Books serve to show a man that those original thoughts of his aren't very new after all.

Abraham Lincoln

 
 
 
 
 
Tác giả: Rachel Gibson
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2007 / 34
Cập nhật: 2015-07-28 09:53:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
nh ta đã từ chối cô. Cô vừa đề nghị một người lạ mặt đưa cô tới đám cưới em họ mình và anh ta đã thẳng thừng từ chối.
“Không có áo vest,” là tất cả những gì anh ta nói trước khi bỏ đi. Dù có chưa xem bằng lái xe hay nghe anh ta không nói bằng giọng mũi, hẳn cô cũng sẽ biết anh ta không phải dân bản địa Texas, vì anh ta thậm chí còn không thèm nghĩ ra một lời nói dối tử tế. Một câu gì đó như là con chó của anh ta chết và anh ta đang để tang nó hay ngày mai anh ta có lịch hiến thận.
Cả JH tràn ngập trong sắc cam và vàng rực rỡ của ánh chiều tà, ánh nắng xuyên qua những chùm bụi do bánh chiếc Saab khuấy lên. Anh ta đã đề nghị trả ơn cô, nhưng tất nhiên là anh ta không hề có ý đó. Hỏi anh ta đúng là một ý tưởng ngu ngốc, bốc đồng. Và những ý tưởng bốc đồng, ngu ngốc luôn đưa cô vào rắc rối. Vậy nên, nếu cô xem xét theo cách đó, nghĩa là Vince, anh chàng bị hỏng xe, đã gia ơn cho cô đấy chứ. Sau rốt thì, cô biết phải làm gì với một anh chàng lạ mặt vô cùng nóng bỏng trong cả buổi tối dài dặc một khi anh ta đã giúp cô đạt được mục đích? Rõ ràng là cô đã không suy nghĩ thấu đáo trước khi đề nghị.
Phải mất từ mười tới hai mươi phút để đi hết con đường dẫn vào JH, tùy thuộc vào lần gần đây nhất con đường được nâng cấp và loại phương tiện. Sadie luôn sẵn sàng để nghe tiếng sủa điên cuồng và nhìn thấy sự xuất hiện đột ngột của gần nửa tá chó chăn bò. Nhà chính và các tòa nhà khác nằm cách đường năm dặm trên một khu trang trại rộng mười nghìn mẫu. JH không phải là trang trại rộng nhất Texas, nhưng nó là một trong những trang trại lâu đời nhất, nuôi vài nghìn đầu gia súc mỗi năm. Kỵ của Sadie, thị trưởng John Hollowell, đã xây trang trại và mua đất ven bờ sông Canada vào đầu thế kỷ hai mươi. Qua những thời kỳ tốt đẹp và khó khăn, nhà Hollowell đã luân phiên ngoi ngóp rồi phát đạt, nuôi dưỡng những con bò Hereford thuần chủng và ngựa loang Mỹ. Tuy vậy, khi phải bảo đảm tương lai của gia đình với một nam thừa kế, gia đình Hollowell lại luôn thiếu hụt. Trừ vài họ hàng xa mà Sadie hiếm khi gặp mặt, cô là người cuối cùng trong dòng giống Hollovvell. Đó là nguồn cơn nỗi thất vọng to lớn của cha cô.
Lúc này chưa hẳn là mùa chăn thả, lũ gia súc đang ở gần nhà chính và các gian nhà phụ. Khi Sadie lái xe dọc hàng rào, những cái bóng quen thuộc của chúng gặm cỏ trên cánh đồng. Mùa thiến và đóng dấu gia súc sẽ sớm đến thôi, và từ khi chuyển đi, Sadie không nhớ nhung gì thứ mùi và âm thanh của cái sự kiện khủng khiếp nhưng cần thiết đó.
Cô dùng lại trước ngôi nhà bốn trăm mét vuông mà ông cô xây vào năm 1940. Khu trang trại ban đầu nằm cách Khe Little Tail năm dặm về phía tây và hiện giờ quản đốc Snooks Perry cùng gia đình ông ấy đang cư ngụ ở đó. Nhà Perry đã làm việc cho JH lâu hơn số năm Sadie sống trên đời.
