Số lần đọc/download: 6889 / 120
Cập nhật: 2015-01-09 21:32:56 +0700
Phần 2
Cái thị trấn Tri - Tôn bé nhỏ chiều hôm ấy bỗng dưng ầm ĩ hẳn lên. Xe cam nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống. Bụi bốc mù mịt trên con đường phố nhỏ độc nhất của quận lỵ. Bụi xông vào các tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn phố trệt và phố lầu mới cất. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai - di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm rập, bồm bộp. Đồng bào bên phố đứng xem chúng kéo qua, xì xầm bàn tán. Người ta thấy có những tên quen mặt trong đại đội biệt kích, nhưng chẳng có ai dám dòm bọn nầy cả. Bọn lính chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm-xông và cạc-bin của chúng mang đều chúi mũi xuống đất. Thằng Xăm, tên trung úy, chỉ huy đại đội biệt kích có đôi mắt trắng dã, lịch phịch đi sau cùng. Hắn mặc bộ đồ rằn thủy quân lục chiến rỡn hình sóng biển, bó sát lấy khổ người rất lực lưỡng. Đầu hắn đội cái kết vải vằn vện có ba mảnh vải để che gáy và che hai bên mang tai. Loại kết này vẫn gọi là kết "ba rèm". Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn Côn 12, bao da súng màu hung hung gần giống như màu da mặt của hắn. Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc - bin và một cái cúp cúp. Những tên lính biệt kích trong đại đội hắn đều ăn mặc giống như hắn, đeo cạc-bin hoặc tôm-xông, tên nào cũng có dao găm Mỹ, và trông tên nào cũng hung tợn. Đang đi, bỗng tên trung uý Xăm ghé tạt vào một quán giải khát ở giữa phố. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la-ve, đưa mắt nháy người chủ quán Hoa Kiều một cái rồi đi ra. Vừa đi, thằng Xăm vừa rút soạt lưỡi dao bên hông.
Một tay hắn cầm la-ve giơ lên, một tay hắn trở sống dao phạt mạnh ngang cổ chai. Cổ chai văng toạc đi. Bọt rượu trào ra. Hắn dừng lại, ngửa cổ đưa chai la - ve rót vào miệng. Hắn uống hết độ hai phần ba chai, rồi đưa cho tên lính đi trước. Tên lính cầm chai la - ve khoái trá uống nốt chỗ còn lại. Chừng như tên lính này đã quen uống như vậy nhiều lần rồi. Bấy giờ, có lệnh từ tiểu đoàn lính bảo an chuyền lại:
- Dừng lại, đừng đi nữa! Nguyên là đồn quân chi khu này chỉ có thể chứa thêm được hai tiểu đoàn trong số ba tiểu đoàn lính mới đến. Đó là hai tiểu đoàn lính chủ lực. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lệnh đóng ở ngoài, trên những khoảnh ruộng trống khô nẻ. Một tên đại úy tiểu đoàn trưởng bảo an cao lớn truyền lệnh ấy ra sau, rồi cho những đại đội của hắn kéo vào khoảng ruộng. Tên Xăm càu nhàu:
- Đ. mẹ, về xứ của tôi mà bắt tôi ngủ ruộng à? Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn kéo vào chỗ đất trống giáp phố. Nắng chiều vàng vọt trải xuống mặt ruộng. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. Chúng trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu chứa trong các bi - đông Mỹ. Có tên chưa chi đã nằm lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo hút thuốc. Từ đám lính ấy nghe toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát - tô xanh, mùi rượu trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. Tất cả những mùi đó hợp lại là cái mùi lính nói chung, nghe lờm lợm, vốn dĩ rất sẵn có ở những tên lính đánh thuê. Thằng Xăm cởi phanh áo. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao nhiêu dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. Cái mặt chằn với những dây cà tha ấy thằng Xăm coi như bùa hộ mạng của hắn. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. Thình lình, hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng dã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra. Một tên lính bé choắt luồn tới bên hắn:
- Mời anh Hai đi ăn cơm! Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá mòi đã mở nắp. Xăm ngó qua, xẵng giọng hỏi:
- Hết rượu hả mậy?
- Thưa anh Hai, còn.
Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt một bi - đông nặng trịch. Mắt thằng Xăm vụt sáng lên. Hắn với tay chụp cái bi - đông lắc lắc, ra vẻ hài lòng. Hắn mở nút đưa lên miệng tợp ngay một hớp, rồi một hớp nữa. Cầm bi - đông đưa cho tên lính, tay hắn chộp lấy đùi con gà quay đưa lên miệng, cắn, rứt ra, nhai nghiến ngấu. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. Tên lính cùng ăn, cùng uống với hắn, coi hơi cóm róm nhưng có vẻ hể hả. Thằng Xăm tu rượu ừng ực. Hắn "khà" một cách khoái trá rồi lại xé thịt gà ăn. Tên lính và hắn ăn hết nửa con gà, uống hết một bi - đông rượu thì ánh nắng đã tắt. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. Thằng trung uý biệt kích ngà ngà rượu ấy chới với đứng lên, đưa hai tay cào cào sườn. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi nhe răng cười không ra tiếng. Bọn lính cũng đã có nhiều đứa say như hắn. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ bánh mì chia nhau ăn. Có những tên lính đã cởi hẳn áo, để lộ bộ ngực đen bóng xăm đầy hình rồng rắn. Có một số lính đi khuân củi. Thứ củi tràm gộc bổ đôi, mỗi đứa xách hai miếng, không biết chúng lấy từ đâu. Đêm tối vừa sụp xuống thì chúng đốt lửa. Nơi này một đống, nơi kia một đống. Lửa bốc phừng phừng, cháy sáng từng lõm ruộng. Bọn lính nấu nước bằng hang - gô xỏ xâu vào, ngồi lổm nhổm bên ngọn lửa. Mặc dù có lệnh cấm vào phố, chúng vẫn lén đi mua rượu, mua thêm la - ve và đồ nhậu. Lệnh cấm là lệnh của bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm lính của chúng. Thằng Xăm chẳng những không cấm mà hắn còn ó ré nhậu nhẹt cùng bọn đàn em biệt kích. Bọn này không ngớt mời mọc, tán tụng hắn. Tên nào cũng đều gọi hắn bằng anh Hai. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm và gọi tên này bằng anh Ba. Thằng Xăm thích lính gọi mình bằng anh Hai hơn là gọi hắn bằng "ngài trung uý".
