Minette Walters
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Vu Duy
Upload bìa: Vu Duy
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
raham Deedes còn rất trẻ, trông có vẻ ưu phiền, và là người da đen. Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của Roz khi cô bước vào phòng làm việc của mình, anh ta chau mày bực bội, “Tôi không biết luật sư biện hộ người da đen lại là điều hiếm gặp đấy, thưa cô Leigh.”
“Tại sao anh lại nói vậy?” Cô tò mò hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế mà anh ta đã chỉ.
“Cô có vẻ ngạc nhiên.”
“Vâng, nhưng không phải vì màu da. Anh trẻ hơn rất nhiều so với tôi tưởng tượng.”
“33 tuổi,” anh ta đáp. “Chẳng phải quá trẻ.”
“Không, nhưng khi anh được chỉ định nhận vụ Olive Martin thì anh mới có 26 hoặc 27. Tuổi ấy là quá trẻ đối với một phiên tòa xét xử vụ án giết người.”
“Đúng vậy,” anh ta đồng tình. “Nhưng tôi chỉ là người tập sự. Còn luật sư chính thức thì già hơn nhiều.”
“Nhưng hồ sơ hầu như đều do anh chuẩn bị?”
Anh ta gật đầu, “Đúng thế. Đó là một trường hợp ngoại lệ.”
Roz lấy máy ghi âm ra khỏi túi, “Anh có phản đối nếu tôi ghi âm lại cuộc trò chuyện này không?”
“Không, nếu cô định nói về Olive Martin.”
“Tất nhiên.”
Anh ta phì cười, “Vậy thì tôi không phản đối, vì một lý do đơn giản là gần như tôi chẳng biết gì về cô ta cả. Tôi mới nhìn thấy người phụ nữ ấy một lần vào ngày xét xử, và tôi chưa bao giờ nói chuyện với cô ta.
“Nhưng tôi biết anh đã chuẩn bị bằng chứng biện hộ rằng cô ta không đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Anh không hề gặp cô ta trong quá trình xử lý vấn đề ấy sao?”
“Không, cô ta từ chối gặp tôi. Tôi soạn thảo mọi thứ từ đống giấy tờ mà luật sư cố vấn của cô ta đưa cho.” Anh ta cười buồn, “Và nói thật số thông tin ấy cũng chẳng nhiều nhặn gì. Nếu đem ra trước tòa, không chừng còn bị xem là ngớ ngẩn, thế nên tôi mới thở phào khi tòa tuyên bố lời thú tội của cô ta được chấp nhận.”
“Giả sử nếu được tòa gọi thì anh sẽ tranh luận thế nào?”
“Chúng tôi dự định hai phương án.” Deedes lưỡng lự một chút rồi nói tiếp, “Một là, tâm trí cô ta nhất thời bị bấn loạn. Tôi có thể nhắc lại rằng hôm trước đó là sinh nhật cô ta, và cô ta thấy tủi thân ghê gớm vì chẳng những không được gia đình quan tâm lại còn bị giễu cợt vì thân hình to béo của mình.” Anh ta nhướng mày thăm dò, và Roz gật đầu. “Thêm vào đó, tôi tin rằng cô ta đã nhắc đến việc mình nhạy cảm với tiếng ồn. Chúng tôi đã tìm được một bác sĩ, và sắp xếp để ông ấy đưa ra minh chứng rằng tiếng ồn có thể gây ra đau đớn cùng cực ở một số người, dẫn đến việc họ có thể sẽ gây ra những hành động bột phát để cố gắng thoát khỏi tình trạng đó. Tuy nhiên, không có bằng chứng về tâm thần hay y khoa nào để chứng minh Olive là một trường hợp như thế.” Anh ta gõ gõ hai ngón trỏ vào nhau. “Hai là, chúng tôi sẽ truy ngược lại tính chất bất thường và man rợ của tội ác này và đề nghị tòa án đưa ra phán quyết mà chúng tôi vẫn hằng hi vọng: Rõ ràng Olive bị tâm thần. Gần như chẳng có chút cơ hội nào để tranh luận về sự mất cân bằng tâm lý của cô ta,” anh ta dùng cánh tay phác họa một cử chỉ như bập bênh. “Nhưng chứng thái nhân cách thì có thể lắm. Chúng tôi đã tìm được một giáo sư tâm lý sẵn sàng liều một phen sau khi nhìn thấy những tấm hình chụp tử thi.”
“Nhưng rốt cuộc ông ta có nói chuyện với Olive không?”
Deedes lắc đầu, “Lúc đó rất gấp, và dù gì cô ta cũng sẽ chẳng đồng ý gặp đâu. Cô ta cứ khăng khăng nhận tội. Tôi đoán ông Crew đã cho cô biết Olive từng viết một bức thư gửi tới Bộ Nội vụ yêu cầu được kiểm tra sức khỏe tâm thần độc lập để chứng tỏ rằng cô ta hoàn toàn có đủ khả năng đứng ra nhận tội?” Roz gật đầu. “Sau đó thì chúng tôi chẳng thể làm được gì nữa.” Deedes trầm ngâm nói tiếp, “Vụ này thật kì lạ. Vì hầu hết các bị cáo khác đều sống chết muốn bào chữa đến cùng.”
“Ông Crew có vẻ tin ràng Olive bị thái nhân cách.”
“Tôi nghĩ mình đồng tình với quan điểm ấy.”
“Vì những điều cô ta đã gây ra cho Amber và mẹ mình sao? Các anh không có bằng chứng nào khác à?”
“Không có. Nhưng như thế còn chưa đủ hay sao?”
Roz ngẩng lên và đáp lại, “Vậy anh giải thích thế nào về chuyện năm bác sĩ tâm lý đều kết luận cô ta bình thường? Theo những thông tin tôi thu thập được, trong thời gian ở tù, cô ta đã được chẩn đoán vài lần rồi.