Cô cầm lấy cái túi Gucci trên ghế sau rồi đóng cửa xe lại. Loài chim bắt muỗi kêu lên trước một cơn gió mát lạnh, cơn gió ấy phả vào mặt cô và luồn vào cổ chiếc áo Pink nỉ màu xám có mũ.
Ánh chiều tà biến các viên đá trắng và ván lợp nhà thành màu vàng, và cô đi về phía cánh cửa gỗ sồi xù xì to lớn với huy hiệu JH ở chính giữa hai cánh cửa. Về nhà lúc nào cũng khiến cô bồn chồn. Một mớ cảm xúc rối loạn giần giật nơi dạ dày và tim cô. Những cảm xúc ấm áp khuấy lên cùng cảm giác tội lỗi và e sợ quen thuộc vẫn luôn giằng xé trong cô khi cô về Texas.
Cô mở cánh cửa không khóa và bước vào một hành lang trống không. Những mùi hương thân thuộc chào đón cô. Cô hít vào hương chanh, gỗ, nước đánh bóng đồ da, mùi khói ám vào chiếc lò sưởi bằng đá khổng lồ trong phòng chính nhiều năm trời và mùi đồ ăn tự nấu từ hàng bao thập kỷ.
Không ai ra đón cô. Cô băng qua sàn nhà gỗ thông và những tấm thảm Navaho về phía phòng bếp ở cuối nhà. Phải mất cả một đội ngũ nhân viên toàn thời gian để vận hành JH thật trơn tru. Quản gia của họ, bà Clara Anne Parton, giữ ọi thứ trong nhà chính cũng như trong các phòng ngủ tập thể gọn gàng và sạch sẽ, trong khi em gái sinh đôi của bà, bà Carolynn, nấu ba bữa mỗi ngày trừ Chủ nhật. Cả hai đều không kết hôn và sống cùng nhau trong thị trấn.
Sadie đi theo tiếng thịch-thịch đều đặn phát ra do thứ gì đó nằng nặng bị ném vào một cái máy sấy. Cô đi qua căn bếp trống, qua chạn bát, tới phòng giặt đồ đằng sau. Vòng ba đáng kể của bà Clara Anne chào đón cô khi người quản gia cúi người xuống để nhặt khăn tắm dưới sàn nhà. Cả hai chị em sinh đôi đều có những đường cong đáng kể và vòng eo nhỏ xíu mà họ thích khoe ra bằng cách thắt chặt eo quần và đeo những chiếc thắt lưng to cỡ đĩa ăn món tráng miệng.
“Cô làm việc muộn thế.”
Bà Clara Anne nhảy dựng lên và quay ngoắt lại, ôm chặt lấy tim. Búi tóc đen cao ngất của bà hơi rung rinh “Sadie Jo! Cháu làm cô sợ tưởng chết đấy, nhóc ạ.”
Sadie mỉm cười và tim cô ấm rực lên khi cô đi vào phòng. “Cháu xin lỗi.” Hai chị em sinh đôi đã giúp một tay nuôi dạy cô và cô dang tay ra. “Thật vui khi gặp cô.”
Người quản gia ôm chặt lấy cô vào bộ ngực khổng lồ của bà và hôn má cô. Cảm giác ấm áp quanh tim cô lan ra khắp ngực. “Phải đến một đời gấu trúc Mỹ[1] rồi đấy chứ.”
[1] “Coon” từ này vừa có nghĩa là gấu trúc Mỹ vừa là một từ chỉ người da đen với nghĩa miệt thị.