- Anh Hai uống với em một phát, anh Hai!
- Anh Hai thiệt uống không biết say đa! Thằng Xăm hể hả khi nghe những câu ấy. Hắn uống hết, không từ chối một ai. Hắn quả là một thằng biệt kích mạnh rượu. Hắn uống nhiều mà không say mấy. Cặp mắt bình thường trắng dã của hắn nay đỏ lên như có pha ánh lửa và hoe máu. Bọn biệt kích ác ôn thân tín ngồi vây quanh. Những tên này đã phục sợ thằng Xăm trong các cuộc đánh phá giết người bao nhiêu thì chúng càng phục thằng Xăm trong sự nhậu nhẹt bấy nhiêu. Một tên trong bọn chợt hỏi:
- Mai về Hòn, anh Hai ghé nhà không? Thằng Xăm sắp đưa bi - đông rượu lên, nghe hỏi, hắn liền để bi - đông xuống. Bàn tay hắn hơi run run. Câu hỏi của tên lính hình như chạm vào một cái gì trong lòng hắn. Hắn im lặng mất một lúc lâu rồi mới nói:
- Ghé. Thể nào tao cũng phải ghé thăm bà già với con em.
- Cô Cà Mỵ à? Chà, năm nay cô Mỵ chắc lớn lắm rồi?
- Đâu như mười chín tuổi... Thằng Xăm thờ thẫn nói:
- Con Mỵ nó giống tao. Tao thương bà già tao.
- Nghe nói anh Hai có kêu bà già với cô Mỵ ra chợ ở, sao không thấy bà già với cô Mỵ ra?
- Không, lần này tao về đóng bót Hòn Đất. Để bả ở đó luôn! Hắn nói xong thở "khì" một cái rất mạnh. Nốc thêm một ngụm rượu nữa, hắn lắc đầu lia lịa:
- Nghe nói bà già tao theo Việt cộng. Bả thù ông già tao lắm. Thằng Xăm nói thế, rồi nhắc tới Hòn Đất với cái giọng bỗng dưng hạ thấp hẳn xuống:
- ở Hòn Đất vui, vui lắm... Hồi tao còn làm xếp bót ở đó, tao vui hơn bây giờ. Có đủ thứ trái cây, có khô trâu. Con gái ở đó cũng có nhiều. Nhiều đứa coi ngộ lắm, vú lớn như cặp dừa, tay tụi bây thằng nào nhỏ bóp không giáp...
Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. Tên nào cũng khoái trá, vì chúng biết nội ngày mai chúng sẽ được tới đó. Bây giờ ít có đứa nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ tới sự vơ vét, sự ăn uống và sự cưỡng hiếp. Trong bọn này, có tên đã biết Hòn Đất. ở đó, chúng đã làm bất cứ chuyện gì chúng có thể làm được. Chúng đã kháo với nhau và kể lại cho bọn khác nghe, giả dụ như muốn ăn thịt trâu, chúng chỉ cần ngắm cho trúng đích những con trâu ăn cỏ trên triền Hòn và nổ súng. Có tên còn kể tỉ mỉ mình đã hiếp những phụ nữ ở đó ra sao, và đắc chí bảo rằng chính tay nó đã xé được mười ba cái quần lãnh của họ. Cũng có tên bảo chính tay nó đã đập đầu Việt cộng bằng cột chèo, đập vỡ óc văng tung tóe cả vào áo. Chúng kháo nhau rằng ở đấy, "anh Hai" đã mổ rất nhiều người, mổ rất khéo, chỉ cần chọc một nhát dao nơi chấn thủy, lách chếch lên, đường dao rạch chỉ vừa đủ thọc bốn ngón tay vào để bợ trọn buồng gan ra. Thật là thằng Xăm đã mổ rất nhiều người, nên trong đám ác ôn, hắn nổi tiếng là đứa mổ gan lấy mật người gọn lẹ nhất. Nhưng hắn không chỉ khéo mổ lấy gan và mật. Hắn còn có nhiều cách giết người lạ lùng quái gở hơn.