“Ai nói cho cô biết? Olive hả?” Anh ta hoài nghi hỏi.
“Đúng vậy. Nhưng sau đó, tôi có nói chuyện với giám đốc trại giam và bà ấy đã xác nhận.”
Deedes nhún vai, “Dù thế tôi vẫn thấy quá khó tin. Phải trực tiếp xem các báo cáo cơ. Vấn đề còn phụ thuộc vào việc ai là người viết báo cáo và tại sao họ lại muốn kiểm tra tâm lý cho cô ta.”
“Nhưng vụ này vẫn rất kì lạ, anh không thấy vậy sao?”
“Lạ thế nào?”
“Nếu Olive mắc chứng thái nhân cách thì hẳn đã phải bộc lộ những biểu hiện đáng kể của việc bất ổn về tính cách và xa lánh xã hội trong một thời gian dài chứ?”
“Không nhất thiết. Nhà tù có thể là một kiểu môi trường có kiểm soát phù hợp với cô ta. Hoặc có lẽ chứng thái nhân cách của cô ta chỉ hướng tới gia đình thôi. Ngày hôm ấy, điều gì đó đã khơi nó lên và khi đã thoát khỏi họ, cô ta trở lại bình thường.” Deedes lại nhún vai, “Ai mà biết được? Tâm thần học đâu phải một môn khoa học chính xác. Theo kinh nghiệm của tôi, những người bình thường, biết điều chỉnh hành vi thì không chém mẹ và em gái mình tới chết. Cô cũng biết họ vẫn còn sống khi cô ta vác cái rìu tới chứ?” Anh ta mỉm cười, “Cô ta cũng biết. Đừng ảo tưởng là cô ta không biết.”
Roz nhíu mày, chậm rãi nói, “Có một cách giải thích khác. Vấn đề là dẫu có khớp với các sự kiện, nhưng giả thuyết này cũng quá vô lý, đến mức khó lòng tin được.”
Anh ta chờ đợi, rồi cuối cùng cũng lên tiếng hỏi, “Là gì vậy?”
“Olive không hề gây án.” Thấy vẻ ngờ vực trên gương mặt anh ta, Roz vội nói tiếp, “Tôi không nói là mình tin vào giả thuyết ấy, nhưng đó có vẻ là sự thật.”
“Sự thật của cô thôi,” anh ta nhẹ nhàng sửa lại. “Tôi thấy cô đang đặt lòng tin vô tội vạ đấy.”
“Có thể.” Roz nhớ lại tâm trạng hoảng loạn của mình vào buổi tối hôm trước.
Deedes quan sát cô một lúc rồi nói, “Nếu vô can thật thì cô ta biết hơi nhiều về án mạng đấy.”
“Anh nghĩ vậy sao?”
“Tất nhiên rồi. Cô không nghĩ thế ư?”
“Cô ta không nói gì về chuyện bà mẹ cố gắng tránh né cái rìu và con dao, dù đó hẳn phải là phần đáng sợ nhất. Tại sao cô ta lại không nhắc đến?”
“Xấu hổ. Nhục nhã. Chấn thương tâm lý. Chắc cô sẽ ngạc nhiên trước việc rất nhiều kẻ giết người đã xóa mất phần kí ức về những việc mình đã làm. Đôi khi, phải mất nhiều năm sau họ mới bắt đầu đối mặt với tội lỗi của bản thân. Dù sao đi nữa, tôi vẫn không cho rằng sự chống trả của người mẹ là điều đáng sợ đối với Olive như cô vừa nói. Gwen Martin là một phụ nữ nhỏ bé, cao nhất cũng chỉ được mét rưỡi, tôi nghĩ vậy. Về mặt hình thể, Olive giống bố, thế nên việc chế ngự bà mẹ cũng chẳng khó khăn gì.” Anh ta thoáng thấy nét ngập ngừng trong mắt Roz. “Hãy để tôi hỏi cô câu này nhé. Tại sao Olive lại thú nhận hai tội ác mà mình không hề gây ra?”
“Cũng có nhiều người từng làm như vậy mà.”
“Chẳng ai làm thế một khi đã có luật sư đứng ra giúp đỡ, cô Leigh ạ. Tôi thừa nhận là trường hợp ấy có xảy ra, đó là lý do tại sao một bộ luật mới đã được thông qua để kiểm soát quá trình đưa bằng chứng trước tòa. Nhưng Olive không thuộc diện bị bắt ép hay mua chuộc mà nhận tội. Cô ta đã có người đại diện pháp lý trong suốt quãng thời gian đó. Thế nên tôi nhắc lại, tại sao cô ta lại thú nhận tội ác mà mình không hề gây ra?”
“Để bảo vệ ai đó?”
Roz thấy may mắn khi không phải họ đang tranh luận trước tòa. Deedes quả là một tay khó nhằn.
“Ai mới được chứ?”
Roz lắc đầu, “Tôi không biết.”
“Chẳng còn ai khác ngoài bố Olive, lúc đó ông ta đang ở chỗ làm. Cảnh sát đã điều tra kĩ lưỡng và ông ta có bằng chứng ngoại phạm rất vững chắc.”
“Có thể là người tình của Olive.”
Anh ta nhìn cô chằm chằm.
“Cô ta nói với tôi rằng cô ta từng phá thai. Nên theo lý mà nói, hẳn cô ta có một người tình.”
Cảm thấy điều này rất thú vị, Deedes cười đáp, “Tội nghiệp Olive. Chà, tôi nghĩ cô ta cũng giỏi đối mặt với nỗi đau từ vụ phá thai đó giống như các khó khăn khác mà thôi.” Anh ta lại cười tiếp, “Đặc biệt là khi ai cũng tin cô ta. Nếu là cô thì tôi sẽ không cả tin như vậy đâu.”
Roz lạnh lùng nhếch môi cười, “Có lẽ anh mới chính là người cả tin khi vin vào quan điểm của một gã đàn ông chẳng ra gì và ngầm áp đặt rằng một người như Olive không thể nào có nổi người yêu.”