Sadie bật cười. Hai chị em bà là những người bảo thủ khi dính đến mái tóc bới cao và lối nói cũ. Và nếu Sadie có định bảo bà Clara Anne rằng ngày nay vài người có thể thấy cách diễn đạt xưa ấy hơi kỳ thị chủng tộc, bà quản gia sẽ thấy sốc bởi vì chẳng có lấy một tế bào kỳ thị chủng tộc trong người bà Clara Anne. Một lần, khi còn bé, cô đã trêu bà Clara Anne và hỏi chính xác thì một đời gấu trúc Mỹ là bao nhiêu năm. Bà quản gia đã nhìn thẳng vào mắt cô và trả lời một cách nghiêm túc, “Sáu tới tám năm. Đó là khoảng thời gian một con gấu trúc Mỹ sống trong tự nhiên.” Ai mà biết là thật sự có một câu trả lời chứ?
“Đã được một đời gấu trúc Mỹ đâu cô.”
“Gần được rồi đấy.” Bà ngả người ra sau và nhìn vào mặt Sadie. “Chúa ơi, trông cháu giống hệt mẹ.”
Mà không có vẻ đĩnh đạc, duyên dáng và tất cả những gì khiến người khác tự nhiên phải lòng bà. “Cháu có đôi mắt của cha.”
“Phải. Xanh như hoa chuông Texas.” Bà rê đôi bàn tay thô ráp lên hai cánh tay Sadie. “Ở đây bọn cô nhớ cháu lắm.”
“Cháu cũng nhớ các cô.” Điều đó là sự thật. Cô nhớ bà Clara Anne và bà Carolynn. Cô nhớ vòng ôm ấm áp và nụ hôn họ đặt trên má mình. Rõ ràng là cô không nhớ chúng đến mức chuyển về đây. Cô thả tay xuống hai bên người. “Cha cháu đâu ạ?”
“Đang ăn với mấy cậu nhóc ở khu bếp. Cháu có đói không?”
“Đói ngấu ạ.” Tất nhiên là ông đang ăn cùng những người chăn gia súc. Đó là nơi ông thường dùng bữa vì điều ấy là hợp lẽ thường. “Ông có nhớ là cháu sắp về không?”
“Chắc chắn là ông ấy nhớ chứ.” Bà quản gia với tay lấy một chồng khăn tắm. “Ông sẽ không quên một chuyện như cháu sắp về đâu.”
Sadie không dám chắc. Ông đã quên buổi lễ tốt nghiệp trung học của cô. Hay phải nói, ông còn bận tiêm vắc-xin cho gia súc. Chăm sóc động vật luôn đi trước việc chăm sóc người. Công việc đi trước, và Sadie đã chấp nhận điều đó từ lâu lắm rồi. “Tâm trạng ông thế nào ạ?”
Bà Clara Anne nhìn cô qua chồng khăn trong tay. Họ đều biết vì sao cô hỏi vậy. “Tốt, giờ thì hãy đi tìm cha cháu đi, và mai chúng ta sẽ hàn huyên. Cô muốn nghe tất những gì cháu đã làm.”
“Qua bữa trưa nhé. Có lẽ cô Carolynn sẽ làm cho chúng ta món salad gà kèm bánh sừng bò của cô ấy.” Đó không phải một món mà người đầu bếp nấu cho những người chăn gia súc. Họ có xu hướng thích những cái bánh sandwich thịnh soạn để ăn trưa hơn, những lát thịt dày kẹp vào một cái bánh mì to. Nhưng bà Carolynn thường làm salad gà cho riêng mẹ Sadie và sau này là cho Sadie.
“Cô sẽ bảo cô ấy là cháu đã nhắc đến món đó. Mặc dù cô nghĩ là cô ấy đã lên kế hoạch làm nó rồi.”