Dòng máu của hắn chính là dòng máu của cha hắn, một tên địa chủ người Việt trước kia làm bá chủ vùng Hòn. Người ta nói thằng Xăm không còn chút máu nào của bà Cà Xợi, tức mẹ hắn, là một người đàn bà Khơ me uất ức và đau khổ suốt đời, đến nay vẫn còn như điên dại. Mẹ hắn, bà Cà Xợi ấy, ngày xưa là một người con gái Khơ me khá đẹp với nước da nâu rám mặn mòi và dáng đi uyển chuyển, chỉ có những cô gái Khơ me nắn nồi và đội cà - om đi lấy nước suối ở đây mới có được. Người con gái Khơ me ở đây lớn lên với nghề nắn nồi đất, ngày ngày đi quanh bàn nắn, tính trung bình mỗi ngày họ đi có tới khoảng ba mươi cây số, tức là bằng từ Hòn Đất đi lên tỉnh Rạch Giá. Thành ra công việc lao động ấy tự nhiên luyện cho họ một vóc người uyển chuyển, dịu dàng. Hơn nữa, họ lại thường đội cà - om đi lấy nước suối về dùng. Khi đặt cà - om nước lên đầu, cô gái Khơ me bước đi duyên dáng lạ thường. Trên đường từ suối nước về nhà, các cô không bao giờ vịn tay lên cà - om. Đôi tay các cô đánh đường xa, vây vẫy dịu dàng trên lối cát. Bà Cà Xợi ngày xưa là một người con gái như thế. Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. Ngày ấy anh Thạch Kha là người yêu Cà Xợi buồn quá bỏ đi làm phu bè cây lên tận Kôm - pông - chàm. Sau khi đẻ được thằng Xăm, tên chủ Mưu bắt đầu không ngó ngàng tới Cà Xợi nữa. Y để ý những cô gái khác, trẻ hơn. Nhưng lúc đó Cà Xợi đã có mang với y đứa con thứ hai. Sau cùng y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi. Bà Cà Xợi bỏ hòn máu của mình lại, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà nền đúc. Bà về xóm Hòn Đất che tạm một túp chòi, ban ngày đi gặt lúa mướn, tối về chòi ngủ. Lúc sắp đẻ, bà đau quá, bò lê ra đồng cứ vơ gốc rạ mà nhai. Tình cờ đêm ấy hai mẹ con mẹ Sáu đi đâu bên bến đò Vàm Răng về gặp, mới đem bà Cà Xợi về nhà. Bà Cà Xợi sanh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. Được một tuần lễ sau thì anh Thạch Kha trên Kông - pông - chàm về. Anh đến nhà sụp trước mặt mẹ Sáu lạy mà xin cho rước bà Cà Xợi lẫn đứa con mới đẻ. Hai người ăn ở với nhau không đầy một năm thì anh Thạch Kha bị chủ Mưu cho người rình chém khi anh đang đi vô rừng đốn củi. Anh Thạch Kha dùng búa chém lại chết một thằng, nhưng anh thì bị chúng vây chém trọng thương, chạy về chết gục trước sân nhà. Thế là từ đó bà Cà Xợi nắn nồi nuôi con Cà Mỵ tới lớn. Cà Mỵ càng lớn càng dễ thương, giống mẹ như đúc.
Duy có thằng Xăm từ bé đến lớn ở với chủ Mưu, được nưng niu, càng lớn càng giống chủ Mưu về mọi mặt. Thằng Xăm gắn bó với cha nó ngay từ những miếng vườn trên Hòn, ngay từ những mảnh đất nắn nồi cha nó độc chiếm bán ra từng thước khối. Nó ở trong ngôi nhà nền đúc phông - tô và lớn lên. Ngôi nhà ấy hồi kháng chiến đã bị phá, và vườn đất cũng bị cách mạng lấy chia cho dân. Chủ Mưu bỏ chạy lên Rạch Giá. Mãi hòa bình lập lại, y trở về với thằng Xăm bấy giờ đã là thiếu úy quân đội tay sai Diệm. Y giựt đất, cất nhà lại, và cùng thằng con trả thù cách mạng với tất cả nỗi căm oán chất chứa trong bao năm. Thằng Xăm còn độc địa hơn cả cha nó, vì chính tay nó cầm súng Mỹ, và đi theo nó có cả một bầy ác ôn liều mạng nhất được nó tuyển từ các đồn lẻ quanh vùng. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. Chúng rượt nà cán bộ trên đồng trống, mò vào các khu rừng tràm, đánh phá căn cứ cách mạng cả ngày lẫn đêm. Có khi giữa đêm mưa tầm tã hoặc lúc trời vừa rạng sáng, súng của chúng nổ ran. Bà con trên Hòn mỗi khi nghe tiếng súng của bọn thằng Xăm ai cũng lo sợ nghĩ đến con mình, cháu mình và những người cán bộ thân thiết của mình vừa ngã xuống. Nhưng có một người nghe tiếng súng ấy còn hoảng sợ đau đớn gấp trăm ngàn lần hơn người khác. Người đó là bà Cà Xợi vậy. Ngày đồng khởi, tên chủ Mưu bị bắt đem chém. Thằng Xăm chạy thoát. Từ đó, nó càng thêm hung dữ. Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ riêng của mình, nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau khổ như bà Cà Xợi. Hồi còn làm xếp bót Hòn Đất, thằng Xăm vẫn thường đem vải vóc, vàng bạc mà nó cướp được về cho bà Cà Xợi và con Cà Mỵ. Nhưng hai mẹ con đều không lấy. Thậm chí có lần bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc. Nên thằng Xăm nói:
- Nghe bà già tao theo Việt cộng rồi! Nó nói đúng. Chẳng phải có lần chính mẹ nó đã đứng trước mũi súng của nó đó sao?