Deedes chăm chú nhìn cô và tự hỏi không hiểu điều gì đã khiến người phụ nữ này tức giận đến vậy, “Cô nói đúng, thưa cô Leigh, quan điểm đó thật chẳng ra sao, và tôi xin lỗi.” Anh ta giơ hai tay lên rồi hạ xuống, “Nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe về chuyện phá thai. Và tôi thấy hơi khó tin. Hơi thuận lợi quá, có lẽ thế chăng? Đó không phải là điều mà ta có thể xác minh, trừ khi có sự cho phép của Olive, đúng chứ? Nếu bất cứ ai cũng được phép tra cứu hồ sơ bệnh án của người khác, thì chẳng phải các bí mật thầm kín sẽ đều vỡ lở hết sao?”
Roz thấy hối hận vì đánh giá gay gắt của mình. Deedes tử tế hơn Crew nhiều và anh ta không đáng phải nghe những lời như thế. “Olive có nhắc tới việc phá thai. Thế nên tôi đoán cô ta có người yêu. Nhưng cũng có thể cô ta đã bị cưỡng hiếp. Việc thụ thai có thể xảy ra dù người mẹ có tự nguyện hay không.”
Deedes nhún vai, “Cẩn thận kẻo bị lợi dụng đấy, cô Leigh. Olive Martin đã chi phối cả phiên tòa vào ngày xử án. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn có ấn tượng rằng, chính chúng tôi mới là người phải chạy theo cô ta, chứ không phải cô ta phụ thuộc vào chúng tôi.”
Dawlington là một vùng ngoại ô nhỏ phía Đông Southampton. Trước kia, nơi đó chỉ là một ngôi làng hẻo lánh, giờ thì đã bị nuốt chửng bởi quá trình đô thị hóa của thế kỉ XX. Dù duy trì được sự phát triển đồng nhất nhờ hệ thống đường cao tốc trải nhựa bao quanh, nhưng vùng đất này vẫn dễ dàng bị bỏ qua. Chỉ có duy nhất một tấm biển hiệu tồi tàn của sạp báo Dawlington chỉ dẫn cho Roz biết cô vừa đi qua một vùng ngoại ô để tới một vùng khác. Cô tấp vào lề đường, ngay phía trước một lối rẽ và nghiên cứu bản đồ. Có vẻ cô đang ở nút giao giữa đường cao tốc và lối rẽ trái kia. Cô liếc mắt nhìn biển báo, đó là phố Ainsley. Cô di tay dọc theo đường chỉ. “Phố Ainsley.” Cô lẩm bẩm, “Xem nào, chết tiệt, mày ở đâu chứ? Được rồi. Đường Leven. Rẽ phải, rồi rẽ trái.” Roz nhìn thoáng qua gương chiếu hậu rồi đưa xe vào làn đường và rẽ phải.
Khi ngồi trên xe, xem xét số nhà 22, đường Leven, càng lúc Roz càng thấy câu chuyện của Olive trở nên kì quái hơn bao giờ hết. Crew nói rằng ngôi nhà không bán được, nên cô đã hình dung về nó giống như trong tiểu thuyết Gothic, bị bỏ hoang cả năm trời, mục nát dần sau cái chết của Robert Martin, và bị ám bởi những tội ác kinh hoàng trong căn bếp. Nhưng sự thật, đó là một ngôi nhà liền kề khá xinh xắn, sơn màu trắng và hồng tươi sáng. Những đóa phong lữ đỏ tươi khoe sắc bên dưới cửa sổ. Cô tự hỏi, ai vừa mua ngôi nhà này nhi? Ai đủ dũng cảm (hoặc đủ đáng sợ) để sống với những bóng ma trong gia đình bi thảm này? Cô kiểm tra lại địa chỉ từ các mẩu báo mà sáng nay đã thu lượm được trong kho lưu trữ của tòa soạn địa phương. Bức ảnh đen trắng của “ngôi nhà kinh dị” cho thấy mặt tiền giống y hệt, nhưng không có những chậu hoa bên dưới cửa sổ.
Roz bước ra khỏi xe và băng qua đường. Ngôi nhà vẫn im lìm đến mức ngoan cố khi cô bấm chuông cửa. Cô bước sang nhà bên cạnh và thử bấm chuông. Một phụ nữ trẻ với đứa con còn đang ngái ngủ bám chặt quanh cổ bước ra, “Ai đó?”
“Xin chào!” Roz mở lời, “Xin lỗi vì đã làm phiền chị.” Cô chỉ sang phía bên phải, “Tôi thực sự muốn nói chuyện với hàng xóm của chị nhưng hiện giờ không có ai ở nhà. Liệu chị có biết khi nào họ quay về không ạ?”
Người phụ nữ xốc eo lên để giữ đứa bé dễ hơn và soi mói nhìn Roz, “Chẳng có gì để xem cả đâu. Cô chỉ đang phí phạm thời gian thôi.”
“Tôi xin lỗi, gì cơ ạ?”
“Họ đã chuyển hết nội thất bên trong đi rồi làm mới lại toàn bộ. Giờ họ đã sửa sang sạch đẹp lắm rồi. Chẳng còn thứ gì để xem đâu. Không có máu, không có những linh hồn kêu gào, chẳng có gì hết.” Cô ta khẽ ấn đầu đứa bé vào vai mình, một cử chỉ bình thường theo bản năng của những bà mẹ dịu hiền, nhưng giọng nói lộ rõ sự thù địch, “Cô muốn biết tôi nghĩ gì không? Cô nên đi gặp bác sĩ tâm thần đi. Cô đúng là loại bệnh hoạn đấy.” Cô ta dợm đóng cửa.
Roz giơ tay ra làm điệu bộ đầu hàng. Cô mỉm cười ngượng ngùng, “Tôi đến đây không phải để tọc mạch chuyện cá nhân. Tên tôi là Rosalind Leigh và tôi đang cộng tác với luật sư cố vấn của ông Martin.”