“Tuyệt.” Sadie nhìn bà Clara Anne lần cuối rồi quay vào bếp và đi ra ngoài. Cô đi trên con đường bê tông mình đã đi hàng nghìn lần. Đa phần các bữa ăn diễn ra trong khu bếp và càng đến gần khu nhà xi măng trát vữa thì cô càng ngửi rõ mùi thịt quay và bánh mì nướng. Dạ dày cô kêu lên khi cô bước lên hiên nhà dài bằng gỗ. Bản lề trên cánh cửa kính kêu cọt kẹt báo tin cô đến, và vài người chăn gia súc ngẩng lên khỏi đĩa đồ ăn của họ. Chừng tám chiếc mũ cao bồi treo trên móc cửa. Căn phòng trông y xì lần cuối cô bước vào. Sàn gỗ thông, tường quét vôi, màn vải bông màu đỏ và trắng, và vẫn một đôi tủ lạnh Frigidaire. Thứ khác biệt duy nhất là bếp lò và chiếc lò nướng mới sáng bóng.
Cô nhận ra vài người đàn ông khi họ nhổm dậy. Cô ra hiệu cho họ cứ ngồi yên và đưa mắt tìm cha cô, đầu ông cúi xuống trên đĩa, vẫn mặc kiểu áo lao động Western cổ điển như từ xưa đến giờ. Hôm nay nó có màu be với nút ngọc trai trắng. Dạ dày cô siết lại và cô hơi nín thở. Cô không biết mình mong chờ gì. Cô đã ba mươi ba và vẫn thiếu tự tin khi ở gần cha mình. Ông sẽ ấm áp hay lãnh đạm?
“Chào cha.”
Ông ngước lên và trao cho cô một nụ cười mệt mỏi không lan được tới những nếp nhăn quanh khóe đôi mắt xanh dương của ông. “Con đây rồi, Sadie Jo.” Ông chống tay xuống bàn và đứng dậy, và dường như ông phải tốn nhiều thời gian hơn thường lệ. Tim cô rơi bịch xuống dạ dày đang thít chặt khi cô đi về phía ông. Cha cô lúc nào cũng gầy gò. Cao. Tay chân dài và eo cao, nhưng ông chưa bao giờ hốc hác. Má ông hóp lại và trông ông như tăng đến mười tuổi kể từ lần cô gặp ông ở Denver ba năm trước. “Cha đã mong con về từ một tiếng trước.”
“Con đã đưa một người đi nhờ vào thị trấn,” cô nói khi ôm lấy eo ông. Ông vẫn có mùi như xưa. Mùi Lifebuoy, bụi đất, không khí Texas trong lành. Ông giơ một bàn tay gân guốc lên và vỗ lưng cô. Hai cái. Lúc nào cũng là hai cái, trừ những dịp đặc biệt khi cô làm gì đó đáng được nhận ba cái.
“Con đói không, Sadie?”
“Đói ngấu ạ.”
“Lấy một cái đĩa và ngồi xuống đi.”
Cô thả tay xuống và nhìn lên mặt ông khi một nỗi sợ hãi ích kỷ đè xuống đôi vai cô như tảng đá nghìn cân. Cha cô đang già đi. Trông đúng với tuổi bảy mươi tám của ông. Cô sẽ làm gì đây khi ông ra đi? JH thì sao? “Cha đã sụt cân.”
Ông quay lại ghế và cầm nĩa lên. “Có lẽ khoảng nửa cân đến một cân.”
Giống mười cân hơn.
Cô đi tới bếp lò ở bên kia phòng lấy cơm của mình rồi cầm lấy một miếng bánh mì mới nướng. Trừ việc nuôi vài con cừu và bò Hereford để tranh giải 4-H[2] cách đây nhiều năm, Sadie không biết nhiều về những hoạt động hàng ngày của một trang trại gia súc. Và tận đáy tâm hồn bội bạc của cô, sâu thẳm bên trong nơi cô cất giữ những bí mật đen tối nhất, là sự thật rằng cô cũng không hứng thú muốn biết. Tình yêu đặc biệt đối với đất đai của nhà Hollowell đã hoàn toàn bỏ qua cô. Cô thà sống trong thị trấn còn hơn. Bất kỳ thị trấn nào. Kể cà Lovett: dân số mười nghìn người.