2
Vào giờ ấy, bà Cà Xợi đang lầm lũi đi tới quán của thím Ba ú ở ngã ba Hòn Đất. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái chai xị không. ở Hòn Đất ban đêm, hễ thấy dạng người nào đi không đèn đóm thì bà con đều đinh ninh người đó là bà Cà Xợi. Bởi ngoài bà thì chẳng có ai đi như một cái bóng thế cả. Nhưng người đàn bà mà khắp Hòn Đất này ai cũng cho là có hơi dài dại ấy khi đi trong bóng tối mới tài chứ! Chẳng bao giờ bà ta vấp chân vì một mô đất hay một lỗ trũng. Hình như bà biết trước và tránh trước hết. Lúc bà Cà Xợi đến quán ngã ba thì quán vắng ngắt không có một ai. Bà bước vào quán, thấy trên quầy cạnh ngọn đèn ống khói có mỗi mình thím Ba ú đang ngồi đếm lại đống tiền lẻ bán được trong ngày. Nghe tiếng chân người bước vào, thím Ba ú ngước lên. Thím hỏi, giọng nghe êm như ru:
- Thím Cà Xợi đó à? Đi mua chi mà đi khuya vậy?
Bà Cà Xợi không đáp, giơ cái chai xị không lên. Thím Ba ú hiểu ngay. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ còn lại rồi lách ra quầy, đi đong rượu cho bà Cà Xợi. Thím Ba ú này thật là xứng với cái tên của thím quá. Người thím béo mập làm sao! Thím lách qua cửa quầy một cách khó khắn. Cổ tay thím lúc với ra đón lấy chai xị không của bà Cà Xợi coi mập có ngấn, núc ních. Thím xách cái chai bước tới hũ rượu, cầm một cái cóng tre múc rượu trong hũ đổ vào chai. Tuy chai xị không có đặt phễu, thế mà thím rót không đổ ra ngoài một giọt. Cầm chai rượu đưa cho bà Cà Xợi, thím Ba ú nhìn bà Cà Xợi lúc lâu và hỏi bằng tiếng Khơ me:
- Ne, néak dâng rương ây tê? Bà Cà Xợi lắc lắc cái đầu tóc bù rối vàng sém:
- Rương ây? Thím Ba ú nói rỉ vào tai bà:
- Nè, thằng Xăm nó mới về Tri - Tôn đó nghe! Hôm qua, tôi đi bổ hàng (3) ngó thấy nó ở trên xe nhà binh nhảy xuống... Bà Cà Xợi chớp chớp mắt, hỏi lại:
- Thằng Xăm hả, thằng Xăm nó về Tri - Tôn hả? Hỏi thế xong, bà ngó xuống đất, dáo dác như tìm kiếm vật gì bà vừa đánh rơi. Rồi bà lập cập đi ra cửa. Lần này, bà vấp chân nơi ngạch cửa, ngã chúi. Cái chai rượu bà cặp ở nách rơi xuống đụng phải ngạch cửa, vỡ toang, rượu chảy lênh láng trên nền nhà. Nhưng bà bước đi luôn, người rướn tới. Thím Ba ú phục phịch chạy theo, đưa cánh tay béo mập nắm lấy tay bà Cà Xợi kéo lại. Thím Ba nói vội vã:
- Thím Cà Xợi, thôi trở vô tôi đong cho chai khác cầm về. Đi đi, vô đây! Thím Ba ú kéo bà Cà Xợi trở vào. Rồi thím đi tìm lấy cái chai xá xị không, đong rượu vào, nhét nút và đưa bà Cà Xợi:
- Cầm kỹ nghe, coi chừng rớt nữa đa!
Tội nghiệp, bà Cà Xợi bây giờ giống như một đứa trẻ, dặn sao làm vậy. Bà nắm cổ chai rượu thật chặt, lùi lũi bước ra cửa quán. Dọc đường về nhà, bà vấp ngã liên miên, mấy lần lồm cồm trở dậy trong đêm tối. Nhà bà Cà Xợi ở khỏi ngã ba một đỗi, trơ vơ một mình, không ở gần nhà nào cả. Bấy giờ trong cái nhà bé nhỏ một gian ấy, cô Cà Mỵ đang ngồi bệt trên tấm đệm trải đất, tay thoăn thoắt đan bao cà - ròn. Cạnh cô đặt một cây đèn dầu có chân, cháy tỏa ra ánh sáng vàng vọt. Thấy mẹ về, Cà Mỵ ngước mắt nhìn mẹ một cái rồi lại cắm cúi đan tiếp. Cà Mỵ có khuôn mặt gần với khuôn mặt bà Cà Xợi hơn thằng Xăm. Cô mười chín tuổi, vóc vạc phây phây coi rất khỏe. Nước da cô cũng nâu rám, nhưng trắng hơn nước da bà Cà Xợi. Cặp mắt Cà Mỵ đen to, lông mi ở mắt cô rất dài, mướt mượt. Dưới ánh đèn không lấy gì làm sáng đó, môi Cà Mỵ vẫn đỏ tươi. Cô là hình ảnh bà Cà Xợi ngày trẻ, nhưng theo lời bà con Hòn Đất thì cô trội hơn bà Cà Xợi ngày trẻ.
- Cà Mỵ à, thằng Xăm nó về rồi, nó về Tri - Tôn rồi! Cà Mỵ ngước lên, nhớn nhác:
- Về Tri - Tôn à? Ai nói với má?
- Thím Ba ú nói!