Người phụ nữ nhìn cô với vẻ nghi ngờ, “Ồ, thế sao? Tên ông ta là gì?”
“Peter Crew.”
“Có thể cô biết tên ông ta nhờ đọc được ở đâu đó.”
“Tôi có một lá thư từ ông ấy. Chị có thể xem qua. Nó sẽ chứng minh điều tôi nói.”
“Đưa xem nào.”
“Nó đang ở trong xe. Để tôi đi lấy.”
Cô vội vã lôi chiếc cặp táp ra khỏi thùng xe, nhưng khi quay lại, cánh cửa đã đóng kín. Cô nhấn chuông vài lần và đứng chờ chừng mười phút, nhưng rõ ràng người phụ nữ không có ý định trả lời. Từ căn phòng trên tầng vọng xuống tiếng khóc của đứa trẻ. Roz nghe thấy bà mẹ vừa leo cầu thang vừa nựng nịu dịu dàng. Tự dưng bực bội với chính mình, cô bèn quay lại xe và cân nhắc xem nên làm gì tiếp theo.
Mấy mẩu báo cô thu thập được thật vô dụng. Cô cần những cái tên, của bạn bè và hàng xóm, hoặc thậm chí cả tên các giáo viên ngày xưa, những người có thể cho cô biết chi tiết về quá trình học hành và đời sống của Olive. Nhưng báo địa phương cũng giống như báo quốc gia, chỉ luôn thích giật tít với những từ ngữ gây sốc về khía cạnh ghê rợn của tội tác, mà chẳng hé lộ điều gì về cuộc sống của Olive hay tại sao cô ta có thể gây ra chuyện đó. Tất nhiên cũng có cả những lời trích dẫn của “hàng xóm”, nhưng tất cả đều ẩn danh và tỏ ra thận trọng sau sự việc này. Rốt cuộc mọi thứ vẫn chung chung, và chẳng sáng tỏ được điều gì. Roz ngờ rằng tất cả chỉ là tác phẩm của cánh nhà báo sau khi thêm mắm dặm muối vào câu chuyện.
“Không, tôi không hề ngạc nhiên.” Một người hàng xóm cho hay, “Đúng là vô cùng choáng váng và kinh hoàng, nhưng không hề ngạc nhiên. Cô ta là một cô gái lạ lùng, không thân thiện, và sống khép kín. Không giống cô em gái thu hút và cởi mở của mình. Chúng tôi ai cũng quý mến Amber. Bố mẹ Olive cũng thấy cô ta khó gần. Cô ta không chịu kết bạn hay hòa đồng với ai, luôn tỏ ra xấu hổ, mà tôi đoán là vì cơ thể quá to béo, nhưng cái cách cô ta nhìn người khác thì rất bất bình thường.”
Chỉ toàn những lời lẽ giật gân như thế, ngoài ra chẳng còn gì khác. Không có báo cáo điều tra của cảnh sát. Olive tự gọi điện, rồi khai báo trước sự chứng kiến của luật sư cố vấn và thú nhận tội giết người. Vì cô ta nhận tội luôn nên không có phần tường thuật chi tiết phiên tòa xét xử dài lê thê, cũng không có tên của bạn bè hay người thân thích, và bản án dành cho Olive được nhắc đến với một dòng duy nhất dưới tiêu đề: 25 năm tù giam cho tội ác man rợ. Toàn bộ sự việc được báo chí đưa tin một cách thờ ơ. Năm vấn đề cơ bản cánh nhà báo quan tâm gồm “Ở đâu?”, “Khi nào?”, “Cái gì?”, “Ai?” và “Tại sao?”, thì bốn điều đầu tiên đã được làm rõ. Tất cả mọi người đều biết điều gì đã xảy ra, ai là người phải chịu trách nhiệm, và ở đâu, khi nào. Nhưng có vẻ không một ai biết lý do tại sao. Và điều khó hiểu ở đây là, không ai thực sự thắc mắc về động cơ gây án. Chỉ vì bị chế giễu mà một phụ nữ trẻ nổi giận đến mức chém người nhà ra thành từng mảnh à?
Roz thở dài, bật đài lên và nhét băng nhạc của Pavarotti vào khay. Không phải một lựa chọn khôn ngoan lắm, cô thầm nghĩ khi những giai điệu của bài Nessun Dorma vang lên trong xe và những kỉ niệm u ám về một mùa hè mà cô không bao giờ quên lại dội về trong tâm trí. Thật lạ khi một đoạn nhạc có thể khơi gợi nhiều đến thế, nhưng thực sự, quá trình dẫn tới sự chia cách giữa họ luôn xảy ra gần màn hình ti vi, và giai điệu Nessun Dorma vang lên cả lúc bắt đầu, lẫn khi kết thúc trận cãi vã. Cô vẫn nhớ đến từng chi tiết tất cả các trận bóng trong mùa World Cup năm ấy. Đó là khoảng thời gian yên bình duy nhất trong cả mùa hè xung đột. Cô chán nản nghĩ, sẽ tốt hơn bao nhiêu nếu mình chọn cách chấm dứt, thay vì cứ kéo dài sự buôn khổ để dần tới kết cục tệ hại sau này.
Roz để ý thấy tấm rèm cửa bằng vải màn ở ngôi nhà bên phải, số 24, hơi vén ra, phía sau tấm dán đề “Khu tự quản” chình ình trên cửa kính. Cô băn khoăn, lẽ nào mất bò mới lo làm chuồng? Hay tấm rèm đó cũng được vén lên vào ngày Olive cầm rìu gây án? Hai ga ra ô tô chen vào giữa hai ngôi nhà, nhưng rất có thể những người sống bên cạnh vẫn nghe thấy gì đó, “Olive Martin cầm rìu chém mẹ mình bốn mươi nhát…” Suốt vài ngày nay, mấy từ này cứ quay mòng mòng trong đầu cô, lúc ẩn lúc hiện.