[2] 4-H là một tổ chức dành cho thanh niên của viện Thực phẩm và nông nghiệp quốc gia trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ. 4-H tượng trưng cho 4 giá trị mà tổ chức này coi trọng: Head (Đầu – quản lý, suy nghĩ), Heart (Trái tim – chăm sóc, gắn bó), Hands (Đôi tay – giúp đỡ, lao động), Health (Sức khỏe - sống, tồn tại). Tổ chức này có rất nhiều chương trình được thiết kế nhằm mục đích phát triển các kỹ năng của thanh thiếu niên, một trong số đó là nuôi dưỡng động vật.
Cánh cửa sau bằng kính đập vào khung cửa khi bà Carolynn Parton bước vào nhà bếp. Bà kêu ré lên và giơ hai tay lên trời, và trừ cái váy xòe và chiếc áo xếp nếp bà trông giống hệt chị mình. “Sadie Jo!” Sadie đặt đĩa xuống mặt quầy mòn vẹt đúng một giây trước khi bị nghiền vào bộ ngực to mềm mại của bà Carolynn.
“Chúa ơi, phải đến một đời gấu trúc Mỹ rồi đấy chứ.”
Sadie mỉm cười khi bà Carolynn hôn má cô. “Chưa lâu đến thế.”
Sau vài giây trò chuyện, bà Carolynn cầm lấy đĩa của Sadie và đổ đầy sườn lên. Bà rót một cốc trà ngọt và theo Sadie băng qua bên kia phòng đi tới bàn ăn. Vài anh chàng cao bồi rời đi và cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh cha mình.
“Mai cô sẽ hàn huyên với cháu,” Carolynn bảo Sadie khi bà đặt trà xuống bàn. Rồi bà chuyển sự chú ý vào ông Clive. “Ăn đi,” bà ra lệnh, rồi lại băng qua phòng.
Ông Clive ăn một miếng bánh mì ngô. “Con có kế hoạch gì khi ở đây?”
“Con phải tham dự bữa tiệc tổng duyệt tối mai và đám cưới lúc sáu giờ tối thứ Bảy.” Cô ăn một miếng cơm Tây Ban Nha của bà Carolynn và thở dài. Cảm giác an ủi ấm áp do sự thân thuộc mang lại lắng đọng nơi dạ dày cô cùng với cơm. “Ngày mai con rỗi cả ngày. Chúng ta nên làm gì đó vui vẻ trong khi con ở đây.” Cô nghĩ về những việc mình và cha cùng làm lúc trước. Cô ăn thêm một miếng và gắng sức nghĩ ngợi. “Có lẽ bắn đĩa hoặc cưỡi ngựa qua Little Tail và tán gẫu cùng gia đình bác Snooks.” Hồi xưa cô rất thích bắn đĩa cùng cha mình và cưỡi ngựa theo con đường mòn tới nhà bác Snooks. Dù cũng chẳng mấy khi cô được làm vậy. Thường thì nếu cô thúc giục ông, ông sẽ bảo một người làm đưa cô đi.
“Snooks đang ở Denver xem xét vài con gia súc cho cha.” Ông uống một ngụm trà lớn. “Mai cha sẽ tới Laredo.”
Thậm chí cô cũng chẳng thấy ngạc nhiên. “Laredo có gì ạ?”
“Cha sẽ đưa Maribell xuống đó để phối giống với một con ngựa giống Tobiano tên Diamond Dan.”
Công việc đi trước. Dù mưa hay nắng, ngày lễ hay ngày hồi hương. Cô hiểu điều đó. Cô đã được nuôi dạy phải hiểu, nhưng... trang trại JH thuê rất nhiều nhân công. Rất nhiều người hoàn toàn đủ khả năng đưa một con ngựa cái tới Laredo để lấy giống. Hay tại sao không vận chuyển một ít tinh trùng của Diamond Dan qua đêm? Nhưng Sadie biết câu trả lời cho câu hỏi. Cha cô già, cứng đầu và muốn tự mình giám sát mọi thứ, lý do đấy. Ông phải tận mắt nhìn thấy để bảo đảm mình có được con ngựa giống mình trả tiền.