Bà Cà Xợi cho con gái hay cái tin đó rồi lại bộ ván, ngồi kéo xổm một gối lên. Lát sau, bà rót rượu ra chén, uống như uống nước. Nhưng bà chỉ uống một chén. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. Đêm nào cũng vậy, sau khi đan xong hai hoặc ba bao cà - ròn, bà Cà Xợi lại uống một chén rượu. Ai người ta uống rượu vào thì say và quên hết mọi sự, chớ bà Cà Xợi uống rượu vào thì ngược lại, càng uống vào bà càng tỉnh và nhớ hết. Bà nhìn Cà Mỵ (thường khi cô vẫn còn ngồi đan mải mốt), nhớ lại thời bà bằng tuổi nó, nhớ những cái nồi đất nung đỏ rực do tay bà nắn, nhớ những đêm dù - kê anh Thạch Kha bên Sóc - tưng qua sắm vai hoàng tử còn bà thì sắm vai cô gái bắt ốc. Rồi bộ mặt của chủ Mưu hiện lên, rồi kiếp sống trong cái nhà nền đúc phông - tô. Những ngày cực mà vui với anh Thạch Kha. Tai hoạ đến, hình ảnh Thạch Kha ngã sấp trước nhà, hai tay vã xuống đất. Bà nhớ tất cả, nhớ giữa lúc nhìn bóng mình in trên vách và nhìn bóng con gái đang đươn đát. Bà không quên ngày bà được cách mạng cấp đất. Rồi thì là thằng Xăm, với những bà con anh em bị nó mổ bụng, đập đầu. "Thằng Xăm mới về trên quận! " tiếng của thím Ba ú nói ban nãy bây giờ hãy còn văng vẳng bên tai bà. "Lại đi bắn giết bà con nữa chớ gì? " bà lẩm bẩm nghĩ bụng rồi muốn kêu:
- "Trời ơi nó léo hánh về đây chi vậy hở trời? Phải chi nó chết đi có hơn không? " Người mẹ nào mà lại muốn con mình chết? ấy vậy mà nhiều lần bà Cà Xợi mong mỏi cái chết đến với thằng Xăm đấy. Bởi bà nghĩ nếu thằng Xăm chết, chắc bà sẽ bớt khổ hơn. Nếu nó cứ còn sống và đi sát hại mọi người thế này mãi thì đến lúc nào đó chắc bà phải chết. Hoặc là nó chết, hoặc là bà chết. Chỉ có một trong hai lẽ ấy mới xong. Cà Mỵ có lần nói với bà:
- Má sanh y ra làm chi? Y không phải anh của tui đâu! ấy, Cà Mỵ có lần nói bà như thế. Bà cũng có lần bảo với lối xóm:
- "Thằng Xăm, nó có phải là con của tôi đâu!" Nhiều lần bà xuống giọng van vỉ:
- "Mấy người làm ơn làm phước đừng coi nó là con của tôi."
Nhưng sau câu nói đó, bà Cà Xợi càng đau lòng như điên như dại. Một người mẹ đẻ con ra vì lẽ gì đó mà không dám nhận là con của mình thì sự đau lòng đã lớn rồi, chỉ có cái mức độ ít hay nhiều. Bà Cà Xợi thì đau lòng thái quá, và vì bà vốn lại là một người Khơ me có tánh tình ngay thật, nên nỗi đau đớn đó ghê gớm lắm, có lúc làm bà như đãng trí. Bảy năm nay, bà Cà Xợi ở trong trạng thái như điên như không điên. Nét mặt bà ngơ ngác, khoen mắt bà càng tím đậm, và người ta ít thấy bà đi ra đường ban ngày. Bà chỉ hay ra đường lúc bóng đêm sụp xuống. Có lẽ bà cho là đêm đen sẽ phủ kín để không ai nhìn thấy bà. Có đến hàng trăm lần bà đã lựa lời khuyên thằng Xăm. Trước mặt bà, thằng Xăm không bao giờ cãi. Có khi hắn ngúc ngoắc đầu vẻ khó chịu, hoặc nói giả cách bậm trợn:
- "À, má nghe lời Việt cộng dụ tôi hả?" Nhưng rồi hắn cười ngay. Nụ cười của hắn coi còn hiền lành nữa là khác. Những lúc gặp mẹ, thằng Xăm chừng như có vẻ trở lại hình dáng một đứa con, chớ không có cái dáng dấp của một thằng biệt kích. Thành ra ban đầu bà Cà Xợi cứ lầm lẫn, cứ ngờ ngợ không biết con mình nó có mổ bụng moi gan người thật như người ta đồn đãi không. Nhưng rồi bà không còn ngờ ngợ gì nữa. Một hôm, thằng Xăm ghé nhà. Thấy khóe mép hắn dường như chảy máu, bà Cà Xợi kêu:
- Sao miệng mày chảy máu vậy, Xăm? Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép, không nói chi hết. Khi hắn đi rồi, bỗng Cà Mỵ từ ngoài xóm hơ hải chạy về ôm mặt rú lên và cho biết thằng Xăm vừa mổ bụng hai người ở bãi Tre, lấy gan, vô nhà bà con mượn đĩa nhôm xào ăn. Bà Cà Xợi nghe nói té xỉu. Lúc tỉnh dậy bà sực nhớ những vết máu rây ở mép thằng Xăm thì lại ngã quay ra xỉu một lần nữa. Lại một hôm khác, thằng Xăm đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là cán bộ hay dân thường. Nghe tin thằng Xăm sắp mổ bụng họ tại ngã ba, bà Cà Xợi vội chạy ra định năn nỉ thằng Xăm tha cho họ. Khi bà chạy ra đến nơi thì thằng Xăm đã dùng dao bén khoét đít mấy người này, khoét sâu lõm vào. Rồi hắn mở trói. Những người này được mở trói vừa nhỏm tới thì ruột đã lòi ra ở phía sau. Lần ấy, bà Cà Xợi thét lên một tiếng rồi cũng ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường. Thằng Xăm sai lính khiêng bà về nhà. Lúc chiều tối, bà tỉnh dậy, thấy Cà Mỵ đứng bên, bà liền chỏi chỏi hai bàn tay thét to:
- "Trời ơi! Thằng Xăm, mày đi đi! " Bà con nói rằng bà Cà Xợi bắt đầu điên dại là kể từ hôm đó. Điều này cũng có phần đúng mà cũng có phần không hẳn đúng. Bà Cà Xợi điên hay không điên thiệt là chuyện khó phân dứt khoát. Bởi vì đối với làng xóm bà chẳng phá phách gì, mà chỉ tỏ vẻ sợ sệt lẩn tránh một cách đáng thương. Vả lại có lúc bà rất tỉnh. Như mua chịu đồ ở quán thím Ba ú bao nhiêu, bà nhớ hết và tới kỳ đếm bán cà - ròn, bà đều bảo Cà Mỵ trả đủ hết. Đan bao cà - ròn bà cũng đan khéo như ngày trước, chẳng lẫn một cọng bàng nào. Nhưng có điều là khi gặp người đi ngang cửa, bất kỳ người đó là ai, bà chạy xổ ra, ngồi thụp xuống ôm chân người đó khóc hu hu. Tiếng khóc của bà khi ấy như lời van xin thứ tha tội lỗi. ở Hòn Đất, những người như anh Hai Thép, anh Năm Tấn, anh Ba Rèn, mẹ Sáu, chị em Sứ, là những người thường phải khổ tâm gỡ tay bà ra nhiều lần nhất. Những người đó cũng là thường hay đến nhà bà nhất. Trước kia đến là để bầy vẽ cho bà khuyên bảo thằng Xăm; sau này cái chuyện lôi kéo ngăn chặn thằng Xăm không có hiệu quả, họ vẫn đến để an ủi giúp đỡ bà. Anh Hai Thép có bảo:
- Thím Cà Xợi à, bà con chúng tôi đều thương thím với con Cà Mỵ. Thím đừng sợ, bà con không bỏ thím đâu! Thế là bà Cà Xợi lại òa khóc nức nở. Trong chuyện đi đấu tranh trực diện, ban đầu bà không dám đi vì nghĩ rằng mình không đáng được đi. Nhưng mẹ Sáu và bà con bảo:
- Thím Cà Xợi, thím sửa soạn đi với tụi tôi đi! Nghe bà con rủ thế, bà Cà Xợi mừng rỡ khôn xiết. Chen vào hàng ngũ đấu tranh mà đôi chân bà cứ quýnh lên, lập cập. Từ đó, không có cuộc đấu tranh nào vắng mặt bà. Chính vì vậy mà lần nọ bà đã đứng đối mặt trước thằng Xăm, trước mũi súng. Với sức mạnh vô song của người mẹ, trong cái phút quyết liệt ấy, bà đã điều khiển được mũi súng không cho nó nổ lấy một phát, để đoàn người tràn lên... Vậy chuyện bà Cà Xợi điên hay không điên là như thế. Và một điều rõ ràng hơn nữa là hầu hết những người ở Hòn Đất đều không có ai căm thù bà. Họ cho rằng bà Cà Xợi là một người Khơ me nghèo cực, còn cha con thằng Xăm thì lại là cha con thằng bóc lột. Nhưng riêng bà Cà Xợi sao bà vẫn thấy lướng vướng. Bởi nói gì đi nữa thì bà vẫn là người đẻ ra thằng Xăm. Nó thuộc huyết hệ của bà. Tất cả nỗi đau khổ của bà đều ở chỗ đó. Còn Cà Mỵ, cô có khá hơn. Không phải cô chỉ nói ngoài miệng:
“Y không phải là anh tôi", mà trong thâm tâm, cô cũng thấy thằng Xăm xa lạ. Chẳng những xa lạ mà còn đầy ác cảm. Những lúc thằng Xăm ghé tạt qua nhà, cô không thèm nói với hắn một tiếng. Cô giãy nảy la lối và buồn rầu thật sự nếu ai nói chuyện về thằng Xăm mà có dính líu tên cô vào đó. Trong năm đen tối, cô đến với anh em cán bộ, đến với cách mạng mới tội nghiệp làm sao! Chừng như cô chạy nhào đến, chừng như sau lưng cô có lửa rượt vậy. Cà Mỵ giờ là đối tượng cảm tình của chi đoàn thanh niên. Mới đây, sau khi được mời đi dự mấy cuộc họp đoàn, Mỵ càng tỏ ra chăm chỉ. Đi cắm chông, đi đào hầm núp, đi làm gì Mỵ cũng mau lẹ. Cô hay hát và hát hay. Những bài cha mẹ Mỵ hát ngày xưa, giờ Mỵ hát lại khiến người lớn tuổi nghe đều bồi hồi nhớ những đêm lội ruộng đi coi dù kê bên Sóc - tưng, nhớ anh Thạch Kha và mẹ cô hồi trẻ. Còn bà Cà Xợi khi nghe con hát, mặt bà cứ đờ đẫn, nước mắt chảy ròng xuống má. Một người đàn bà như vậy mà phải sanh tật uống rượu, thật đáng thương. Bà Cà Xợi uống rượu từ khi thằng Xăm nổi lên hung ác, từ khi hắn xát vào lòng bà nỗi đắng cay khôn tả. Chính tấm lòng đã cưu mang hắn từ thuở hắn chưa có tên, chưa có cái tên Xăm. Đêm nay cũng vậy, bà Cà Xợi lại uống...