Cô quay sang quan sát nhà số 22, nhưng vẫn dõi theo tấm rèm cửa qua khóe mắt. Nó lại khẽ chuyển động dưới những ngón tay tọc mạch của ai đó. Đột nhiên cô cảm thấy khó chịu vô cớ với cái người rảnh rỗi đang theo dõi mình. Cuộc sống mới vô nghĩa và nhàm chán làm sao khi chỉ biết đứng đó ngó trộm. Cô băn khoăn không biết kiểu người phiền phức rỗi hơi nào đang sống ở đây? Một bà cô không chồng nhiễu sự nghiện phim khiêu dâm? Hay một mụ vợ nhạt nhẽo chán đời chẳng có việc gì khác để làm ngoài bới lông tìm vết? Rồi đột nhiên có thứ gì đó sáng rõ trong đầu cô, các ý nghĩ được tập hợp lại như đường ray tàu hỏa. Đó chính là kiểu người phiền phức mà cô đang cần, tất nhiên rồi, tại sao cô lại không nghĩ ra từ đầu chứ? Thật tình, cô thấy lo cho bản thân. Cô đã dành quá nhiều thời gian tự kỉ một mình, chỉ nghe tường thuật bóng đá, chẳng cố gắng vì mục tiêu gì cả, và kí ức cô vang vọng toàn những điều đau buồn.
Một ông lão già nua ra mở cửa cho cô. Ông ta nhỏ thó, teo tóp với làn da nhợt nhạt và đôi vai chùng xuống, “Mời vào, mời vào.” Ông ta nói và đứng lùi lại, đưa tay ra hiệu cho cô vào hành lang, “Tôi đã nghe những gì cô nói với cô Blair. Cô ta sẽ không nói đâu. Và thật tình tôi nghĩ, kể cả nếu cô ta chịu nói thì cũng chẳng được tác dụng gì. Họ mới chuyển đến đây bốn năm trước, khi cô gái kia đã vào trại giam rồi. Tôi đoán họ chẳng biết gì về gia đình ấy cả, thậm chí chưa bao giờ nói chuyện với Bob tội nghiệp. Nói sao nhỉ? Cô ta rất trâng tráo, đặc điểm chung của lớp trẻ ngày nay thì phải. Ích kỉ, chỉ muốn nhận mà không cho đi.” Ông ta vừa lẩm bẩm vừa dẫn cô vào phòng khách, “Luôn than phiền vì phải sống trong một khu phố luôn bị soi mói và không được riêng tư, nhưng lại quên rằng họ mua được ngôi nhà này với giá bèo bọt, chính là vì những hạn chế ấy. Ted và Dorothy Clarke bán ngôi nhà đi vì không thể chịu đựng thêm được nữa. Nói sao nhỉ? Thật là một cô ả không biết điều. Thử tưởng tượng xem những người đã sống ở đây lâu năm thì sao? Chúng tôi phải chịu đựng, chứ đâu thể mặc cả gì? Ngồi xuống đi. Mời ngồi.”
“Cảm ơn bác.”
“Cô nói mình đến từ chỗ ông Crew. Họ đã tìm thấy đứa bé chưa?” Ông ta nhìn chăm chăm vào mặt Roz bằng đôi mắt màu xanh sáng khiến cô bối rối.
Roz nhìn lại, đầu óc căng lên, “Đó không phải nhiệm vụ của cháu.” Cô cẩn thận lựa lời, “Thế nên cháu không chắc việc ấy đang tiến triển đến đâu. Cháu đang mổ xẻ vụ án của Olive. Bác biết ông Crew vẫn tiếp tục đại diện cho cô ta chứ?”
“Đại diện cái gì cơ?” Đôi mắt ông ta ngập đầy vẻ thất vọng, “Tội nghiệp Amber bé nhỏ. Lẽ ra họ không nên ép con bé bỏ đứa trẻ. Tôi đã nói rồi sẽ có chuyện mà.”
Roz ngồi yên lặng và nhìn xuống tấm thảm đã sờn.
“Tất nhiên là mọi người không chịu nghe.” Ông ta gắt gỏng, “Cô cho họ những lời khuyên hữu ích và họ trả lời rằng cô là kẻ phiền toái. Nói sao nhỉ? Tôi có thể thấy trước sự việc sẽ dẫn đến đâu.” Ông ta đột nhiên ngừng bặt với vẻ phẫn uất.
“Bác vừa nói về một đứa bé,” cuối cùng Roz lên tiếng.
Ồng ta tò mò nhìn cô, “Nếu họ tìm thấy thằng bé, họ sẽ hiểu.”
Vậy đó là một đứa bé trai. “À, vâng.”
“Bob đã cố gắng hết sức nhưng luôn có những nguyên tắc riêng về việc này. Có thể nói một khi để thằng bé đi, nghĩa là họ đã từ bỏ lợi ích của mình. Cô sẽ nghĩ cứ dính líu đến tiền là mọi chuyện sẽ khác, nhưng những người như chúng ta sẽ chẳng thể nào thắng được chính phủ đâu. Nói sao nhỉ? Đúng là lũ cướp ngày.”
Roz cố gắng định hình những gì mình vừa nghe được. Có phải ông ta đang nói về di chúc của Martin không? Và phải chăng cậu bé (con trai của Amber) là người được thừa kế? Lấy cớ tìm khăn tay, cô mở túi xách ra và lén bật nút ghi âm. Cô cảm thấy mình sẽ có thu hoạch từ cuộc trò chuyện này. Cô ướm thử, “Ý bác là, chính phủ sẽ được hưởng toàn bộ số tiền?”
“Tất nhiên rồi.”
Cô khôn khéo gật đầu, “Đôi khi mọi thứ không diễn ra như ý muốn.”