“Cha có về kịp đám cưới không?” Cô không cần phải hỏi xem ông có được mời hay không. Ông là họ hàng, dù ông không có quan hệ máu mủ, và dù cho người nhà mẹ cô thật lòng không quan tâm đến ông.
Ông lắc đầu. “Cha sẽ về rất muộn.” Ông còn chẳng thèm ra vẻ buồn bã. “Chủ nhật bác Snooks đã ở nhà rồi. Lúc đấy chúng ta có thể cưỡi ngựa qua.”
“Sáng Chủ nhật con phải đi rồi.” Cô chọn lấy một miếng sườn. “Thứ Hai con phải đóng một hợp đồng.” Renee hẳn cũng có thể giải quyết ổn thỏa việc ấy, nhưng Sadie thích ở đó đề phòng trường hợp có chuyện bất ngờ nảy sinh. Cô khựng lại khi miếng sườn ở ngay trước mặt và nhìn vào đôi mắt xanh mệt mỏi của cha mình. Ông chỉ còn cách tuổi tám mươi vài năm ngắn ngủi. Có thể trong năm năm nữa ông sẽ chẳng còn ở đây. “Con có thể chuyển hẹn và rời đi vào thứ Ba.”
Ông cầm cốc trà lên, và cô nhận ra mình đang nín thở. Chờ đợi như mọi lần. Chờ ông cho cô thấy một dấu hiệu, một lời nói hay một cử chỉ... bất kỳ thứ gì, bất cứ dấu hiệu nào cho thấy ông quan tâm đến những gì cô làm. “Không cần làm vậy,” ông nói và uống một ngụm. Rồi với phong cách điển hình của nhà Hollowell, ông đổi chủ đề tránh xa bất kỳ điều gì có thể dính đến những chuyện quan trọng. “Chuyến đi của con thế nào?”
“Tuyệt ạ.” Cô cắn một miếng và nhai. Trò chuyện linh tinh. Họ giỏi trò chuyện linh tinh. Cô nuốt nước bọt qua cục nghẹn trong họng. Đột nhiên cô không còn quá đói nữa và đặt miếng sườn của mình xuống đĩa. “Có một chiếc xe tải màu đen ở ven đường,” cô nói và chùi ngón tay vào khăn ăn.
“Có thể là của người nhà bác Snooks.”
“Anh ta không phải dân ở đây và con đã thả anh ta xuống cửa hàng Gas & Go.”
Đôi lông mày rậm màu trắng của ông nhíu xuống. “Lovett không còn là cái thị trấn nhỏ mà con đã lớn lên nữa. Con phải cẩn thận.”
Lovett gần như vẫn y xì ngày xưa. “Con đã cẩn thận đấy chứ.” Cô kể cho cha cô nghe việc lấy thông tin của anh ta. “Và con đã dọa anh ta với một khẩu súng sốc điện.”
“Con có súng sốc điện không?”
“Không.”
“Cha sẽ lấy khẩu hai hai của con ra khỏi két.” Cô cho rằng đó là cách cha cô nói ông có quan tâm nếu có một tên giết người hàng loạt chặt nhỏ cô ra.
“Cảm ơn cha.” Cô nghĩ đến Vince và đôi mắt xanh lục nhạt của anh ta nhìn cô từ dưới vành mũ. Cô không biết mình bị làm sao khi đề nghị anh ta đưa cô tới đám cưới của em họ mình. Người bên họ mẹ cô rất bảo thủ, và cô không biết gì về anh ta hết. Tất cả những gì cô biết, anh ta rất có thể là một tên giết người hàng loạt. Một gã nghiện giết người, hoặc tệ hơn thế.
Một đảng viên Đảng Dân chủ.
Tạ ơn Chúa là anh ta đã từ chối cô, và tạ ơn Chúa vì cô sẽ không bao giờ phải gặp lại Vincent Haven nữa.
Hãy Cứu Em Hãy Cứu Em - Rachel Gibson Hãy Cứu Em