Đáng lẽ như lệ thường, bà chỉ uống một chén. Nhưng giờ uống hết chén thứ nhất, bà lại run rẩy mở nút chai, rót thêm chén nữa. Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chớ không uống vội như chén trước. Cà Mỵ cắm cúi đan, miệng lầu bầu:
- Má uống nữa hả? Thôi, má không được uống nữa! Thôi đi... má ơi! Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Rồi có tiếng hỏi từ sân vọng vào:
- Mỵ ơi, ôn min nâu phờ téc tê? Cà Mỵ nghe ra tiếng Quyên, liền buông cái bao đan dở, đứng dậy đáp ra:
- Chà min Cô lè lẹ mở cửa. Quyên đợi Mỵ ở sân, kéo tay Mỵ ngồi xuống, thì thầm:
- Nè, Mỵ đã hay gì chưa?
- Chưa.
- Giặc rục rịch sắp bố đấy. Một chút nữa sẽ có loa thông báo cho bà con hay. Lính về Tri - Tôn đông lắm. Anh em du kích đều đã chuẩn bị. Tôi mới đi xuống chông về đây! Mỵ thắc mắc:
- Sao không kêu tôi đi?
- Cà Mỵ có chuyện làm mà, đừng lo. Kỳ này định để Cà Mỵ ở trong tổ hợp pháp. Mỵ biết không, nghe có thằng Xăm về Tri - Tôn nữa đó?
- Em biết rồi! Quyên rủ rỉ:
- Cà Mỵ nè, nếu càn vô đây, mình đánh chông đánh lựu đạn đã đành, nhưng phải đấu tranh, phải giúp đỡ du kích. Cà Mỵ chưa bị lộ, với lại tụi giặc nó cũng nể Cà Mỵ là em thằng Xăm, Cà Mỵ ráng lo công chuyện liên lạc, tiếp tế... Cà Mỵ nằn nì:
- Thôi mà, để em đi gài lựu đạn cho!
- Lựu đạn thì có người khác gài rồi. Cà Mỵ ngẫm nghĩ một giây, rồi nói:
- Thôi được. Thiệt... Mỵ không muốn gặp mặt tụi nó chị Quyên à. Gặp tụi nó khó chịu lắm! Quyên quàng cổ Mỵ, thân thiết:
- Thì có ai muốn gặp tụi nó đâu, nhưng cách mạng cần vậy... à, mấy anh có dặn, Mỵ phải khéo léo đừng nóng nẩy, có tức mình cũng ráng dằn xuống, khi cần nói ngọt phải nói ngọt, cần hát Xa ri ca keo cũng cứ hát... Đó, vậy đó, chắc Mỵ dư hiểu rồi. Tin tưởng Mỵ lắm à, nghe! Cà Mỵ mím môi, gật mạnh đầu trong bóng tối. Trước khi Quyên ra về. Cà Mỵ ôm chầm Quyên hôn chùn chụt rồi mới buông cho Quyên đi.
3
Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của đội anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu uý, liền chụp lên đầu cái kết ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong.
- Sao, coi giống chưa? Tấn nói:
- Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc! Tới và Trọng khoác mỗi người một khẩu tôm - xông, Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lảy đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng. Anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc. Ngạn nói:
- Đi thôi! Bốn người mở cửa ra khỏi nhà. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. Vào gần tới đầu xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba người ngồi đợi, để anh vào bám. Ba người ngồi được một chốc thì Tấn trở ra, thì thào:
- ????????, đi đi! Bốn người lại đi. Tấn dắt mọi người đi men ra bờ sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước sông đang đổ ra biển, réo lên ở những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo:
- Đêm nay đáy nó không đóng?
Lệ thường đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ. ánh đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn:
- Nó có ở nhà?
- Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi đây! Dứt lời, Ngạn và Tới, Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm, Ngạn đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ độp độp vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ cửa một lần nữa và khẽ gọi:
- ạng Ba có nhà không? Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc:
- Ai kêu cửa đó?
- Tụi tôi đây, mở cửa đi! Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút "soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây đèn trai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá răm liếc nhìn Ngạn. Ngạn chưa hề gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh hỏi:
- Có ông Ba ở nhà không? Đôi con mắt lá răm của mụ đàn bà chợt nháy sáng:
- Có, có. Mời mấy ông vô nhà. Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ nói khẽ. Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và Trọng cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại. Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông trạc chừng năm mươi tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y:
- ạng là ông Ba Phi? Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực:
- Thưa phải! Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu đã xuôi lọt. Anh bảo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy ở đại đội ông Xăm. Trung uý phái tôi tới gặp ông... Anh giơ tay chỉ bao quát phía sau lưng nhà:
- Tụi tôi mới ở chi khu vô tới.
- Biết rồi, biết rồi... Xin mời quý ông vô trong này! Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói:
- ạng ở đây sung sướng quá hả? Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên như ông đâu... Việt cộng lóng rày phá rối dữ lắm! Tên chủ trại đáp lại cung kính:
- Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về, đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo:
- Này, nấu nước đi! Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài:
- Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả?
- Ừ.
- Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá! Kế đó y chửi tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng:
- Đ. mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây, tụi Việt cộng nó lộng lắm, thiếu uý. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi! Ngạn gật đầu:
- Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó.
- Được, được.
Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru - bi. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần Ngạn, híp mắt hỏi:
- Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không? Ngạn đáp:
- Lâu. Chi vậy? Đuôi mắt lá răm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng:
- Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không? Nghe mụ ta hỏi, Ngạn nghĩ:
“Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với mụ, chân nhịp nhịp:
- Có tôm cua gì không?
- Chà, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!... Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ quay vào bếp khiển chồng:
- ạng ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!... Thằng chồng đang đứng coi lửa ở trong đáp:
- Ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi! Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời mọi người uống. Y cũng hớp vội một chun, khà khà rồi để ba người ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống. Tiếng vịt kêu cạp cạp. Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy nhiêu. Anh nghĩ bụng:
“Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực". Bầy vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta liền thộp chéo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn. Bắt vịt rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái xà - rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y:
- ạng Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công chuyện một chút!