“Chẳng bao giờ thì đúng hơn. Lũ cướp khốn kiếp. Sẽ không chịu buông tha cho tới khi bòn rút đến đồng cuối cùng. Và để làm gì cơ chứ? Để đảm bảo lũ ăn không ngồi rồi tiếp tục sinh sôi nảy nở như thể cỏ gấu trên mồ hôi nước mắt của chúng ta. Thật kinh tởm! Có một phụ nữ sống trong khu cư xá của chính phủ có tới năm đứa con, mà mỗi đứa một bố. Nói sao nhỉ? Rặt một lũ vô dụng. Đó đâu phải là loại người chúng ta muốn chứa chấp trong đất nước này? Não phẳng và vô dụng. Tại sao lại đi nâng đỡ những kẻ như thế? Chẳng phải nên cho con thỏ mắn đẻ ấy đi triệt sản hay sao?”
Roz không phản đối. Cô không muốn bị đưa vào thế bí và càng không muốn chống đối ông ta, “Đúng là như vậy.”
“Tất nhiên là đúng rồi, và sẽ đến lúc những kiểu người như thế không thể tồn tại được nữa. Nếu không nhờ vào trợ cấp thất nghiệp, cô ta và lũ con chắc đã chết đói hết rồi, và như thế cũng đáng thôi. Nói sao nhỉ? Đó chính là quá trình chọn lọc tự nhiên. Không giống loài nào lại đi nuông chiều những con sâu mọt như cái cách mà con người đang làm cả, và cũng không có loài nào lại đi khuyến khích đám sâu mọt ấy lại tạo ra sâu mọt làm gì cả. Thật kinh tởm. Cô có mấy cháu rồi?”
Roz mỉm cười yếu ớt, “Dạ chưa. Cháu chưa kết hôn.”
“Hiểu ý tôi nói không?” Ông ta lớn tiếng hắng giọng, “Thật đáng kinh tởm. Nói sao nhi? Kiểu người như cô, kiểu người đứng đắn, thì mới nên có con.”
“Vậy bác có bao nhiêu người con, bác…?” Cô vờ như đang lục lại sổ ghi chép để tìm xem tên ông ta là gì.
“Hayes. Cứ gọi là bác Hayes. Tôi có hai con trai, đều ngoan ngoãn. Tất nhiên giờ chúng trưởng thành cả rồi. Nhưng chỉ có một đứa cháu gái.” Ông ta rầu rĩ thêm vào, “Thật không đúng chút nào. Tôi luôn nhắc nhở chúng rằng chúng có nghĩa vụ với giống nòi dòng họ, nhưng rồi cũng chỉ nước đổ lá khoai.” Những nét bực bội như nặn khắc vào khuôn mặt. Ông ta thực sự bị ám ảnh quá sâu sắc.
Roz biết đã đến lúc mình phải hành động, nếu không ông ta sẽ lảm nhảm hết chuyện này sang chuyện khác như Nghìn lẻ một đêm, “Bác quả là một người có nhận thức sâu sắc, bác Hayes. Tại sao bác lại khẳng định nếu Amber từ bỏ đứa con trai thì nhà đó sẽ gặp rắc rối?”
“Vì đến một lúc nào đấy họ sẽ lại muốn có thằng bé. Quy luật muôn đời là thế, chẳng phải sao? Giây phút ném thứ gì đó đi, cũng là lúc ta nhận ra mình cần nó hơn bao giờ hết. Nhưng quá trễ, nó mất rồi. Vợ tôi là một điển hình, luôn luôn ném đi mọi thứ, những lọ sơn, thảm trải sàn, và hai năm sau y như rằng lại phải bới tung lên để tìm. Còn tôi ấy à, tôi cất lại hết. Nói sao nhỉ? Tôi nâng niu mọi thứ.”
“Vậy ý bác là ông Martin không hề quan tâm đến đứa cháu ngoại của mình trước khi xảy ra vụ án mạng?”
Ông ta đưa ngón trỏ và ngón cái sờ lên chóp mũi, “Ai nói vậy? Quả thật Bob đã giữ kín ý định của mình. Chính Gwen là người khăng khăng cho đứa trẻ đi. Cũng dễ hiểu thôi, tôi nghĩ là tại lúc đó Amber còn quá trẻ.”
“Lúc đó cô ấy bao nhiêu tuổi?”
Ông ta chau mày, “Tôi tưởng ông Crew phải biết rõ về chuyện này chứ.”
Cô mỉm cười, “Ông ấy biết, nhưng như cháu đã nói, đó không phải nhiệm vụ của cháu. Cháu chỉ tò mò thôi. Đáng thương quá.”
“Đúng là đáng thương. Lúc đó Amber 13 tuổi.” Ông ta đăm chiêu, “Tội nghiệp. Vẫn chưa biết gì cả. Là do một thằng ngu nào đó ở trường ấy.” Ông ta hất cằm về hướng sau nhà, “Trường Trung học Parkway.”
“Có phải Amber và Olive đều đi học trường ấy không?”
“Ha!” Đôi mắt già nua sáng lên vui thích, “Gwen không đời nào chịu như vậy. Cô ta đưa lũ trẻ tới trường dòng cao sang, nơi chúng chỉ được học kiến thức sách vở mà không hề biết gì về thực tế cuộc sống.”
“Tại sao Amber không phá thai? Hay họ theo Công giáo?” Cô nhớ lại Olive đã từng kể về bào thai bị tháo trôi xuống bồn rửa.
“Họ không hề biết là Amber có thai, đúng không nào? Chắc chỉ nghĩ là mập lên thôi.” Đột nhiên ông ta cười khùng khục, “Tức tốc đưa Amber vào viện vì nghi bị viêm ruột thừa rồi con bé phọt ra một thằng cu khỏe mạnh. Họ giấu nhẹm chuyện đó luôn. Tôi chưa từng gặp ai giỏi giữ bí mật như thế. Ngay cả những bà xơ cũng không hề hay biết.”
“Nhưng bác biết…” cô thăm dò.
“Vợ tôi đoán ra,” ông ta gắt gỏng nói. “Rõ ràng có chuyện nghiêm trọng đã xảy ra, nhưng không phải chứng viêm ruột thừa rồi. Tối đó Gwen đã suýt phát điên và Jeannie vợ tôi đã đoán ra. Nhưng dù sao chúng tôi cũng biết giữ mồm giữ miệng. Chẳng có lý do gì để trù dập cuộc sống của bọn trẻ. Đó không phải lỗi của con bé.”
Roz nhẩm tính trong đầu. Amber nhỏ hơn Olive hai tuổi và giờ nếu vẫn còn sống thì cô ta 26 tuổi. Cô nói, “Con trai cô ấy giờ 13 tuổi, và được hưởng quyền thừa kế trị giá nửa triệu bảng Anh. Cháu thắc mắc tại sao ông Crew lại không thể tìm ra cậu bé. Hẳn phải có hồ sơ nhận con nuôi được lưu lại chứ.”
“Tôi nghe nói họ đã lần ra manh mối.” Ông già nghiến hàm răng giả vẻ thất vọng, cáu bẳn lẩm bẩm như thể điều mình nói sẽ giải thích cho mọi thắc mắc. “Chỉ là tin đồn thôi, họ Brown, ở Úc. Thế đấy!”
Roz bỏ qua câu trả lời khó hiểu này. Hãy còn thời gian để làm sáng tỏ việc đó mà không tỏ ra ngu ngơ một lần nữa, “Vậy còn Olive thì sao. Bác có ngạc nhiên trước những việc cô ta đã làm không?”
“Tôi gần như chẳng biết gì về con bé đó.” Ông ta mím chặt môi rồi nói tiếp, “Và chẳng có gì ngạc nhiên khi cô sẽ thấy phát ốm trước cái tin những người cô biết vừa bị chém chết. Trường hợp của Jeannie là thế đấy. Bà ấy không bao giờ có thể bình thường như trước và mất sau đó vài năm.”
“Cháu rất tiếc.”
Ông ta gật đầu, nhưng rõ ràng, vết thương ấy đã lành lại từ lâu, “Tôi cũng có nhìn thấy con bé đó ra ngoài, nhưng chưa bao giờ thấy nó nói năng gì. Chắc là xấu hổ, tôi đoán vậy.”
“Bởi vì cô ta quá béo?”
Ông ta trầm ngâm mím môi, “Chắc vậy. Jeannie nói con bé rất hay bị trêu chọc. Tôi biết có những cô gái mập mạp nhưng lại rất năng động, và thường trở thành tâm điểm của mọi hoạt động. Tôi nghĩ, bản tính của con bé đó là luôn nhìn theo hướng tiêu cực. Chưa bao giờ cười đùa thoải mái. Không có khiếu hài hước. Kiểu người như thế chẳng dễ dàng kết bạn được.”
“Còn Amber thì ngược lại?”
“Ồ, đúng. Con bé rất hòa đồng.” Ông ta mơ hồ suy tưởng lại quá khứ, “Nó khá xinh xắn.”
“Hay Olive ghen tị với em gái?”
“Ghen tị?” Ông Hayes ngạc nhiên hỏi lại, “Tôi chưa bao giờ nghĩ thế. Nói sao nhỉ? Có cảm giác hai chị em rất yêu thương nhau.”
Roz bối rối nhún vai, “Thế tại sao Olive lại giết em gái mình? Và tại sao lại chặt xác ra từng mảnh? Thật kì quái.”
Ông ta quắc mắt nghi ngờ, “Tôi tưởng cô đại diện cho Olive. Cô không biết thì còn ai biết nữa.”
“Tất nhiên cô ta sẽ không nói đâu.”
Ông ta nhìn ra cửa sổ, “Chà, thế thì…”
Thế thì sao? “Bác có biết tại sao không?”
“Jeannie đoán là do hoóc môn.”
“Hoóc môn?” Cô vô thức nhắc lại, “Loại hoóc môn gì mới được chứ?”
“Cô biết đấy. Chuyện hằng tháng ấy,” ông ta xấu hổ đáp.
“À.” Rối loạn tiền kinh nguyệt sao? Nhưng cô thấy thật khó để có thể thảo luận thêm với ông ta về chủ đề này. Kinh nguyệt là điều không bao giờ được nhắc đến trong thế hệ của những người như ông ta. “Ông Martin có bao giờ nói ra suy đoán về động cơ của Olive không?”
Ông già lắc đầu, “Chúng tôi không bao giờ gợi nhắc đến chủ đề ấy. Nói sao nhỉ? Sau vụ việc tôi rất hiếm khi gặp Bob. Ông ấy nhắc đến di chúc của mình đâu như một hay hai lần, và về đứa trẻ.” Ông ta lại hắng giọng, “Ông ấy bỗng chốc sống ẩn dật, cô biết đấy. Gia đình chẳng còn ai nữa, thậm chí ngay cả nhà Clarke cũng đã chuyển đi. Có thời Ted và Bob thân thiết như anh em vậy.” Mép ông trễ xuống, “Cũng là do Ted gây sự trước. Bắt đầu không ưa Bob vì lý do nào đó rồi gần như tuyệt giao. Kế đến những người khác cũng hành xử tương tự. Cuối cùng chỉ còn mỗi tôi là bạn ông ấy. Chính tôi là người nhận ra có điều không ổn, khi nhìn thấy những bình sữa cứ dồn lại ngoài cửa.”
“Tại sao ông ta quyết định ở lại đó? Trong khi ông ta đủ giàu để không cần quan tâm đến ngôi nhà số 22 nữa. Chuyển tới chỗ nào chẳng tốt hơn ru rú ở đó với bóng ma của gia đình mình.”
Ông Hayes lẩm bẩm như tự nhủ, “Tôi cũng không hiểu nổi. Có lẽ ông ấy cần bạn bè ở quanh mình.”
“Bác nói nhà Clarke chuyển đi. Họ chuyển đi đâu vậy?”
Ông ta lắc đầu, “Tôi không biết. Họ bất ngờ bỏ đi vào một buổi sáng mà chẳng thèm nói với ai câu nào. Ba ngày sau có một chiếc xe tải chuyển nhà đến và chở tất cả đồ đạc theo. Ngôi nhà cứ vô chủ như thế khoảng một năm cho đến khi gia đình Blair mua nó. Từ bấy không nghe tin tức gì từ họ nữa. Không gửi lại địa chỉ. Bặt vô âm tín. Nói sao nhỉ? Chúng tôi từng là bạn tốt, sáu người chúng tôi, và giờ còn mình tôi ở đây. Mọi việc thật kì quái.”
Vô cùng kì quái, Roz nghĩ. “Bác có nhớ hãng môi giới nhà đất nào đã rao bán ngôi nhà không?”
“Công ty của Peterson, nhưng cô chẳng moi được tin gì từ họ đâu. Chẳng khác nào Hitler. Làm ra vẻ ta đây quan trọng lắm. Khi tôi ghé qua và hỏi họ địa chỉ mới của nhà Clarke, họ bảo tôi đừng chõ mũi vào chuyện người khác. Tôi đốp chát lại luôn, rằng đây là một thế giới tự do, và chẳng có lý do gì mà người ta lại không thể hỏi thăm về bạn mình cả. Nhưng không, họ nhận được yêu cầu là phải giữ bí mật. Nói sao nhỉ? Hóa ra người nhà Clarke muốn cắt đứt quan hệ với tôi. Ha! Nếu họ muốn tuyệt giao với Bob, hay mấy con ma thì còn dễ hiểu, đằng này… Và phía công ty đó dọa rằng nếu tôi lan truyền tin đồn này ra ngoài, họ sẽ buộc phải can thiệp. Cô biết tôi nên oán trách ai rồi đấy. Liên đoàn các công ty môi giới bất động sản, nếu có tồn tại một liên đoàn như thế thật, nhưng tôi ngờ là…” ông ta huyên thuyên, như muốn trút ra hết sự hằn học do cô đơn và bất mãn.
Roz thấy tội nghiệp cho ông già, “Bác có hay gặp con trai không?” Cô hỏi khi ông ta nghỉ lấy hơi.
“Cũng thỉnh thoảng.”
“Họ bao nhiêu tuổi rồi?”
“Hai đứa đều hơn 40 rồi.” Ông ta nói sau một thoáng suy nghĩ.
“Họ nghĩ sao về Amber và Olive?”
Ông ta lại vần vò cái mũi, “Chúng có biết gì về hai đứa ấy đâu. Chúng đã rời nhà rất lâu trước khi hai con bé đến tuổi vị thành niên.”
“Họ chưa từng trông hộ hay chơi đùa cùng hai chị em nhà ấy khi còn nhỏ sao?”
“Mấy đứa con nhà tôi á? Chúng sẽ không trông trẻ đâu.” Đôi mắt già nua nhòe đi, và ông hất hàm về phía chiếc tủ búp phê đặt đầy ảnh của hai cậu trai trẻ trong bộ quân phục. “Những đứa trẻ ngoan. Là lính cả.” Ông ta ưỡn ngực tự hào, “Nghe theo lời khuyên của tôi và gia nhập quân đội. Nhưng giờ chúng bị cho về vườn cả rồi, cả trung đoàn đang hừng hực khí thế chiến đấu mà lại bị giải tán. Cô có biết bố con tôi đã cống hiến đời trai cho Nữ hoàng và nhà nước tổng cộng phải đến 50 năm rồi không? Tôi đã kể với cô rằng tôi từng chiến đấu ở sa mạc trong chiến tranh chưa?” Ông ta lơ đãng nhìn khắp căn phòng, “Có một tấm ảnh chụp Churchill và Monty* trên một chiếc xe jeep ở đâu đó. Chúng tôi ai cũng có một tấm. Quý lắm đấy. Nó ở đâu rồi nhi?” Ông ta xúc động nói.
Roz xách chiếc cặp táp lên. “Bác không phải bận tâm về tấm ảnh đâu, bác Hayes. Để lần tới cháu xem cũng được.”
“Cô sẽ quay lại hả?”
“Cháu rất muốn quay lại, nếu bác không thấy phiền.” Cô lấy ra một tấm danh thiếp từ chiếc túi xách, nhân tiện tắt nút ghi âm, “Đây là tên và số điện thoại của cháu. Rosalind Leigh. Mã vùng ở London nhưng cháu sẽ xuống đây thường xuyên trong vòng mấy tuần tới, nên nếu bác muốn nói chuyện phiếm thì hãy gọi cho cháu,” cô mỉm cười khích lệ và đứng lên.
Ông già ngạc nhiên nhìn cô, “Nói chuyện phiếm? Lạy Chúa tôi. Một người trẻ như cô còn nhiều việc đáng để làm hơn.”
Cũng đúng, nhưng cô cần thông tin. Nụ cười của cô, cũng giống như nụ cười của ông Crew, đều là giả tạo. “Hẹn gặp bác sau, bác Hayes.”
Ông ta gượng đứng dậy một cách kì quặc, rồi đưa bàn tay đầy chấm đồi mồi ra, “Rất vui được gặp cô, cô Leigh. Nói sao nhỉ? Không phải lúc nào một ông già cũng tình cờ gặp được một cô gái trẻ quyến rũ thế này.”
Ông ta nói với giọng chân thành đến mức cô cảm thấy tội lỗi. Tại sao con người ta lại rơi vào những hoàn cảnh khốn cùng đến thế?
Kẻ Nặn Sáp Kẻ Nặn Sáp - Minette Walters Kẻ Nặn Sáp