- Dạ, được!
- ạng có bản đồ vùng này chớ?
Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay y, tháo ra. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để t‘ấm bản đồ đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li: nhà cửa, vườn cây, và những khoanh tròn như trôn ốc mà anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi. Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy giờ. Ngạn nói:
- Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. ạng cứ việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn...
- Tôi biết... Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà - rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ:
- Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo. Thiếu úy chú ý nghen! Ngạn lập lại:
- Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi! Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay cái, cũng cáu bẩn như ngón trỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy:
- Ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ đó, tôi có báo cáo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được. Nghe tên điệp nói, Ngạn nghĩ thầm:
“Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết một con chó! " Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y.
- Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng được lãnh tiền thưởng. Quay vào bếp, Ngạn vui vẻ cất tiếng:
- Sao, có gì nhậu được chưa, bà chủ trại đáy?
- Có, có... Món lòng xào rồi đây! Mụ chủ nói và đảo chiếc vá xúc chạm đáy chảo nghe xoang xoảng. Rồi mụ lạch bạch bưng ra một đĩa lòng vịt xào hành. Lòng của hai con vịt đầy vun một đĩa, coi rất sum sê. Thằng chồng ghé mũi xuống đĩa lòng đó, hít hít rồi dón chân lỏn vào buồng trong cắp ra một chai rượu "Rồng xanh" thứ lớn, đồng thời bốn ngón tay y kẹp theo bốn cái ly. Y kề chai rượu "Rồng xanh" lên miệng, cắn nhá cái vỏ nút bằng nhựa đỏ, phun phèo phèo. Ngạn ngó đĩa lòng xào, đột nhiên nhìn thẳng vào mặt tên chủ trại đáy, hỏi:
- Nè, ông Ba có lần nào nếm thịt người ta chưa? Tên chủ trại đáy nghe hỏi liền đặt chai rượu xuống ván, ngó Ngạn, lắc đầu:
- Cha cha... thưa thiếu uý, cái món đó thì tôi chưa dám. Tôi nghe nói nhiều ông ăn khen ngon... Còn tôi, tôi hơi ngán! Ngạn cười, hỏi tiếp, nửa giỡn, nửa thật:
- Vậy làm cái nghề chỉ chọc này ông không ngán sao?
- Có gì đâu mà ngán, thưa thiếu úy. Cái chánh là phải kỹ... Tôi không phải là thằng dại, tôi đâu có chường mặt... Nói thế xong, tên chủ trại đáy thu hai tay vào bụng, ghé miệng sát tai Ngạn hỏi:
- Thiếu úy à, thiếu úy có nếm qua cái món đó chưa?
- Món đó là món nào?
- Thịt... thịt người ta ấy mà!
- À... Ngạn đưa mắt nhìn về phía Tới và Trọng, bảo:
- Hai thằng này thì có nếm. Còn tôi, tôi không ăn. Thịt người thì có thiếu gì, tại tôi không ăn... Tôi chỉ ăn gan thôi. Với lại tôi khoái mật. Mật người pha rượu uống khỏi sợ ho lao. Nói thế rồi Ngạn hỏi ngược lại y:
- Còn ông, nói giả tỷ nếu có, ông dám ăn không? Tên chủ trại đáy lặng im. Lát sau, y ngúc ngoắc cái đầu sói, cười khè:
- Thiệt tình là ghê quá... Nhưng giả tỷ có, tôi cũng nếm thử coi nó ra làm sao mà mấy ổng khen ngon dữ quá!
- Được, mai tôi sẽ cho ông một hai ki - lô. Thế nào mai cũng có! Rồi vờ như sực nhớ ra điều gì. Ngạn hỏi:
- À, tôi quên... Còn mấy người làm chung công chuyện với ông thì sao?
- Mấy người làm đáy cho tôi à? Ngạn lắc đầu. Tên Ba Phi hiểu ra, bèn nói:
- Ạ, ạ... không, tôi không làm chung với ai ở đây hết. Tôi sợ làm chung với nhiều người lắm. Hai vợ chồng tôi đủ rồi. Tới đây, Ngạn thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt nháy Tới và Trọng. hai người nheo mắt đáp lại. Ngạn vỗ nhẹ vào vai tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly:
- Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. - Đang nói, Ngạn đứng phắt lên quát:
- Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu chưa? Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm - xông vào ngực tên chủ trại đáy. Y chỏi tay, la:
- ?????, ê... đừng giỡn!
- Không giỡn đâu! Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên. Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng.
4
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100
- Anh đâu rồi?
- Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được. Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy! Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn.
Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh.
Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối:
- Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê! Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cá Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông. Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói:
- Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói:
- Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36 thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau. Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ, ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có lần anh tâm sự với Ngạn:
- Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi. Chợt Thẩm hỏi:
- Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười:
- Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp:
- Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo của ai vậy?
- Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không?
- Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói:
- Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt. Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong, nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới la:
- Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi! Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói:
- Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh nói:
- Tụi nó đông nghe!
- Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói:
- Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm:
- Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi:
- Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta?
- Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ công sự.
- Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe!
- Ba Rèn bảo Ngạn.
- Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ súng thì để tôi nổ trước!
- Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh tới để trước mặt anh Hai Thép, nói:
- "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo:
- "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa:
- "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu:
“tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế, Hai Thép đứng lên:
- "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu:
- "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông, không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn, anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ - ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng nói:
“Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng:
“Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré lên:
- Nó sụp chông rồi!
- Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt - chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng:
“Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền.
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp:
- Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe! Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ:
“Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy.